Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận [大乘莊嚴經論] »» Bản Việt dịch quyển số 9 »»

Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận [大乘莊嚴經論] »» Bản Việt dịch quyển số 9

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.52 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.61 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh

Kinh này có 13 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |
Việt dịch: Quảng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm Mười Tám
CÚNG DƯỜNG
Giải thích:
Đã nói nghiệp dụng dồn chứa của các hạnh, nhưng chưa nói sự cúng dường Như lai. Nay sẽ nói đến sự cúng dường Như lai.
[0634b10] Kệ tụng:
Y, vật, duyên, hồi hướng
Nhân, trí, điền, y chỉ
Như vậy tám cúng dường
Cúng dường các Như lai.
Giải thích:
Sự cúng dường Như lai nói lược có tám thứ: 1. Cúng dường pháp y; 2. Cúng dường phẩm vật; 3. Cúng dường duyên khởi; 4. Cúng dường hồi hướng; 5. Cúng dường nhân tố; 6. Cúng dường trí tuệ; 7. Cúng dường ruộng tốt; 8. Cúng dường y chỉ.
Hỏi: Tám thứ cúng dường này có ý nghĩa như thế nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0634b16] Kệ tụng:
Hiện tiền, không hiện tiền
Y phục cùng ẩm thực
Khởi sâu tâm thiện tịnh
Làm đầy đủ hai khối
Thường nguyện sanh đời Phật
Ba luân không phân biệt
Thành thục các chúng sanh
Sau cùng mười một thứ.
Giải thích:
Hai kệ tụng tám câu này hiển thị tám ý nghĩa cúng dường ở trên.
Hiện tiền, không hiện tiền: Là cúng dường pháp y cho chư Phật hiện tại, quá khứ và tương lai.
Y phục cùng ẩm thực: Là cúng dường phẩm vật, là lấy đồ mặc, đồ ăn thức uống v.v… mà cúng dường.
Khởi sâu tâm thiện tịnh: Là cúng dường duyên khởi, là lấy tâm tịnh tín sâu xa mà cúng dường.
Làm đầy đủ hai khối: Là cúng dường hồi hướng, là làm đầy đủ hai khối phước trí mà cúng dường.
Thường nguyện sanh đời Phật: Là cúng dường nhân tố, do đời trước có nguyện: Nguyện sanh vào đời có Phật, khiến tôi có lợi ích, chẳng phải sự cúng dường hư luống.
Ba luân không phân biệt: Là cúng dường trí tuệ, là người cúng dường, người nhận cúng và vật cúng, ba sự ấy không thể thủ đắc.
Thành thục các chúng sanh: Là cúng dường ruộng tốt, chúng sanh là ruộng, Bồ tát dạy chúng sanh cúng dường để gieo trồng thiện căn.
Sau cùng mười một thứ: Là cúng dường y chỉ, y chỉ có mười một thứ:
1. Y chỉ vật, là y tài vật mà cúng dường;
2. Y chỉ tư duy, là y chỉ tư duy mùi vị, tư duy tùy hỷ và tư duy mong cầu;
3. Y chỉ tín, là tin Đại thừa mà phát bồ-đề tâm;
4. Y chỉ nguyện, là phát thệ nguyện rộng lớn;
5. Y chỉ bi, là tâm thương xót chúng sanh;
6. Y chỉ nhẫn, là làm được việc khó làm;
7. Y chỉ hạnh, là tu tập các ba-la-mật;
8. Y chỉ chánh niệm, là nghĩ nhớ chính xác chánh pháp (mà mình văn, tư, tu);
9. Y chỉ chánh kiến, là thấy biết sự thật;
10. Y chỉ giải thoát, là đoạn diệt phiền não và tánh thanh văn;
11. Y chỉ chân thật, là chứng đắc đại bồ-đề.
Hỏi: Các loại cúng dường sai biệt như thế nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0634c11] Kệ tụng:
Nhân quả và trong ngoài
Thô tế và lớn nhỏ
Xa gần những sai biệt
Là các loại cúng dường.
Giải thích:
Thế gian sai biệt nên chủng loại cúng dường cũng sai biệt.
Quá khứ làm nhân, hiện tại làm quả; hiện tại làm nhân, vị lai làm quả; quá khứ, hiện tại và vị lai làm nhân quả như vậy.
Trong, là mình cúng dường. Ngoài, là bảo người cúng dường. Thô, là cúng dường tài lợi. Tế, là cúng dường sự tùy thuận. Nhỏ, là cúng dường hạ liệt, vì có tâm lý cất cao. Lớn, là cúng dường tối thắng, vì không có tâm lý cất cao và không có tâm phân biệt ba luân.
Xa, là muốn lúc sau mới cúng dường, hoặc cách một đời mới cúng dường, hoặc phát nguyện muốn cúng dường ở đời vị lai. Gần, là muốn bây giờ cúng dường, hoặc cúng dường không gián đoạn, hoặc phát nguyện muốn cúng dường ở đời hiện tại.
Hỏi: Cúng dường Như lai những gì gọi là cúng dường tối thượng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0634c23] Kệ tụng:
Cúng dường các Như lai
Tâm ý làm tối thượng
Tín, tâm, thông, phương tiện
Hòa hợp: năm tối thắng.
Giải thích:
Có năm thứ tâm ý cúng dường Như lai. Nên biết, cúng dường tâm ý là sự cúng dường tối thượng.
Những gì là năm? 1. Tịnh tín; 2. Thâm tâm; 3. Thần thông; 4. Phương tiện; 5. Hòa hợp.
Tịnh tín: Là trong pháp Đại thừa có nói sự cúng dường sanh khởi đức tin thanh tịnh.
Thâm tâm: Tâm này có chín thứ: 1. Tâm mùi vị; 2. Tâm tùy hỷ; 3. Tâm mong cầu; 4. Tâm không biết chán; 5. Tâm rộng lớn; 6. Tâm hoan hỷ thù thắng; 7. Tâm lợi ích thù thắng; 8. Tâm không nhuốm bẩn; 9. Tâm thuần lành. Chín thứ tâm này đã nói ở phần tu tập sáu ba-la-mật.
Thần thông: Là dựa vào các tam-ma-đề như hư không tạng tam-muội v.v…
Phương tiện: Là dùng trí vô phân biệt làm phương tiện nhiếp hóa.
Hòa hợp: Là tất cả các đại Bồ tát hòa hợp một quả vào tất cả quả.
Phẩm Cúng Dường trọn vẹn
Phẩm Mười Chín
THÂN CẬN
Giải thích:
Đã nói sự cúng dường Như lai, kế nói sự thân cận thiện tri thức.
[0635a08] Kệ tụng:
Như trước cúng dường Phật
Nói lược có tám thứ
Thân cận thiện tri thức
Nên biết cũng có tám.
Giải thích:
Sự thân cận thiện tri thức cũng có tám thứ thân cận: y, vật, duyên khởi, hồi hướng, nhân tố, trí, ruộng và y chỉ.
Hỏi: Tám nghĩa thân cận như thế nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0635a12] Kệ tụng:
Điều, tĩnh, trừ, đức tăng
Có dũng, hiểu A-hàm
Biết chân, khéo thuyết pháp
Bi sâu, rời thoái giảm.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị thân cận thứ nhất là thân cận y.
Nếu thiện tri thức nào có đủ mười công đức sau đây thì nên thân cận. Những gì là mười? 1. Điều phục; 2. Tịch tĩnh; 3. Hoặc đoạn trừ; 4. Đức tăng thêm; 5. Có dũng mãnh; 6. Hiểu rành kinh giáo; 7. Biết chân; 8. Thiện thuyết; 9. Tâm bi sâu; 10. Rời xa sự thoái lui.
Điều phục, là thích ứng với giới luật do các căn được điều phục.
Tịch tĩnh, là thích ứng với thiền định do nội tâm được thu nhiếp.
Hoặc đoạn trừ, là thích ứng với đức tin, chánh niệm và trí tuệ nên phiền não đoạn trừ.
Đức tăng thêm, là đầy đủ giới, định và tuệ, không có thiếu sót và giảm bớt.
Có dũng mãnh, là khi làm lợi ích cho người thì không biết mệt mỏi.
Hiểu rành kinh giáo, là có được sự học rộng nghe nhiều.
Biết chân, là hiểu rõ chân thật nghĩa.
Thiện thuyết, là nói pháp chính xác.
Tâm bi sâu, là tuyệt dứt mong cầu [quả báo khả ái].
Rời xa sự thoái lui, là ở trong mọi thời cung kính nói pháp.
[0635a24] Kệ tụng:
Kính dưỡng và cấp thị
Thân tâm cùng tương ứng
Nguyện vui và theo thời
Hạ tâm làm duyên khởi.
Giải thích:
Nửa trên kệ tụng hiển thị thân cận vật, nửa dưới kệ tụng hiển thị thân cận duyên khởi.
Thân cận vật có ba thứ: 1. Của cải, là cung kính cúng dường; 2. Thân mạng, là tùy thuận cung cấp và hầu hạ; 3. Tâm tánh, là khi cung cấp và hầu hạ thì thân tương ứng với tâm.
Thân cận duyên khởi cũng có ba thứ: 1. Vui vẻ tình nguyện; 2. Biết thời gian thích hợp; 3. Trừ tâm kiêu mạn.
[0635b02] Kệ tụng:
Vì rời các tham đắm
Vì cầu hạnh tùy thuận
Tùy thuận đúng dạy bảo
Làm cho người hoan hỷ.
Giải thích:
Nửa trên kệ tụng hiển thị thân cận hồi hướng, nửa dưới kệ tụng hiển thị thân cận nhân tố.
Thân cận hồi hướng là không vì tham đắm lợi dưỡng, chỉ vì tùy thuận tu hành.
Thân cận nhân tố là Bồ tát theo sự dạy bảo mà tùy thuận tu hành, lấy đó làm nhân tố để thân cận thiện tri thức. Vì sao? Bồ tát lấy sự tùy thuận này để cho bậc thiện tri thức tâm sanh hoan hỷ.
[0635b09] Kệ tụng:
Khéo hiểu biết ba thừa
Mỗi thừa khiến thành tựu
Thành thục sanh, tịnh độ
Vì pháp không vì của.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị ba thứ thân cận: trí, ruộng và y chỉ.
Khéo hiểu biết ba thừa, mỗi thừa khiến thành tựu: Hiển thị thân cận trí, vì khéo hiểu biết ba thừa là do trí.
Thành thục sanh, tịnh độ: Hiển thị thân cận ruộng. Ruộng có hai thứ: 1. Ruộng chúng sanh; 2. Ruộng cõi Phật.
Hỏi: Vì sao hai thứ này được gọi là ruộng?
Đáp: Từ giáo pháp được nghe mà kiến lập chúng sanh sống trong sự tương tục và tùy quốc độ Phật mình trú ở mà tu hành nhân tố thanh tịnh.
Vì pháp không vì của: Hiển thị thân cận y chỉ. Bồ tát chỉ lấy lợi ích của giáo pháp đầy đủ làm y chỉ, cho nên thân cận thiện tri thức, chứ không lấy lợi ích của tài sản đầy đủ làm y chỉ.
Hỏi: Sự thân cận thiện tri thức có bao nhiêu chủng loại sai biệt?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0635b20] Kệ tụng:
Nhân quả và tùy pháp
Trong ngoài và thô tế
Hơn kém và xa gần
Là chủng loại sai biệt.
Giải thích:
Sai biệt nhân quả: Thân cận thiện tri thức đời quá khứ làm nhân, thân cận thiện tri thức đời hiện tại làm quả, và thân cận thiện tri thức đời hiện tại làm nhân, thân cận thiện tri thức đời vị lai làm quả.
Sai biệt tùy pháp: Vị thiện tri thức lưu bố pháp môn, tùy theo pháp môn sai biệt mà có sự tu hành sai biệt.
Sai biệt trong ngoài: Chính mình thân cận thiện tri thức là trong, làm cho người khác thân cận thiện tri thức là ngoài.
Sai biệt thô tế: Chính mình nghe pháp từ vị thiện tri thức là thô, nội tâm tư duy pháp đã nghe là tế.
Sai biệt hơn kém: Thân cận thiện tri thức mà có tâm kiêu mạn là kém, thân cận thiện tri thức mà không có tâm kiêu mạn là hơn.
Sai biệt xa gần: Thân cận thiện tri thức ở cảnh giới hiện tại là gần, thân cận thiện tri thức ở cảnh giới sanh báo là xa. Lại nữa, thân cận thiện tri thức ở cảnh giới sanh báo là gần, thân cận thiện tri thức ở cảnh giới hậu báo là xa. Lại nữa, thân cận thiện tri thức đời này tiếp nối đời kia là gần, thân cận thiện tri thức mà gián đoạn một đời là xa. Lại nữa, phát nguyện thân cận thiện tri thức ngay trong đời hiện tại là gần, phát nguyện thân cận thiện tri thức ở trong đời vị lai là xa.
Hỏi: Thế nào là sự thân cận thiện tri thức được cho là tối thắng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0635c04] Kệ tụng:
Thân cận thiện hữu thắng
Như trước năm tâm ý
Tín, tâm, thông, phương tiện
Hòa hợp, các sai biệt.
Giải thích:
Như trước đã nói, sự cúng dường chư Phật do năm tâm ý nên được cho là tối thắng, đó là tịnh tín, thâm tâm, thần thông, phương tiện và hòa hợp. Sự tối thắng trong việc thân cận thiện tri thức cũng có năm tâm ý như vậy.
Tịnh tín: Tịnh tín đối với thân cận xứ được nói trong kinh Đại thừa.
Thâm tâm: Tâm cũng có chín thứ, từ tâm mùi vị cho đến tâm thuần lành, tu hành thì lấy các tâm này làm thân cận.
Thần thông: Dựa vào các tam ma đề như hư không tạng tam-muội v.v…, lấy tam ma đề làm thân cận.
Phương tiện: Dùng trí vô phân biệt làm phương tiện nhiếp hóa.
Hòa hợp: Các đại Bồ tát lấy một quả hòa nhập tất cả quả.
Phẩm Thân Cận trọn vẹn
Phẩm Hai Mươi
PHẠN TRÚ
Giải thích:
Bồ tát tu tập bốn phạn trú như thế nào?
[0635c17] Kệ tụng:
Phạn trú có bốn thứ
Mỗi thứ bốn sắc thái:
Trị chướng và hợp trí
Chuyển cảnh và thành sanh.
Giải thích:
Phạn trú là bốn tâm vô lượng, tức từ, bi, hỷ và xả. Nên biết, bốn tâm vô lượng của Bồ tát, mỗi một tâm đều có bốn sắc thái:
1. Trị chướng: cái bị đối trị được hủy diệt [bởi cái đối trị];
2. Hợp trí: tối thắng là có được trí vô phân biệt để đối trị [cái bị đối trị];
3. Chuyển cảnh: chúng sanh duyên, pháp duyên và vô duyên;
4. Thành sanh: làm những nghiệp dụng thù thắng để thành tựu chúng sanh.
Hỏi: Những chúng sanh nào là chúng sanh duyên? Những pháp và vô duyên nào là pháp duyên và vô duyên?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0635c20] Kệ tụng:
Lạc, khổ, hỷ, phiền não
Như vậy chúng sanh duyên
Pháp duyên, nói pháp trú
Vô duyên, tức chân như.
Giải thích:
Chúng sanh duyên là bốn loại nhóm chúng sanh: 1. Nhóm chúng sanh cầu vui; 2. Nhóm chúng sanh có khổ; 3. Nhóm chúng sanh có hỷ; 4. Nhóm chúng sanh phiền não.
Từ là đối với nhóm chúng sanh cầu vui thì khởi hạnh cho vui. Bi là đối với nhóm chúng sanh có khổ thì khởi hạnh cứu khổ. Hỷ là đối với nhóm chúng sanh có hỷ thì khởi hạnh không xa lìa. Xả là đối với nhóm chúng sanh phiền não, mà phiền não ấy từ các cảm thọ sanh ra, thì khởi hạnh xa lìa. Đây gọi là chúng sanh duyên.
Pháp duyên nghĩa là nói bốn thứ pháp phạn trú. Đây gọi là pháp duyên.
Vô duyên nghĩa là nói tánh như hữu của các pháp, do có trí vô phân biệt. Đây gọi là vô duyên.
[0636a06] Kệ tụng:
Đạt tánh như các pháp
Nhẫn vị được thanh tịnh
Thu nhiếp nghiệp thân, miệng
Cũng hết các phiền não.
Giải thích:
Cần phải biết bốn thứ hạnh trên. Vô duyên từ, nghĩa là duyên với tánh như hữu của các pháp. Bồ tát ở địa thứ tám chứng vô sanh pháp nhẫn thì có được vô duyên từ, tất cả thiện căn cũng được viên mãn, thể hội chân như nơi sự thanh tịnh. Đạt vô duyên từ thì thu nhiếp được hai nghiệp sở y là thân và miệng, và cũng đoạn hết các phiền não. Như phiền não và sở duyên của nó, các phiền não được đoạn vì đoạn được sở duyên của nó, vì vậy trong khế kinh nói đến tự thể của ý.
Hỏi: Bốn phạn trú có những hạnh sai biệt gì?
[0636a14] Kệ tụng:
Có động và không động
Có ăn và không ăn
Nên biết bốn phạn trú
Như vậy hạnh sai biệt.
Giải thích:
Nên biết bốn phạn trú kia có bốn chủng hạnh sai biệt: 1. Động; 2. Không động; 3. Ăn; 4. Không ăn.
Động là thoái phần, vì có thể thoái lui. Không động là trú phần và thắng phần, vì không thể thoái lui. Ăn là tâm nhiễm ô, tham đắm mùi vị dục lạc, không có cái tâm lớn lao. Không ăn là tâm không nhiễm ô.
Những hạnh thoái lui, không thoái lui, nhiễm ô, không nhiễm ô là những sai biệt của bốn phạn trú. Các Bồ tát trú trong không động và không ăn, không trú trong động và ăn.
Hỏi: Những chủng loại sai biệt của phạn trú là gì?
[0636a22] Kệ tụng:
Sáu trước và hai trước
Địa thấp và tâm thấp
Tương tự vậy là thấp
Chuyển thấp để lên cao.
Giải thích:
Thấp cao sai biệt là do bốn phạn trú này lấy sáu phẩm trước của Bất định địa làm thấp, và ngay cả khi trú trong tất cả định địa thì hai phẩm trước của Bất định địa tự tánh vẫn là thấp. Những địa bậc thấp dù địa trước có siêu việt và tinh tế hơn địa sau vẫn gọi là thấp. Nói cách khác, những địa bậc thấp là từ Bồ tát ở địa thứ bảy trở xuống, cần tu quán thêm nữa hướng lên địa bậc cao.
Tâm chí hạ liệt cũng gọi là thấp, như các vị Thanh văn. Những vị tu tập có tâm chí tương tự như vậy cũng gọi là thấp. Vì sao? Vì các vị ấy chưa chứng đắc vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát. Đã nói về thấp, nên biết chuyển đổi thấp thì thành cao.
Hỏi: Bốn Phạn trú này có thể có được bao nhiêu quả?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0636b02] Kệ tụng:
Quả báo sanh cõi Dục
Mãn tụ và thành sanh
Không rời và lìa chướng
Đầy đủ năm quả báo.
Giải thích:
Bồ tát trú ở các phạn trú, lấy đó làm nhân nên có được đầy đủ năm quả:
1. Thọ sanh làm chúng sanh trong cõi Dục, là quả quả báo;
2. Hai khối phước và trí viên mãn, là quả tăng thượng;
3. Thành thục chúng sanh, là quả trượng phu;
4. Tất cả chỗ sanh đều không rời phạn trú, là quả y;
5. Sanh ra nơi nào cũng lìa những chướng ngại cho các phạn trú, là quả tương ly.
Hỏi: Trong bốn phạn trú này có những sự gì là sắc thái của Bồ tát?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0636b10] Kệ tụng:
Dẫu gặp duyên chướng nặng
Cho đến tự phóng dật
Sắc thái của Bồ tát
Phạn tâm không thoái chuyển.
Giải thích:
Sắc thái của Bồ tát là phạn tâm không thể lay động, có thể thấy qua hai việc:
1. Giả sử Bồ tát gặp nhân duyên chướng nặng thì phạn tâm vẫn không thay đổi, đó là sắc thái của Bồ tát;
2. Giả sử Bồ tát tự mình phóng dật, nghĩa là khả năng đối trị ở thời gian [ngã chấp] không hiện tiền, cũng như ở vô lượng thời gian [ngã chấp] hiện tiền, thì phạn tâm vẫn không thay đổi, đó là sắc thái của Bồ tát.
Hỏi: Những chướng ngại của phạn trú là gì?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0636b17] Kệ tụng:
Bốn phạn có bốn chướng
Là sân, não, ưu, dục
Bồ tát đủ chướng này
Nhiều thứ tội lỗi khởi.
Giải thích:
Bốn phạn trú có đủ bốn chướng ngại cần phải đối trị, theo thứ tự là: 1. Giận dữ; 2. Bực tức; 3. Lo buồn; 4. Ham muốn.
Những chướng ngại như vậy đối với bốn phạn trú là không có thật thể. Nếu cho là có thật bốn chướng ngại này thì lại sanh ra nhiều thứ tội lỗi.
Hỏi: Thế nào là nhiều tội lỗi?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0636b22] Kệ tụng:
Các phiền não như vậy
Sanh khởi có ba hại
Hại mình và hại người
Hại cả Bồ tát giới.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị tội lỗi của ba cái hại: 1. Hại mình, là làm cho mình khổ sở; 2. Hại người, là làm cho người khổ sở; 3. Hại Bồ tát giới, là làm cho mình và người cùng khổ sở.
[0636b27] Kệ tụng:
Có hối và mất lợi
Mất hộ và thầy bỏ
Xử phạt và tiếng xấu
Như vậu sáu quở trách.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sáu thứ quở trách khi mắc tội lỗi:
1. Tự trách mình, nên lòng lo buồn hối hận;
2. Người trách cứ, nên mình mất lợi dưỡng;
3. Chư thiên quở trách, nên mình mất sự ủng hộ;
4. Đại sư quở trách, nên đại sư rời bỏ mình;
5. Bậc phạn hạnh quở trách, là bậc phạn hạnh trí tuệ xử phạt mình đúng pháp;
6. Người trong mười phương quở trách, vì tiếng xấu của mình lan truyền.
[0636c05] Kệ tụng:
Thân sau đọa các nạn
Phạn trú nay thoái lui
Tâm số nên chịu khổ
Lại nữa sanh ba lỗi.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị ba thứ tội lỗi phải chịu ở đời sau:
1. Đọa vào các nạn, do đời này tạo nghiệp nhân ác nên đời sau chịu quả báo ác;
2. Thoái lui công hạnh, do công hạnh đã được lại thoái lui, và công hạnh chưa được càng khó được, đánh mất phạn trú ngay trong hiện tại và cả vị lai;
3. Đau khổ phát sanh, do sự vận hành của các tâm số pháp mà từ đó sanh ra các nỗi ưu khổ lớn.
Hỏi: Đã nói tội lỗi, vậy những gì là công đức?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0636c13] Kệ tụng:
Người khéo trú phạn trú
Rời xa các ác kia
Sanh tử không làm bẩn
Không bỏ cứu chúng sanh.
Giải thích:
Người trú phạn trú có được hai công đức:
1. Bỏ phiền não, những tội lỗi đã nói ở trước thảy đều rời xa;
2. Không bỏ chúng sanh, vì thành thục chúng sanh mà ở trong sanh tử nhưng không bị nhiễm ô.
Hỏi: Đã biết công đức, nhưng làm sao biết công đức này là tôn cao hết mức?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0636c19] Kệ tụng:
Như người có một con
Có đức nên rất thương
Bồ tát đối tất cả
Khởi phạn thắng hơn kia.
Giải thích:
Qua thí dụ người có một con cho thấy Bồ tát trú ở bốn thứ phạn trú là tôn cao hết mức.
Hỏi: Đại bi lấy những chúng sanh nào làm sở duyên?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0636b23] Kệ tụng:
Cháy hừng và oán thắng
Khổ bức và tối che
Trú hiểm và trói chặt
Ăn độc và lạc đường
Lại có trú phi đạo
Cùng những người cằn cỗi
Như vậy mười chúng sanh
Sở duyên tâm đại bi.
Giải thích:
Bồ tát với tâm đại bi nắm lấy mười loại chúng sanh làm cảnh giới của mình:
1. Chúng sanh cháy hừng, là chúng sanh đắm nhiễm dục lạc;
2. Chúng sanh oán thắng, là chúng sanh khi tu thiện bị ma quân làm chướng ngại;
3. Chúng sanh khổ bức, là chúng sanh ở tại ba đường khổ;
4. Chúng sanh tối che, là chúng sanh thường làm những việc bất thiện, do [si mê] không biết quả báo của nghiệp;
5. Chúng sanh trú hiểm, là chúng sanh không thích niết-bàn, do không đoạn tuyệt với đường hiểm sanh tử;
6. Chúng sanh trói chặt, là chúng sanh ngoại đạo tà kiến, do muốn hướng đến giải thoát nhưng bị trói chặt bằng sợi dây cứng chắc là các tà kiến;
7. Chúng sanh ăn độc, là chúng sanh ăn mùi vị thiền định. Giống như thức ăn ngon mà lẫn chất độc có thể hại người, thiện định cũng vậy, vì tham đắm thiện định mà bị thoái mất;
8. Chúng sanh lạc đường, là chúng sanh tăng thượng mạn, tuy ở trong đạo giải thoát chân thật mà có sự mê lầm;
9. Chúng sanh trú phi đạo, là chúng sanh bất định tánh thừa thấp, do có thoái lui;
10. Chúng sanh cằn cỗi, là các Bồ tát chưa có tròn đầy hai khối phước trí.
Mười loại chúng sanh như vậy là cảnh giới sở duyên tâm đại bi của Bồ tát.
Đã nói cảnh giới của tâm đại bi, kế nói sự đắc quả của tâm đại bi.
[0637a12] Kệ tụng:
Chướng đoạn, giác ngộ người
Cho vui, quả khả ái
Tự lưu: năm chỗ dựa
Người đi đến gần Phật.
Giải thích:
Chướng đoạn là quả tương ly, vì các chướng ngại được đoạn trừ. Giác ngộ người là quả tăng thượng, vì làm lợi ích cho chúng sanh. Cho vui là quả trượng phu, vì làm được pháp trượng phu. Quả khả ái là quả quả báo, vì có được quả báo ưa thích. Tự lưu là quả y, vì tiếp cận tâm bi thù thắng ở vị lai.
Như vậy, năm quả đều dựa vào tâm đại bi mà có được. Nên biết, Bồ tát tu tập như vậy thì khoảng cách đi đến quả Phật bồ-đề không còn bao xa.
Đã nói sự đắc quả của tâm đại bi, kế nói sự không trú ở của tâm đại bi.
[0637a22] Kệ tụng:
Khổ sanh tử làm thể
Lấy vô ngã làm tánh
Không chán nhờ đại bi
Không não nhờ thắng giác.
Giải thích:
Tất cả dòng sanh tử lấy khổ làm thể, lấy vô ngã làm tánh. Bồ tát từ nơi khổ mà thấu hiểu được như thật, nơi vô ngã mà được vô thượng giác.
Được sự thấu hiểu và giác ngộ như vậy rồi, nhờ tâm đại bi nên không chán lìa sanh tử, nhờ trí thắng giác nên không bị phiền não phá hại. Cho nên Bồ tát không trú niết-bàn, cũng không trú sanh tử.
Đã nói sự không trú ở của tâm đại bi, kế nói công đức của tâm đại bi.
[0637a29] Kệ tụng:
Khi thấy tự tánh khổ
Biết khổ sanh bi khổ
Biết phương tiện viễn ly
Hằng tu không biết chán.
Giải thích:
Khi Bồ tát quán sát sự khổ nơi thế gian, thấy được tự tánh của khổ thì sanh tâm bi cảm trước khổ đau, muốn dùng mọi phương tiện làm cho chúng sanh viễn ly khổ sở, cho đến thấu hiểu như thật. Bồ tát quán sát rồi, hằng tu tập như vậy không biết chán. Đó là công đức của tâm đại bi.
Đã nói công đức của tâm đại bi, kế nói sự sai biệt của tâm đại bi.
[0637b07] Kệ tụng:
Tự tánh và số trạch
Túc tập và chướng đoạn
Tâm bi của Bồ tát
Có bốn sai biệt này.
Giải thích:
Theo thứ tự, tâm đại bi có bốn sai biệt:
1. Tự tánh: sanh thành một cách tự nhiên;
2. Số trạch: thấy được công đức và lầm lỗi;
3. Túc tập: do tu tập từ nhiều đời trước;
4. Chướng đoạn: do ly dục, đoạn phiền não chướng cần đối trị mà được thanh tịnh.
Lại có sáu thứ sai biệt:
[0637b13] Kệ tụng:
Chẳng bình đẳng, chẳng thường
Chẳng sâu, chẳng tùy thuận
Chẳng đạo, chẳng bất đắc
Trái sáu thứ là bi.
Giải thích:
Sáu thứ sai biệt này đi ngược lại với tâm đại bi. Tâm đại bi có sáu thứ sai biệt: 1. Bình đẳng; 2. Thường hằng; 3. Cực sâu; 4. Tùy thuận; 5. Tịnh đạo; 6. Bất khả đắc.
Bình đẳng là biết các cảm thọ: lạc thọ v.v… của chúng sanh đều là khổ.
Thường hằng là đưa chúng sanh đến niết-bàn vô dư mà tâm đại bi vẫn không cùng tận.
Cực sâu là khi nhập vào các địa, các Bồ tát có sự bình đẳng mình người.
Tùy thuận là đối với tất cả nỗi khổ của chúng sanh thì cứu giúp bằng như lý hành.
Tịnh đạo là phiền não cần phải đối trị đã được đoạn trừ.
Bất khả đắc là khi Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn thì thấy các pháp là bất khả đắc.
Đã nói sự sai biệt của tâm đại bi, kế nói tâm đại bi [được cấu thành tương tự] như cái cây.
[0637b24] Kệ tụng:
Bi, nhẫn, tư, nguyện, sanh
Thành thục, lần lượt nói
Căn lớn đến quả lớn
Cây bi sáu sự thành.
Giải thích:
Nên biết cây đại bi lấy sáu sự để thành tựu: 1. Đại bi; 2. Nhẫn nhục; 3. Tư duy; 4. Thắng nguyện; 5. Thắng sanh; 6. Thành thục. Đây chính là sáu bộ phận của một cái cây: gốc, thân, cành, lá, hoa, trái.
Hỏi: Sự ấy [ý nghĩa] thế nào?
Đáp: Cây này lấy đại bi làm gốc, lấy sự nhẫn nhục làm thân, lấy sự tư duy về lợi ích cho chúng sanh làm cành, lấy sự nguyện sanh về cõi thù thắng làm lá, lấy sự vãng sanh cõi thù thắng làm hoa và lấy sự thành thục chúng sanh làm trái.
Hỏi: Vì sao sáu sự ấy được xếp trước sau như vậy?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0637c04] Kệ tụng:
Không bi thì không nhẫn
Như vậy sáu thứ tự
Thắng sanh nếu không được
Thành thục chúng sanh không.
Giải thích:
Nếu không có tâm đại bi thì không thể khởi nhẫn nhục khó làm trước cái khổ lớn [sanh tử].
Nếu không có sự nhẫn nhục khó làm trước cái khổ lớn [sanh tử] thì không thể khởi tư duy về lợi ích cho chúng sanh.
Nếu không có sự tư duy về lợi ích cho chúng sanh thì không thể khởi nguyện sanh về cõi thù thắng.
Nếu không có sự nguyện sanh về cõi thù thắng thì không thể thọ sanh cõi thù thắng.
Nếu không có sự thọ sanh cõi thù thắng thì không thể thành thục chúng sanh.
Hỏi: Trước sau tương tự như vậy, còn thành lập tương tự thì thế nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0637c12] Kệ tụng:
Gốc sanh do từ thấm
Thân mọc do vui lớn
Chánh niệm là cành vươn
Nguyện nối là lá lớn
Nội duyên thành là hoa
Ngoại duyên thành là trái
Nên biết gốc bi, thân …
Thứ tự như vậy thành.
Giải thích:
Sự thành lập tương tự ở đây là: Tâm bi nhờ tâm từ tưới tẩm làm cho tươi tốt, vì người có tâm từ khi thấy người khổ thì sanh tâm bi cảm trước nỗi khổ, cho nên lấy tâm bi làm gốc.
Nhẫn nhục nhờ niềm vui làm cho nảy nở, vì Bồ tát làm lợi người, cứu khổ nên sanh niềm vui, niềm vui sanh thì hạnh nhẫn nhục càng rộng lớn, cho nên lấy nhẫn làm thân.
Tư duy nhờ chánh niệm làm cho tăng tiến, vì sức nhẫn rộng lớn thì có thể khởi chánh niệm ở trong việc lợi người, cho nên lấy tư duy làm cành.
Thắng nguyện nhờ sự nối tiếp làm cho trưởng thành, vì cái trước diệt thì cái sau sanh, giống như lá già rụng thì lá non nhú, cho nên lấy thắng nguyện làm lá.
Thắng sanh lấy nội duyên thành làm chân thật, vì thân mình thành thục thì sự thọ sanh chẳng hư dối, cho nên lấy thắng sanh làm hoa.
Thành thục nhờ ngoại duyên thành làm chân thật, vì thân người thành thục thì sự lợi ích chẳng hư dối, cho nên lấy thành thục chúng sanh làm trái.
Nên biết sự thành lập tâm đại bi phải theo thứ tự như vậy.
Đã nói tâm đại bi [được cấu thành tương tự] như cái cây, kế ca ngợi công đức của tâm đại bi.
[0637c28] Kệ tụng:
Đại bi làm lợi ích
Ai với người không khởi
Với khổ thắng lạc sanh
Lạc sanh nhờ tâm bi.
Giải thích:
Nghĩa ở đây như kệ tụng đã nói.
Đã ca ngợi công đức của tâm đại bi, kế nói sự không ràng buộc của tâm đại bi.
[0638a03] Kệ tụng:
Bồ tát bi tự tại
Tịch tĩnh còn không trú
Đời vui và thân mạng
Ái ấy làm sao khởi.
Giải thích:
Tất cả người trong thế gian đều tham luyến cái vui thế tục và thân mạng của mình. Tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác tuy không tham luyến cái vui thế tục và thân mạng của mình nhưng còn khởi ý chấp trước niết-bàn. Bồ tát không như vậy, vì có tâm đại bi nên tự tại, đối với niết-bàn còn không trú ở huống là trú trong hai sự luyến ái kia?
Đã nói sự không ràng buộc của tâm đại bi, kế nói về sự tối thắng của đại bi ái.
[0638a10] Kệ tụng:
Tham ái chẳng không chướng
Thế bi cũng thế gian
Bồ tát bi ái khởi
Chướng tận, vượt thoát đời.
Giải thích:
Sự tối thắng của bi ái, tự có hai nghĩa: 1. Chướng tận; 2. Vượt thoát thế gian.
Bản thân của ái đồng đẳng với tham, tức tự thể của ái là chướng ngại. Bồ tát đi trong thế gian bằng tự thể của tâm bi tuy chẳng phải là chướng ngại nhưng vẫn nằm trong phạm trù thế gian. Khi nào tự thể tâm bi ái của Bồ tát không còn chướng ngại thì mới có thể vượt thoát thế gian, nên gọi là tối thắng.
Hỏi: Thế nào là chướng tận?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0638a13] Kệ tụng:
Có khổ và không trí
Biển lớn và tối tăm
Cứu khổ bằng phương tiện
Làm sao không chướng tận.
Giải thích:
Có khổ ví như biển lớn. Không trí ví như sự tối tăm. Tâm đại bi là phương tiện cứu khổ. Có tâm bi ái này thì chướng tận.
Hỏi: Làm sao vượt thoát thế gian?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0638a20] Kệ tụng:
La-hán và Duyên giác
Không bi ái như vậy
Huống là người thế gian
Làm sao vượt thoát đời.
Giải thích:
A-la-hán, Bích-chi Phật còn không có tâm đại bi ái, huống là người thế gian sao có thể có được? Nếu không có tâm đại bi ái thì làm sao vượt thoát thế gian?
Đã nói sự tối thắng của đại bi ái, kế nói sự không chán của tâm đại bi.
[0638a25] Kệ tụng:
Có bi, các Bồ tát
Xả khổ nên khởi khổ
Người mới khởi khổ sợ
Khi chứng vui mừng sâu.
Giải thích:
Xả khổ: Bằng tâm đại bi, các Bồ tát muốn xả bỏ cái khổ của chúng sanh.
Nên khởi khổ: Vì xả bỏ cái khổ của chúng sanh mà Bồ tát (chấp nhận) sanh khởi cái khổ cho mình.
Người mới khởi khổ sợ: Người mới là chỉ cho Bồ tát ở địa vị tín hạnh. Các vị Bồ tát này ở trong sự khởi khổ mà sanh lòng sợ hãi, đó là do các vị ấy chưa thấy được mình người bình đẳng, chưa tiếp xúc được bản chất như thật của khổ đau.
Khi chứng vui mừng sâu: Khi chứng là nói Bồ tát ở địa vị tâm tịnh. Các vị Bồ tát này ở trong sự khởi khổ mà sanh lòng vui mừng, đó là do các vị ấy thấy được mình người bình đẳng, đã tiếp xúc được bản chất như thật của khổ đau.
Đã nói sự không chán của tâm đại bi, kế nói sự thù thắng của đại bi và khổ.
[0638b05] Kệ tụng:
Bi khổ rất hy hữu
Khổ thắng tất cả lạc
Càng vui vì bi sanh
Làm xong chẳng có gì.
Giải thích:
Bi khổ rất hy hữu: Từ cái khổ của chúng sanh mà sanh khởi tâm đại bi, từ tâm đại bi mà sanh khởi cái khổ cho mình. Như vậy, Bồ tát có tâm bi và có cái khổ cho mình, đó là một sự hy hữu. Vượt lên trên cái bi khổ ấy gọi là rất hy hữu.
Khổ thắng tất cả lạc: Cái bi khổ này thắng hơn tất cả dục lạc thế gian.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Càng vui vì bi sanh: Các Bồ tát lấy bi khổ làm niềm vui, vì cái khổ ấy từ tâm đại bi sanh ra.
Làm xong chẳng có gì: Đối với niềm vui từ việc làm [lợi sanh] hoàn tất, Bồ tát còn thấy là không, huống là những gì khác của thế gian mà Bồ tát lại thấy có hay sao?
Đã nói sự thù thắng của đại bi và khổ, kế nói sự thù thắng của đại bi và bố thí.
[0638b15] Kệ tụng:
Thí và bi cùng khởi
Làm cho Bồ tát vui
Lạc thọ trong ba cõi
So đây chẳng chút phần.
Giải thích:
Nếu sự bố thí và tâm đại bi cùng sanh thì có năng lực khởi thắng lạc của Bồ tát. Ở trong ba cõi có những lạc thọ được tạo tác, nếu đem so với thắng lạc được tạo tác từ tâm đại bi và sự bố thí thì những lạc thọ ấy không có được [dù chỉ] một phần tương tự.
Đã nói sự thù thắng của đại bi và bố thí, kế nói sự nhẫn khổ của tâm đại bi.
[0638b21] Kệ tụng:
Sanh tử tự tánh khổ
Không bỏ nhờ tâm bi
Khởi khổ vì lợi người
Sao bỏ không tu tập.
Giải thích:
Tất cả khổ đau đều nằm trong nỗi khổ sanh tử. Các Bồ tát không bỏ sanh tử là nhờ có tâm đại bi. Bồ tát lấy sự khởi khổ làm nhân tố của lợi người. Bồ tát không bỏ sanh tử tức là không từ bỏ tất cả khổ [cho riêng mình].
Đã nói sự nhẫn khổ của tâm đại bi, kế nói quả của đại bi và bố thí.
[0638b27] Kệ tụng:
Đại bi hằng tăng trưởng
Bi thí tài ba quả
Ái sanh và nhiếp sanh
Tư sanh gồm ba vui.
Giải thích:
Đại bi hằng tăng trưởng, bi thí tài ba quả: Tâm đại bi của Bồ tát có năng lực làm tăng trưởng ba thứ quả:
1. Tăng bi, do tu tập mà làm cho tự thể [đại bi] tăng trưởng;
2. Tăng thí, do tâm bi tự tại mà làm cho sự thí được tăng trưởng;
3. Tăng tài, do sự thí tự tại mà làm cho của cải được tăng trưởng.
Ái sanh và nhiếp sanh, tư sanh gồm ba vui: Từ ba quả này sanh ra ba niềm vui:
1. Từ tâm bi làm nhân sanh ra niềm vui thương yêu chúng sanh;
2. Từ thí làm nhân sanh ra niềm vui nhiếp hóa chúng sanh;
3. Từ của cải làm nhân sanh ra niềm vui giúp đỡ chúng sanh.
Đã nói quả tăng trưởng từ tâm đại bi, kế nói sự khuyến tiến của tâm đại bi.
[0638c08] Kệ tụng:
Bi trưởng và thí tăng
Thành thục sanh, lạc khởi
Dẫn đến và đưa đi
Đại bi khuyên như vậy.
Giải thích:
Tâm đại bi khuyến tiến Bồ tát thực hành sáu thứ công đức. Nghĩa lý của đại bi là: Bồ tát tu tập tâm đại bi thì tâm đại bi càng sanh trưởng. Bồ tát thí xả của cải thì sự bố thí càng thêm lên.
Bồ tát cần lấy sự bố thí để thành thục chúng sanh. Bồ tát cần lấy sự bố thí để sanh khởi an lạc cho mình. Sự bố thí của Bồ tát chiêu dẫn hai khối [phước trí] của đại bồ-đề [cho mình], ngoài ra hướng chúng sanh đi đến với mình. Sự bố thí của Bồ tát dẫn đưa hai khối [phước trí] của đại bồ-đề [cho chúng sanh], ngoài ra hướng chúng sanh đi đến đại bồ-đề.
Đã nói sự khuyến tiến của tâm đại bi, kế nói sự thù thắng của đại bi và lạc.
[0638c11] Kệ tụng:
Khổ là bi cảm khổ
Không thí làm sao vui
Lấy thí làm niềm vui
Cho vui cứu người khổ.
Giải thích:
Khổ là bi cảm khổ: Các Bồ tát sanh khởi bi cảm trước các khổ đau, gọi đó là nỗi khổ [của Bồ tát].
Không thí làm sao vui: Với tâm đại bi, các Bồ tát lấy khổ đau của người làm khổ đau của mình. Nếu Bồ tát không cho người niềm vui thì làm sao có được niềm vui cho mình? Để có được niềm vui cho mình, Bồ tát cho người niềm vui, cứu người nỗi khổ. Khi Bồ tát cho chúng sanh niềm vui, cứu chúng sanh nỗi khổ, tức là Bồ tát đang tạo tác sự an lạc [cho chính mình].
Đã nói sự thù thắng của đại bi và lạc, kế nói sự dạy bảo về tâm đại bi.
[0638c24] Kệ tụng:
Bi là dạy tự thí
Thí người chớ tự cầu
Quả thí xin không nhận
Có nguyện lại đem thí.
Giải thích:
Kệ tụng này dạy thực hành bố thí không mong cầu.
Bi là dạy tự thí, thí người chớ tự cầu: Nghĩa lý của đại bi là: Khi Bồ tát thực hành thí cho người thì chớ mong cầu niềm vui cho mình. Không có niềm vui của người thì cũng không có niềm vui của mình. Vì sao? Niềm vui không có riêng biệt.
Quả thí xin không nhận, có nguyện lại đem thí: Nếu có quả của thí thì Bồ tát xin không tiếp nhận; nếu có tiếp nhận quả của thí thì Bồ tát lại dùng đó để tiếp tục thí.
[0638c27] Kệ tụng:
Thí và thí quả thí
Thí khắp cho tất cả
Người vui nên mình vui
Cho người, mình không cần.
Giải thích:
Kệ tụng này dạy thực hành thí và thí quả của thí, nghĩa là thí và thí quả của thí mà mình có đuợc, thí khắp cho tất cả chúng sanh. Vì sao? Tâm bi là lấy niềm vui của người làm niềm vui của mình, cho nên Bồ tát được quả của thí đều nên thí cho tất cả chúng sanh.
Phải làm sự dạy bảo về tâm đại bi như vậy.
[0639a08] Kệ tụng:
Khinh của cải đem thí
Đến nhiều lại đến tốt
Không dùng mà tự đến
Dùng lại tiếp nối thí.
Giải thích:
Kệ tụng này dạy thực hành thí chán của cải. Nếu người chán của cải mà thực hành bố thí thì người ấy tuy không muốn của cải mà của cải tự đến. Đạo lý cực rộng, cực diệu như vậy là do có cái tâm rộng lớn. Nếu có được của cải như vậy thì dùng lại đem bố thí. Đó là của cải đến rồi lại đến. Bồ tát bố thí của cải rồi lại bố thí của cải. Vì sao? Bồ tát không mong cầu niềm vui cho mình, chỉ muốn bố thí, bố thí không cùng tận.
[0639a15] Kệ tụng:
Bi là đem đại bi
Thí hết, thí thường xuyên
Nên làm thí như vậy
Không nên cầu quả thí.
Giải thích:
Kệ tụng này dạy thực hành thí không có ngừng nghỉ, nên biết như vậy.
[0639a18] Kệ tụng:
Nếu tôi không vui thí
Thí quả, lúc không thí
Thí không một sát-na
Do không thí, không ái.
Giải thích:
Kệ tụng này dạy thực hành thí không có biết chán, nên biết như vậy.
[0639a21] Kệ tụng:
Không làm, không cho quả
Cho quả, cho sự làm
Là lỗi ông thấy ơn
Còn tôi không giống ông.
Giải thích:
Kệ tụng này dạy thực hành bố thí buông xả ban ơn.
Lời nói của Bồ tát về bố thí như sau: Nếu có người đi đến ông, ông mới cho quả, vậy là ông mắc cái lỗi mong đợi sự trả ơn. Tôi thì không như vậy, cho nên ông không giống tôi. Lại nữa, nếu có người đi đến ông, ông chỉ cho người này quả, vậy ông là người mong đợi trả ơn. Tôi thì không như vậy, đem quả của sự hành thí cho tất cả chúng sanh, cho nên ông không giống tôi.
Đã nói tâm đại bi và sự chỉ dạy bố thí, kế nói tâm đại bi và sự thực hành bố thí.
[0639a29] Kệ tụng:
Không chướng và tịnh cú
Lợi người và tự lượng
Không cầu, không vướng mắc
Bi là thí như vậy.
Giải thích:
Không chướng, là không chiếm đoạt tài vật của người mà làm việc thí.
Tịnh cú, là lấy tài vật đúng chánh pháp mà thực hành bố thí, nghĩa là không lấy các chất độc hại, khí giới chiến đấu, rượu v.v… mà bố thí.
Lợi người, là khi lấy sự bố thí để nhiếp hóa người thì mục tiêu phải là thiết lập thiện căn.
Tự lượng, là không cho quyến thuộc của mình phải thiếu thốn.
Không cầu, là ở trước chúng sanh mà không có lòng cầu xin hay không mở miệng cầu xin. Bồ tát thấy họ nghèo thiếu thì tự nhiên bố thí, và bố thí thì không có lựa chọn phước điền.
Không vướng mắc, là không cầu đền ơn và không lấy quả báo.
[0639b09] Kệ tụng:
Hết, rộng, thắng, thường, hỷ
Rời vướng mắc, thanh tịnh
Hồi hướng vào hai xứ
Bồ-đề và thiện căn.
Giải thích:
Hết, là bố thí cả nội tài và ngoại tài. Rộng, là bố thí nhiều tài vật. Thắng, là bố thí đồ quí tốt. Thường, là bố thí thường xuyên. Hỷ, là bố thí mà rời xa giận dữ, nghĩa là khi người cầu xin làm việc không lợi ích vẫn nhẫn chịu mà hoan hỷ bố thí. Rời vướng mắc, là không có tâm mong cầu, như không vướng mắc đã nói ở trên. Thanh tịnh, là bố thí đúng như chánh pháp, như [thí] tịnh cú đã nói ở trên. Hồi hướng bồ-đề, là hồi hướng Vô thượng bồ-đề. Hồi hướng thiện căn, là hồi hướng tùy thuận thiện căn khí.
Đã nói tâm đại bi và sự thực hành bố thí, kế nói tâm đại bi và sự thọ dụng sai biệt.
[0639b18] Kệ tụng:
Có của để tự dùng
Và dùng thí chúng sanh
Được hỷ, thí hỷ thắng
Ba lạc nuôi dưỡng tâm.
Giải thích:
Bồ tát sanh hỷ khi thọ dụng của cải của mình và chúng sanh sanh hỷ khi được Bồ tát lấy của cải bố thí cho. Sự hoan hỷ của bố thí so với hai hỷ ấy thì thắng hơn. Vì sao? Ba lạc nuôi dưỡng tâm. Ba lạc là: 1. Hoan hỷ vì bố thí; 2. Hoan hỷ vì nhiếp hóa chúng sanh; 3. Hoan hỷ vì đầy đủ bồ-đề tụ.
Đã nói tâm đại bi và sự thọ dụng sai biệt, kế nói tâm đại bi và sự tăng trưởng các ba-la-mật.
[0639b25] Kệ tụng:
Xan, ác, sân, phóng dật
Vướng duyên và vướng tà
Như vậy sáu ngăn che
Bi khiến sáu độ tăng.
Giải thích:
Xan, là không thể xả bỏ chút ít đồ vật. Ác, là phá hủy tịnh giới và não hại người khác. Sân, là đối với một chút không lợi ích [cho mình] cũng nổi cơn giận dữ. Phóng dật, là không siêng năng làm các thiện pháp. Vướng duyên, là vướng vào năm dục làm loạn tâm trí. Vướng tà, là vướng vào các ngoại đạo không có trí tuệ.
Như vậy là sáu điều ngăn che của chúng sanh. Với tâm đại bi, Bồ tát thương xót chúng sanh vì họ mà nói ra những lầm lỗi ấy, khiến cho sáu ba-la-mật [của Bồ tát] được tăng trưởng.
Đã nói tâm đại bi và sự tăng trưởng các ba-la-mật, kế nói tâm đại bi từ bốn duyên sanh khởi, cũng nên chỉ bày.
[0639c04] Kệ tụng:
Khổ, lạc, không khổ lạc
Sức nhân và thiện hữu
Tự thể nối tiếp chảy
Nghĩa bốn duyên đại bi.
Giải thích:
Khổ, lạc, không khổ lạc: Hiển thị duyên duyên và đủ (năng) duyên, vì ba thọ và ba khổ cùng sanh khởi tâm bi.
Hỏi: Xả thọ làm sao có khổ?
Đáp: Xả thọ là hành khổ.
Sức nhân: Hiển thị nhân duyên.
Thiện hữu: Hiển thị tăng thượng duyên.
Tự thể nối tiếp chảy: Hiển thị thứ đệ duyên.
Hỏi: Tâm đại bi sanh khởi như vậy rồi, làm sao tâm ấy được bình đẳng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0639c11] Kệ tụng:
Hành tướng và tư duy
Tùy thuận và ly chướng
Bất đắc và thanh tịnh
Sáu nghĩa bình đẳng bi.
Giải thích:
Sự bình đẳng của tâm đại bi có sáu thứ:
1. Hành tướng bình đẳng: là chúng sanh trong các giai vị của ba thọ đều bình đẳng, biết [ba thọ] là khổ;
2. Tư duy bình đẳng: là thương xót bình đẳng;
3. Tùy thuận bình đẳng: là bình đẳng cứu giúp;
4. Ly chướng bình đẳng: là bình đẳng không bực tức;
5. Bất đắc bình đẳng: là mình, người và tâm đại bi, ba luân đều bình đẳng, vì bất khả đắc;
6. Thanh tịnh bình đẳng: là khi đạt đến vô sanh nhẫn ở địa thứ tám thì có được bình đẳng.
Hỏi: Như vậy đã nói riêng về tâm đại bi rồi, bốn phạn trú này phải tu tập thế nào để được vô thượng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0639c21] Kệ tụng:
Phạn trú khiến vô thượng
Tự ý tu có năm
Tín, tâm, thông, phương tiện
Hòa hợp như trước nói.
Giải thích:
Phần cúng dường chư Phật và thân cận thiện hữu ở trước đều nói đến năm thứ tự ý tu tập khiến được vô thượng, bốn phạn trú ở đây cũng vậy.
Tịnh tín, là như ở trong kinh điển Đại thừa có nói, [ai ở trong] trú xứ của Phạn vương thì sanh tịnh tín.
Thâm tâm, là lấy chín thứ tâm để tu tập phạn trú.
Thần thông, là dựa vào hư không đẳng định mà tu tập.
Phương tiện, là dựa vào trí vô phân biệt để nhiếp hóa chúng sanh.
Hòa hợp, là lấy một quả nhập vào tất cả quả.
Phẩm Phạn Trú trọn vẹn
Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 13 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.192.109 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập