Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Tịnh Độ Luận [淨土論] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Tịnh Độ Luận [淨土論] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Tịnh Độ

Kinh này có 3 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 |
Việt dịch: Giới Niệm - Diệu Thảo - Chúc Đức

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Cửa huyền Tịnh độ, mười phương đều khen; cõi báu Di-đà, phàm thánh chung vui. Thế nên, mười sáu phép quán[1] rộng lớn hưng thịnh ở Ấn Độ, giáo lý cửu phẩm[2] được mong cầu mãnh liệt tại Trung Hoa. Tôi thường mở kinh sách ra đọc, suy xét kỹ lời của Phật, mạo muội cho rằng tông này là con đường tu tập thiết yếu. Người lĩnh hội được tông này thì dập đầu mong cầu, người chưa thông hiểu thì xem qua còn do dự. Nếu ai không để tâm nơi tông này thì e rằng cuối cùng phải mãi bị trôi chìm trong bóng đêm sinh tử.
Nay tôi xem các kinh, đọc các luận, rút ra những điều cốt yếu, soạn thành bộ Luận Tịnh Độ. Các bậc tiên hiền đời xưa như pháp sư Huệ Viễn[3], Tạ Linh Vận[4], v.v… tuy đều cầu sinh về Tây phương, nhưng cuối cùng chỉ tự lợi cho riêng mình, nên người học đời sau không có chỗ nương theo tu tập. Đời gần đây có thiền sư Đạo Xước[5] soạn bộ An Lạc Tập (1 quyển), tuy có dẫn nhiều kinh để trình bày sơ lược đạo lý, nhưng văn nghĩa xen tạp, chương phẩm lộn xộn, khiến người đọc đời sau cũng do dự mà không quyết định. Còn nay bộ sách này do tôi sưu khảo các sách, dẫn đầy đủ lý lẽ, biên thành chín chương, văn nghĩa rõ ràng, phẩm mục rành mạch, khiến cho người đọc thấy rõ ràng như thấy vật ở trong lòng bàn tay. Điều nguyện của tôi là giáo lý Tam phúc[6] mãi mãi được truyền bá, lời kinh Tứ thệ[7] vĩnh viễn là khuôn phép, mười sáu phép quán được xiển dương, mọi người đều sinh về nơi chín phẩm, ngõ hầu khiến cho chúng sinh trong sáu đường[8] thăm thẳm bỏ hẳn chốn Uế, bốn loài xao động mãi ở đài sen, dù chưa bì kịp tiền hiền, cũng đều đến được cõi Tịnh.
Kính lễ đức Phật A-di-đà
Ở thế giới Tây phương Cực lạc
Khéo lập thệ rộng cứu chúng sinh,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.
Vương tòa đài sen, Ngài đoan tọa,
Thân phóng diệu quang chiếu tám phương,
Ngũ nhãn[9] thấy khắp tất cả cõi,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.
Ngũ phần[10] tròn sáng tính thường trụ,
Đại bi tiếp độ, thọ vô lượng,
Lòng từ vô duyên[11] độ chúng sinh,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.
Cõi báu trang nghiêm ngàn vạn sắc,
Đều từ Như ý châu sinh ra,
Thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ, tội diệt.
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.
Suối, chim, rừng, sáo vang tiếng ca,
Âm thanh diễn nói pháp sâu xa.
Chúng sinh nghe chứng liền Bất thoái,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.
Bồ-tát Quán Âm đại từ bi,
Xem khắp chúng sinh như con một,
Tay báu tiếp dẫn tợ mẹ hiền,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.
Bồ-tát Thế Chí đại tự tại,
Bước, ngồi chấn động cõi Đại thiên,
Hóa Phật, Bồ-tát đều qui tụ,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.
Thánh chúng tụ hội đông dường biển,
Như các sao chầu về Bắc đẩu,
Bình đẳng cứu khổ khắp ba cõi,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.
Nay con xem khắp Đại Tạng Kinh,
Tóm chung nghĩa lý làm chín chương,
Người đọc đều phát tâm Bồ-đề,
Nguyện đồng vãng sinh nước An Lạc.
Có công tử Trệ Tục hỏi tiên sinh Tịnh Độ :
-Tôi từng nghe rằng đạo Phật cao siêu, dứt đường ngôn ngữ, pháp môn sâu kín, bặt chỗ tâm hành. Đó là vì ngôn ngữ đều sinh ra từ tình thức hư vọng, mọi tâm hành đều là ý tưởng điên đảo. Nhưng nay nói muốn sinh về Tây phương thì chuyên xưng tán danh hiệu Phật A-di-đà, thế thì, lẽ nào những lời “dứt đường ngôn ngữ” là sai, “bặt chỗ tâm hành” chẳng đúng? Tôi vì tình thức còn vướng chấp, chưa lĩnh hội được nghĩa rộng lớn, xin gõ cửa nhờ ngài cao minh mở bày lý sâu kín. Nhưng cõi chẳng phải nhơ nhiễm, mà thanh tịnh do tự tâm, nay lại nghe dạy chuyên chú nhớ tưởng Tây phương, tôi muốn lĩnh hội được chỗ chưa hiểu này. Mười phương đều thanh tịnh, nhưng chỉ cầu sinh về một phương. Nay tôi đem tâm thức còn bị ràng buộc này đến xin ngài tháo mở giúp cho.
Tiên sinh nói:
- Hay thay câu hỏi của ông! Nếu không phải bậc minh triết thì ai giải đáp được? Nhưng pháp môn sâu mầu thật đúng là tâm ý của Như Lai, còn tôi thì thẹn mình không sáng suốt, nên chỉ thử bàn luận thôi! Người thông đạt nhờ hiểu biết bén nhạy, nhìn qua liền thấy đúng; kẻ phàm phu do trí tuệ cạn cợt, đụng đâu cũng vướng mắc. Tuy Thánh đạo thật rộng lớn, thứ bậc có tám muôn, nhưng nói tóm lại, chẳng ngoài Sự và Lý. Hai yếu tố này giống như hai bánh của cỗ xe, hai cánh của con chim, nếu thiếu một thì xe không thể đi xa, chim không thể bay cao được. Như Luận Khởi Tín có hai môn Chỉ và Quán; Chỉ thì duyên Lý, Quán thì duyên Sự. Nếu chưa thông suốt hai môn này thì sẽ sinh giả dối và vướng mắc mà thôi; còn dứt sạch nói năng, bặt hết suy tưởng là Lý, cầu sinh Tây phương, trì niệm hiệu Phật là Sự. Nhưng ba cõi chỉ do tâm biến hiện, trong mọi cõi đều chẳng phải nhơ, cho nên nếu chưa lên hàng Thập địa thì hãy tạm dùng cảnh để tịnh hóa tâm mình. Tuy nhiên, mười phương đều thanh tịnh, mà cảnh giới trải quá rộng, do đó, muốn khiến tâm ý chuyên nhớ tưởng đến việc vãng sinh, chỉ nên cầu sinh về một phương.
CHƯƠNG I.
XÁC ĐỊNH THỂ TÍNH CỦA CÕI NƯỚC

Gồm hai phần: 1) Thể tính, 2) Thuộc hay không thuộc Tam giới.
- Hỏi: Cửa của cõi ấy phàm thánh cùng vào, cõi báu A-di-đà mười niệm được lên. Đức Phật A-di-đà đã chấp nhận cho hàng Đại thừa, Tiểu thừa đều đến được cõi của Ngài, muôn loài đều được vãng sinh, nhưng tôi chưa biết hình tướng và thể tính cõi ấy thế nào?
- Đáp: Thường thì màu sắc sặc sỡ làm lóa mắt người, lời văn hoa mỹ che lấp lý lẽ. Nay vì muốn khiến cho kẻ ngu và người trí đều hiểu, nên ở đây bỏ hết những lời phù phiếm, chỉ trình bày điều thiết thực.
I.1 THỂ TÍNH
Có ba thứ Tịnh độ là Pháp thân tịnh độ, Báo thân tịnh độ, và Hoá thân tịnh độ.
I.1.1 Pháp thân Tịnh độ
Có hai nghĩa: Thể của Năng trụ nhân[12], và thể của Sở trụ độ[13].
I.1.1.1 Thể của Năng trụ nhân
Theo Luận Khởi Tín giải thích, đó là Như Lai Tạng, thể ấy có đủ ba nghĩa đại.
a)Thể đại : Tất cả pháp đều là Chân như bình đẳng không thêm bớt, tức là Chân như một vị. Thể này đâu chỉ bao hàm cả trong lẫn ngoài, mà cũng chung cho phàm và thánh.
b)Tướng đại : Như Lai Tạng có đầy đủ công đức tính vô lậu, tức là có vô số công đức khác nhau. Tướng đại này chỉ loài hữu tình mới có, loài vô tình thì không. Cho nên, kinh Niết-bàn ghi: “Loại không có Phật tính là những vật vô tình như tường, vách, ngói, sỏi, v.v…”.
c)Dụng đại : Vì Như Lai Tạng có thể sinh nhân quả thiện thế gian và xuất thế gian, nên đó chính là dụng của Tướng đại nói ở trên.
Nay hai nghĩa Tướng đại và Dụng đại đã là thể của Năng trụ nhân, nhưng lại nói chúng khác nhau, bởi vì căn cứ vào nghĩa Chân như một vị.
I.1.1.2 Thể của Sở trụ độ
Lấy nghĩa Thể đại của Chân như một vị làm thể của Sở trụ độ, nghĩa là làm chỗ nương cho vô số đức.
Như thế, ở Tịnh Độ này, nhân và độ cùng một thể mà chia ra hai nghĩa.
I.1.2 Báo thân Tịnh độ
Có hai loại: Thật báo độ và Sự dụng độ.
I.1.2.1 Thật báo độ
Nhân và độ cũng có cùng một thể, nghĩa là muôn đức khởi ra lúc ban đầu là thể của độ ấy. Như phần Thập bát viên tịnh của luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Đại không, vô tướng, v.v… làm cửa, Tam tuệ[14] làm đường” , và kinh Duy-ma ghi: “ Tổng trì là vườn, pháp vô lậu là rừng cây”. Nếu nói Nhân năng trụ là người thâu tóm muôn đức mà thành Phật, thì nhân và độ ở đây, tất cả Bồ-tát từ địa vị Kim cương tâm[15] trở xuống đều không thấy được, vì chỉ có Phật và Phật mới thấy mà thôi.
