Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm Năm
PHÁT TÂM
Giải thích:
Đã nói sự phân biệt về chủng tánh Bồ tát, tiếp theo là phân biệt về sắc thái sự phát tâm bồ-đề của Bồ tát.
[0595b24] Kệ tụng:
Dũng mãnh và phương tiện
Lợi ích và xuất ly
Bốn đại, ba công đức
Hai nghĩa mà tâm khởi.
Giải thích:
Sự phát tâm của Bồ tát có bốn thứ lớn lao (đại): 1. Dũng mãnh lớn lao, là tinh tiến phát thệ nguyện rộng lớn, tùy thuận sâu xa khổ hạnh khó làm ở trong thời gian dài; 2. Phương tiện lớn lao, là đã trang bị áo giáp thệ nguyện rộng lớn, thì nỗ lực tinh tiến thường xuyên thực hành phương tiện; 3. Lợi ích lớn lao, là làm việc lợi mình, lợi người trong mọi thời gian; 4. Xuất ly lớn lao, là phát tâm vì cầu Vô thượng bồ-đề.
Lại nữa, bốn thứ lớn lao này hiển thị ba thứ công đức: 1. Dũng mãnh lớn lao và phương tiện lớn lao hiển thị công đức làm nên bậc trượng phu tạo tác [công đức]; 2. Lợi ích lớn lao hiển thị công đức làm thành đại nghĩa; 3. Xuất ly lớn lao hiển thị công đức thọ quả.
Ba thứ công đức này lấy hai nghĩa làm duyên tố [cho dục tâm sở], đó là cầu Vô thượng bồ-đề và muốn lợi lạc tất cả chúng sanh. Mong cầu như vậy gọi là phát tâm bồ-đề.
Đã nói sắc thái của sự phát tâm, kế nói sai biệt của sự phát tâm.
[0595c07] Kệ tụng:
Tín hành và tịnh y
Báo đắc và vô chướng
Phát tâm dựa các địa
Sai biệt có bốn thứ.
Giải thích:
Sự phát tâm của Bồ tát căn cứ theo các địa, có bốn thứ sai biệt: 1. Tín hành phát tâm, là Tín hành địa; 2. Tịnh y phát tâm, là bảy địa ban đầu; 3. Báo đắc phát tâm, là ba địa về sau; 4. Vô chướng phát tâm, là Như lai địa.
Đã nói bốn thứ sai biệt rồi, tiếp theo sẽ giải thích rộng ra.
Hỏi: Sự phát tâm như vậy lấy gì làm căn bản, lấy gì làm chỗ dựa, lấy gì làm đức tin, lấy gì làm duyên tố, lấy gì làm chuyên chở, lấy gì làm nơi trú ở, có những chướng nạn gì, có bao nhiêu công đức, có những tự tánh nào, đối tượng xuất ly là gì, chỗ cứu cánh như thế nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0595c16] Kệ tụng:
Đại bi và lợi vật
Đại pháp và chủng trí
Thắng dục và đại hộ
Thọ chướng và tăng thiện
Phước trí và tu độ
Qua các địa, địa mãn
Sơ căn đến cứu cánh
Tuần tự giải, nên biết.
Giải thích:
Sự phát tâm của Bồ tát lấy đại bi làm căn bản, lấy lợi ích tất cả chúng sanh làm chỗ dựa, lấy pháp Đại thừa làm đức tin, lấy chủng trí làm đối tượng duyên theo vì cầu có được trí ấy, lấy sự mong muốn thù thắng làm phương tiện chuyên chở vì muốn được Vô thượng thừa, lấy sự hộ trì lớn lao làm chỗ trú ở vì an trú trong Bồ tát giới, lấy những chướng ngại mắc phải làm nạn vì đã khởi cái tâm thừa khác [trước khi khởi tâm Đại thừa], lấy sự tăng trưởng thiện pháp làm công đức, lấy [tư lương] phước đức và trí tuệ làm tự tánh, lấy sự tu tập các ba-la-mật làm sự xuất ly, lấy sự viên mãn các địa làm cứu cánh, vì bằng sự cần tu phương tiện trải qua các địa mà có sự thích hợp với từng địa.
Đã rộng nói phân biệt như vậy, kế nói sự phát tâm do duyên theo thế tục.
[0595c27] Kệ tụng:
Lực thiện hữu, nhân tố
Lực thiện căn, nghe pháp
Bốn lực gồm hai phát
Không vững và vững chãi.
Giải thích:
Nếu từ người khác thuyết giảng được giác ngộ rồi phát tâm, thì gọi đó là sự phát tâm do duyên theo thế tục. Sự phát tâm như vậy có bốn trợ lực: 1. Phát tâm nhờ trợ lực của thiện hữu, là được thiện tri thức tùy thuận; 2. Phát tâm nhờ trợ lực của nhân tố, là đời quá khứ từng phát tâm, gọi là tự tánh [phát tâm bồ-đề]; 3. Phát tâm nhờ trợ lực của thiện căn, tức đời quá khứ từng tu tập các thiện căn được viên mãn; 4. Phát tâm nhờ trợ lực của nghe chánh pháp, là nơi nào có thuyết pháp thì có vô lượng chúng sanh phát tâm bồ-đề, và do tu tập thiện căn [nghe pháp] ấy mà đời hiện tại thường nghe chánh pháp, tiếp nhận, thọ trì v.v…
Lại nữa, bốn trợ lực của sự phát tâm bao gồm hai thứ: 1. Phát tâm không vững chãi, là phát tâm nhờ trợ lực của thiện hữu; 2. Phát tâm vững chãi, là phát tâm nhờ trợ lực của nhân tố, thiện căn và nghe chánh pháp.
Đã nói sự phát tâm do duyên theo thế tục, kế nói sự phát tâm do đệ nhất nghĩa.
[0596a10] Kệ tụng:
Thân cận Chánh biến tri
Khéo chứa khối phước trí
Đối pháp không phân biệt
Tối thượng chân trí sanh.
Giải thích:
Sự phát tâm do đệ nhất nghĩa biểu hiện bằng ba thứ thù thắng: 1. Dạy bảo thù thắng, là thân cận bậc Chánh biến tri; 2. Tùy thuận thù thắng, là khéo tu tập hai khối phước đức và trí tuệ; 3. Đắc quả thù thắng, là phát sanh trí vô phân biệt. Đây là sự phát tâm của Bồ tát ở Hoan hỷ địa, do có sự hoan hỷ thù thắng.
Hỏi: Sự thù thắng này lấy gì làm nhân tố?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0596a16] Kệ tụng:
Các pháp và chúng sanh
Việc làm và Phật thể
Với bốn bình đẳng này
Mà được hoan hỷ thắng.
Giải thích:
Bốn bình đẳng là: 1. Pháp bình đẳng, do thông đạt pháp vô ngã; 2. Chúng sanh bình đẳng, do đạt đến mình, người bình đẳng; 3. Việc làm bình đẳng, do làm cho người hết khổ như chính mình hết khổ; 4. Phật thể bình đẳng, do pháp giới và ta không có sai biệt, quyết định khả năng thông đạt [cảnh giới không sai biệt ấy].
Đã nói nhân tố thù thắng, kế nói sự sai biệt thù thắng.
[0596a23] Kệ tụng:
Sanh vị và nguyện vị
Dũng mãnh và tịnh y
Phương tiện và xuất ly
Sáu thắng lại như vậy.
Giải thích:
Sự phát tâm do đệ nhất nghĩa lại có sáu thù thắng: 1. Sanh vị thù thắng; 2. Nguyện vị thù thắng; 3. Dũng mãnh thù thắng; 4. Tịnh y thù thắng; 5. Phương tiện thù thắng; 6. Xuất ly thù thắng.
Hỏi: Sáu thứ này vì sao thù thắng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0596a28] Kệ tụng:
Sanh thắng do bốn nghĩa
Nguyện đại có mười thứ
Dũng mãnh hằng bất thoái
Tịnh y hai lợi sanh
Phương tiện tiến địa khác
Xuất ly khéo tư duy
Như vậy sáu đạo lý
Tuần tự thành sáu thắng.
Giải thích:
Sanh thắng do bốn nghĩa: 1. Chủng tử thù thắng, là lấy sự tin hiểu pháp Đại thừa làm chủng tử; 2. Sanh mẫu thù thắng, là lấy trí tuệ ba-la-mật làm sanh mẫu; 3. Thai tạng thù thắng, là lấy sự hỷ lạc của đại thiền định làm thai tạng; 4. Nhũ mẫu thù thắng, là lấy sự trưởng dưỡng tâm đại bi làm nhũ mẫu.
Nguyện đại có mười thứ: Là phát mười đại nguyện thù thắng, tức mười đại nguyện mà trong kinh Thập địa nói đến. “dũng mãnh hằng bất thoái": Là có thể
thực hành những khổ hạnh khó làm, vĩnh viễn không thoái chuyển.
Tịnh y hai lợi sanh: 1. Biết tự thân đến gần bồ-đề; 2. Biết phương tiện lợi người.
Phương tiện tiến địa khác: Tu phương tiện để đạt đến các địa ở trên nữa.
Xuất ly khéo tư duy: Bồ tát an trú trong các địa mà tư duy về pháp được kiến lập.
Hỏi: Tư duy như thế nào?
Đáp: Tư duy sao cho phần pháp được kiến lập bằng với phần phân biệt tri, thế nhưng qua sự phân biệt ấy lại biết là vô phân biệt.
Đã nói sự phát tâm, kế nói thí dụ hiển thị sự phát tâm ấy.
[0596b14] Kệ tụng:
Như đại địa, vàng ròng
Như trăng, như tăng lửa
Như kho tàng, tráp báu
Như biển, như kim cương
Như sơn vương, dược vương
Như thiện hữu, như ý
Như ngày mùa, nhạc hay
Như quốc vương, kho lẫm
Như đường đi, xe cộ
Như dòng suối, tiếng vui
Như dòng sông, như mây
Phát tâm ví như vậy.
Giải thích:
Hỏi: Các thí dụ này có nghĩa lý tương tự như thế nào với sự phát tâm?
Đáp: [1] Sự phát tâm ban đầu được ví như đại địa, vì tất cả Phật pháp có thể được sanh trưởng và nắm giữ từ sự phát tâm ấy.
[2] Sự phát tâm ý lạc tương ưng được ví như vàng ròng, vì mang lại lợi ích, an lạc, không thoái lui và hư hoại.
[3] Sự phát tâm tinh cần tương ưng được ví như trăng non, vì tất cả thiện pháp dần dần tăng trưởng.
[4] Sự phát tâm cực y tương ưng được ví như tăng lửa, vì sự tích lũy công hạnh cực y như thêm củi cho lửa cháy bùng.
[5] Sự phát tâm bố thí ba-la-mật tương ưng được ví như một kho tàng lớn, vì có thể chu cấp tài bảo một cách vô tận.
[6] Sự phát tâm trì giới ba-la-mật tương ưng được ví như cái tráp báu, vì công đức pháp bảo phát sanh từ trì giới.
[7] Sự phát tâm nhẫn nhục ba-la-mật tương ưng được ví như biển lớn, vì những điều trái nghịch đến với mình mà tâm không dao động.
[8] Sự phát tâm tinh tiến ba-la-mật tương ưng được ví như kim cương, vì có đặc tính mạnh mẽ, cứng chắc, không gì làm cho hư hoại.
[9] Sự phát tâm thiền định ba-la-mật tương ưng được ví như vị sơn vương, vì sự vật không thể làm xáo động do tâm bất loạn.
[10] Sự phát tâm trí tuệ ba-la-mật tương ưng được ví như vị dược vương, vì có khả năng diệt trừ hai bịnh là hoặc chướng và trí chướng.
[11] Sự phát tâm vô lượng tương ưng được ví như thiện hữu, vì trong tất cả thời gian không bỏ chúng sanh.
[12] Sự phát tâm thần thông tương ưng được ví như bảo châu như ý, vì khả năng hóa hiện để thỏa mãn những mong cầu của chúng sanh.
[13] Sự phát tâm bốn pháp nhiếp tương ưng được ví như ngày mùa lúa chín, vì khả năng thành thục chúng sanh.
[14] Sự phát tâm bốn vô ngại biện tương ưng được ví như âm nhạc tuyệt vời, vì khả năng thuyết pháp giáo hóa, nhiếp phục chúng sanh.
[15] Sự phát tâm tư lượng tương ưng được ví như vị quốc vương, vì khả năng làm nhân tố bất hoại cho chánh đạo.
[16] Sự phát tâm khối phước đức và trí tuệ tương ưng được ví như kho lẫm, vì làm nơi gom chứa tài sản chánh pháp là phước đức và trí tuệ.
[17] Sự phát tâm bảy giác phần tương ưng được ví như đường đi của vua, vì bậc đại thánh thực hành trước nhất, các bậc khác thực hành theo sau.
[18] Sự phát tâm chỉ quán tương ưng được ví như xe cộ, vì đủ hai bánh nên an lạc mà đi.
[19] Sự phát tâm tổng trì tương ưng được ví như dòng suối, vì sự nghe pháp tuy nhiều nhưng giáo pháp thì vô tận.
[20] Sự phát tâm bốn pháp ấn tương ưng được ví như tiếng mừng vui, vì người cầu giải thoát ưa thích nghe được pháp ấy.
[21] Sự phát tâm tự tánh tương ưng được ví như dòng sông, vì dòng vô sanh pháp nhẫn tự nhiên trôi chảy mà không cần tác ý.
[22] Sự phát tâm phương tiện tương ưng được ví như đám mây lớn hình thành thế giới, vì khả năng thị hiện tám tướng thành đạo để giáo hóa chúng sanh.
Như vậy hết thảy có 22 thí dụ, dụ dẫn cho sự phát tâm. Nên biết trong kinh Thánh giả vô tận tuệ cũng có giảng rộng [về sự phát tâm bồ-đề].
Đã nói những thí dụ của sự phát tâm, kế nói những lầm lỗi của sự không phát tâm.
[0596c23] Kệ tụng:
Tư lợi lạc, phương tiện
Giải nghĩa và chứng thật
Như vậy bốn thời vui
Hướng tịch, phương tiện xả.
Giải thích:
Bồ tát có bốn thứ yên vui: 1. Yên vui tư duy lợi người, là yên vui khi tư duy về việc làm lợi ích chúng sanh; 2. Yên vui có được phương tiện, là yên vui khi có được phương tiện khéo léo; 3. Yên vui hiểu nghĩa, là yên vui khi hiểu rõ ý nghĩa thâm sâu của pháp Đại thừa; 4. Yên vui chứng thật, là yên vui khi chứng được nhân vô ngã và pháp vô ngã.
Người nào xả bỏ chúng sanh, thú hướng tịch diệt, nên biết người ấy không có bốn thứ yên vui như vậy của Bồ tát.
Đã khiển trách người không phát tâm, sau đây ca ngợi người phát tâm.
[0596a02] Kệ tụng:
Tối sơ phát đại tâm
Thiện hộ vô biên ác
Do thiện tăng, bi tăng
Vui hỷ, khổ cũng hỷ.
Giải thích:
Nếu Bồ tát ban đầu phát tâm bồ-đề rộng lớn, thì từ đó có được chỗ dựa là vô biên chúng sanh, tức là được điều thiện bảo hộ nên không làm điều ác, vì vậy mà người ấy thoát hẳn nỗi sợ hãi lui rớt đường dữ. Lại nữa, do làm điều thiện và tăng trưởng điều thiện nên sống trong cảnh vui thường hoan hỷ; do có bi tâm và tăng trưởng bi tâm nên gặp phải cảnh khổ vẫn thường hoan hỷ, vì vậy người ấy thoát hẳn nỗi sợ hãi lui mất đường lành.
Đã ca ngợi người phát tâm rồi, kế nói do sự phát tâm này mà được sự bảo hộ không làm [điều ác].
[0597a10] Kệ tụng:
Yêu người hơn yêu mình
Quên mình lợi chúng sanh
Không vì mình ghét người
Gây ra nghiệp bất thiện.
Giải thích:
Trình bày sơ lược nghĩa lý này: Bồ tát yêu người hơn yêu mình, do tâm lượng ấy mà quên thân mạng mình để làm lợi ích cho người. Bồ tát không vì lợi mình mà làm tổn hại người, do tâm lượng ấy nên có năng lực đoạn tuyệt các ác nghiệp gây tạo cho chúng sanh.
Đã nói sự có được bảo hộ không làm [điều ác], kế nói sự có được tâm bất thoái.
[0597a16] Kệ tụng:
Quán pháp như tri huyễn
Quán sanh như nhập uyển
Nếu thành, nếu không thành
Hoặc, khổ đều không sợ.
Giải thích:
Bồ tát quán tất cả các pháp như hoa đốm, biết là huyễn ảo. Nếu thành tựu cái biết huyễn ảo thì đối với phiền não không sanh sợ hãi. Bồ tát quán chỗ thọ sanh của mình như việc đi vào vườn cây cảnh. Nếu không thành tựu chỗ thọ sanh thì đối với khổ não cũng không sanh sợ hãi. Người tu quán như vậy thì làm sao có ý niệm thoái lui tâm bồ-đề? Lại nói kệ rằng:
[0597a22] Kệ tụng:
Trang nghiêm và thức ăn
Vườn cảnh và vui chơi
Như vậy có bốn sự
Bậc bi, chẳng thừa khác.
Giải thích:
Bồ tát lấy công đức của mình để tự trang nghiêm, lấy sự hoan hỷ lợi người làm thức ăn cho mình, lấy sự tác ý chỗ thọ sanh làm vườn cảnh, lấy thần thông biến hóa làm sự vui chơi. Bốn điều như vậy, chỉ hàng Bồ tát có được, còn hàng nhị thừa không có. Bồ tát đã có bốn điều này thì làm sao thoái lui tâm bồ-đề?
Đã nói sự không thoái lui tâm bồ-đề, kế nói sự ngăn chận tâm sợ khổ.
[0597a29] Kệ tụng:
Siêng năng lợi chúng sanh
Lấy đại bi làm tánh
Vô gián như chỗ vui
Sao sợ các hữu khổ.
Giải thích:
Bồ tát lấy đại bi làm thể tánh, vì vậy nỗ lực siêng năng làm việc lợi người, tuy đi vào địa ngục A-tỳ cũng xem như dạo chơi chỗ vui. Với tâm niệm như vậy, Bồ tát ở trong các cảnh khổ khác đâu thể sanh tâm sợ hãi. Không có nhân tố sanh tâm sợ hãi thì không có tâm thoái lui.
[0597b05] Kệ tụng:
Đại bi hằng trong tâm
Người khổ như mình khổ
Tự nhiên làm nên làm
Đợi khuyên hổ thẹn lắm.
Giải thích:
Chư Bồ tát lấy tâm đại bi làm bậc a-xà-lê, thường tôn thờ trong tâm. Bồ tát nếu thấy chúng sanh thọ khổ thì như chính mình thọ khổ. Do đạo lý này mà Bồ tát tự nhiên làm những việc nên làm. Nếu đợi thiện hữu khuyên phát tâm thì Bồ tát phải sanh tâm hổ thẹn cực trọng.
[0597b10] Kệ tụng:
Vác gánh nặng chúng sanh
Biếng nhác, xấu không tốt
Vì cởi trói mình người
Siêng năng làm gấp trăm.
Giải thích:
Bồ tát phát tâm là để phụ vác gánh nặng của chúng sanh. Nếu thấy chúng sanh mang vác nặng mà Bồ tát lãng tránh hay trì hoãn thì đó là việc làm rất đáng xấu hổ, không phải là một chúng sanh đoan chánh bậc nhất. Bồ tát nên suy nghĩ, nếu mình hay người có những thứ trói buộc nguy cấp, nghĩa là những trói buộc do mê hoặc, tập nghiệp gây ra, thì vì việc cởi mở những trói buộc đó, Bồ tát cần phải siêng năng gấp trăm lần, hơn cả những việc phải làm của hàng Thanh văn.
Phẩm Phát Tâm trọn vẹn Phẩm Sáu
NHỊ LỢI
Giải thích:
Đã nói sự phát tâm, kế nói dựa vào sự phát tâm này mà tùy thuận tu hành hạnh lợi mình và lợi người.
[0597b19] Kệ tụng:
Đại y và đại hành
Đại quả thứ tự tu
Đại thủ và đại nhẫn
Đại nghĩa ba việc thành.
Giải thích:
Đại y là dựa vào đại bồ-đề mà phát tâm. Đại hành là lấy việc lợi mình và lợi người mà phát khởi tu hành. Đại quả là chứng đắc Vô thượng bồ-đề. Thứ tự tu tập như vậy.
Đại thủ là khi phát tâm thì thủ nhiếp tất cả chúng sanh. Đại nhẫn là khi phát khởi tu hành thì nhẫn chịu tất cả khổ sở lớn lao. Đại nghĩa là khi đắc quả thì thành tựu sự nghiệp cao cả là lợi ích tất cả chúng sanh.
Đã nói thứ tự tu tập, kế nói việc lợi mình và lợi người không có sai biệt.
[0597b27] Kệ tụng:
Người mình tâm bình đẳng
Yêu người hơn bản thân
Là ý tưởng vượt thắng
Hai lợi nào sai biệt.
Giải thích:
Bồ tát có được tâm bình đẳng giữa mình và người. Tâm ấy có được là do đức tin, nghĩa là lúc phát tâm [duyên theo] thế tục, hoặc do trí tuệ, nghĩa là lúc phát tâm [duyên theo] đệ nhất nghĩa. Bồ tát tuy đã có tâm [bình đẳng] ấy nhưng lại yêu thân người hơn cả thân mình. Đối với người khác đã có ý tưởng yêu thương hơn cả thân mình thì không có vấn đề phân biệt việc gì là lợi mình, việc gì là lợi người, với cả 2 điều ấy đều không [có ý niệm] phân biệt.
Đã nói lợi mình và lợi người không có sai biệt, kế nói hạnh lợi người là thù thắng.
[0597c06] Kệ tụng:
Ở đời không oán nghiệp
Lợi người thường khổ mình
Bi tánh tự nhiên khởi
Cho nên lợi người thắng.
Giải thích:
Bồ tát muốn dứt hết các oán nghiệp trong thế gian, vì vậy thường làm thành tựu việc lợi người, cho dù bản thân phải siêng năng và chịu khổ nhọc. Do tâm đại bi làm thể tánh nên hạnh lợi người tự nhiên sanh khởi. Từ đạo lý này mà biết hạnh lợi người là thù thắng.
Hỏi: Hạnh lợi người như vậy làm sao tùy thuận?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0597c12] Kệ tụng:
Khéo nói, khiến quy hướng
Khiến đi vào, điều phục
Khiến thành thục, trú tâm
Khiến giác ngộ, giải thoát.
Tập đức, sanh vào nhà
Được thọ ký, thọ chức
Đến thành Như lai trí
Lấy đây lợi quần sanh.
Giải thích:
Có ba loại chúng sanh trú trong ba phẩm tánh: bậc thấp, bậc vừa và bậc cao. Bồ tát thủ nhiếp chúng sanh ấy theo phẩm tánh duyên trú, bằng mười ba thứ tùy thuận lợi ích:
1. Khéo nói, là tùy thuận giáo hóa và ghi nhớ tâm tánh;
2. Khiến quy hướng, là khiến chúng sanh quy hướng bằng sức thần thông;
3. Khiến đi vào, là quy hướng rồi, khiến tin tưởng và tiếp nhận chánh pháp;
4. Khiến điều phục, là đi vào rồi, khiến đoạn trừ những nghi ngờ về chánh pháp;
5. Khiến thành thục, là thành thục thiện căn;
6. Khiến tâm trú, là nhờ sự dạy bảo mà tâm trú;
7. Khiến giác ngộ, là có được trí tuệ;
8. Khiến giải thoát, là có được công đức thù thắng như chứng đắc thần thông v.v…;
9. Tập đức, là tập hợp khắp cả phước đức và trí tuệ;
10. Sanh vào nhà, là sanh vào nhà của Phật;
11. Thọ ký, là được thọ ký ở địa thứ tám;
12. Thọ chức, là được thọ chức ở địa thứ mười;
13. Được Như lai trí, là thể nhập Phật địa.
Hỏi: Sự tùy thuận lợi ích như vậy làm sao thành lập?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0597c28] Kệ tụng:
Không đảo và không cao
Không vướng mắc, thông đạt
Năng nhẫn và điều thuận
Đi xa và vô tận
Nên biết tám nghĩa này
Thành tựu mười ba kia.
Giải thích:
Không đảo, là người đã trú ở phẩm tánh nào thì Bồ tát tùy theo căn cơ mà vì họ thuyết pháp, không quên dạy bảo. Không cao, là khi người quy hướng, Bồ tát không ỷ có thần thông mà sanh tâm tự cao. Không vướng mắc, là khi người đi vào chánh pháp, Bồ tát không bị nhuốm bẩn bởi chúng sanh. Thông đạt, là Bồ tát có khả năng đoạn lưới nghi của người. Năng nhẫn, là Bồ tát có khả năng khéo léo thành thục người. Điều thuận, là Bồ tát tùy thuận dạy bảo và không dạy bảo sự không điều phục. Đi xa, là Bồ tát tùy thuận sự sanh vào nhà v.v…, không khiến người có khả năng thực hành không thể đi xa. Vô tận, là Bồ tát phát thệ nguyện vô tận: lợi ích chúng sanh trong tất cả thời gian. Đây gọi là sự thành lập [tùy thuận lợi ích], nên biết như vậy.
Hỏi: Sự tùy thuận lợi ích như vậy có sự sai biệt thù thắng thế nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0598a10] Kệ tụng:
Tập dục, đáng sợ lớn
Hữu ái, động nên đảo
Lạc diệt, đoạn phiền não
Đại bi cầu Phật pháp.
Giải thích:
Tập dục, là người ở cõi Dục. Đáng sợ lớn, là [người ở cõi Dục thì] thân tâm có nhiều đau khổ và hướng về ác thú. Hữu ái, là người ở cõi Sắc và cõi Vô sắc. Động nên đảo, là sự thọ lạc [của người ở cõi Sắc và cõi Vô sắc] cũng vô thường nên biến động, đó là do hành khổ mà điên đảo. An lạc tịch diệt, là người tu hạnh lợi mình. Đoạn phiền não, là do nắm giữ phiền não mà khổ không dứt; vì lìa khổ nên [người tu hạnh lợi mình] tự đoạn phiền não để cầu tịch diệt. Đại bi, là người tu hạnh lợi người. Cầu Phật pháp, là người tu hạnh lợi người thường cầu tất cả Phật pháp và suy nghĩ sự làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.
[0598a19] Kệ tụng:
Thế gian cầu tự vui
Chẳng vui thường đau khổ
Bồ tát siêng vui người
Hai lợi thành thượng lạc.
Giải thích:
Người ngu si trong thế gian thường cầu cái vui cho mình nhưng không phải lúc nào cũng được vui vẻ, trái lại có khi chuốc lấy đau khổ. Bồ tát không như vậy, thường nỗ lực mang niềm vui cho người, vì vậy sự lợi mình và lợi người được thành tựu và cứu cánh được sự an lạc của đại niết-bàn. Đây là sự sai biệt thù thắng của sự tùy thuận lợi ích.
Đã nói sự tùy thuận lợi người, kế đem hạnh tùy thuận này hồi hướng chúng sanh.
[0598a25] Kệ tụng:
Dị căn nơi dị xứ
Dị tác có dị hành
Bất cứ việc làm nào
Hồi hướng lợi chúng sanh.
Giải thích:
Bồ tát hồi hướng bằng cách thực hành theo các căn như mắt, tai, v.v… ở mọi nơi chốn, tạo tác các thứ uy nghi, các loại hạnh nghiệp mà vì lợi ích chúng sanh. Bất cứ hạnh nào có sự tương ưng hay tương tự với tâm bồ-đề, Bồ tát đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Các công hạnh này được nói rộng trong kinh Hạnh thanh tịnh.
Đã nói về tâm hồi hướng, kế nói sự ngăn chận tâm không nhẫn chịu.
[0598b02] Kệ tụng:
Chúng sanh không tự tại
Thường tác các nghiệp ác
Nhẫn chịu tăng trưởng bi
Không não không trái nghịch.
Giải thích:
Chúng sanh bị phiền não làm não loạn tâm nên không tự tại, vì vậy mà gây ra các nghiệp ác. Bồ tát dùng trí tuệ để đối trị phiền não, thường khởi sự nhẫn chịu lớn lao để tăng trưởng đại bi, vì vậy nên ở trong phiền não mà tâm không bị não loạn, cũng như không muốn làm những việc không tùy thuận lợi ích.
Đã nói sự ngăn chận tâm không nhẫn chịu, kế nói sự tùy thuận lớn lao.
[0598b08] Kệ tụng:
Thắng xuất và tịch tĩnh
Công đức và lợi vật
Tuần tự theo bốn nghĩa
Lớn lao có bốn thứ.
Giải thích:
Chư Bồ tát có bốn thứ tùy thuận lớn lao: 1. Thắng xuất lớn lao, là ở trong ba cõi năm thú vượt trên hết thảy, như kinh Bát-nhã ba-la-mật nói: “Tu bồ-đề, nếu sắc thật có pháp tướng, chẳng phải không có pháp tướng, thì Đại thừa ấy không thể vượt trên hết thảy thế gian, trời, người, a-tu-la. ” 2. Tịch tĩnh lớn lao, là tùy hướng niết-bàn vô trú làm chỗ cư trú. 3. Công đức lớn lao, là hai khối phước đức và trí tuệ tăng trưởng. 4. Lợi vật lớn lao, là thường nương tựa đại bi nên không từ bỏ chúng sanh.
Phẩm Nhị Lợi trọn vẹn Phẩm Bảy
CHÂN THẬT
Giải thích:
Đã nói sự tùy thuận tu hành [lợi mình và lợi người], kế nói về sắc thái của đệ nhất nghĩa.
[0598b19] Kệ tụng:
Chẳng có cũng chẳng không
Chẳng giống cũng chẳng khác
Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Chẳng thêm cũng chẳng bớt
Chẳng sạch, chẳng không sạch
Năm cặp không hai tướng
Gọi là đệ nhất nghĩa
Hành giả phải nên biết.
Giải thích:
Không có hai nghĩa (vô nhị), đó là đệ nhất nghĩa. Có năm [cặp] vô nhị được trình bày như sau:
1. Chẳng có, là sự biểu hiện của hai tánh phân biệt và y tha không phải thật có, nên nói là không; [nhưng cũng] chẳng không, là vì tánh chân thật biểu hiện vốn thật có, nên nói là có.
2. Chẳng giống, là hai tánh phân biệt và y tha không cùng một thật thể [với tánh chân thật], [nhưng cũng] chẳng khác, vì hai tánh ấy cũng không phải khác thể [với tánh chân thật].
3. Chẳng sanh cũng chẳng diệt, vì [chân như vốn là] vô vi.
4. Chẳng thêm cũng chẳng bớt, vì hai phần tạp nhiễm và thanh tịnh khi sanh khởi hay đoạn diệt thì pháp giới các pháp vẫn an trú đúng như vậy.
5. Chẳng sạch, là tự tánh [chân như] vốn vô nhiễm nên chẳng cần tu tập cho thanh tịnh, cũng chẳng không sạch, vì khách trần [phiền não] đã trừ bỏ.
Đó là năm [cặp] sắc thái vô nhị, chính là sắc thái của đệ nhất nghĩa, cần phải biết.
Đã nói sắc thái đệ nhất nghĩa, kế nói sự ngăn chận khởi điên đảo đối với đệ nhất nghĩa.
[0598c02] Kệ tụng:
Ngã kiến chẳng thấy ngã
Không tưởng phi vô duyên
Ngoài hai không có ngã
Giải thoát là mê hết.
Giải thích:
Ngã kiến không phải là cái thấy về ngã, mà là không còn ý tưởng về ngã. Vì sao? Vì ý tưởng về ngã chỉ là sự phân biệt. Không còn ý tưởng về ngã không phải không có duyên tố, mà là phiền não tập khí sanh khởi do duyên với năm thọ ấm. Ngoài hai không có ngã [tướng]: hai, là ngã kiến và năm thọ ấm; và chẳng có cái nào khác ngoài ngã kiến và năm thọ ấm mà có ý tưởng về ngã. Như vậy, ngã kiến chính là sự mê lầm, bởi vì thật sự không có ý tưởng về ngã nào có thể thủ đắc. Giải thoát là mê hết, là duyên vào tự thân mà sanh khởi giải thoát, sự giải thoát ấy chỉ là sự mê lầm đã hết. Không còn ý thức tự ngã thì gọi là giải thoát.
Đã nói sự ngăn chận vọng kiến, kế nói sự quở trách tâm điên đảo.
[0598c11] Kệ tụng:
Vì sao dựa ngã kiến
Không thấy tự tánh khổ?
Người mê khổ, người khổ
Pháp tánh và vô tánh.
Giải thích:
Vì sao dựa ngã kiến không thấy tự tánh khổ? Than ôi, người thế gian nương tựa cái gì? Người thế gian nương tựa ngã kiến nên sanh khởi các thứ mê lầm, không thể hiểu rõ các hành là tự tánh của khổ, vì vậy họ thường theo đuổi việc xấu ác.
Người mê khổ, người khổ, pháp tánh và vô tánh. Khổ là khổ thọ khi mình tiếp xúc cảnh. Người khổ là khổ thọ chưa chấm dứt, chẳng phải mình cùng với khổ tương ưng, gọi là người khổ. Mê khổ là không hiểu rõ tự tánh của khổ. Người mê khổ là người không hiểu rõ nguyên lý vô ngã. Pháp tánh là chỉ có các pháp, vì nhân vô ngã. Vô tánh là các pháp vốn chẳng phải pháp, vì pháp vô ngã.
[0598c20] Kệ tụng:
Vì sao duyên khởi thể
Hiện kiến sanh dị kiến
Che đậy không thấy có
Không có lại thấy có.
Giải thích:
Vì sao duyên khởi thể, hiện kiến sanh dị kiến: Than ôi, người thế gian làm thế nào có cái thấy trực tiếp hiện tiền (hiện kiến)? Các pháp hữu vi sanh diệt, mỗi một pháp do duyên sanh khởi, tuy nhiên dựa vào tự thể duyên khởi [của các pháp] lại sanh thêm những cái thấy sai biệt (dị kiến), nghĩa là tự thể của các căn: mắt, v.v… không phải duyên khởi [, mà cần có sự tham dự của tâm thức].
Che đậy không thấy có, không có lại thấy có: Do vô minh che đậy nên sự thể duyên khởi của các pháp là có nhưng không thấy có, tự thể của ngã thì không có lại thấy có thật ngã.
Hỏi: Nếu có cái thấy như vậy thì làm thế nào chứng đắc niết-bàn?
[0598c28] Kệ tụng:
Sanh tử và niết-bàn
Không hai, không khác ít
Do khéo trú vô ngã
Sanh tận đắc niết-bàn.
Giải thích:
Sanh tử và niết-bàn không có hai thể, thậm chí không hề có sự sai biệt. Vì sao? Vì là thể vô ngã bình đẳng vậy. Nếu có người khéo an trú vô ngã mà tu thiện nghiệp thì sanh tử dứt sạch, chứng đắc niết-bàn.
Như vậy, đã nói sự ngăn chận điên đảo, kế sẽ nói về cách đối trị điên đảo.
[0599a05] Kệ tụng:
Phước trí không giới hạn
Sanh trưởng đều viên mãn
Tư pháp quyết định rồi
Thông đạt nghĩa loại tánh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị giai vị thứ nhất là tập đại tụ.
Phước trí không giới hạn, là do có sai biệt vô số và có thời gian vô biên.
Sanh trưởng đều viên mãn, là Bồ tát tu tập hai khối lớn phước trí thì đến bờ giải thoát.
Tư pháp quyết định rồi, là nương tựa cái tâm trong định [khi tu chỉ và quán] mà có sự [tác ý] tư duy [đối với ấn tượng chánh định theo giáo pháp phải tư duy, và khéo quyết trạch].
Thông đạt nghĩa loại tánh, là hiểu rõ tánh loại và nghĩa lý của các pháp mà mình tư duy, trong đó lấy ý ngôn làm tự tánh.
[0599a12] Kệ tụng:
Đã biết nghĩa loại tánh
Khéo trú ở tâm quang
Do hiện kiến pháp giới
Giải thoát khỏi hai tướng.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị giai vị thứ hai là thông đạt. Do hiểu rõ tất cả các nghĩa chỉ là ý ngôn làm tự tánh, tức là hiểu rõ tất cả các nghĩa toàn là tâm quang. Bồ tát bấy giờ được gọi là khéo an trú duy thức. Từ sự an trú ấy trở về sau, Bồ tát hiện thấy pháp tánh, liễu đạt phạm trù hai tướng, tức là giải thoát năng chấp và sở chấp.
[0599a18] Kệ tụng:
Rời tâm không có vật
Vật không, tâm cũng không
Đã hiểu hai không rồi
Khéo trú chân pháp giới.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị giai vị thứ ba là kiến đạo. Bồ tát đã hiện thấy pháp tánh thì thể hội rời tâm không có vật sở thủ, và vì không có vật sở thủ nên không có tâm năng thủ. Nên biết, rời xa hai tướng năng thủ và sở thủ là khéo an trú tự tánh của pháp giới.
[0599a24] Kệ tụng:
Trí lực vô phân biệt
Thường bình đẳng, biến hành
Hủy hoại khối lầm lỗi
Như thuốc năng trừ độc.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị giai vị thứ tư là tu đạo. Bồ tát khi thể nhập cái trí đệ nhất nghĩa thì được chuyển y, và bằng trí vô phân biệt thường xuyên thuận hành pháp tánh một cách cùng khắp và bình đẳng. Vì sao? Vì hủy diệt cái khối lầm lỗi vấn vít do nương tựa sự huân tập tánh y tha.
Hỏi: Sức mạnh của trí vô phân biệt như thế nào?
Đáp: Sức mạnh của trí vô phân biệt giống như dược phẩm a-già-đà rất tốt, có công năng tiêu tan mọi độc chất.
[0599b02] Kệ tụng:
Duyên Phật khéo thành pháp
Tâm căn an pháp giới
Hiểu niệm là phân biệt
Mau về biển công đức.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị giai vị thứ năm là cứu cánh. Duyên Phật khéo thành pháp, là các Bồ tát đối với tất cả diệu pháp Phật dạy rất khéo xác lập thì bắt rễ vào trong diệu pháp ấy bằng những duyên tố tổng tụ.
Hỏi: Duyên tố tổng tụ là gì?
Đáp: Tâm là gốc rễ an trú pháp giới, vì có cái định thêm sáng mà thể nhập trí đệ nhất nghĩa. Do trí tuệ này an trú pháp giới, nên tâm này được gọi là gốc rễ.
Hỏi: Sau giai đoạn này lại khởi quán thế nào?
Đáp: Hiểu niệm là phân biệt, nghĩa là giai đoạn này về sau, Bồ tát khởi quán như thứ lớp hiện quán của giai đoạn trước: mỗi khi ý niệm chuyển biến thì thấu biết ý niệm chỉ là phân biệt, chẳng thật có.
Hỏi: Sự thấu biết như vậy thì tiến đến quả vị nào?
Đáp: Mau về biển công đức, nghĩa là thấu biết như vậy thì mau chóng về đến bến bờ biển cả công đức của Phật quả.
Phẩm Chân Thật trọn vẹn Phẩm Tám
THẦN THÔNG
Giải thích:
Đã nói về nghĩa lý chân thật, kế nói rõ sắc thái thần thông của Bồ tát.
[0599b15] Kệ tụng:
Khởi diệt và ngôn âm
Tâm hành, trú đời trước
Hướng dẫn người, xuất ly
Sáu trí tự tại thông.
Giải thích:
Khởi diệt, là trí cảnh sanh tử, là trí biết sự sanh tử của tất cả chúng sanh. Ngôn âm, là trí cảnh thiên nhĩ, là trí nghe hiểu tất cả ngôn ngữ âm thanh của chúng sanh. Tâm hành, là trí cảnh tha tâm, là trí biết tâm hành sai biệt của chúng sanh. Trú đời trước, là trí cảnh túc mạng, là trí biết những huân tập thiện ác của chúng sanh ở đời trước. Hướng dẫn người, là trí cảnh như ý, là trí biết tâm ý chúng sanh mà đến giáo hóa ở mọi nơi. Xuất ly, là trí cảnh lậu tận, là trí biết chúng sanh khi nào có thể xuất ly, khi nào chưa thể xuất ly.
Đối với sáu thứ đối cảnh sai biệt như vậy trong các thế giới, Bồ tát sử dụng sáu trí cảnh để biết khắp vô ngại, dũng mãnh tự tại, đó gọi là tự tánh thần thông của Bồ tát.
Đã nói tự tánh [thần thông], kế nói sự tu tập [thần thông].
[0599b26] Kệ tụng:
Đệ tứ thiền cực tịnh
Trí vô phân biệt nhiếp
Như vậy lập phương tiện
Nương đây tịnh các thông.
Giải thích:
Sở y là đệ tứ thiền, sở nhiếp là trí vô phân biệt, sở lập là phương tiện. Bồ tát tác ý tu tập theo sở y, sở nhiếp và sở lập như vậy thì chứng đắc thần thông tối thượng.
Đã nói sự tu tập thần thông, kế nói sự đắc quả.
[0599c02] Kệ tụng:
Ba trú, trú không sánh
Sở trú khéo cúng dường
Khiến kia được thanh tịnh
Là nói quả thần thông.
Giải thích:
Thần thông có ba loại quả:
1. Quả thắng trú: Thắng trú có ba thứ: một là Thánh trú; hai là Phạn trú; ba là Thiên trú. Đó là sự an trú chứng đắc thần thông không gì sánh bằng, không gì hơn được.
2. Quả khéo léo cúng dường: Tùy theo trú xứ của chúng sanh ở thế gian mà làm sự cúng dường lớn lao.
3. Quả làm cho người được thanh tịnh: Khả năng làm cho người cúng dường trở nên thanh tịnh.
Hỏi: Thần thông có sáu thứ nghiệp dụng: 1. Nghiệp dụng tự thọ dụng; 2. Nghiệp dụng tha thọ dụng; 3. Nghiệp dụng phóng ánh sáng; 4. Nghiệp dụng du hành; 5. Nghiệp dụng giáo hóa; 6. Nghiệp dụng làm sạch. Sáu thứ nghiệp dụng này như thế nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0599c10] Kệ tụng:
Thế sanh: sự thành, hoại
Thấy đó đều như huyễn
Các loại người mong muốn
Tự tại tùy ý thành.
Giải thích:
Hai câu kệ đầu hiển thị nghiệp dụng tự thọ dụng, là thấy các thế giới và chúng sanh khi thành, khi hoại, đều như huyễn như hóa. Hai câu kệ sau hiển thị nghiệp dụng tha thọ dụng, là chấn động thế giới, phóng ánh sáng v.v…, tùy tâm mong cầu mà thị hiện thân biến hóa một cách tự tại. Về mười thứ tự tại thì như trong kinh Thập địa có nói.
[0599c16] Kệ tụng:
Thần quang chiếu nẻo ác
Khiến tin sanh đường lành
Uy lực chấn cung trời
Điện rung làm ma sợ.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng phóng ánh sáng, có hai thứ: 1. Cứu vớt khổ đau; 2. Khiến ma quân kinh sợ. Hai câu kệ đầu nói nghiệp dụng phóng ánh sáng cứu vớt khổ đau, là phóng ánh sáng chiếu xuống chúng sanh đường dữ, làm cho họ phát khởi lòng tin mà được sanh về đường lành. Hai câu kệ sau nói nghiệp dụng phóng ánh sáng làm ma quân kinh sợ, là phóng ánh sáng chiếu lên cung trời làm rung động cung điện của ma vương, làm cho ma vương hoảng sợ.
[0599c22] Kệ tụng:
Du hành các tam-muội
Đứng đầu trong tăng chúng
Thường hiện ba loại hóa
Làm lợi cho chúng sanh.
Giải thích:
Hai câu kệ đầu hiển thị nghiệp dụng du hành, là ở tại chúng hội của Phật, Bồ tát an trú các tam-muội thì du hành tự tại trong mọi thế giới. Hai câu kệ sau hiển thị nghiệp dụng giáo hóa, có ba thứ: 1. Nghiệp xứ giáo hóa, là dùng công xảo nghiệp xứ mà giáo hóa tự tại; 2. Tùy tâm giáo hóa, là tùy theo những mong cầu của chúng sanh mà giáo hóa tự tại; 3. Thắng thượng giáo hóa, là thị hiện sự thắng thượng như trú ở cung trời Đâu-suất v.v… mà giáo hóa. Bồ tát thường dùng ba loại giáo hóa này để làm lợi ích chúng sanh.
[0599c29] Kệ tụng:
Trí lực khắp tự tại
Quốc độ tùy muốn hiện
Không Phật khiến nghe Phật
Vọt xa thấy Phật cảnh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng làm sạch, có hai thứ: 1. Làm sạch quốc độ; 2. Làm sạch chúng sanh. Hai câu kệ đầu nêu rõ sự làm sạch quốc độ: Bồ tát được trí tuệ tự tại mà hiện hóa thế giới thanh tịnh như thủy tinh, lưu ly v.v… theo sự mong cầu của chúng sanh. Hai câu kệ sau nêu rõ sự làm sạch chúng sanh: Bồ tát ở trong thế giới mà không có Phật xuất thế có thể làm cho chúng sanh nghe danh hiệu Phật rồi khởi đức tin trong sạch và phát tâm nguyện cầu sanh về thế giới có Phật xuất thế.
Đã nói nghiệp dụng của thần thông, kế nói sự tương ưng của thần thông.
[0600a07] Kệ tụng:
Sức thành thục chúng sanh
Chư Phật thảy khen ngợi
Mở lời đều tin nhận
Như vậy nói tương ưng.
Giải thích:
Sự tương ưng của thần thông có ba thứ: 1. Tương ưng thành thục chúng sanh: Thần thông được ví như đôi cánh chim vừa trưởng thành; 2. Tương ưng khen ngợi: Thần thông thường được chư Phật khen ngợi; 3. Tương ưng tin nhận: Thần thông làm cho người nghe giảng thuyết đều tin tưởng và tiếp nhận.
Đã nói sự tương ưng của thần thông, kế nói về sự an trú thần thông đầy đủ.
[0600a13] Kệ tụng:
Sáu trí và ba minh
Tám giải, tám thắng xứ
Mười biến nhập, tam-muội
Dũng mãnh nhờ thần thông.
Giải thích:
Bồ tát an trú thần thông có đủ sáu thứ sai biệt: 1. Sáu trí; 2. Ba minh; 3. Tám giải thoát; 4. Tám thắng xứ; 5. Mười biến nhập; 6. Các tam-muội.
Sáu nghĩa như vậy để phân biệt thần thông có đủ sai biệt.
Đã nói sự an trú thần thông đầy đủ, kế nói sự an trú thần thông lớn lao.
[0600a19] Kệ tụng:
Năng an không tự tại
Thường siêng làm lợi vật
Đi ba cõi không sợ
Dũng mãnh như sư tử.
Giải thích:
Thần thông của Bồ tát có ba thứ lớn lao: 1. Tự tại lớn lao: Chúng sanh vì phiền não mà không được tự tại, trí lực của Bồ tát có khả năng an trí tự tại [cho chúng sanh]; 2. Hoan hỷ lớn lao: Bồ tát thường siêng năng làm lợi ích cho chúng sanh, chỉ một mục đích là an lạc [cho chúng sanh]; 3. Vô úy lớn lao: Bồ tát đi trong ba cõi vẫn có được sự dũng mãnh cực kỳ như sư tử.
Phẩm Thần Thông trọn vẹn Phẩm Chín
THÀNH THỤC
Giải thích:
[Như trên] đã nói về thần thông của Bồ tát. [Vậy] các Bồ tát làm thế nào để tự thành thục? [Sẽ trình bày sau đây.]
[0600a29] Kệ tụng:
Dục, tín, xả, bi, nhẫn
Niệm, lực, kiên và chi
Thích ứng tự thành thục
Chín thứ đều thượng phẩm.
Giải thích:
Bồ tát có chín thứ thành thục bản thân:
1. Dục thành thục, là mong cầu pháp Đại thừa;
2. Tín thành thục, là tâm ý trong sạch đối với bậc thuyết pháp ấy;
3. Xả thành thục, là diệt trừ phiền não;
4. Bi thành thục, là thương xót chúng sanh;
5. Nhẫn thành thục, là khả năng thực hành khổ hạnh khó làm;
6. Niệm thành thục, là thọ trì tất cả pháp Đại thừa;
7. Lực thành thục, là khả năng thông đạt tất cả pháp;
8. Kiên thành thục, là ác ma, ngoại đạo không thể xâm đoạt;
9. Chi thành thục, là thiện phần được viên mãn.
Chín thứ như vậy, Bồ tát tu tập cùng cực đến địa vị tối thượng, gọi là sắc thái thành thục. Chín sắc thái thành thục này, mỗi sắc thái có nhân tố, tự thể và nghiệp dụng, sau đây xin nói.
[0600b11] Kệ tụng:
Gần bạn, nghe, tư duy
Thắng dũng, thắng cứu cánh
Nhiếp pháp và thọ pháp
Sắc thái dục thành thục.
Giải thích:
Thân cận thiện hữu, lắng nghe chánh pháp, như pháp tư duy, đây là ba nhân tố phát sanh tâm mong cầu Đại thừa, gọi là nhân tố của dục tâm.
Tinh tấn dũng mãnh vượt lên tất cả bất tư nghị xứ để đạt đến cứu cánh vô ngại, gọi là tự thể của dục tâm.
Sống trong chỗ có tai hoạnh mà vẫn có thể giữ gìn pháp Đại thừa, và đối với pháp Đại thừa được thuyết, Bồ tát phát sanh tín tâm và lãnh thọ, gọi là nghiệp dụng của dục tâm.
[0600b17] Kệ tụng:
Khối phước trí Như lai
Tịnh tâm không thể hoại
Mau nhận quả định trí
Sắc thái tín thành thục.
Giải thích:
Tin nhận những gì đức Bà-già-bà rộng thuyết, gọi là nhân tố của tín tâm. Được bất hoại tịnh, gọi là tự thể của tín tâm. Được định tăng thượng và tuệ tăng thượng, gọi là nghiệp dụng của tín tâm.
[0600b22] Kệ tụng:
Khéo hộ trì sáu căn
Lìa ác khởi đối trị
Ưa tu các thiện pháp
Sắc thái xả thành thục.
Giải thích:
Lấy chánh niệm, khinh an v.v… để khéo hộ trì các căn, gọi là nhân tố của xả. Rời xa bất thiện giác, khởi đầu cho địa vị vô gián đạo, gọi là tự thể của xả. Với các thiện pháp thường ưa tu tập, gọi là nghiệp dụng của xả.
[0600b27] Kệ tụng:
Thấy các chúng sanh khổ
Thương xót rời tiểu tâm
Thọ thân thế gian thắng
Sắc thái bi thành thục.
Giải thích:
Bồ tát nhìn thấy chúng sanh đang đau khổ, gọi là nhân tố của bi. Sanh tâm cùng cực thương xót, xa hẳn tâm lý Tiểu thừa, gọi là tự thể của bi. Được tất cả sự thù thắng của thế gian, nhập vào các địa không còn thoái chuyển, gọi là nghiệp dụng của bi.
[0600c03] Kệ tụng:
Trì tánh quen tu tập
Cực khổ năng kham nhẫn
Thiện căn ưa tiến tu
Sắc thái nhẫn thành thục.
Giải thích:
Kiên trì, chịu đựng và nhẫn nại là những từ đồng nghĩa. Tập quen sự nhẫn nại thành tánh, gọi là nhân tố của nhẫn. Khả năng chịu đựng những khổ sở như gió lạnh, v.v…, gọi là tự thể của nhẫn. Sống trong thắng sanh xứ vẫn thường tu tập thiện pháp, gọi là nghiệp dụng của nhẫn.
[0600c08] Kệ tụng:
Báo tịnh khéo tùy thuận
Đi vào thuyết thiện ác
Năng khởi đại Bát-nhã
Sắc thái niệm thành thục.
Giải thích:
Thành tựu khí thể thanh tịnh, gọi là nhân tố của niệm. Theo pháp được nghe có thể thuyết ra hai nghĩa thiện ác, dùng cái tuệ văn tư tu mà hiểu sâu chánh pháp không quên mất, gọi là tự thể của niệm. Khả năng phát sanh trí tuệ xuất thế, gọi là nghiệp dụng của niệm.
[0600c13] Kệ tụng:
Chủng phước trí viên mãn
Quả khởi nương tối thượng
Thế gian được bậc nhất
Sắc thái lực thành thục.
Giải thích:
Tràn đầy chủng tử của hai khối phước trí, gọi là nhân tố của lực. Khả năng có được sự y chỉ tối thượng, gọi là tự thể của lực. Tùy ý thành thục địa vị bậc nhất trong thế gian, gọi là nghiệp dụng của lực.
[0600c18] Kệ tụng:
Quán sâu lý diệu pháp
Các ma không thể đoạt
Lỗi lầm bộ phái khác
Sắc thái kiên thành thục.
Giải thích:
Tác ý quán sát đối với diệu pháp và đạo lý, gọi là nhân tố của kiên cố. Ác ma Ba-tuần không thể trở ngại và phá hoại, gọi là tự thể của kiên cố. Khả năng bác bỏ những lầm lỗi [thiếu sót] của các bộ phái khác, gọi là nghiệp dụng của kiên cố.
[0600c23] Kệ tụng:
Có được khối thiện căn
Dựa tinh cần phát khởi
Lìa ác và tu thiện
Sắc thái chi thành thục.
Giải thích:
Bồ tát thành thục khối các thiện căn, gọi là nhân tố của chi. Dựa vào nhân tố này có thể phát khởi sự tinh tấn mạnh mẽ, gọi là tự thể của chi. Lìa các bất thiện, ưa tu thắng thiện, gọi là nghiệp dụng của chi.
[0600c28] Kệ tụng:
Chín chủng loại như vậy
Tự thành thục, thục tha
Tăng thiện, tăng pháp thân
Bậc thân cận với đời.
Giải thích:
Tu tập chín chủng loại như dục v.v… là tu tập khả năng tự thành thục, cũng như khả năng thành thục chúng sanh. Tu tập chín thứ thành thục này làm tăng trưởng tất cả thiện căn và tăng trưởng pháp thân. Bậc có thiện căn tăng trưởng và pháp thân tăng trưởng là bậc đáng thân cận hơn cả trong thế gian.
Đã nói bản thân Bồ tát có được sự thành thục, kế nói sự thành thục chúng sanh của Bồ tát.
[0601a05] Kệ tụng:
Nhọt chín thì nặn được
Cơm chín thì ăn được
Chúng sanh chín cũng vậy
Là hai phần xả dụng.
Giải thích:
Bồ tát có hai phần xả dụng: 1. Phần chướng ngại; 2. Phần đối trị.
Phần chướng ngại cho sự thành thục thì cần phải xả bỏ, như cái ung nhọt chín mùi cần phải nặn cho vỡ mủ.
Phần đối trị chướng ngại cho sự thành thục thì cần phải thọ dụng, như cơm chín thì có thể ăn được. Đó là chỗ dựa cho sự thành thục chúng sanh.
Đã nói chỗ dựa cho sự thành thục, kế nói sự sai biệt của thành thục.
[0601a10] Kệ tụng:
Xả, phổ, thắng, tùy, thiện
Đắc, thường, tiệm, tám loại
Như vậy các thành thục
Là chủng loại sai biệt.
Giải thích:
Sắc thái thành thục chúng sanh có tám thứ: 1. Thành thục xả, là làm cho diệt trừ phiền não; 2. Thành thục phổ, là giáo hóa bằng giáo nghĩa ba thừa; 3. Thành thục thắng, là vượt thắng các học thuyết ngoại đạo; 4. Thành thục tùy, là thuyết giảng thích ứng căn cơ; 5. Thành thục thiện, là làm cho sanh tâm cung kính; 6. Thành thục đắc, là làm cho không có cái thấy biết điên đảo; 7. Thành thục thường, là làm cho vĩnh viễn không còn thoái chuyển; 8. Thành thục tiệm, là làm cho tuần tự tăng trưởng.
Đã nói sự sai biệt của thành thục, kế nói cái tâm thù thắng của thành thục.
[0601a18] Kệ tụng:
Lợi con, lợi người thân
Lợi mình: ba lợi thắng
Bồ tát lợi tất cả
Ba lợi thắng không sánh.
Giải thích:
Người trong thế gian cho rằng yên vui con cái, yên vui người thân và yên vui bản thân là những tâm lý tốt đẹp nhất. Bồ tát mong muốn thành thục khắp cả chúng sanh, dục tâm ấy hơn hẳn ba tâm lý thế gian, không thể đem ra so sánh. Thế nên, tâm [mong muốn] thành thục chúng sanh của Bồ tát là tối thắng.
Hỏi: Tâm tối thắng ấy làm sao thành lập?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0601a24] Kệ tụng:
Thế gian không yêu mình
Làm sao yêu người được
Bồ tát bỏ yêu mình
Chỉ có yêu người thôi.
Giải thích:
Người thế gian lúc nào cũng muốn yêu thương bản thân, nhưng đôi khi không thể làm cho mình yên vui và thuận lợi, nói chi đến việc yêu thương tha nhân, làm cho người yên vui và thuận lợi. Bồ tát trái lại, buông bỏ sự yêu thương bản thân, chỉ [nuôi dưỡng] sự yêu thương tha nhân. Vì vậy, tâm [mong muốn] thành thục chúng sanh [của Bồ tát] hơn hẳn tâm lý thế gian.
Hỏi: Vận dụng cái tâm tối thắng ấy như thế nào cho sự thành thục?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0601b01] Kệ tụng:
Thân, của, tất cả xả
Bình đẳng và không chán
Thiếu thốn cho đầy đủ
An lập nơi thiện căn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự thành thục chúng sanh bằng bố thí ba-la-mật. Bố thí có ba thứ: 1. Bố thí của cải thân mạng: Của cải ở ngoài và thân mạng ở trong, tất cả đều xả bỏ; 2. Bố thí bình đẳng: Ruộng phước của sự bố thí phải là sự rời bỏ tâm [phân biệt] cao thấp; 3. Bố thí không biết chán: Bố thí một cách mạnh mẽ, thường xuyên và không mệt mỏi.
Đó là ba sự bố thí nhiếp lấy chúng sanh hai đời: đời hiện tại đều được sung túc, đời vị lai an lập thiện căn.
[0601b08] Kệ tụng:
Thường, tự tánh, viên mãn
Tự vui, không phóng dật
Dẫn vào giới cụ túc
Hai quả thường vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự thành thục chúng sanh bằng trì giới ba-la-mật. Bồ tát có năm sự trì giới: 1. Trì giới thường xuyên, là đời này đến đời kia đều hộ trì tịnh giới; 2. Trì giới tự tánh, là trì giới bằng cái tâm vô công dụng, an trú trong tự thể chân thật; 3. Trì giới viên mãn, là thực thi đầy đủ mười đường thiện nghiệp, như kinh Thập địa nói rộng; 4. Trì giới tự an vui, là thường xuyên có được sự tự vui mừng khả ái; 5. Trì giới không phóng dật, là trong mỗi ý niệm không có sai phạm.
Đó là năm sự trì giới nhiếp lấy chúng sanh hai đời: đời hiện tại an lập giới phẩm, đời vị lai có được công đức của hai quả, đẳng lưu quả và dị thục quả, không bao giờ dứt hết.
[0601b18] Kệ tụng:
Không ích, nghĩ được ích
Cực nhẫn hiểu phương tiện
Khiến người khởi tùy thuận
Và trồng các thiện căn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự thành thục chúng sanh bằng nhẫn nhục ba-la-mật. Nếu có người đem đến cho Bồ tát nhiều việc không lợi ích, thì bằng sự nhẫn nhục cùng cực, Bồ tát nghĩ cách làm sao cho người ấy hiểu được sự lợi ích. Vì sao? Vì sự tùy thuận của người ấy làm nhân tố cho nhẫn nhục ba-la-mật của Bồ tát được tăng trưởng.
Sự tu tập nhẫn nhục như vậy nhiếp lấy hai đời: đời hiện tại làm cho chúng sanh sanh tâm quy hướng [Phật pháp], đời vị lai làm cho chúng sanh gieo trồng thiện căn.
[0601b25] Kệ tụng:
Nhiều kiếp tu tinh tiến
Lợi vật tâm chẳng thoái
Khiến sanh một niệm thiện
Huống được vô lượng thiện.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự thành thục chúng sanh bằng tinh tiến ba-la-mật. Trong trăm ngàn muôn kiếp, Bồ tát tu tập sự tinh tiến tối thượng để thành thục vô biên chúng sanh bằng tâm không thoái chuyển. Sự tu tập tinh tiến như vậy nhiếp lấy hai đời: đời hiện tại chỉ cần làm cho chúng sanh phát khởi một ý niệm thiện lành, đời vị lai làm cho vô lượng thiện căn của chúng sanh đều được thêm lớn.
[0601c03] Kệ tụng:
Được thiền tối tự tại
Ly nhiễm và kiến, mạn
Hiện tại được quy hướng
Vị lai thiện pháp tăng.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự thành thục chúng sanh bằng thiền định ba-la-mật. Bồ tát chứng đắc thiền định là do rời xa ái, kiến, mạn v.v… nên được sự tự tại tối thượng. Sự tu tập thiền định như vậy nhiếp lấy hai đời: đời hiện tại làm cho chúng sanh quy hướng diệu pháp tột bậc, đời vị lai làm cho chúng sanh tăng trưởng tất cả thiện căn.
[0601c09] Kệ tụng:
Biết chân và hiểu ý
Năng đoạn tất cả nghi
Với pháp khiến cung kính
Mình, người công đức đầy.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự thành thục chúng sanh bằng trí tuệ ba-la-mật. Biết chân, là hiểu chính xác về pháp (Đại thừa), không có điên đảo. Hiểu ý, là thấu rõ tâm hành của chúng sanh, đoạn trừ những nghi ngờ của họ. Sự tu tập trí tuệ như vậy nhiếp lấy hai đời: đời hiện tại làm cho chúng sanh hướng về pháp Đại thừa mà sanh khởi sự cung kính sâu xa, đời vị lai làm cho công đức của bản thân người ấy và công đức của người khác đều được viên mãn.
[0601c16] Kệ tụng:
Thiện đạo và ba thừa
Đại bi có ba phẩm
Đến tận đời vị lai
Vì thành thục chúng sanh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị ba sắc thái lớn lao của sự thành thục chúng sanh:
1. Địa vị lớn lao, là ngộ nhập bốn vị của Bồ tát để an lập chúng sanh vào mười thiện đạo cho đến [giáo nghĩa] ba thừa.
2. Phẩm chất lớn lao, là ba phẩm bi tâm cùng cực: bậc thấp là Bồ tát ở địa vị tín hạnh, bậc vừa là Bồ tát ở địa đầu tiên cho đến địa thứ bảy, bậc cao là Bồ tát ở địa thứ tám, thứ chín và thứ mười.
3. Thời gian lớn lao, là thời gian vô biên, tận cùng giới hạn vị lai.
Bồ tát làm lợi ích chúng sanh như vậy, gọi là [ba] sắc thái thành thục lớn lao.
Phẩm Thành Thục trọn vẹn Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.148.109.45 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.