I.1.2.2 Sự dụng độ
Nhân và độ khác thể, nghĩa là thế giới Pha-lê-kha Liên hoa tạng, v.v… là thể của Sở trụ độ. Do đó, luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Tịnh Độ lấy Liên hoa vương làm chỗ nương; đại định, đại bi, vẻ đẹp, tướng quí, v.v… làm thể của Nhân năng trụ”. Luận Nhiếp Đại Thừa cũng ghi: “Ứng thân lấy đại định, đại bi làm thể”. Nhân và độ này, các Bồ-tát từ Sơ địa trở lên cho đến Thập địa thấy được tùy theo mức chứng ngộ của mình. Sự thấy ấy không như nhau, nghĩa là các Địa có cao thấp khác nhau thì sự thấy cũng có thô diệu sai biệt. Cho nên, luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Nếu lìa Ứng thân thì Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, sẽ không đủ hành trang Bồ-đề”. Thân đó gọi là Báo thân, hoặc Thọ dụng thân, hoặc Ứng thân. Hoàn trả gọi là báo, đáp lý gọi là ứng. Vì người khác mà hưởng pháp vị thì gọi là thọ dụng. Do đó, có thể gọi Báo thân là Thực thân, vì cũng giống như Thọ dụng thân.
I.1.3 Hoá thân Tịnh độ
Cũng có hai loại:
1) Thân thành tựu hạnh lợi tha trong ba đại a-tăng-kỳ[16] kiếp, tức là Hóa thân tùy cơ. Thân và Độ ở đây thường thị hiện không ngừng ở cõi khác trong một kiếp, hoặc trăm năm …., có đủ 32 tướng quí và 80 vẻ đẹp tùy hình, nghĩa là kiếp sống luôn luôn đổi mới, mà thường xuyên bát Niết-bàn.
2) Hóa thân đang không mà chợt có, tức là nương vào Hóa thân này lại hóa hiện nhiều Hóa thân khác. Như Phật Thích-ca là Hóa thân tùy cơ lại phân thành các Hóa thân, tức là Hóa thân đang không có mà chợt có; có thể hiện làm vượn, khỉ, ngựa v.v… , không phải chỉ hiện thân Phật.
Thân đã có hai, độ cũng như thế, giống như các hoa sen vi diệu ở thế giới Diệu Hỷ, đây là Hoá tịnh độ tùy cơ; cũng như trong kinh Duy-ma-cật, Như Lai ấn ngón chân xuống đất thì Tam thiên thế giới[17] đều thanh tịnh, tức là Hóa tịnh độ đang không mà chợt có. Hai thân và hai độ này, hàng Bồ-tát Địa tiền[18], hàng Nhị thừa và phàm phu đều thấy được. Do đó, luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Nếu lìa Hóa thân, hàng Thanh Văn độn căn và người mới phát tâm tu hành ưa thích giai vị đều không thành tựu được quả vị”. Pháp thân và Pháp thân tịnh độ thì chỉ tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn mới thấy được. Báo thân và Báo độ thì nhục nhãn và thiên nhãn cũng thấy được.
-Hỏi: Tịnh Độ đã có ba, nhưng tôi chưa biết Tây phương thuộc Tịnh Độ nào?
-Đáp: Cõi Tây phương cũng có ba thứ. Nếu là cõi mà Bồ-tát từ Sơ địa trở đi dùng Chính thể trí[19] thấy được thì đó chính là Pháp thân tịnh độ; nếu là cõi mà Bồ-tát ở Gia hạnh vị[20] dùng Hậu đắc trí thấy được thì chính là Báo thân tịnh độ; nếu là cõi mà Bồ-tát Địa tiền cùng hàng Nhị thừa và phàm phu thấy thì chính là Hóa thân tịnh độ. Ví dụ các Bồ-tát như Long Thọ v.v… vãng sinh thì đều thấy cả ba thứ Tịnh độ Hóa thân, Pháp thân và Báo thân, vì bậc ở giai vị cao thấy được giai vị thấp. Vì nghĩa này, nên trong các kinh luận phán cõi Tây phương là Báo độ hoặc là Hóa độ, đều chẳng sai.
-Hỏi: Đã biết Tây phương có đủ ba cõi, nhưng tôi chưa biết ngày nay phàm phu niệm Phật nguyện vãng sinh, sẽ được sinh về đâu?
-Đáp: Theo Nhiếp Luận, người ấy chỉ sinh về Hoá thân tịnh độ, không thấy được Pháp thân tịnh độ và Báo thân tịnh độ. Trong Hoá thân tịnh độ này, có hai loại chúng sinh là thai sinh và hóa sinh.
+Thai sinh lại có hai loại:
1) Người nghi ngờ: Theo kinh Vô Lượng Thọ, người này sinh trong cung điện bảy báu ở biên thành của cõi Cực Lạc, trong 500 năm không được thấy Phật, gọi là thai sinh.
2) Người thật có cha mẹ, gọi là loại thai sinh. Như kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà-la-ni ghi, Phật A-di-đà cũng có cha mẹ. Kinh ghi: “Thành ấy tên là Thanh Thái, rộng mười ngàn do-tuần, trong đó có rất đông tầng lớp Sát-đế-lợi. Cha Ngài là Chuyển Luân Thánh Vương Nguyệt Thượng, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, con tên Nguyệt Minh, đệ tử hầu hạ tên Vô Cấu Xưng, đệ tử trí tuệ tên Lãm Quang, đệ tử thần túc tên Chủ Hóa, ma tên Vô Thắng, Đề-bà-đạt-đa tên Tịch Tĩnh. (Đó là những chúng sinh tự hóa sinh, không phải là người ngày nay niệm Phật được vãng sinh. Thế tức là nơi chốn chỉ có một, mà mọi người đều thấy khác nhau).
+Cõi hóa sinh: Theo các kinh luận, có ba: Cõi thuần Đại thừa, cõi thuần Tiểu thừa, và cõi Đại thừa xen lẫn Tiểu thừa.
1.Cõi thuần Đại thừa: Chúng sinh sinh ở chỗ này chỉ học Đại thừa. Như trong chín phẩm vãng sinh, thì những người này thuộc ba phẩm bậc thượng. Cho nên Luận Vãng Sinh ghi: “Cõi của hàng thiện căn Đại thừa không có hạng người chê bai, nghi ngờ Phật pháp. Cõi này cũng không có người nữ, hàng Nhị thừa và kẻ khuyết tật”.
2.Cõi thuần Tiểu thừa: Hạng chúng sinh chỉ học Tiểu thừa thì sinh về đây. Nếu xét theo chín phẩm vãng sinh, thì những người này thuộc hai phẩm bậc trung. Do đó, luận Đại Trí Độ ghi: “Có cõi Diệu Tịnh ở ngoài ba cõi, các A-la-hán sẽ sinh về đấy”.
3.Cõi Đại thừa xen lẫn Tiểu thừa: Chúng sinh học cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa thì sinh về đây. Nếu xét theo chín phẩm vãng sinh, những người này thuộc phẩm hạ bậc trung và ba phẩm bậc hạ. Như người sinh về phẩm hạ bậc trung, trong kinh ghi, đó là người hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, làm việc nhân từ thế gian, gặp thiện tri thức giảng cho nghe 48 lời đại nguyện của Phật A-di-đà, đã được nghe những lời nguyện ấy, lại còn học pháp Đại thừa lẫn pháp Tiểu thừa, cho đến người dù đã chứng quả A-la-hán, nhưng rồi lại hồi tâm hướng về Đại thừa. Còn người sinh về ba phẩm bậc hạ là người cũng nhờ nghe 48 đại nguyện của Phật A-di-đà, hoặc nghe 12 thể loại kinh, hoặc niệm Phật A-di-đà, mà sinh được về cõi ấy, đều phát tâm Bồ-đề.
Nói sơ lược thì có ba Tịnh độ, nhưng nếu phân biệt rõ ràng thì chúng sinh khởi hạnh có nhiều trường hợp khác nhau, cho nên cõi thấy được khi vãng sinh cũng khác nhau rất nhiều. Nếu hiểu như thế, thì trong kinh luận phán định cõi Tây phương là Báo độ hay là Hóa độ, ta đều chẳng thấy trở ngại. Nhưng ta biết chư Phật tu hành cảm được cả hai độ Báo và Hóa. Như Nhiếp Luận ghi: “Bậc Gia Hạnh cảm được Hóa thân, bậc chứng được Chính thể trí cảm được Báo thân”. Song dù Báo thân hay Hóa thân, cũng đều nhằm thành tựu chúng sinh. Thế thì, độ chẳng dối bày, hạnh không luống tu, chỉ tin lời Phật, y theo kinh mà chuyên niệm Phật thì sẽ được vãng sinh, cũng chẳng cần mưu cầu Báo thân với Hóa thân làm gì!
- Hỏi: Có thể biết, Pháp thân Tịnh độ, theo lý, bao trùm khắp nơi, còn Báo độ và Hóa độ lẽ ra phải có ranh giới. Nhưng nói cõi Tây phương đã có đủ Báo độ và Hóa độ thì căn cứ vào văn kinh nào để chứng minh?
- Đáp: Báo độ và Hóa độ có thể có ranh giới hoặc không có ranh giới. Như Thật báo độ, ở trong Báo độ, không có ranh giới. Nghĩa là Đức Như Lai tu hành trọn vẹn tám muôn hạnh, trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp, đầy đủ Nhị giáo[21], Ngũ phần pháp thân sáng rỡ, tướng quí soi tận từng giọt nước biển, vẻ đẹp trải khắp hết bụi núi non, Tam minh[22] sáng suốt, Nhị trí[23] cùng soi, cũng giống như rồng gầm mây hiện, cọp rống gió nổi. Thế thì, đâu thể đem báu vật để trang nghiêm cõi này, cũng không thể dùng ranh giới để hạn định cõi này được. Chỉ Phật mới thấy được vẻ đẹp của cõi này, Bồ-tát chưa ghé mắt đến được. Còn ở Sự dụng độ, dưới có trụ kim cương nâng đỡ, trên có đất lưu ly óng ánh, bên ngoài có lan can bằng bảy báu vây quanh, bên trong có ao nước tám công đức lấp lánh, châu báu trang hoàng rừng cây xinh đẹp, lưới báu giăng trên cung điện nguy nga. Thân đã đủ muôn đức, độ cũng đầy vẻ đẹp; cõi như thế thì có ranh giới.
Trong Hóa độ, căn cứ vào sức nguyện đại bi của chư Phật, cõi này bao trùm khắp chúng sinh giới, tức là không có ranh giới. Còn căn cứ theo lý vì giáo hoá chúng sinh, nên thân luôn luôn đổi mới sinh mạng mà thường xuyên nhập Niết-bàn, thì cõi này có ranh giới.
Nghĩa “Cõi Tây phương là Báo độ” xuất xứ từ kinh Đại Thừa Đồng Tính. Kinh ghi:
- Bồ-tát Trí Thông hỏi Đức Phật: “Báo thân của Như Lai như thế nào?” Đức Phật nói: “Thân ta mà hiện ông đang thấy đây chính là Báo thân của Như Lai. Lại ở cõi nước thanh tịnh, có thân đã thành Chính giác, và có thân sẽ thành Chính giác, tất cả đều là Báo thân của Như Lai”.
Kinh giải thích rằng thân ở trong Tịnh độ thành Phật gọi là Báo thân, thì đó chính là Thọ dụng thân , không phải Thật báo thân; nếu bảo là Hóa thân thì đó là Hóa thân vi tế.
Kinh ghi: “Thân ta mà ông hiện đang thấy đây chính là Báo thân”, nghĩa là ở trong Uế độ cũng thấy được Báo thân.
Kinh này lại ghi: “Thân thành Phật ở trong cõi năm trược có chính pháp, tượng pháp, mạt pháp chính là Ứng hóa thân”, tức là kinh ấy nói thân thành Phật trong Uế độ đều là Hóa thân. Nhưng kinh lại nói “Thân ta mà ông hiện đang thấy đây chính là Báo thân”, nghĩa là ở trong Uế độ cũng được thấy Báo thân. Vậy tại sao trong Tịnh độ không được thấy Hóa thân? Do đó, có thể biết rằng hai cõi Uế và Tịnh đều có đủ hai thân Báo và Hóa.
Nói Tây phương là Hóa độ, bởi kinh Quán Thế Âm Thọ Ký ghi:
- Này thiện nam tử, Phật A-di-đà có tuổi thọ vô lượng, đến trăm ngàn ức kiếp mới hết. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, chính pháp tồn tại ở đời lâu bằng tuổi thọ của Phật. Thiện nam tử, ngay khi chính pháp của Phật A-di-đà hủy diệt quá nửa đêm, ánh mặt trời vừa xuất hiện, Bồ-tát Quán Thế Âm thành bậc Đẳng chính giác dưới cội Bồ-đề, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Cõi nước của Phật này tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm, cõi này không có Thanh Văn, Duyên Giác. Sau khi Đức Phổ Quang Công Đức Như Lai nhập Niết-bàn và chính pháp đã hoại diệt, Bồ-tát Đại Thế Chí liền thành Phật hiệu là Thiện Trụ Bảo Vương Như Lai. Cõi nước, ánh sáng, tuổi thọ, cho đến chính pháp của Phật này cũng giống như vậy.
Hơn nữa, kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà-la-ni ghi: “Phật A-di-đà có cha mẹ, con, các đệ tử như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đề-bà-đạt-đa, v.v…”
I.2 THUỘC HAY KHÔNG THUỘC TAM GIỚI
I.2.1 Thuộc Tam giới
- Hỏi: Báo độ thuần tịnh và vi diệu vượt xa ba cõi, những chúng sinh được giáo hóa ở đây đều đã vượt khỏi Phần đoạn sinh tử[24]. Về lý, cũng dễ tin rằng cõi này vượt ngoài ba cõi. Dù cõi này thanh tịnh, song sự thanh tịnh chưa vi diệu, vì chúng sinh được giáo hóa ở đây là những Bồ-tát Địa tiền. Thế thì, cõi này đúng ra là thuộc Tam giới hay không thuộc Tam giới?
- Đáp: Nếu xét về Phật thì cõi này vi diệu vượt ngoài Tam giới. Nếu xét về chúng sinh thì cõi này có đủ hai nghĩa: thuộc Tam giới và không thuộc Tam giới. Trước hết, nói về trường hợp thuộc Tam giới, căn cứ lẽ hàng phàm phu và Thánh Hữu học thuộc ba quả[25] được vãng sinh về đây, thì cõi này thuộc Tam giới, vì những chúng sinh như thế chưa ra khỏi Tam giới.
- Hỏi: Làm sao biết được nghĩa này?
- Đáp: Như kinh Vô Lượng Thọ ghi: “A-nan bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn, cõi này đã không có núi Tu-di, v.v… thì Tứ Thiên Vương và trời Đao-lợi trụ ở đâu? Phật đáp: -Nương theo nghiệp mà trụ”. Vậy, cõi này đã có người rồi, lại có Tứ Thiên Vương, nên biết đó là cõi Dục. Kinh này lại ghi: “Đức Phật bảo ngài Di-lặc: “Ông thấy tất cả những thứ trang nghiêm từ mặt đất lên đến cõi trời Tịnh cư[26] chăng?” Ngài Di-lặc đáp: “Con đã thấy rồi”. Thế thì, nên biết Báo độ này có trong hai cõi Dục và Sắc, nhưng không nói gì đến cõi Vô sắc.
- Hỏi: Tại sao không nói đến cõi Vô sắc?
- Đáp: Vì ý kinh muốn khen ngợi sự trang nghiêm, vi diệu của Tịnh độ, nhằm khuyên mọi người cầu vãng sinh về đó, cho nên không bàn đến cõi Vô sắc, nhưng thể của nó có.
- Hỏi: Thân này và cõi kia đều thuộc cõi Dục, sao Phật lại khuyên người cầu vãng sinh?
- Đáp: Tuy có cùng tên gọi là cõi Dục, nhưng nghĩa khác nhau. Cõi Dục ở đây có hai nghĩa: Có Thượng tâm dục[27], và có Chủng tử dục. Bởi cõi Dục có đủ hai nghĩa nên nam và nữ ở đây mê đắm nhau, khởi lòng tham chạy theo sắc và thanh, ưa thích ở nhà lửa trong ba cõi. Tây phương dục giới chỉ có Chủng tử dục, không có Thượng tâm dục. Đã không có Thượng tâm dục, thì không có những lỗi lầm nói trên, cũng không có tâm ác và tâm vô ký, chỉ có tâm thiện. Do đó, phần Thập Bát Viên Tịnh của Nhiếp Luận ghi: “Tịnh độ chỉ có lạc thọ, không có khổ thọ và xả thọ”. Như kinh Đại Pháp Cổ ghi: “Khổ thọ là bất thiện, lạc thọ là thiện, xả thọ là vô ký”. Đã chỉ có tâm thiện, thì không có chỗ nào phát sinh việc ác. Do đó, kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Trong cõi nước Phật A-di-đà không có chỗ nào cho làm ác”. Cho nên, tuy nói là Tây phương Dục giới, nhưng đâu thật giống cõi Dục? Cõi Sắc cũng như thế.
-Hỏi: Tịnh độ vi diệu, nên chúng sinh đều ưa thích. Đã muốn khuyên người cầu vãng sinh, sao lại phải nói chỗ ấy thuộc Tam giới?
- Đáp: Đó là điều kinh nói, chẳng liên can đến người. Hơn nữa, nếu chỗ ấy thuộc Tam giới thì chúng sinh chưa dứt sạch phiền não thuộc Tam giới được sinh về. Nếu chỗ ấy ở ngoài Tam giới thì bậc Thánh hữu học và phàm phu chẳng có phần, vì không thể khiến cho chúng sinh ở trong Tam giới còn đầy phiền não được sinh vào Báo độ ở ngoài ba cõi. Do nơi ấy ở trong ba cõi nên dễ vãng sinh; nơi ấy lại không có Thượng tâm dục, nên chúng sinh ở đấy hoàn toàn không bị lui sụt.
- Hỏi: Tịnh độ ấy đã thuộc Tam giới thì lẽ ra phải có sự lui sụt, nhưng sao lại gọi là Bất thoái chuyển?
- Đáp: Tam giới là tên gọi chung, chẳng phải là tên của một cõi. Như thế giới Diệu Hỷ ở Đông phương có châu Diêm-phù-đề, có trời Đao-lợi, có nam, có nữ, nhưng lại được gọi là Tịnh độ, thì đâu có ra ngoài Tam giới? Cõi ấy đã ở trong Tam giới, và có người nữ, nên cũng gọi là cõi Dục, thế thì có thể cho là giống với cõi Dục Ta-bà được sao?! Cõi ấy là Tịnh độ, cõi này là Uế độ. Nay phán Tịnh độ ấy chỉ là Hóa thân tịnh độ, thì chúng sinh trong Hóa độ ấy đều ở trong Tam giới. Còn nếu Tịnh độ ấy là Báo thân tịnh độ, thì chúng sinh nơi ấy đều ở ngoài Hóa độ, tức là ở ngoài Tam giới. Sở dĩ như thế, bởi Tịnh độ có ba phẩm hơn kém nhau. Như thế giới Diệu Hỷ ở Đông phương là Tịnh độ hạ phẩm, vì có nam và nữ lẫn lộn. Thế giới Cực Lạc ở Tây phương là Tịnh độ trung phẩm, vì có cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Thế giới Chúng Hương ở phương Trên là Tịnh độ thượng phẩm, vì không có Nhị thừa. Ba phẩm Tịnh độ này đều ở trong cõi Dục, bởi vì có chỗ ở riêng của người và trời. Thế giới Diệu Hỷ có trời và người, như kinh Duy-ma-cật ghi: “Từ cõi Diêm-phù-đề cho đến trời Đao-lợi”. Thế giới Cực Lạc có trời và người, như kinh Vô Lượng Tho ghi: “Phật bảo ngài Di-lặc: Ông có thấy những việc trang nghiêm từ mặt đất trở lên đến trời Ngũ tịnh cư chăng?”. Thế giới Chúng Hương có người và trời, như kinh Duy-ma-cật ghi: “Khiến cho trời và người đều được vào, tuân giữ giới luật mà tu hành”. Những thế giới ấy đã có chỗ ở riêng của trời và người, thì đều ở trong cõi Dục. Nếu những thế giới ấy thuộc cõi Dục, dù có cả trời, thì chỗ ở của trời ấy, nên biết, phải ở trong cõi Dục. Nếu những thế giới ấy ở cõi Sắc, tuy có trời, nhưng không có người, vì cõi Sắc ở trên cao nên người không thể lên được. Nếu những thế giới ấy ở ngoài Tam giới, thì không có chỗ ở riêng của người và trời.
Giống như Tịnh độ có ba phẩm, Uế độ cũng có ba phẩm, như Kinh ghi: “Từ đây đi về phía đông, có một thế giới tên là Tư-kha, đất đai ở đó có lẫn cát và đá hình tam giác, mỗi năm có hai trận mưa, nước thấm ướt chưa quá năm tấc đất. Chúng sinh nơi ấy chỉ ăn cỏ, mặc vỏ cây, mong sống không được, cầu chết chẳng xong. Đó là Uế độ trung phẩm. Lại có một thế giới có các loài cọp, sói, thú dữ, cho đến rắn, rít đều bay được, gặp người liền ăn thịt, chẳng phân biệt là người tốt hay người xấu. Đó là Uế độ hạ phẩm. Thế giới Ta-bà thường có chư Phật xuất hiện, có chúng sinh phát tâm Bồ-đề, từ đất sinh ra lương thực, người có lễ, nghĩa. Đó là Uế độ thượng phẩm.
Tịnh độ tuy có ba phẩm, nhưng người vãng sinh về đấy đều được Bất thoái chuyển, bởi bốn lý do:
1) Do tuổi thọ lâu dài, nên không thoái chuyển, như Kinh ghi: “Ở Tịnh độ, chúng sinh có tuổi thọ đến vô lượng a-tăng-kỳ kiếp”. Chỉ cần tu hành trong ba a-tăng-kỳ kiếp thì được thành Phật, huống gì đến vô lượng a-tăng-kỳ kiếp. Ở Uế độ, tuổi thọ ngắn, nên chúng sinh bị thoái chuyển.
2) Có chư Phật và Bồ-tát làm thiện tri thức nên không thoái chuyển, như Kinh ghi: “Chúng sinh ở Tịnh độ được cùng các thượng thiện nhân tụ tập một chỗ”. Còn ở Uế độ, do chúng sinh gặp nhiều ác tri thức, nên bị thoái chuyển.
3) Ở Tịnh độ không có người nữ, đối tượng của sáu căn đều là duyên giúp tiến đạo, cho nên chúng sinh nơi ấy không bị thoái chuyển, như kinh Vô Lượng Tho ghi: “Mắt thấy sắc, liền phát tâm Bồ-đề, cho đến ý duyên với pháp, cũng liền phát tâm Bồ-đề”. Ở Uế độ, do có người nữ, và đối tượng của sáu căn đều là duyên gây thoái đạo, cho nên chúng sinh nơi đây bị thoái chuyển.
4) Ở Tịnh độ chỉ có tâm thiện, nên không có sự thoái chuyển, như Kinh ghi: “Ở Tịnh độ không có chỗ nào làm ác”. Còn ở Uế độ, do có cả tâm ác và tâm vô ký, nên chúng sinh ở đây bị thoái chuyển.
I.2.2 Không thuộc Tam giới
Nếu người vãng sinh là Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, hoặc A-la-hán, hoặc Bích-chi Phật thì Tịnh độ này không thuộc Tam giới, bởi các vị ấy đã dứt sạch Chính sử[28] , nên đã thoát khỏi Tam giới. Như luận Đại Trí Đo ghi: “Có Tịnh độ vi diệu vượt ngoài Tam giới, các A-la-hán sẽ sinh về đấy”. Trong luận ấy ghi “A-la-hán”, không nói đến bậc Thánh Hữu học, cho nên biết, bậc Thánh Hữu học phải sinh trong Tam giới.
CHƯƠNG II.
XÁC ĐỊNH NGƯỜI VÃNG SINH.

1- Hỏi: Tôi đã biết thể của Tịnh độ gồm cả Báo độ và Hóa độ, nhưng chưa biết người thuộc giai vị nào mới được vãng sinh?
- Đáp: Theo các kinh và luận, người tu hành, bất kỳ là nam hay nữ, thánh nhân hay phàm phu, cho đến người phạm tội thập ác[29] và ngũ nghịch[30], lúc lâm chung giữ được chính niệm hiện tiền, tâm không loạn, đều được vãng sinh. Theo Quán Kinh, chỉ trừ người phỉ báng Đại thừa không được vãng sinh; còn theo kinh Vô Lượng Thọ, lại trừ cả người phạm tội ngũ nghịch.
2- Hỏi: Hai kinh này đều do Phật giảng, nhưng tại sao kinh Vô Lượng Tho nói trừ hai hạng người, còn Quán Kinh chỉ nói trừ một hạng?
- Đáp: Kinh trước nói hạn chế, kinh sau nói mở rộng, đó là cách thuyết pháp thông thường của chư Phật. Kinh Vô Lượng Thọ được giảng trước, nói kỹ về nhân duyên của tỳ-kheo Pháp Tạng và kể về việc vãng sinh. Quán Kinh giảng sau, chỉ luận về việc vãng sinh.
3- Hỏi: Như kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Những chúng sinh vãng sinh Tịnh độ đều trụ ở Chính định tụ”, kinh A-di-đà lại ghi: “Này, Xá-lợi-phất! Những chúng sinh sinh về cõi nước Cực Lạc đều là hàng A-bệ-bạt-trí[31]”. Căn cứ vào hai kinh này, từ hàng Thập Trụ trở lên mới được vãng sinh, nhưng tại sao lại nói rằng cho đến người phạm tội thập ác và ngũ nghịch đều được vãng sinh?
- Đáp: Chính định và A-bệ-bạt-trí đều là Bất thoái. Bất thoái là nói chung, không giới hạn ở hàng Thập Trụ, nay theo các kinh và luận giải thích thì có bốn loại: Một là, Niệm bất thoái, từ bậc Bát địa trở lên; hai là, Hạnh bất thoái, từ bậc Sơ địa trở lên; ba là, Vị bất thoái, từ bậc Thập Trụ trở lên; bốn là, Xứ bất thoái, những người ở Tây phương Tịnh độ. Do đó, kinh Vô Lượng Tho ghi: “Ở cõi nước ấy không có hạng Tà định và Bất định”. Trong 48 lời đại nguyện của Phật A-di-đà có ghi: “Nếu sau khi ta thành Phật, trời và người trong cõi nước của ta không trụ trong Chính định tụ cho đến lúc diệt độ, thì ta không giữ quả Chính giác”. Bất thoái đã có đến bốn loại, lẽ nào ông chỉ nêu một loại Xứ bất thoái, mà bỏ ba loại kia!
4- Hỏi: Luận về Bất thoái, cần căn cứ vào địa vị tu hành, nhưng tại sao nương vào nơi chốn mà được Bất thoái?
- Đáp: Bất thoái về địa vị tu hành là do ở địa vị ấy không còn phiền não trong tâm. Bất thoái về nơi chốn (Xứ bất thoái) bởi ngoài nơi đó không có cảnh giới nào khác. Mỗi loại Bất thoái căn cứ vào một nghĩa, đâu có gì lạ!
5- Hỏi: Ba loại Bất thoái đầu đều được các kinh và luận chứng minh, nhưng Xứ bất thoái đã không có văn chứng minh, thì có thể tin được chăng?
- Đáp: Nay tôi dẫn luận Tì-bà-sa để chứng minh. Luận ấy nêu ra sáu chủng tính là thoái, tư, hộ, vị, thăng tiến, và bất động. Như người chủng tính thoái, dù có chứng được quả A-la-hán, cũng bị lui sụt, thậm chí còn sinh khởi phiền não của giai vị Tu đạo thuộc Tam giới, bởi vì họ có căn tính yếu kém. Người như thế tuy thuộc thể thoái căn, nhưng nếu gặp đủ năm thoái duyên ở trong hàng người Dục giới thì mới bị lui sụt. Nếu người này sinh trong sáu tầng trời Dục giới, hoặc Sắc giới, hoặc Vô sắc giới, không có năm thoái sự, thì không bị lui sụt. Như vậy, do chỗ ở không có thoái sự nên vĩnh viễn không bị lui sụt. Năm thoái sự là bệnh dai dẳng, đi xa, tụng kinh, quản lý công việc, giải hòa sự tranh cãi. Năm việc này chỉ loài người mới có, chư thiên không có. Ba duyên tụng kinh, quản lý công việc, và hoà giải sự tranh cãi tuy là việc thiện, nhưng khiến phải bỏ dở việc thực hành phép quán, cho nên gây lui sụt. Căn cứ vào trường hợp ba duyên này, các duyên khác cũng giống như thế. Như tất cả phàm phu, tuy có niệm Phật, nhưng chưa đến địa vị Thập trụ, vẫn còn ở hàng Ngoại phàm[32], cho nên bản chất đều là người còn lui sụt. Người này nếu ở cõi Ta-bà nhơ uế, do còn gặp năm thoái duyên, nên bị lui sụt. Nếu người này sinh về Tây phương thì do không có năm thoái duyên nên không bị lui sụt. Năm thoái duyên là:
1) Yểu mạng và lắm bệnh
2) Có người nữ và sáu trần gây nhiễm ô
3) Giao du với người làm ác, tức là gặp ác tri thức
4) Có tâm bất thiện và tâm vô ký
5) Thường không gặp Phật
Ở Tịnh độ không có năm thoái duyên này, cho nên chúng sinh ở đấy đều được Bất thoái.
Đây là dẫn lời Phật để chứng minh Xứ bất thoái.
Thêm nữa, căn cứ hai kinh đều ghi rằng người vãng sinh Tịnh độ đều được Bất thoái, nhưng không ghi rằng người ở giai vị Bất thoái mới được vãng sinh. Do đó, kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Người sinh về cõi ấy đều trụ trong Chính định tụ”. Tại sao? Vì cõi ấy không có hạng Tà định và Bất định. Kinh A-di-đà (Tiểu bản) ghi: “Chúng sinh sinh về Tịnh độ đều là bậc Bất thoái”, chứ không ghi rằng bậc Bất thoái mới được vãng sinh; cũng như người ở cõi này có đủ ba thọ, nếu sinh về cõi kia thì không có khổ thọ và xả thọ, chỉ có lạc thọ.
6- Hỏi: Như Quán Kinh ghi: “Người Thượng phẩm thượng sinh sinh về cõi kia liền ngộ Vô sinh pháp nhẫn”. Nên biết đấy chính là Bồ-tát Bát địa. Như thế, người Hạ phẩm sinh phải ở bậc Thập trụ trở lên? Bởi nếu là hàng Thập trụ trở xuống thì không những trái với kinh, mà giai vị cũng quá cách biệt.
- Đáp: Không phải như thế. Vô sinh pháp nhẫn cũng có bốn loại:
+Một là, nhờ kinh giáo mà chứng được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là tất cả phàm phu và hàng Thập tín, do đọc kinh và luận Đại thừa mà ngộ được vô sinh, tức là bậc Văn tuệ.
+Hai là, nhờ phép quán mà chứng được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là bậc Thập trụ trở lên đến Thập hồi hướng, do thực hành phép quán về Tam vô tính[33] mà ngộ lý vô sinh của muôn pháp, tức là bậc Tư tuệ.
+Ba là, do chứng lý mà ngộ được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là bậc Bồ-tát Sơ địa trở lên, do chứng ngộ Nhị không chân như trùm khắp pháp giới, tức là bậc Tu tuệ.
+Bốn là, nương vào giai vị mà chứng được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là Bồ-tát Bát địa trở lên, do chứng được lý Chân đế và Tục đế đồng thời hiện hành, tức là chứng được trí Vô công dụng, tức là bậc Tu tuệ.
Vô sinh pháp nhẫn đã là tên chung của bốn loại, lẽ nào chỉ căn cứ vào một loại mà đề cao cả ba loại còn lại? Như pháp sư Huệ Viễn cho rằng bậc Thượng phẩm thượng sinh là Bồ-tát từ Tứ địa đến Bát địa, còn luận Nhiếp Đại Thừa lại cho rằng bậc đó là Bồ-tát Tứ địa. Những Bồ-tát ấy tùy theo nhân duyên mà thọ Biến dịch sinh tử[34], trong khi Tây phương là cõi còn chịu Phần đoạn sinh tử[35]; thế thì, điều gì khiến Bồ-tát có Thân biến dịch[36] trở lại mang Thân phần đoạn[37] ? Do đó, kinh Quán Thế Âm Thọ Ký ghi: “Phật A-di-đà có tuổi thọ lớn vô lượng, cuối cùng sẽ nhập Niết-bàn”. Nên biết rằng chúng sinh ở đó tuy tuổi thọ cũng lớn vô lượng, song cuối cùng phải chết, vì kinh A-di-đà (Tiểu bản) ghi: “Chúng sinh ở Tịnh độ cũng được gọi là A-di-đà”. Dựa vào đoạn nói về người vãng sinh Cửu phẩm trong Quán Kinh, các bậc Đại đức từ xưa như pháp sư Huệ Viễn, v.v… xét quả mà phán, thì cho rằng người vãng sinh (Thượng phẩm) có giai vị quá cao. Nay căn cứ vào nhân mà phán, thì giai vị của người vãng sinh (Thượng phẩm) khá thấp, như người phát ba thứ tâm liền được vãng sinh Thượng phẩm thượng sinh. Ba thứ tâm ấy là Chí thành tâm, Thâm tâm, và Hồi hướng phát nguyện tâm. Ba tâm này, theo Luận Khởi Tín chính là ba tâm đầu tiên của Thập trụ; luận này ghi: “Tín thành tựu phát tâm là tâm cuối cùng của Thập tín, lúc này phải phát ba thứ tâm mới vào đựơc giai vị Thập trụ”. Ba tâm ấy là:
1)Trực tâm: Tâm chính niệm về pháp Chân như, tức là Chí thành tâm trong Quán Kinh. Chí thành tâm và Trực tâm có nghĩa như nhau, nhưng khác tên. Kinh Duy-ma-cật nói: “Bước đầu tiên của hai hạnh thuộc đạo tràng Tịnh độ đều có ba tâm”, nghĩa là giống với Quán Kinh.
Xét các kinh luận, đều thấy chỉ nói bước đầu tiên của tất cả các hạnh đều phải phát ba tâm ấy. Vậy, nên biết, ba tâm ấy là khởi đầu của muôn hạnh. Ba tâm ấy đã là khởi đầu của muôn hạnh, thì lẽ nào người được sinh về Thượng phẩm kia liền chứng được Vô sinh, cho đến thuộc hàng Bát địa?
2)Thâm tâm: Quán Kinh cũng gọi tâm này là Thâm tâm.
3)Đại bi tâm: Quán Kinh gọi tâm này là Hồi hướng phát nguyện tâm. Nếu không có tâm Đại bi thì không thể phát nguyện hồi hướng, do đó, đây là hai từ đồng nghĩa.
Ba tâm trong Luận Khởi Tín đã là tâm phát khởi cuối cùng của hàng Thập tín, thế thì, rõ ràng người Thượng phẩm thượng sinh ghi trong Quán Kinh chính là bậc Sơ tâm của Thập trụ.
Kinh nói ngộ được Vô sinh pháp nhẫn, đây là do hành quán mà ngộ được Vô sinh pháp nhẫn. Còn pháp sư Huệ Viễn cho rằng Bồ-tát Tứ địa là người được Thượng phẩm thượng sinh, thì lẽ nào được đến địa này rồi, không cần trải qua thời gian mà liền ngộ được Vô sinh pháp nhẫn? Vì Bồ-tát từ Tứ địa tiến đến Bát địa còn phải trải qua nửa a-tăng-kỳ kiếp.
Người Thượng phẩm trung sinh ở bậc sơ tâm của Thập tín. Kinh ghi: “Người được Thượng phẩm trung sinh là nhờ tin sâu nhân quả và không phỉ báng pháp Đại thừa”. Bởi nếu người ấy chưa đến bậc Thập tín, thì phải thuộc Tà định tụ, tức là người không tin nhân quả và phỉ báng pháp Đại thừa. Hơn nữa, giai vị Thập tín có mười tâm, tâm đầu tiên là Tín tâm.
Kinh nói sinh về cõi ấy trải qua một tiểu kiếp thì ngộ được Vô sinh pháp nhẫn, đây là nhờ hiểu lý mà ngộ được Vô sinh pháp nhẫn. Bởi vì ngày tháng ở cõi ấy dài, nên Kinh ghi: “Một ngày một đêm ở thế giới Cực Lạc bằng một một kiếp ở thế giới Ta-bà”. Nếu người được Thượng phẩm trung sinh đúng là Bồ-tát Sơ địa như pháp sư Huệ Viễn nói, tại sao người ấy trải qua một kiếp ở đó liền đạt được quả Bát địa? Bởi vì từ Sơ địa đến Bát địa phải trải qua một Đại a-tăng-kỳ kiếp.
Người Thượng phẩm hạ sinh là tất cả phàm phu hướng thiện trước Thập tín, nhưng qui y Tam bảo, và thọ giới Bồ-tát. Kinh ghi: “Người Thượng phẩm hạ sinh cũng tin nhân quả, không phỉ báng Đại thừa, lại phát tâm Vô thượng đạo”, nghĩa là mới phát tâm Bồ-đề ở giai vị Thập tín, được vào giai vị Bất định. Người ấy sinh về cõi kia, trải qua ba tiểu kiếp thì được vào Sơ địa, nghĩa là thường lấy kiếp ở cõi kia mà tính, chứ không tính theo kiếp ở cõi này. Như một kiếp ở thế giới Ta-bà bằng một ngày một đêm ở cõi An Lạc. Người Thượng phẩm hạ sinh đã trải qua ba tiểu kiếp, theo lý, được lên Sơ địa. Nếu người ấy, đúng là hàng Thập trụ như pháp sư Huệ Viễn nói, thì tại sao trải qua ba tiểu kiếp liền đến được Sơ địa? Bởi vì thời gian từ Thập trụ đến Sơ địa là a-tăng-kỳ kiếp thứ nhất.
Ba phẩm nói trên đều là hàng Đại thừa, còn người ở ba bậc Trung phẩm phần nhiều là hàng Tiểu thừa. Người Trung phẩm thượng sinh là hàng bốn phương tiện sau cuối trong địa vị Thất phương tiện của Tiểu thừa[38], nghĩa là ở địa vị Noãn, Đảnh, Nhẫn, và Thế đệ nhất pháp. Kinh ghi: “Người Trung phẩm thượng sinh là người thọ trì năm giới, cho đến không tạo tội ác”. Người ấy nhờ được Tứ đạt phần[39] và Vị lai thiền[40], hàng phục được phiền não của cõi Dục, cho nên không khởi các phiền não phá giới và ác nghiệp, bởi vì các phiền não phá giới và ác nghiệp chỉ có ở cõi Dục. Người Trung phẩm thượng sinh sinh về cõi ấy liền chứng quả A-la-hán, nghĩa là vừa sinh về liền được bốn quả sa-môn, tức là người nhập Niết-bàn trong đời hiện tại. Như pháp sư Huệ Viễn phán, đó là bậc Thánh Hữu học thuộc ba quả Tu-đà-hoàn, v.v… Hàng Tiểu thừa đắc quả tuy không có thời gian cố định, nhưng rốt cuộc lại phán định giai vị quá cao.
Người Trung phẩm trung sinh ở hàng Ngũ đình tâm quán[41] trở lên, tức là thuộc hàng ba phương tiện đầu của Thất phương tiện Tiểu thừa. Kinh ghi: “Người Trung phẩm trung sinh là người một ngày một đêm giữ tám trai giới[42], cho đến một ngày một đêm giữ giới Cụ túc[43], oai nghi đầy đủ”. Bởi vì người ấy ở địa vị tán tâm, chưa được định, cho nên không có cách đối trị được phiền não phá giới, không thể giữ giới được lâu. Người ấy, ít nhất, phải giữ đầy đủ oai nghi trong một ngày một đêm, sau đó dù có phạm giới nhỏ, cũng được vãng sinh. Người ấy sinh về cõi kia, trải qua nửa kiếp thì chứng quả A-la-hán. Đây cũng là người nhập Niết-bàn trong hiện tại, bởi vì người ấy có tuổi thọ cao. Như pháp sư Huệ Viễn giải thích, đó là hàng Tứ gia hạnh vị như Noãn, .v.v…; người ở địa vị thứ tư trong Tứ gia hạnh vị này chứng được Vị lai thiền, hàng phục được phiền não thuộc cõi Dục. Tại sao Kinh ghi người ấy trì giới không phạm chỉ được một ngày một đêm? Như vậy, ở đây pháp sư Huệ Viễn cũng phán định quá cao.
Người Trung phẩm hạ sinh là tất cả phàm phu ở trước địa vị Ngũ đình tâm quán của Tiểu thừa, thọ năm giới trở lên. Kinh ghi: “Đó là người hiếu dưỡng cha mẹ, thực hành hạnh nhân từ của thế gian”. Người ấy đã chưa thực hành phép quán của hàng nhập đạo, song thực hành được hạnh nhân từ của thế gian; ngoài ra, đều như trên đã nói. Nếu pháp sư Huệ Viễn phán, người ở ba địa vị từ Ngũ đình tâm quán đến Tổng tướng niệm xứ, hoặc được văn tuệ, hoặc được tư tuệ, hoặc tu tuệ, tại sao chỉ thực hành hạnh nhân từ của thế gian, và hiếu dưỡng cha mẹ (như Kinh ghi)? Như thế, pháp sư Huệ Viễn cũng đã phán định quá cao.
Nếu luận về ba bậc Hạ phẩm, nói chung đó là tất cả phàm phu làm ác, chỉ tạo tội Thập ác và Ngũ nghịch, cho đến dùng đồ của Thường trụ tăng mà không biết xấu hổ, dù cho phép họ thọ giới, nhưng vừa thọ xong, họ liền phá giới. Những người như thế, khi lâm chung nếu gặp thiện tri thức chỉ dạy, phát tâm Bồ-đề cực mạnh, giữ chính niệm tương tục hiện tiền, liền được vãng sinh. Nếu không gặp thiện tri thức, không thể phát tâm Bồ-đề cực mạnh, chắc chắn đọa vào địa ngục. Do đó, Quán Kinh ghi: “Người ấy phải đọa địa ngục trong nhiều kiếp chịu khổ vô cùng”. Nhưng lúc báo nghiệp của chúng sinh hết, oan gia, ác nghiệp và các thứ khổ đua nhau kéo đến, nên rất khó thành tựu mười niệm xưng danh hiệu Phật A-di-đà; nếu thành tựu được, chắc chắn được vãng sinh Tịnh độ. Hơn nữa, hai đường thiện và ác sít sao như trở bàn tay, ngửa thì được vãng sinh, sấp thì vào địa ngục. Trong lúc ấy, chỉ cần sức của thiện tri thức, nếu người phá giới thì tâm liền sinh hổ thẹn, sám hối theo kinh Đại thừa, liền diệt được tội, chuyên tâm niệm Phật, và thực hành phép quán, thì đều sinh vào hai bậc trên của Hạ phẩm, chứ không sinh vào bậc hạ của Hạ phẩm. Theo pháp sư Huệ Viễn nói, đó là hàng phàm phu thường tục.
8- Hỏi: Cửa cõi Tịnh, phàm và thánh cùng vào. Tôi chưa biết ý câu này chính là chỉ cho ai?
- Đáp: Xét đoạn bà Vi-đề-hi thưa hỏi và Như Lai đáp, ý chỉ nói Phật giảng về Tịnh độ cho tất cả phàm phu đời vị lai bị giặc phiền não làm hại, và khuyên họ vãng sinh, chứ không nói Bồ-tát. Nếu là Bồ-tát thì vị đó đã phát tâm, nguyện sinh vào đường ác, không nguyện sinh Tịnh độ. Như Bồ-tát Thập trụ trở lên, thường giữ hoặc mà thọ sinh, nguyện sinh vào đường ác để cứu chúng sinh đau khổ, mà không nguyện sinh Tịnh độ. Văn nói về giữ hoặc, như kinh Duy-ma-cật ghi: “Đó là Bồ-tát có bệnh, không có chỗ thọ mà thọ các thọ, chưa thông hết Phật pháp, cũng không diệt thọ mà thủ chứng”. Đó là văn nói về Bồ-tát giữ hoặc[44] mà thọ sinh.
Ngoài ra, Luận Địa Trì và Luận Nhiếp Đại Thừa đều có nói về việc giữ hoặc mà thọ sinh. Tóm lại, bậc Thánh tam thừa và hàng Thất phương tiện Tam thừa[45], cho đến hàng Phương tiện đạo tiền[46] , dù nam hay nữ, không căn, hai căn, cho đến tám bộ quỉ và rồng, nhưng phát tâm Bồ-đề, chuyên niệm Phật A-di-đà, chán cõi nhơ ác, ưa thích Tịnh độ, lúc lâm chung giữ chính niệm hiện tiền, đều được vãng sinh. Nếu là người tinh tấn mạnh mẽ, quán hạnh rõ ràng, tâm cuối cùng lúc lâm chung không loạn, đều được vãng sinh. Cho đến người lúc lâm chung giữ được mười niệm cuối cùng tương tục hiện tiền, đều được vãng sinh. Trong đó, Bồ-tát vãng sinh có chín phẩm ba bậc. Hàng Nhị thừa vãng sinh có ba bậc thượng, trung và hạ. Phàm phu vãng sinh cũng có ba bậc thượng, trung, hạ. Các bậc đều có chín phẩm, nhưng trong kinh không thể phân biệt chi tiết, nên luận chung hàng phàm phu Tiểu thừa và Đại thừa có chín phẩm, song thực ra có vô lượng phẩm khác nhau. Xem kỹ 48 đại nguyện của Phật A-di-đà và Quán Kinh, chủ ý nói phàm phu là người vãng sinh chính, bậc Thánh là người vãng sinh phụ. Vì phàm phu đọa vào đường ác, nên ở trong Uế độ không thể tu đạo và phát tâm được. Chỉ những phàm phu phỉ báng Đại thừa không được vãng sinh, vì họ đã đoạn thiện căn. Bậc thánh Nhị thừa Hữu học ngu pháp[47] không vãng sinh được, vì không tin mười phương Tịnh độ. Bồ-tát không phát nguyện cầu vãng sinh cũng không được vãng sinh, vì không có tâm ưa thích Tịnh độ. Nếu bậc thánh Nhị thừa Vô học, không kể là ngu pháp hay không ngu pháp, cầu hay không cầu vãng sinh, đều được vãng sinh, vì họ không thọ sinh trong các Uế độ thuộc ba cõi. Luận Trí Độ ghi: “Có Tịnh độ vi diệu vượt ngoài Tam giới, các A-la-hán sẽ sinh trong đó”, mà không nói đến thánh Hữu học.
CHƯƠNG III.
XÁC ĐỊNH NHÂN VÃNG SINH.

- Hỏi: Tôi đã biết phàm và thánh đều được vãng sinh, nhưng chưa biết những người này tu hạnh nghiệp gì mà được vãng sinh?
- Đáp: Dựa theo các kinh luận, xin nêu ra đây hai nhân, và trình bày theo hai phần: 1) Dẫn kinh luận để trình bày đầy đủ các nhân ấy, 2) Bỏ bớt lời lẽ rườm rà, để trình bày gọn về các nhân.
III.1 DẪN KINH LUẬN :
Như kinh Vô Lượng Thọ ghi:
“Có ba bậc người sinh về cõi nước ấy. Bậc sinh Thượng phẩm có ba nhân là: phát tâm Bồ-đề, xuất gia, và chuyên tâm niệm danh hiệu Phật. Đồng thời, người ấy phải tu thêm các phước nghiệp khác, hồi hướng và phát nguyện thì được vãng sinh”.
Như thế, xét ra, kinh này có ý nói ba bậc sinh Thượng phẩm chỉ là người xuất gia.
Người sinh Trung phẩm cũng có ba nhân là : phát tâm Bồ-đề, chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, và giữ gìn trai giới. Đồng thời, người ấy còn phải dựng chùa, tạo tượng, cúng dường thức ăn uống cho tăng chúng, đốt hương, rải hoa, thắp đèn, treo phan cúng dường chư Phật và các việc khác như ở trên đã nói. Như vậy, người này chỉ là người tại gia. Kinh ghi: “Tuy không xuất gia để tu hành làm sa-môn,….”.
“Người sinh Hạ phẩm cũng có ba nhân là: phát tâm Bồ-đề, chuyên tâm niệm danh hiệu Phật cho đến mười niệm, nghe giáo nghĩa sâu xa, tin ưa mà không nghi ngờ”. Theo ý kinh Vô Lượng Thọ, điều này chung cho cả người xuất gia và tại gia.
Kinh Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác ghi:
- Có ba bậc muốn sinh về cõi báu Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng. Người bậc thượng là người bỏ vợ con, đoạn ái dục, làm sa-môn, không quan hệ với người nữ, thực hành sáu Ba-la-mật, giữ trai giới thanh tịnh, dốc lòng tu không gián đoạn, trong mộng thấy Phật thì được vãng sinh. Người bậc trung là người trì kinh, thọ giới, cúng dường thức ăn uống cho sa-môn, tu tập tâm từ, không giận hờn, treo phan và dâng hoa cúng dường, trong một ngày một đêm không gián đoạn, thì vãng sinh cõi ấy. Người bậc hạ là người đang đoạn ái dục, tu tập tâm từ, không giận hờn, giữ gìn trai giới thanh tịnh, nhất tâm niệm Phật trong mười ngày mười đêm không gián đoạn, thì được vãng sinh.
(Những điều này đều được trình bày trong kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác và kinh Vô Lượng Tho).
Kinh A-di-đà Cổ Âm Thanh Vương ghi:
- Nếu có người thọ trì danh hiệu Phật A-di-đà với tâm bền chặt, luôn nhớ nghĩ không quên, mười ngày mười đêm không tán loạn, siêng năng tu tập Niệm Phật Tam-muội, biết được đức Như Lai kia thường trụ ở thế giới An Lạc, liên tục nhớ tưởng Ngài, không gián đoạn, thọ trì, đọc tụng kinh Cổ Âm Thanh Vương này suốt ngày đêm, sáu thời chuyên tâm tu tập, năm vóc gieo sát đất kính lễ Đức Phật kia, niệm niệm không dứt, trong vòng mười ngày chắc chắn thấy được Đức Phật kia; chỉ trừ người bị tội chướng nặng.
Quán Kinh ghi: “Một là, phải tu ba phúc nghiệp thanh tịnh, hai là, phải thực hiện 16 phép quán…” . Đây là nhân hạnh được nói trong Quán Kinh, vì quá rộng, không thể dẫn đầy đủ ở đây, nên chỉ nêu tổng quát thôi.
Kinh A-di-đà (Tiểu bản) ghi:
- Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe nói Phật A-di-đà, liền nhớ lấy danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, cho đến bảy ngày, niệm Phật A-di-đà, nhất tâm không loạn, thì người ấy lúc lâm chung, Phật A-di-đà và Thánh chúng hiện ở trước mặt người ấy. Khi người ấy qua đời, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh.
Kinh Đại Tập ghi: “Phật bảo ngài Hiền Hộ:
- Tại sao gọi là Hiện tiền tam-muội? Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di giữ giới thanh tịnh, ở một mình chỗ vắng vẻ, tuỳ phương diện mà được nghe nói về Đức Phật A-di-đà ở Tây phương. Nghe rồi, người ấy nghĩ như vầy: “Như điều ta được nghe, Phật A-di-đà hiện đang ở Tây phương, thuyết pháp cho các Bồ-tát”. Người ấy y theo những điều được nghe, buộc niệm tư duy, quán sát không ngừng, một cách rõ ràng, cuối cùng được thấy Đức Phật kia. Ví dụ như một người nam hoặc nữ, ở trong mộng thấy các việc, nào là vàng, bạc, đồ quí báu, v.v…; những cảnh người ấy thấy trong mộng, có khi nghịch, có khi thuận, hoặc vui, hoặc buồn. Khi tỉnh dậy rồi, kể lại đầy đủ cho người khác nghe, nhớ lại cảnh buồn vui trong mộng, người ấy liền thấy buồn vui theo. Cũng như thế, Hiền Hộ! Người thiện nam, thiện nữ kia nghĩ tưởng đến Phật A-di-đà kia tướng hảo như vậy, oai nghi như vậy, Thánh chúng như vậy, thuyết pháp như vậy,… Nhờ buộc niệm tư duy, hoặc một ngày, hoặc một đêm, nhớ đầy đủ, nên người ấy chắc chắn thấy được Phật A-di-đà. Nếu ban ngày không thấy được, thì trong giấc ngủ ban đêm chắc chắn người ấy sẽ thấy Phật A-di-đà hiện đến.
(Đây là kinh Bồ-tát Hiền Hộ thuộc kinh Đại Tập – Kinh này dạy mọi người quán tưởng Phật thì chắc chắn được thấy Phật).
Luận Vãng Sinh ghi: “Tu tập năm niệm thì sẽ được vãng sinh. Năm niệm là gì? Đó là lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán sát, và hồi hướng”.
Luận Đại Thừa Khởi Tín ghi:
- Hơn nữa, chúng sinh lúc mới học pháp này, tâm yếu đuối, lo sợ khó thành tựu được tín tâm, ý muốn lui sụt. Đức Như Lai có phương tiện ưu việt giữ gìn tín tâm cho người tu hành. Đó là dùng nhân duyên tín tâm niệm Phật, tùy nguyện được vãng sinh cõi Phật kia. Kinh ghi: “Nếu người chuyên niệm Phật A-di-đà ở Tây phương, hồi hướng thiện căn đã tạo, nguyện cầu sinh về thế giới kia, liền được vãng sinh”.
(Đây là luận Đại Thừa Khởi Tín do Bồ-tát Mã Minh soạn, dạy người niệm Phật, phát nguyện và hồi hướng thì được vãng sinh).
Luận Đại Thừa Thập Trụ Tỳ-bà-sa, do Bồ-tát Long Thọ soạn, dạy người lễ lạy và xưng tán Phật A-di-đà thì được vãng sinh. (Văn lễ tán này sẽ nói đầy đủ ở phần V.Dẫn Chứng Kinh Luận. Ở đây chỉ dẫn chứng vài đoạn kinh luận nói về ý của môn đầu tiên).
III.2 VẮN TẮT VỀ NHÂN VÃNG SINH
-Hỏi: Văn của những kinh luận dẫn ra như trên có nội dung quá rộng, khó tham cứu. Nay xin ngài nói vắn tắt những điều cốt lõi về nhân vãng sinh để các hành giả dễ tu học.
-Đáp: Đúng thế! Những kinh luận được dẫn ra như trên đều là giáo nghĩa đối cơ, nên khó tham cứu. Nay, để đơn giản, tôi bỏ bớt văn từ rườm rà, chỉ trình bày gọn về nhân vãng sinh. Có hai loại nhân là nhân chung và nhân riêng.
III.2.1 Nhân chung:
Như trong kinh Vô Lượng Thọ, ba bậc người vãng sinh đều phải phát tâm Bồ-đề, và trong Quán Kinh, người ấy còn phải tu đủ ba phúc nghiệp thanh tịnh thì mới được vãng sinh. Những nhân như thế đều là nhân chung. Nhân chung có hai loại là Cảm ứng chung với mười phương Tịnh độ, và Cảm ứng chung với ba đời Tịnh độ.
Do đó, Quán Kinh nói: Ba loại phúc nghiệp này là chính nhân Tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, và vị lai.
III.2.2 Nhân riêng:
Có vô số, nhưng quan trọng chỉ có hai, là Sở cầu và Năng cầu.
III.2.2.1 Sở cầu:
Cũng có hai thứ. Một là, phải nêu riêng một phương để hướng tâm về. Như nêu riêng thế giới Cực Lạc ở Tây phương và cầu vãng sinh về đó, tức là nêu Khí thế gian thanh tịnh. Hai là, niệm riêng một Đức Phật, tôn Ngài là thầy, mình xin làm đệ tử, gần gũi thờ phụng, cúng dường, tức là Chúng sinh thế gian thanh tịnh.
III.2.2.2 Năng cầu:
Đúng ra nhân này có sáu thứ: Phải niệm riêng danh hiệu Phật A-di-đà, phải lễ lạy, phải ca ngợi, phải phát nguyện, phải quán sát, và phải hồi hướng.
1) Niệm Phật: Có hai cách là tâm niệm và khẩu niệm.
a. Tâm niệm : Có hai trường hợp:
- Niệm sắc thân Phật: Nghĩa là niệm sắc thân Phật A-di-đà có 84.000 tướng quí, mỗi tướng có 84.000 vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp có 84.000 tia sáng.
- Niệm trí thân Phật: Nghĩa là niệm Phật A-di-đà có ngũ phần pháp thân, đại từ, đại bi, Thập lực[48], Tứ vô úy[49],v.v…
b. Khẩu niệm: Nếu tâm yếu thì phải nhờ miệng giúp, dùng miệng dẫn tâm, khiến cho tâm không tán loạn. Như Kinh nói: Nếu người niệm Phật A-di-đà được trăm vạn biến trở lên, chắc chắn được vãng sinh thế giới Cực Lạc. Từ kinh này, Thiền sư Đạo Xước nghiệm ra được rằng nếu có thể chuyên tâm niệm Phật trong bảy ngày thì niệm được 100 vạn biến. Vì thế, đa số các kinh đều nói niệm Phật bảy ngày thì được vãng sinh.
2) Lễ lạy: Phải quay mặt về hướng Tây, quán tưởng Phật A-di-đà như ở truớc mắt mình, cung kính dâng hương, hoa, miệng xưng niệm danh hiệu Phật, năm vóc sát đất, dập đầu ba lần, nguyện sinh về cõi kia. Nên tụng bài Thập nhị lễ của ngài Long Thọ do Tam tạng Thiền-na dịch ra chữ Hán:
Đảnh lễ Phật A-di-đà,
Bậc Đại Tiên, Lưỡng Túc Tôn[50],
Được trời và người cung kính,
Ở nước An Lạc vi diệu,
Vô lượng đệ tử vây quanh.
………
3) Ca ngợi: Phải ca ngợi riêng Phật A-di-đà, hoặc thân, hoặc tâm, hoặc y báo, hoặc chính báo của Ngài. Đứng, hoặc ngồi nhìn thẳng hướng Tây, quán tưởng như Phật A-di-đà và cảnh Tây phương ở trước mắt, tâm ca ngợi, nguyện sinh về Tịnh độ ấy. Nên tụng bài kệ của Bồ-tát Long Thọ ở trong luận Đại Thừa Thập Trụ Tỳ-bà-sa và bài văn tán trong luận Vãng Sinh.
4) Phát nguyện: Phải phát nguyện chỉ cầu vãng sinh cõi Cực Lạc. Có thể nguyện chính mình vãng sinh, hoặc nguyện chúng sinh vãng sinh, hoặc nguyện Phật Thích-ca đưa tiễn, hoặc nguyện Phật A-di-đà đến đón, hoặc nguyện thường dạo chơi Tịnh độ, hoặc nguyện mãi mãi lìa bỏ thân thai sinh, hoặc nguyện lâm chung được an ổn, hoặc nguyện được chính niệm hiện tiền. Những nguyện như thế đều phát khởi tùy tâm, như luận Bảo Tính ghi:
Nương những công đức này,
Nguyện lúc con qua đời,
Được thấy Phật A-di-đà,
Thân vô biên công đức.
Con và người tín tâm,
Được thấy Phật ấy rồi,
Nguyện được Ly cấu nhãn[51],
Chứng Vô thượng bồ-đề.
5) Quán sát: Phải nêu riêng các việc thuộc y báo và chính báo của cõi Tây phương để quán sát. Như trong 16 phép quán của Quán Kinh, 7 phép quán đầu là quán y báo, 9 phép quán sau là quán chính báo. Lại, như trong luận Vãng Sinh, y báo có 17 việc trang nghiêm, còn trong chính báo, Phật có 8 việc trang nghiêm, Bồ-tát cũng có 4 việc trang nghiêm. Đối với những thứ ấy, thực hiện quán sát từng thứ một, thành tựu được bất kỳ một phép quán nào, cũng chắc chắn được vãng sinh.
6) Hồi hướng: Có hai điều, một là, đem công đức của mình hồi hướng cho chúng sinh cùng được sinh về Tịnh độ; hai là, đem tất cả công đức của mình từ vô thỉ đến nay, và tất cả công đức trong đời này, dù nhiều hay ít, dù là phúc hay trí, nguyện hồi hướng, để cầu sinh về Cực Lạc.
-Hỏi: Hai thứ nhân chung và riêng vừa nói như trên, khó tu tập được đầy đủ. Hàng phàm phu trí cạn sức mỏng, e rằng trong lòng nảy sinh ý nghĩ mình chẳng có phần. Nay, xin Ngài tóm lại mà nói đại khái về những điều cốt lõi.
-Đáp: Hai thứ nhân chung và riêng, tôi vừa trình bày ở trên, có đủ ở người thượng căn. Người trung căn và hạ căn chỉ cần có năm việc:
1) Phải sám hối những nghiệp ác làm chướng đạo từ vô thỉ đến nay, vì sợ chúng gây trở ngại cho hạnh Tịnh độ, như những việc được nói trong kinh Phương Đẳng, và kinh Phật Danh.
2) Phải phát tâm bồ-đề. Nếu không phát tâm bồ-đề thì chỉ là tự tránh khổ mà tìm vui, e rằng sẽ không được vãng sinh. Tâm bồ-đề, nói vắn tắt, có ba thứ: Một là, tâm đoạn trừ tất cả điều ác; hai là, tâm tu tập tất cả việc lành; ba là, tâm hóa độ tất cả chúng sinh. (Theo kinh Vô Lượng Thọ, ba bậc vãng sinh đều phải phát tâm bồ-đề).
3) Phải chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Phải lập riêng một đạo tràng, đốt hương, rải hoa, treo phan, thắp đèn,… Thỉnh một pho tượng Phật A-di-đà, tôn trí trong đạo tràng. Mặt tượng nhìn về phía đông, người tu nhìn về phía tây, hướng đến tượng. Có thể tu bảy ngày (kinh A-di-đà (Tiểu bản), hoặc mười ngày (kinh Cổ Âm Thanh Vương và kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác), giảm bớt ngủ nghỉ, dẹp bỏ tán loạn. Chỉ trừ lúc đi đại, tiểu tiện, và ăn uống, thời gian còn lại phải chuyên tâm niệm Phật. Nếu buồn ngủ thì đứng dậy niệm. Không cần phải lễ lạy hoặc nhiễu quanh Phật, nhưng chỉ cần niệm Phật cho đủ bảy ngày. Sau đó, ra khỏi đạo tràng, song vẫn niệm Phật trong mọi lúc đi, đứng, nằm, ngồi, hoặc rảnh rỗi. Thường xuyên niệm danh hiệu Phật có ba điều lợi ích: Một là, do thường niệm nên các ý nghĩ xấu hoàn toàn không sinh, lại còn tiêu trừ được nghiệp chướng; hai là, do thường niệm nên căn lành phát triển, lại còn gieo trồng được nhân duyên thấy Phật; ba là, do thường niệm nên huân tập được sự bén nhạy và thành thục, đến lúc lâm chung sẽ được chính niệm hiện tiền.
4) Phải quán sát toàn cảnh (tổng tướng) thế giới Cực Lạc: Đất như vậy, ao như vậy, lầu gác như vậy, rừng cây như vậy; Phật A-di-đà ngồi trên tòa hoa sen như vậy, tướng hảo như vậy, đệ tử như vậy, thuyết pháp như vậy. (Đây là lời Phật dạy chúng sinh trong kinh Hiền Hộ thuộc kinh Đại Tập). Thực hiện phép quán toàn cảnh (quán Tổng tướng) như vậy, chắc chắn được vãng sinh, bởi vì Tam giới chỉ do tâm biến hiện.
5) Công đức tạo được, dù trong đời quá khứ hay hiện tại, đều phải nguyện hồi hướng để cầu sinh về nước An Lạc.
Nếu tu tập đầy đủ năm hạnh kể trên, chắc chắn được vãng sinh. Mong các vị chớ nghi! Bởi vì kinh Pháp Hoa ghi: Nay ta bảo đảm với các ông việc này hoàn toàn không giả dối. Tôi cũng như vậy, thề bảo đảm việc này hoàn toàn không giả dối.


Chú thích:
[1] Mười sáu pháp quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ: Nhật tưởng quán, Thuỷ tưởng quán, Địa tưởng quán, Bảo thụ quán, Bảo trì quán, Bảo lâu quán, Hoa tọa quán, Tượng quán, Chân thân quán, Quán Âm quán, Thế Chí quán, Phổ quán, Tạp tưởng quán, Thượng bối quán, Trung bối quán, Hạ bối quán.
[2] Theo Quán Kinh, do căn cơ và hành nghiệp khác nhau, người nguyện vãng sinh có chín bậc khác nhau được sinh theo chín phẩm khác nhau ở cõi Cực Lạc: Phẩm thượng bậc thượng, Phẩm thượng bậc trung, Phẩm thượng bậc hạ, Phẩm trung bậc thượng, Phẩm trung bậc trung, Phẩm trung bậc hạ, Phẩm hạ bậc thượng, Phẩm hạ bậc trung, Phẩm hạ bậc hạ.
[3] Pháp sư Huệ Viễn (334-416): Cao tăng Trung Quốc, sống thời Đông Tấn, họ Giả, người Lâu Phiền, Nhạn Môn (huyện Quách, tỉnh Sơn Đông), là Sơ tổ của tông Tịnh Độ Trung Quốc.
[4] Cư sĩ Phật giáo nổi tiếng Trung Quốc thời Lưu Tống, người Dương Hạ, thông hiểu kinh sách,thư họa,thi văn, làm quan đến Thái úy tham quân, Thái phó Vĩnh Gia, bị vua hãm hại chết ở Quảng Châu năm 433.
[5] Tức Thiền sư Tây Hà (562-645), họ Vệ, người Vấn Thủy, Tinh Châu (tức huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây ngày nay). Sư là tổ thứ 2 của tông Tịnh Độ Trung Quốc, soạn các tác phẩm: Luận Tịnh Độ (2 quyển), An Lạc Tập (2 quyển).
[6] Ba phúc nghiệp thanh tịnh mà hành giả tu hành để được vãng sinh Cực Lạc gồm: 1) Thế phúc: hiếu dưỡng cha mẹ, hầu hạ sư trưởng, rèn luyện tâm từ không giết hại các loài, tu tập mười thiện nghiệp, 2) Giới phúc: thụ trì Tam qui và đầy đủ các giới, oai nghi không phạm lỗi, và 3) Hành phúc: phát tâm bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyên người tiến tu.
[7] Tức Tứ hoằng thệ nguyện: Thệ nguyện độ vô số chúng sinh, thệ nguyện trừ vô tận phiền não, thệ nguyện học vô lượng pháp môn, và thệ nguyện thành Phật đạo vô thượng.
[8] Sáu đường thụ sinh tùy theo nghiệp lực của chúng sinh, gồm: Trời, người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỉ và địa ngục. Ba đường đầu là đường thiện, ba đường sau là đường ác.
[9] Ngũ nhãn: Năm loại mắt gồm nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.
[10] Ngũ phần: Tức năm phần pháp thân gồm Giới thân, Định thân, Huệ thân, Giải thoát thân, và Giải thoát tri kiến thân.
[11] Theo luận Đại Trí Độ quyển 40 và kinh Đại Bát Niết-bàn quyển 15, Vô duyên từ là lòng từ bình đẳng tuyệt đối khởi ra từ tâm không phân biệt và lìa xa tri kiến sai biệt.
[12] Ở đây, Năng trụ nhân là chính báo người giáo hóa ở Tịnh độ tức là Phật.
[13] Sở trụ độ là y báo nơi trụ của Năng trụ nhân, tức Tịnh độ.
[14] Văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.
[15] Bồ-tát địa vị Kim cương tâm tức là Bồ-tát Đẳng giác, hoặc Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ.
[16] Một đơn vị số lượng (thứ 52 trong hệ thống có 60 đơn vị số lượng) của Ấn Độ có giá trị cực lớn. 1 a-tăng-kì = 1049.
[17] Theo vũ trụ quan của Ấn Độ xưa, một thế giới gồm núi Tu-di ở giữa, xung quanh có 4 đại châu, 9 lớp núi, và 8 lớp biển, từ trời Sơ thiền của cõi Sắc đến lớp phong luân dưới đáy mặt đất, trong đó bao gồm mặt trời, mặt trăng, núi Tu-di, trời Tứ thiên vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, Phạm thiên … 1000 tiểu thế giới này hợp thành Tiểu thiên thế giới, 1000 Tiểu thiên thế giới hợp thành Trung thiên thế giới, 1000 Trung thiên thế giới hợp thành Đại thiên thế giới, hay Tam thiên đại thiên thế giới, hay Tam thiên thế giới.
[18] Bồ-tát ở giai vị Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng chưa vào đến Thập Địa.
[19] Tức Căn bản trí.
[20] Tức Tứ gia hạnh vị, gồm: Noãn pháp, Đảnh pháp, Nhẫn pháp và Thế đệ nhất pháp.
[21] Hai loại giáo pháp. Theo ý nghĩa nội dung của giáo thuyết, phương pháp thực hành, hình thức thuyết pháp, người thuyết pháp và người thụ pháp, có thể phân chia giáo pháp của Phật thành Bán tự giáo và Mãn tự giáo, hoặc Đốn giáo và Tiệm giáo, Tiểu thừa giáo và Đại thừa giáo...
[22] Còn gọi là Tam đạt, Tam chứng pháp, gồm Túc mệnh trí chứng minh, Sinh tử trí minh và Lậu tận trí chứng minh, tức là trí tuệ thông đạt không trở ngại ba việc túc mệnh, thiên nhãn, và lậu tận.
[23] Hai loại trí tuệ của bậc thánh xuất thế. Có 6 thứ: Tận trí và Vô sinh trí, Căn bản trí và Hậu đắc trí, Quyền trí và Thật trí, Như lý trí và Như lượng trí, Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí, Quán sát trí và Thủ tướng trí.
[24] Sự luân hồi sinh tử trong sáu đường mà chúng sinh trong Tam giới có thân tướng và thọ mạng khác nhau phải chịu.
[25] Bậc thánh thuộc ba quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, và A-na-hàm, vì chưa đoạn hết phiền não, cần phải tiến tu tiếp để chứng quả vị A-la-hán sạch phiền não, nên gọi là Hữu học.
[26] Tức 5 cõi trời thuộc Tứ thiền, gồm: trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, và trời Sắc Cứu Cánh.
[27] Tức ái dục.
[28] Chủ thể phiền não hiện khởi, trái với tập khí là dạng phiền não do thói quen (huân tập nhiều đời) còn sót lại.
[29] Mười điều ác gồm có: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế,tà kiến. Mười điều ác này là nghiệp nhân của khổ báo, nên còn gọi là 10 ác nghiệp, hay 10 nghiệp bất thiện.
[30] Năm tội cực ác trái đạo lý. Theo kinh Tăng Nhất A-hàm, đó là giết mẹ,giết cha, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu và phá hòa hợp tăng. Người phạm 5 tội này sẽ bị đọa địa ngục Vô gián. Theo Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ 5, năm tội nghịch là giết cha mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng và phỉ báng Đại thừa.
[31] Tức bậc Bất thoái chuyển, chỉ địa vị của người tu hành không còn bị lui sụt cho đến khi thành Phật. Bất thoái vị còn gọi là Bất thoái chuyển địa. Tùy chủ trương của từng tông phái, Bất thoái vị có thể chỉ Nhẫn vị trong Tứ thiện căn của Hữu bộ, hoặc giai vị Kiến đạo đã được Vô sinh pháp nhẫn, hoặc Đệ thất trụ trong Thập trụ, hoặc Bồ-tát Sơ địa, hoặc Bồ-tát Thất địa.
[32] Chỉ chung các giai vị phàm phu (chưa kiến đạo) trong Phật đạo. Bồ-tát thừa cho Phục nhẫn vị của Thập tín là Ngoại phàm.
[33] Phép quán về Tướng vô tính, Sinh vô tính và Thắng nghĩa vô tính.
[34] Sự tiến chuyển thân biến dịch theo hướng diệt dần vô minh, tăng dần sự chứng ngộ cho đến quả vị Phật của A-la-hán, Bích Chi Phật và Bồ-tát đại lực sạch phiền não ở tứ trụ địa.
[35] Sự sinh tử luân hồi của các chúng sinh có thân mạng và quả báo khác nhau trong sáu đường.
[36] Chính báo của A-la-hán, Bích Chi Phật và Bồ-tát đại lực ở Tịnh độ.
[37] Thân phần đoạn sinh tử phải chịu luân hồi trong sáu đường, chịu các quả báo khác nhau của phàm phu.
[38] Bảy địa vị Kiến đạo của hàng Thanh văn, gồm 1) Ngũ đình tâm quán, 2) Biệt tướng niệm trụ, 3) Tổng tướng niệm trụ, 4) Noãn pháp, 5) Đảnh pháp, 6) Nhẫn pháp, 7) Thế đệ nhất.
[39] Tức là Tứ gia hạnh, gồm Noãn, Đảnh, Nhẫn, và Thế đệ nhất pháp.
[40] Thiền chứng được ở địa vị Thế đệ nhất pháp trong Tứ gia hạnh. Loại Thiền này hàng phục được phiền não ở cõi Dục.
[41] Năm pháp quán để dứt trừ phiền não mê hoặc, gồm Bất tịnh quán, Từ bi quán, Duyên khởi quán, Giới phân biệt quán và Sổ tức quán.
[42] Tức Bát quan trai giới, gồm 5 giới tại gia và 3 giới: Không trang sức hương hoa; không xem nghe ca múa; không ăn phi thời. Trong đó, 7 giới đầu đúng là giới, giới cuối là trai pháp.
[43] Tức giới Tỳ-kheo.
[44] Vì tâm nguyện từ bi nên Bồ-tát không trừ sạch phiền não, mà giữ lại để thụ sinh vào đường ác cứu độ chúng sinh.
[45] Hạnh vị thuộc địa vị Kiến đạo của Bồ-tát, tức 7 giai vị Hiền.
[46] Giai vị trước khi vào Phương tiện đạo.
[47] Kiến chấp về pháp.
[48] Mười trí lực của Như Lai, cũng gọi là thập thần lực, gồm: 1) Xứ phi xứ trí lực, 2) Nghiệp dị thục trí lực, 3) Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực, 4) Căn thượng hạ trí lực, 5) Chủng chủng thắng giải trí lực, 6) Chủng chủng giới trí lực,7) Biến thú hành trí lực, 8) Túc trụ tùy hành trí lực, 9) Sinh tử trí lực, 10) Lậu tận trí lực
[49] Tức Tứ vô sở úy, là bốn sự tự tin, an ổn, không sợ hãi và dũng mãnh khi thuyết pháp. Tứ vô úy của Như Lai gồm: 1) Chư pháp hiện đẳng giác vô úy, 2) Nhất thiết lậu tận trí vô úy, 3) Chướng pháp bất hư quyết định thụ kí vô úy, 4) Vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tính vô úy. Ngoài ra, còn có Tứ vô úy của Bồ-tát.
[50] Một trong nhiều danh hiệu của Phật, nghĩa là bậc tôn quí có đầy đủ phúc và trí.
[51] Tức pháp nhãn thanh tịnh nhờ lìa phiền não, cấu nhiễm, chứng được Thánh đạo.

« Kinh này có tổng cộng 3 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Duy-ma-cật (Hán-Việt)


San sẻ yêu thương


Ai vào địa ngục


Đường Không Biên Giới

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.32.73 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập