Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm Hai Mươi Hai
CÔNG ĐỨC
Giải thích:
Đã nói các giác phần của Bồ tát, kế nói các công đức của Bồ tát.
[0650a15] Kệ tụng:
Xả thân và thắng vị
Nhẫn thấp, siêng năng lâu
Không vị, không phân biệt
Sáu hạnh nói hy hữu.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự hy hữu của các hạnh.
Hạnh bố thí: Có thể thí xả thân mạng mình là hy hữu, các việc bố thí khác không phải hy hữu.
Hạnh trì giới: Có thể từ bỏ địa vị tôn quí mà mộ đạo xuất gia là hy hữu, các việc trì giới khác không phải hy hữu.
Hạnh nhẫn nhục: Có thể không đoái hoài đến thân mạng mà nhẫn chịu trước chúng sanh thấp kém là hy hữu, các sự nhẫn nhục khác không phải hy hữu.
Hạnh tinh tiến: Có thể ở trong thời gian lâu xa siêng năng tinh cần, cho đến tận cùng bờ mé của sanh tử vẫn không ngưng nghỉ là hy hữu, các sự tinh tiến khác không phải hy hữu.
Hạnh thiền định: Có thể ở trong cái vui thắng định mà không tham đắm thiền vị là hy hữu, vì tham đắm thì không chịu thọ sanh, các thiền định khác không phải hy hữu.
Hạnh trí tuệ: Có thể khởi trí vô phân biệt là hy hữu, các loại trí tuệ khác không phải hy hữu.
Các bậc Thanh văn phân biệt bốn đế mà sanh tâm chán lìa, các Bồ tát thì không như vậy. Đó gọi là sáu hạnh hy hữu.
[0650a28] Kệ tụng:
Sanh vào nhà Như lai
Được thọ ký, thọ chức
Cho đến được bồ-đề
Bốn quả nói hy hữu.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự hy hữu của các quả. Bồ tát có bốn loại quả:
1. Khi vào địa đầu tiên tức sanh vào nhà Như lai, là quả Tu-đà-hoàn;
2. Vào trong địa thứ tám mà được thọ ký, là quả Tư-đà-hàm;
3. Vào trong địa thứ mười mà được thọ chức, là quả A-na-hàm;
4. Phật địa là quả A-la-hán.
Ba quả đầu là quả của các vị tu học tiếp tục; quả thứ tư là quả của các vị tu học hoàn tất.
Đã nói những sự hy hữu của Bồ tát, kế nói những sự không phải hy hữu của Bồ tát.
[0650b07] Kệ tụng:
Ly dục, được tâm bi
Thắng tu và bình đẳng
Dựa đây tu các độ
Là hạnh phi hy hữu.
Giải thích:
Bồ tát đã được ly dục mà thực hành bố thí thì không phải là hy hữu, vì không đắm nhiễm tiền tài nên dễ xả bỏ tiền tài.
Bồ tát có được tâm đại bi mà trì giới, nhẫn nhục thì không phải là hy hữu.
Bồ tát đã được thắng tu, tức Bồ tát đã vào địa thứ tám, có được trí vô phân biệt không dụng công [về vô tướng] mà thực hành tinh tiến, thiền định và trí tuệ thì không phải là hy hữu.
Bồ tát có được tâm mình người bình đẳng mà thực hành tất cả các ba-la-mật cũng không phải là hy hữu, vì khi lợi người tức là lợi mình, và vì không có tâm lý lùi bước và khuất phục.
Đã nói những cái không phải hy hữu của Bồ tát, kế nói tâm bình đẳng của Bồ tát.
[0650b16] Kệ tụng:
Bồ tát thương chúng sanh
Không giống sanh năm ái
Bản thân và quyến thuộc
Con, bạn và người thân.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị Bồ tát có tâm bình đẳng đối với các chúng sanh. Chúng sanh có năm thứ ái tâm nên không có được tâm bình đẳng: 1. Yêu bản thân; 2. Yêu quyến thuộc; 3. Yêu con cái; 4. Yêu bạn bè; 5. Yêu người thân thiết.
Do năm thứ ái này mà chúng sanh không thể có được tâm bình đẳng, và cũng không phải tình thương rốt ráo, như con người ta có một lúc nào đó [vì ái mà] hành xử làm hại chính mình. Bồ tát thương chúng sanh bằng cái tâm bình đẳng, không ruồng bỏ chúng sanh, không thoái lui sanh tử.
[0650b23] Kệ tụng:
Không thiên lệch, không phạm
Nhẫn khắp, khởi thiện lợi
Thiền định, vô phân biệt
Sáu độ tâm bình đẳng.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị Bồ tát thực hành sáu ba-la-mật bằng tâm bình đẳng.
Không thiên lệch: Bố thí bằng tâm bình đẳng là đối với người cầu xin không rơi vào tâm thương ghét.
Không phạm: Trì giới bằng tâm bình đẳng là hành trì giới luật không thiếu sót, dẫu là giới điều nhỏ nhặt chi tiết.
Nhẫn khắp: Nhẫn nhục bằng tâm bình đẳng là đối với chúng sanh tôn quí hay thấp kém đều có thể nhẫn chịu khắp cả.
Khởi thiện lợi: Tinh tiến bằng tâm bình đẳng là siêng năng tu tập để khởi tất cả thiện căn và khởi tất cả lợi ích cho mình và người.
Thiền định: Học định bằng tâm bình đẳng là Bồ tát tu tập thiền định một cách tinh tiến cũng là để khởi các thiện căn và khởi các lợi ích.
Vô phân biệt: Tu tuệ bằng tâm bình đẳng là từ lúc mới phát tâm cho đến khi đạt địa vị cứu cánh, sự tu hành các độ của Bồ tát đều là ba luân thanh tịnh.
Đó là sự thực hành sáu ba-la-mật bằng tâm bình đẳng.
Đã nói tâm bình đẳng của Bồ tát, kế nói việc làm lợi ích chúng sanh của Bồ tát.
[0650c07] Kệ tụng:
Thành đồ đựng, thành cấm
Nhẫn ác và giúp thiện
Nhập pháp và đoạn nghi
Sáu hạnh sự lợi ích.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị các Bồ tát lấy sáu ba-la-mật làm lợi ích cho chúng sanh.
Thành đồ đựng: Lấy sự lợi ích của thí làm cho chúng sanh thành tựu đồ đựng tu tập thiện pháp.
Thành cấm: Lấy sự lợi ích của giới làm cho chúng sanh biết giữ giới cấm tùy theo khả năng của họ.
Nhẫn ác: Lấy sự lợi ích của nhẫn làm cho chúng sanh tu tập khả năng tiếp nhận những việc trái nghịch.
Giúp thiện: Lấy sự lợi ích của tiến trợ giúp chúng sanh xây dựng nghiệp thiện.
Nhập pháp: Lấy sự lợi ích của định, tức bằng năng lực thần thông, làm cho chúng sanh quay lưng với tà hạnh mà đi vào chánh pháp.
Đoạn nghi: Lấy sự lợi ích của trí để đoạn trừ bao nhiêu lưới nghi của phàm, của thánh.
Đã nói sự lợi ích sáu ba-la-mật của Bồ tát, kế nói bảy lợi ích tương tự của Bồ tát: 1. Lợi ích tựa như người mẹ; 2. Lợi ích tựa như người cha; 3. Lợi ích tựa như thiện hữu; 4. Lợi ích tựa như bạn đồng hành; 5. Lợi ích tựa như người giúp việc khỏe mạnh; 6. Lợi ích tựa như vị a-xà-lê; 7. Lợi ích tựa như vị hòa thượng.
Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như người mẹ?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0650c20] Kệ tụng:
Tâm bình, sanh thánh địa
Trưởng thiện, phòng các ác
Giáo tập để đa văn
Năm nghiệp như mẹ hiền.
Giải thích:
Giống như người mẹ hiền làm năm nghiệp lợi ích cho các con: 1. Mang thai; 2. Sanh đẻ; 3. Nuôi nấng; 4. Ngăn hại; 5. Dạy dỗ.
Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Tâm bình đẳng hướng về chúng sanh; 2. Đưa chúng sanh sanh vào thánh địa; 3. Giúp chúng sanh trưởng dưỡng thiện căn; 4. Giúp chúng sanh phòng hộ các ác hạnh [của ba nghiệp thân, miệng và ý]; 5. Giáo hóa chúng sanh tu tập đưa đến đa văn.
Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như người mẹ.
Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như người cha?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0650c28] Kệ tụng:
Khởi tín, học giới định
Giải thoát, khuyến thỉnh Phật
Ngăn chướng ngại về sau
Năm nghiệp như cha lành.
Giải thích:
Giống như người cha lành làm năm nghiệp lợi ích cho các con: 1. Gieo chủng tử; 2. Dạy công xảo; 3. Giúp con cái chọn bạn đời; 4. Giao phó bạn tốt; 5. Dứt nợ nần không để con cái gánh chịu.
Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Làm sanh khởi đức tin cho chủng tử của Phật tính; 2. Giúp tu học giới tăng thượng và định tăng thượng, lấy giới định làm sự nghiệp; 3. Làm cho có được sự hỷ lạc của giải thoát, lấy giải thoát làm người phối ngẫu; 4. Làm cho biết khuyến thỉnh chư Phật, lấy chư vị Như lai làm thiện hữu; 5. Giúp ngăn chận các chướng ngại để chấm dứt nợ nần.
Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như người cha.
Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như thiện hữu?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0651a08] Kệ tụng:
Sâu kín và quở phạm
Khen giữ và dạy bảo
Khiến hiểu các ma sự
Năm nghiệp như thiện hữu.
Giải thích:
Giống như thiện hữu làm cho mình năm thứ nghiệp lợi ích: 1. Che chở bằng lời nói sâu sắc; 2. Giúp dứt việc làm ác; 3. Khen ngợi việc làm thiện; 4. Trợ giúp công việc làm; 5. Ngăn ngừa tập quen việc ác. Việc ác có bốn thứ: 1. Săn bắn; 2. Gian dâm; 3. Uống rượu; 4. Cờ bạc.
Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Người không phải đồ đựng chánh pháp thì Bồ tát kín đáo nói pháp sâu xa; 2. Người phạm giới thì Bồ tát quở trách đúng pháp; 3. Người đầy đủ giới hạnh thì Bồ tát khéo léo khen ngợi; 4. Người đang tu tập thì Bồ tát dạy cách tu mau chóng chứng đắc; 5. Người hành động theo ma vương thì Bồ tát làm cho họ hiểu biết.
Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như thiện hữu.
Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như bạn đồng hành?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0651a18] Kệ tụng:
Cho vui và lợi ích
Luôn cho vui, lợi ích
Cho đến không chia ly
Năm nghiệp như đồng hành.
Giải thích:
Giống như người bạn đồng hành có trí làm cho mình năm thứ nghiệp lợi ích: 1. Cho sự an vui; 2. Cho sự lợi ích; 3. Luôn cho sự an vui; 4. Luôn cho sự lợi ích; 5. Không chia tay rời bỏ.
Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Cho sự an vui không điên đảo: thành tựu thế gian gọi là lạc, do thành tựu thế gian mà có được cảm thọ dễ chịu; 2. Cho sự lợi ích không điên đảo: thành tựu xuất thế gọi là lợi, do thành tựu xuất thế mà đối trị được căn bịnh phiền não. Ba phần còn lại có thể tự hiểu.
Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như người bạn đồng hành.
Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như người giúp việc khỏe mạnh?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0651a27] Kệ tụng:
Thành sanh khai xuất yếu
Nhẫn, hại và hai thành
Bày ra phương tiện khéo
Năm nghiệp như kiện nô.
Giải thích:
Giống như người giúp việc khỏe mạnh vì người chủ mà làm năm thứ nghiệp lợi ích: 1. Hết lòng làm công việc; 2. Không có lừa dối; 3. Nhịn chịu sự đánh mắng; 4. Việc làm tươm tất, sạch đẹp; 5. Biết phương cách khéo léo.
Bồ tát cũng có năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh: 1. Thành thục chúng sanh; 2. Khai thị sự xuất yếu; 3. Nhẫn chịu các việc ác; 4. Cho thế gian sự an vui; 5. Cho xuất thế gian sự lợi ích.
Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như người giúp việc khỏe mạnh.
Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như vị a-xà-lê?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0651b06] Kệ tụng:
Truyền khắp, bày tốc yếu
Tươi cười và ái ngữ
Không mong người báo ơn
Năm nghiệp như xà-lê.
Giải thích:
Bậc đắc vô sanh nhẫn gọi là a-xà-lê. Giống như vị a-xà-lê làm năm nghiệp lợi ích cho đệ tử: 1. Dạy các pháp thức cho đệ tử; 2. Chỉ bày yếu chỉ tu tập mau tiến bộ; 3. Thân toát vẻ ung dung vui tươi; 4. Miệng nói lời từ bi hòa ái; 5. Tâm không mong cầu đệ tử báo ơn. Năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh của Bồ tát cũng như vậy.
Hỏi: Thế nào là lợi ích tựa như vị hòa thượng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0651b12] Kệ tụng:
Làm viên mãn, giải thoát
Đoạn chướng, cho đời vui
Và cho lợi xuất thế
Năm nghiệp như hòa thượng.
Giải thích:
Giống như vị hòa thượng làm năm nghiệp lợi ích cho đệ tử: 1. Độ cho xuất gia; 2. Cho phép đệ tử thọ giới; 3. Ngăn chận các lầm lỗi; 4. Nắm giữ bằng của cải; 5. Dạy bảo bằng giáo pháp.
Năm nghiệp làm lợi ích cho chúng sanh của Bồ tát cũng như vậy: 1. Làm cho viên mãn hai khối phước đức và trí tuệ; 2. Làm cho có được giải thoát; 3. Làm cho đoạn trừ các chướng ngại; 4. Cho thế gian sự an vui; 5. Cho xuất thế gian sự lợi ích.
Đó là năm thứ tác nghiệp của Bồ tát tựa như vị Hòa thượng.
Đã nói bảy lợi ích tương tự của Bồ tát, kế nói sáu thứ báo ơn của chúng sanh.
[0651b21] Kệ tụng:
Không dính và không phạm
Biết tác ý, khéo hành
Như vậy tu sáu độ
Là báo ơn Bồ tát.
Giải thích:
Như Bồ tát làm lợi ích chúng sanh, chúng sanh báo ơn Bồ tát cũng vậy. Không đắm trước là báo ơn bằng bố thí. Không trái phạm là báo ơn bằng trì giới. Biết tác ý là báo ơn bằng tu nhẫn. Bồ tát ưa nhẫn nhịn người nên biết cách tác ý, tức là báo ơn. Khéo léo thực hành là báo ơn bằng ba ba-la-mật còn lại, tức lấy tinh tiến tu hành thiền định và trí tuệ để có được giải thoát. Ba ba-la-mật sau gọi chung là thiện hành.
Đã nói sáu thứ báo ơn của chúng sanh, kế nói năm thứ mong cầu của Bồ tát.
[0651b29] Kệ tụng:
Sáu tăng và sáu giảm
Thành sanh, tiến các địa
Đại giác: là năm xứ
Mong cầu có năm thứ.
Giải thích:
Các Bồ tát đối với năm xứ thường khởi mong cầu: 1. Mong cầu sáu ba-la-mật tăng trưởng; 2. Mong cầu sáu tế tổn giảm; 3. Mong cầu thành thục chúng sanh; 4. Mong cầu thắng tiến các địa; 5. Mong cầu Vô thượng bồ-đề.
Đó gọi là năm thứ mong cầu.
Đã nói năm thứ mong cầu của Bồ tát, kế nói bốn thứ quả bất không của Bồ tát.
[0651c07] Kệ tụng:
Đoạn bố và phát tâm
Trừ nghi và khởi hạnh
Bốn sự hóa chúng sanh
Hẳn mong quả bất không.
Giải thích:
Các Bồ tát có bốn nghiệp làm lợi ích chúng sanh với mong muốn đưa đến quả bất không:
1. Vì chúng sanh nói những pháp sâu xa, mong chúng sanh không còn có sự sợ hãi;
2. Làm cho chúng sanh phát tâm bồ-đề, mong chúng sanh đắc quả Phật đà;
3. Vì chúng sanh đoạn nghi ngờ, mong chúng sanh không khởi lên nghi ngờ nữa;
4. Vì chúng sanh nói sáu độ, mong chúng sanh có khả năng tu tập.
Đó gọi là bốn nghiệp đưa đến quả bất không.
Đã nói bốn thứ quả bất không của Bồ tát, kế nói sáu thứ chánh hạnh của Bồ tát.
[0651c14] Kệ tụng:
Rời cầu, rời hậu hữu
Khắp khởi các công đức
Tu thiền xả Vô sắc
Trí hợp phương tiện hạnh.
Giải thích:
Rời cầu: Chánh hạnh của bố thí, là không mong cầu báo đáp.
Rời hậu hữu: Chánh hạnh của trì giới và nhẫn nhục, là không cầu thọ hậu hữu.
Khắp khởi các công đức: Chánh hạnh của tinh tiến.
Tu thiền xả Vô sắc: Chánh hạnh của thiền định.
Trí hợp phương tiện hạnh: Chánh hạnh của trí tuệ. Ba luân thanh tịnh là trí tuệ. Hồi hướng bồ-đề là phương tiện. Như kinh Bảo tích nói: “Làm việc bố thí thì không mong cầu báo đáp...”, nói rộng như vậy.
Đã nói sáu thứ chánh hạnh của Bồ tát, kế nói phần tiến thoái của sáu ba-la-mật của Bồ tát.
[0651c22] Kệ tụng:
Tham tiền, hủy giới cấm
Ngã mạn, bỏ rơi thiện
Đắm thiền vị, phân biệt
Là thoái, ngược là tiến.
Giải thích:
Cái bị đối trị bởi sáu ba-la-mật là những nguyên nhân làm cho thoái lui. Trái với những cái bị đối trị kia là sự đối trị, và chính đó là những nguyên nhân làm cho [người tu tập] tiến lên.
Đã nói phần tiến thoái của sáu ba-la-mật của Bồ tát, kế nói công đức chân thật và tương tự của sáu ba-la-mật của Bồ tát.
[0651c28] Kệ tụng:
Hứa dối, tướng giả vờ
Vui gượng, siêng giả tạo
Thân tĩnh, miệng thiện thuyết
Tương tự, ngược là chân.
Giải thích:
Hứa dối: Bố thí tương tự, nghĩa là nói với người cầu xin rằng tha hồ lấy gì cũng được nhưng khi người ấy đến thì keo kiết [không muốn cho].
Tướng giả vờ: Trì giới tương tự, nghĩa là che đậy các điều ác bằng cách giả vờ dáng vẻ uy nghi tốt lành.
Vui gượng: Nhẫn nhục tương tự, nghĩa là nói lời ngon ngọt, giả bộ vui vẻ để chờ dịp hại người.
Siêng giả tạo: Tinh tiến tương tự, nghĩa là nói dối rằng mình cầu quả vị Phật đà, thật ra là có tâm mong cầu quả báo thế gian.
Thân tĩnh: Thiền định tương tự, nghĩa là thân đoan chính, miệng im lặng nhưng những ác giác đang nhiễu loạn trong tâm.
Miệng thiện thuyết: Trí tuệ tương tự, nghĩa là vì người mà thiện thuyết, nhưng chính bản thân không có thực hành.
Sáu thứ này là hạnh không chân thật. Trái ngược với hạnh không chân thật là hạnh chân thật.
Đã nói công đức chân thật và tương tự của sáu ba-la-mật của Bồ tát, kế nói Bồ tát vì chúng sanh đoạn trừ sáu tế.
[0652a10] Kệ tụng:
Trao người hạnh sáu độ
Trừ chướng ngại sáu tế
Bồ tát hóa chúng sanh
Mỗi địa đều như vậy.
Giải thích:
Chúng sanh có sáu tế có khả năng làm chướng ngại sáu ba-la-mật, đó là: tham lam, phá giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn và ngu si. Theo thứ tự đó, Bồ tát cung cấp cho chúng sanh những nhu cầu, làm cho chúng sanh thực hành bố thí, cho đến thực hành trí tuệ, khiến cho chúng sanh trừ được sáu chướng bằng cách dạy cho bố thí, cho đến dạy cho trí tuệ.
Đã nói Bồ tát vì chúng sanh đoạn trừ sáu tế, kế nói chư Phật thọ ký cho Bồ tát.
[0652a17] Kệ tụng:
Thọ ký có hai thứ
Người khác và thời khác
Chuyển ký và đại ký
Đây cũng có hai thứ.
Giải thích:
Thọ ký có hai thứ: 1. Người sai biệt; 2. Thời gian sai biệt.
Thọ ký người sai biệt có bốn thứ: 1. Thọ ký cho người chưa phát tâm; 2. Thọ ký cho người đã phát tâm; 3. Thọ ký cho người ở hiện tiền; 4. Thọ ký cho người không ở hiện tiền.
Thọ ký thời gian sai biệt có hai thứ: 1. Thọ ký thời gian có thể tính đếm; 2. Thọ ký thời gian không thể tính đếm.
Lại có hai thứ thọ ký: 1. Thọ ký không thoái chuyển; 2. Thọ ký đại bồ-đề.
Thọ ký không thoái chuyển là thọ ký cho một vị Bồ tát ở sau một đức Như lai như vậy hay ở vào thời tiết như vậy được thọ ký không thoái chuyển [đối với Vô thượng bồ-đề].
Hỏi: Thế nào là thọ ký đại bồ-đề?
[0652a26] Kệ tụng:
Bát địa được vô sanh
Đoạn mạn, đoạn công dụng
Chư Phật và Phật tử
Một thể đồng như thế.
Giải thích:
Thọ ký đại bồ-đề là Bồ tát ở địa thứ tám, khi chứng được vô sanh pháp nhẫn nên đoạn trừ được ngã mạn, tự nói ta sẽ làm Phật, từ bỏ tất cả phân biệt hữu tướng, hữu công dụng hành, nghĩa là được đồng một thể với tất cả chư Phật, Bồ tát.
Hỏi: Thế nào là đồng một thể?
Đáp: Không thấy chư Phật, các Bồ tát cùng với bản thân mình có gì sai biệt. Vì sao? Đồng một chân như vậy.
[0652b04] Kệ tụng:
Quốc độ và danh hiệu
Thời tiết và kiếp danh
Quyến thuộc cùng pháp trụ
Thọ ký có sáu thứ.
Giải thích:
Ở đây lại có sáu thứ thọ ký: 1. Nơi quốc độ như vậy; 2. Có danh hiệu như vậy; 3. Trải qua thời tiết như vậy; 4. Có kiếp danh như vậy; 5. Được quyến thuộc như vậy; 6. Thời kỳ chánh pháp trụ thế như vậy.
Đã nói sự thọ ký của chư Phật, kế nói sáu thứ quyết định của Bồ tát.
[0652b11] Kệ tụng:
Tiền tài thành, sanh thắng
Không thoái và tu tập
Định nghiệp, vô công dụng
Sáu sự quyết định thành.
Giải thích:
Do sáu độ tăng thượng mà Bồ tát có sáu thứ quyết định:
1. Quyết định thành tựu tiền tài, do thí có năng lực thành tựu tiền tài (địa vị) rộng lớn;
2. Quyết định sanh chỗ thù thắng, do giới có năng lực thủ đắc sự tùy ý thọ sanh;
3. Quyết định không thoái lui, do nhẫn các khổ mà thường được sự không thoái lui;
4. Quyết định tu tập, do tiến trong mọi thời gian nên tu tập được thiện pháp không có gián đoạn và ngừng nghỉ;
5. Quyết định nghiệp dụng của định, do thiền mà thành tựu sự nghiệp hóa độ chúng sanh, vĩnh viễn không thoái lui [trước những cái khổ sanh tử];
6. Quyết định vô công dụng, do trí mà được vô sanh nhẫn, được trí vô phân biệt, an trú một cách tự nhiên.
Đã nói sáu thứ quyết định của Bồ tát, kế nói sáu việc Bồ tát cần phải làm.
[0652b21] Kệ tụng:
Cúng dường và học giới
Tu bi, siêng làm thiện
Rời ồn náo, ưa pháp
Sáu việc cần phải làm.
Giải thích:
Các Bồ tát vì thành tựu sáu độ nên ở trong các địa quyết định phải làm sáu việc:
1. Cần phải cúng dường: Đây là thành tựu bố thí ba-la-mật. Nếu không cúng dường trong thời gian dài lâu thì bố thí ba-la-mật không được tròn đầy. Nghĩa của cúng dường thì ở phẩm Cúng dường đã nói.
2. Cần phải học giới: Đây là thành tựu trì giới ba-la-mật. Nếu không học giới trong thời gian dài lâu thì trì giới ba-la-mật không được tròn đầy.
3. Cần phải tu tập tâm bi: Đây là thành tựu nhẫn nhục ba-la-mật. Nếu không nhẫn các sự không lợi ích trong thời gian dài lâu thì nhẫn nhục ba-la-mật không được tròn đầy.
4. Cần phải siêng tu thiện pháp: Đây là thành tựu tinh tiến ba-la-mật. Nếu tâm phóng dật, không tu các thiện pháp thì tinh tiến ba-la-mật không được tròn đầy.
5. Rời xa sự ồn náo: Đây là thành tựu thiền định ba-la-mật. Nếu ở nơi tụ lạc, nơi có nhiều tranh cãi, nơi náo động nội tâm, thì thiền định ba-la-mật không được tròn đầy.
6. Cần phải ưa thích chánh pháp: Đây là thành tựu trí tuệ ba-la-mật. Nếu không trải khắp các quốc độ có Phật để nghe pháp không biết chán, như biển cả thu nhận nước các dòng sông mà không bao giờ đầy, thì trí tuệ ba-la-mật không được tròn đầy.
Đã nói sáu việc Bồ tát cần phải làm, kế nói sáu việc Bồ tát phải thường làm.
[0652b24] Kệ tụng:
Chán trần, tự cảnh tỉnh
Chịu khổ, tu thiện pháp
Không đắm, không phân biệt
Sáu hạnh phải thường khởi.
Giải thích:
Các Bồ tát vì thành tựu sáu ba-la-mật nên phải thường làm sáu việc:
1. Chán trần lao: Biết năm dục là tội lỗi, giống như phẩn uế, dù một chút xíu cũng là hôi thúi. Quả báo của bố thí dù được nhiều cũng là đau khổ, do đó Bồ tát rời xa sự đắm trước mà thực thi ba sự bố thí. Bồ tát thường tu việc này thì bố thí ba-la-mật tròn đầy.
2. Tự thức tỉnh: Ngày đêm sáu thời thường tự thức tỉnh, quán sát ba nghiệp đã làm, biết lỗi thì sửa đổi. Bồ tát thường tu việc này thì trì giới ba-la-mật tròn đầy.
3. Chịu đựng khổ: Chịu đựng các sự không lợi ích của chúng sanh, khi mình đi cầu pháp và các khổ lạnh, nóng v.v… Bồ tát thường tu việc này thì nhẫn nhục ba-la-mật tròn đầy.
4. Tu thiện pháp: Thiện pháp là sáu ba-la-mật. Ở trong các địa, Bồ tát thường tu việc này thì tinh tiến ba-la-mật được tròn đầy.
5. Không đắm mùi vị thiền: Không có tham đắm đối với thắng lạc ở trong thiền định, không thường nghĩ đến thọ sanh cõi Dục. Bồ tát thường tu việc này thì thiền định ba-la-mật tròn đầy.
6. Không phân biệt: Không khởi phân biệt đối với ba luân và trạng thái dị biệt. Bồ tát thường tu việc này thì trí tuệ ba-la-mật tròn đầy.
Đã nói sáu việc Bồ tát phải thường làm, kế nói thắng loại của sáu ba-la-mật của Bồ tát.
[0652c22] Kệ tụng:
Pháp thí và thánh giới
Vô sanh, khởi Đại thừa
Định bi, trí như thật
Sáu hạnh đây làm thắng.
Giải thích:
Bố thí có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy bố thí chánh pháp làm tối thượng.
Trì giới có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy tịnh giới vô lưu, giới mà các bậc thánh ưa thích, làm tối thượng.
Nhẫn nhục có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy vô sanh nhẫn ở địa thứ tám làm tối thượng.
Tinh tiến có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy sự sanh khởi tâm Đại thừa để độ thoát chúng sanh làm tối thượng.
Thiền định có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy đệ tứ thiền thuộc xuất thế gian hòa hợp với tâm đại bi làm tối thượng.
Trí tuệ có nhiều loại, nhưng Bồ tát lấy trí như thật thông đạt các pháp làm tối thượng.
Đã nói thắng loại của sáu ba-la-mật của Bồ tát, kế nói bốn thứ giả danh thiết lập.
[0653a02] Kệ tụng:
Lập pháp và lập đế
Lập lý và lập thừa
Năm, bảy, bốn, ba thứ
Kiến lập giả sai biệt.
Giải thích:
Có bốn thứ giả danh thiết lập: 1. Giả danh thiết lập giáo pháp; 2. Giả danh thiết lập bốn đế; 3. Giả danh thiết lập đạo lý; 4. Giả danh thiết lập ba thừa.
Hỏi: Mỗi giả danh thiết lập có bao nhiêu thứ?
Đáp: Giả danh thiết lập giáo pháp có năm thứ sai biệt. Giả danh thiết lập bốn đế có bảy thứ sai biệt. Giả danh thiết lập đạo lý có bốn thứ sai biệt. Giả danh thiết lập ba thừa có ba thứ sai biệt.
Năm thứ sai biệt của giả danh thiết lập giáo pháp là:
[0653a09] Kệ tụng:
Đó là năm minh xứ
Đều là chủng Đại thừa
Tu đa la, kỳ dạ
Chủng loại có sai biệt.
Giải thích:
Năm thứ của giả danh thiết lập giáo pháp là năm minh luận. Năm minh luận này là chủng loại sai biệt của Đại thừa như tu-đa-la, kỳ-dạ v.v... Năm minh xứ này đã nói trong phẩm Giác phần.
Bảy thứ sai biệt của giả danh thiết lập bốn đế là:
[0653a14] Kệ tụng:
Luân chuyển và không tướng
Duy thức và y chỉ
Tu hành và thanh tịnh
Chánh hạnh là bảy thứ.
Giải thích:
Bảy thứ sai biệt là bảy chân như: 1. Chân như nơi luân chuyển; 2. Chân như nơi không tướng; 3. Chân như nơi duy thức; 4. Chân như nơi y chỉ; 5. Chân như nơi tà hạnh; 6. Chân như nơi thanh tịnh; 7. Chân như nơi chánh hạnh.
Chân như nơi luân chuyển là đường sanh tử, tức là tâm và tâm pháp trong ba cõi. Tâm và tâm pháp ấy từ sự phân biệt mà sanh khởi. Sự phân biệt ấy từ nhân duyên mà sanh khởi, không phải từ Tự tại thiên sanh khởi, không phải từ các nguyên nhân khác sanh khởi, cũng không phải không có nguyên nhân sanh khởi. Cảnh giới của sự phân biệt vốn là tánh không, cho nên trong tất cả thời gian chỉ có hai tánh luân chuyển là tánh phân biệt và tánh y tha.
Chân như nơi không tướng là pháp vô ngã, nghĩa là tất cả các pháp đồng nhất với tánh không của chân như, lấy tánh không ấy làm thật tánh.
Chân như nơi duy thức là trí vô phân biệt.
Chân như nơi y chỉ là khổ đế. Khổ đế có hai thứ: 1. Khí thế gian; 2. Chúng sanh thế gian.
Chân như nơi tà hạnh là tập đế. Tập đế tức là ái.
Chân như nơi thanh tịnh là diệt đế. Diệt đế có hai thứ: 1. Thanh tịnh phiền não chướng; 2. Thanh tịnh trí chướng.
Chân như nơi chánh hạnh là đạo đế.
Bảy chân như này được gọi là giả danh thiết lập bốn đế. Ở đây nên biết, ba thứ chân như thuộc về hai tánh phân biệt và y tha là: (1) chân như nơi luân chuyển, (2) chân như nơi y chỉ và (3) chân như nơi tà hạnh; bốn thứ chân như thuộc về tánh chân thật là: (1) chân như nơi không tướng, (2) chân như nơi duy thức, (3) chân như nơi thanh tịnh và (4) chân như nơi chánh hạnh.
Những gì thuộc về hai tánh phân biệt và y tha là tục đế. Những gì thuộc về tánh chân thật là chân đế.
Bốn thứ sai biệt của giả danh thiết lập đạo lý là:
[0653b04] Kệ tụng:
Chánh tư, quả chánh kiến
Trạch pháp, các hiện lượng
Cũng nói bất tư nghị
Đạo lý có bốn thứ.
Giải thích:
Giả danh thiết lập đạo lý có bốn thứ: 1. Đạo lý tương đãi; 2. Đạo lý nhân quả; 3. Đạo lý thành tựu; 4. Đạo lý pháp nhiên.
Đạo lý tương đãi là chánh tư duy. Vì có chánh tư duy cho nên mới có chánh kiến xuất thế sanh khởi. Rời chánh tư duy thì không có phương tiện nào khác có thể sanh khởi chánh kiến.
Đạo lý nhân quả là chánh kiến và quả của chánh kiến.
Đạo lý thành tựu là lấy hiện lượng v.v... để giản trạch các pháp.
Đạo lý pháp nhiên là trú xứ không thể nghĩ bàn; pháp này thành tựu rồi gọi là chân như.
Hỏi: Vì sao chánh tư duy có thể sanh khởi chánh kiến?
[Đáp:] Chánh kiến thành tựu rồi thì không cần phải tư duy nữa.
[Hỏi:] Vì sao chánh kiến có năng lực đoạn trừ phiền não và đưa đến diệt độ?
[Đáp:] Đoạn trừ phiền não thành tựu rồi thì không cần phải tư duy nữa.
Các nghĩa lý như vậy đều là đạo lý pháp nhiên. Bốn thứ như vậy gọi là giả danh thiết lập đạo lý.
Ba thứ sai biệt của giả danh thiết lập ba thừa là:
[0653b16] Kệ tụng:
Tâm, thuyết, hành, tụ, quả
Năm có thấp, vừa, cao
Dựa đây ba phẩm khác
Thiết lập có ba thừa.
Giải thích:
Dựa vào năm nghĩa và ba phẩm để thiết lập ba thừa.
Năm nghĩa là: 1. Tâm; 2. Thuyết; 3. Hành; 4. Tụ; 5. Quả.
Ba phẩm là bậc thấp, bậc vừa và bậc cao.
Năm sự của hàng Thanh văn đều là bậc thấp. Tâm bậc thấp là tâm cầu giải thoát cho mình. Thuyết bậc thấp là thuyết giáo pháp lợi mình. Hành bậc thấp là thực hành hạnh lợi mình. Tụ bậc thấp là phước trí ít nhỏ do chỉ tu tập trong ba đời v.v... Quả bậc thấp là đắc quả Thanh văn.
Năm sự của hàng Duyên giác thuộc về bậc vừa.
Năm sự của hàng Bồ tát thuộc về bậc cao. Tâm bậc cao là nói bốn thứ tâm báo ơn, như kinh Kim cương Bát-nhã có nói đến. Thuyết bậc cao là đem cái tâm báo ơn mà làm sự thuyết pháp như vậy. Hành bậc cao là qua sự thuyết pháp ấy mà thực thi hạnh như vậy. Tụ bậc cao là với sự thực thi hạnh ấy mà có được khối phước trí viên mãn như vậy. Quả bậc cao là có khối phước trí viên mãn ấy thì đắc quả Vô thượng bồ-đề.
Lại nữa, Thanh văn thừa thì nghe pháp từ người khác, tư duy nội tâm, dùng trí phân biệt mà đắc quả. Duyên giác thừa thì không nghe pháp từ người khác, tư duy nội tâm, cũng dùng trí phân biệt mà đắc quả. Bồ tát thừa thì không nghe pháp từ người khác, dùng trí vô phân biệt mà đắc quả. Ba thứ này gọi là giả danh thiết lập ba thừa.
Đã nói bốn thứ giả danh thiết lập, kế nói bốn thứ suy tìm hiểu biết của Bồ tát.
[0653c04] Kệ tụng:
Danh, vật làm khách nhau
Hai tánh đều là giả
Hai biệt bất khả đắc
Đó là nghĩa bốn cầu.
Giải thích:
Các Bồ tát có bốn thứ suy tìm về các pháp: 1. Suy tìm danh; 2. Suy tìm vật; 3. Suy tìm tự tánh; 4. Suy tìm sai biệt.
Suy tìm danh là quán sát danh đối với vật chỉ là khách thể, gọi đó là suy tìm danh.
Suy tìm vật là quán sát vật đối với danh chỉ là khách thể, gọi đó là suy tìm vật.
Suy tìm tự tánh là quán sát tự tánh của danh và tự tánh của vật, biết chúng chỉ là giả thiết, gọi đó là suy tìm tự tánh.
Suy tìm sai biệt là quán sát sai biệt của danh và sai biệt của vật, biết chúng toàn là không thật nên không thể thủ đắc, gọi đó là suy tìm sai biệt.
Đã nói bốn thứ suy tìm hiểu biết, kế tiếp phân biệt bốn tri kiến như thật.
[0653c13] Kệ tụng:
Chân trí có bốn thứ
Danh, vật bất khả đắc
Hai lợi làm đại nghiệp
Thành tựu trong các địa.
Giải thích:
Các Bồ tát đối với các pháp có bốn tri kiến như thật: 1. Tri kiến như thật duyên danh; 2. Tri kiến như thật duyên vật; 3. Tri kiến như thật duyên tự tánh; 4. Tri kiến như thật duyên sai biệt.
Tri kiến như thật là biết [đúng như sự thật] về danh, vật, tự tánh và sai biệt đều không thể thủ đắc.
Hai lợi làm đại nghiệp, thành tựu trong các địa: Các Bồ tát ở trong các địa sanh khởi đại sự lợi mình, lợi người, gọi đó là nghiệp dụng của tri kiến như thật.
[0653c21] Kệ tụng:
Trú giữ và thọ dụng
Chủng tử hợp ba nhân
Y chỉ và tâm pháp
Chủng tử bị kia buộc.
Giải thích:
Ba nhân tố là: 1. Nhân tố trú giữ; 2. Nhân tố thọ dụng; 3. Nhân tố chủng tử.
Nhân tố trú giữ là khí thế giới. Nhân tố thọ dụng là [6 thức trước thọ dụng] cảnh giới ngũ dục. Nhân tố chủng tử là thức a-lại-da, do thức này làm nhân cho chủng tử của các pháp ở trong và ở ngoài.
Ba nhân tố này ví như sợi dây có năng tánh trói buộc.
Hỏi: Sợi dây này trói buộc cái gì?
Đáp: Y chỉ và tâm pháp, chủng tử bị kia buộc. Cái bị trói buộc có ba thứ: 1. Y chỉ; 2. Tâm pháp; 3. Chủng tử nơi thức a-lại-da.
Hỏi: Y chỉ là những gì?
Đáp: Là sáu căn: mắt, tai, v.v…
Hỏi: Chủng tử nơi thức a-lại-da là gì?
Đáp: Là chủng tử của các pháp ở trong và ở ngoài trong ba cõi. Trong ba cõi, chỉ có thức a-lại-da mới có khả năng trói buộc, không có ai khác hay bản thân có khả năng trói buộc. Đó là tri kiến như thật về sự trói buộc.
[0654a04] Kệ tụng:
Tướng yên ổn nơi tâm
Và an trú tự nhiên
Tất cả cùng quán sát
Đến được đại bồ-đề.
Giải thích:
Tướng yên ổn nơi tâm: Sắc thái yên ổn là phương tiện cho ba tuệ văn, tư, tu, nghĩa là làm sở duyên cho người khởi phân biệt, gọi là tướng yên ổn.
Và an trú tự nhiên: Sắc thái tự nhiên là tự tánh hiện tiền, không phải sự phân biệt, gọi là an trú tự nhiên.
Tất cả cùng quán sát: Thể của hai sắc thái kia, sở duyên và phi sở duyên, là vô phân biệt. Lấy hai sắc thái ấy làm phương tiện để đối trị các tướng. Nên quán sát hai sắc thái ấy theo thứ tự: trước quán sát sắc thái yên ổn, sau quán sát sắc thái an trú tự nhiên. Hai sắc thái này là thể của phi duyên. Chúng sanh khởi bốn điên đảo, tu tập theo hai sắc thái này mà chúng được diệt trừ.
Đến được đại bồ-đề: Người tu hành nếu chỉ quán sát nhân tướng thì chỉ đắc Thanh văn, Duyên giác bồ-đề; nếu quán sát tất cả pháp tướng thì đắc Vô thượng bồ-đề. Như vậy, tùy theo chỗ trói buộc khác nhau mà có sự giải thoát khác nhau. Đó là tri kiến như thật về sự giải thoát.
Hỏi: Sự giải thoát ở đây là do cái gì được nhận thức, là do cái gì được hủy diệt?
[0654a17] Kệ tụng:
Nếu trí duyên chân như
Rời xa hai chấp kia
Biết nhân khối huân tập
Tánh y tha liền mất.
Giải thích:
Nếu biết đủ ba tánh thì hủy diệt được tánh y tha.
Nếu trí duyên chân như: Là biết tánh chân thật.
Rời xa hai chấp kia: Là biết tánh phân biệt.
Biết nhân khối huân tập: Là biết tánh y tha.
Tánh y tha liền mất: Biết ba tánh tức là khối huân tập không còn. Khối huân tập là thức a-lại-da.
Hỏi: Tánh y tha mất thì có những công đức gì?
[0654a24] Kệ tụng:
Trí duyên chân như ấy
Quán sát không dị tướng
Hữu, phi hữu hiện thấy
Tưởng tác tự tại thành.
Giải thích:
Quán sát không dị tướng: Là cái thấy không sai biệt về biệt tướng và chân như; do đây mà nói nhị thừa và Bồ tát khác nhau.
Hàng nhị thừa thì thấy hữu tướng và vô tướng có sai biệt; thấy như vậy rồi nên xả hết các tướng, đối với cảnh giới vô tướng sanh khởi tác ý duyên [vào diệt], nhập vô tướng tam-muội.
Hàng Bồ tát thì không thấy như vậy, đối với cảnh giới ngoài chân như không thấy các tướng hiện hữu riêng biệt, đối với cảnh giới vô tướng cũng thấy vô tướng, do Bồ tát quán trí tu tập vô chủng chủng tướng.
Hữu, phi hữu hiện thấy: Cảnh giới chân như có danh ngôn và cảnh giới hữu tướng không có danh ngôn đều là sự hiện thấy các pháp.
Tưởng tác tự tại thành: Tác ý dẫn ra các sự thần thông mà tất cả sự đó thành tựu là do dứt sạch ức tưởng phân biệt.
Đây là sự lợi ích của tri kiến như thật.
Hỏi: Cái thấy của phàm phu và cái thấy của Bồ tát hiển thị thế nào?
[0654b07] Kệ tụng:
Che thật, thấy không thật
Nên biết là phàm phu
Thấy thật, che không thật
Như vậy gọi Bồ tát.
Giải thích:
Vô công dụng của phàm phu là không thấy chân như, không thấy sắc thái chân thật.
Vô công dụng của Bồ tát là thấy chân như, không thấy sắc thái không chân thật.
Hỏi: Đã biết sự sai biệt giữa phàm phu và Bồ tát, làm thế nào để chuyển y và được giải thoát?
[0654b12] Kệ tụng:
Nên biết không thấy, thấy
Cảnh không nghĩa, có nghĩa
Chuyển y và giải thoát
Là để được tự tại.
Giải thích:
Cảnh giới không có thắng nghĩa là các tướng. Không thấy, là không thấy thắng nghĩa.
Cảnh giới có thắng nghĩa là chân như. Thấy, là thấy thắng nghĩa. Như vậy gọi là chuyển y.
Thấy cảnh giới sở chấp [bởi tánh phân biệt] là không thật thể và thấy chân như là có thật thể. Như vậy gọi là giải thoát.
Vì sao gọi là giải thoát? Là để được tự tại. Tự tại nghĩa là theo ý mình chuyển hóa một cách tự nhiên, không làm gì cả đối với các cảnh giới. Như trong kinh có nói: “Nếu thấy có các tướng tức là bị trói buộc, bị trói buộc tức là không giải thoát.” Không làm gì cả đối với các cảnh giới tức là giải thoát.
Hỏi: Thế nào là tri kiến như thật về phương tiện sanh tịnh độ?
[0654b21] Kệ tụng:
Chúng sanh đồng một chủng
Địa cảnh đều thấy khắp
Là chướng ngại tịnh độ
Biết vậy cần phải xả.
Giải thích:
Chúng sanh đồng một chủng, địa cảnh đều thấy khắp: Khí thế giới là đại cảnh giới. Tất cả chúng sanh thấy cùng một chủng loại, đều nói đây là đại địa.
Là chướng ngại tịnh độ: Có cái thấy như vậy tức là làm chướng ngại cho phương tiện sanh tịnh độ.
Biết vậy cần phải xả: Bồ tát biết những ức tưởng này là chướng ngại, thì tinh cần xả bỏ những tưởng ấy, gọi đó là đối trị.
Đã nói bốn thứ tri kiến như thật của Bồ tát, kế nói năm sự vô lượng của Bồ tát.
[0654b29] Kệ tụng:
Nên giáo hóa, làm sạch
Nên chứng đắc, hoàn thành
Thuyết pháp, là năm sự
Vô lượng của Bồ tát.
Giải thích:
Năm sự vô lượng là:
1. Sự giáo hóa vô lượng, là nhiếp tất cả chúng sanh giới;
2. Sự làm sạch vô lượng, là nhiếp tất cả khí thế giới;
3. Sự chứng đắc vô lượng, là nhiếp tất cả pháp giới;
4. Sự hoàn thành vô lượng, là nhiếp tất cả chúng sanh có thể hóa độ;
5. Sự thuyết pháp vô lượng, là nhiếp mười hai bộ kinh, chính là phương tiện hóa đạo chúng sanh.
Đã nói năm sự vô lượng của Bồ tát, kế nói sự thuyết pháp của Bồ tát có tám quả.
[0654c08] Kệ tụng:
Phát tâm và đắc nhẫn
Tịnh nhãn và tận lậu
Pháp trụ, học và đoạn
Thọ dụng là tám quả.
Giải thích:
Bồ tát tinh cần thuyết pháp thì đưa đến tám quả [cho người nghe pháp]:
1. Người nghe pháp phát tâm bồ-đề;
2. Người nghe pháp đắc vô sanh nhẫn;
3. Người nghe pháp rời xa trần cấu, đối với các pháp được mắt pháp trong sáng, và ở đây được nhiếp vào thừa bậc thấp;
4. Người nghe pháp được các lậu diệt tận;
5. Làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài, vì nhờ sự thuyết pháp mà chánh pháp được triển chuyển thọ trì;
6. Người chưa học giáo nghĩa [Đại thừa] thì làm cho học được giáo nghĩa [Đại thừa];
7. Người chưa dứt hoài nghi [về Đại thừa] thì làm cho hết hoài nghi [về Đại thừa];
8. Người đã hết hoài nghi [về Đại thừa] thì làm cho thọ dụng mùi vị chánh pháp với sự vui mừng lớn lao, không có chướng ngại
Đã nói sự thuyết pháp của Bồ tát có tám quả, kế nói bảy nghĩa lớn lao của Đại thừa.
[0654c18] Kệ tụng:
Duyên, hành, trí, cần, xảo
Quả, sự đều đầy đủ
Theo bảy nghĩa lớn này
Thiết lập nơi Đại thừa.
Giải thích:
Có đầy đủ bảy nghĩa lớn lao sau đây thì gọi là Đại thừa:
1. Duyên tố lớn lao, vì lấy vô lượng giáo pháp rộng lớn sâu xa là các tu-đa-la v.v… làm duyên tố;
2. Tu hành lớn lao, vì thực hành sự lợi mình, lợi người một cách đầy đủ;
3. Trí tuệ lớn lao, vì cùng một lúc thông suốt nhân vô ngã và pháp vô ngã;
4. Tinh cần lớn lao, vì trải qua ba vô số kiếp tu hành không có ngừng nghỉ;
5. Thiện xảo lớn lao, vì không bỏ sanh tử mà không nhiễm sanh tử;
6. Thành quả lớn lao, vì có được mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng;
7. Hiện sự lớn lao, vì thị hiện đại bồ-đề và đại niết-bàn ở trong vô lượng quốc độ.
Đã nói bảy nghĩa lớn lao của Đại thừa, kế nói tám pháp tổng nhiếp Đại thừa.
[0654c28] Kệ tụng:
Tánh, tín, tâm, hành, nhập
Thành, tịnh, bồ-đề thắng
Như vậy tám chủng sự
Tổng nhiếp các Đại thừa.
Giải thích:
Ở đây lấy tám sự để tổng nhiếp tất cả pháp Đại thừa. Tám sự là:
1. Chủng tánh, như trong phẩm Chủng tánh [thứ tư] đã nói;
2. Đức tin chánh pháp, như trong phẩm Minh tín [thứ mười một] đã nói;
3. Phát tâm, như trong phẩm Phát tâm [thứ năm] đã nói;
4. Thực hành các hạnh, như trong phẩm Độ nhiếp [thứ mười bảy] đã nói;
5. Nhập đạo, như trong phẩm Giáo thọ [thứ mười lăm] đã nói;
6. Thành thục chúng sanh, là Bồ tát từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy;
7. Làm sạch thế giới của Phật, là Bồ tát bất thoái từ địa thứ tám trở lên;
8. Bồ-đề thù thắng, là Phật địa.
Bồ-đề có ba loại khác nhau, đó là Thanh văn bồ-đề, Duyên giác bồ-đề và Phật bồ-đề. Phật bồ-đề thì vĩ đại, nên nói là thù thắng. Ở Phật địa thì có sự thị hiện [viên mãn] đại bồ-đề và đại niết-bàn.
Đã nói tám pháp tổng nhiếp Đại thừa, kế nói năm hạng Bồ tát sai biệt.
[0655a09] Kệ tụng:
Tín hành và tịnh hành
Tướng hành, vô tướng hành
Cho đến vô tác hành
Sai biệt y các địa.
Giải thích:
Bồ tát có năm hạng sai biệt:
1. Hạng tín hành: là Bồ tát trước khi nhập các địa, ở vô số kiếp thứ nhất;
2. Hạng tịnh tâm hành: là Bồ tát nhập sơ địa;
3. Hạng hữu tướng hành: là Bồ tát ở địa thứ hai cho đến địa thứ sáu;
4. Hạng vô tướng hành: là Bồ tát ở địa thứ bảy;
5. Hạng vô tác hành: là Bồ tát ở ba địa sau cùng.
Đã nói năm hạng Bồ tát sai biệt, kế nói các sắc thái sai biệt của Bồ tát.
[0655a16] Kệ tụng:
Không đắm trước, thanh tịnh
Kềm chế giận, siêng đức
Không động và thấy thật
Có dục gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ lợi mình để nói sắc thái Bồ tát.
Không đắm trước là có năng lực thực hành bố thí mà không đắm trước các dục. Thanh tịnh là có năng lực trì giới. Kềm chế giận dữ là có năng lực nhẫn nhục. Siêng năng tu đức là có năng lực tinh tiến. Không động là có năng lực tu tập thiền định. Thấy đúng chân thật là có năng lực tu tập trí tuệ. Có dục tâm là có năng lực phát khởi chí nguyện ưa thích đại bồ-đề.
Thực hành bảy cửa ngõ này gọi là sắc thái Bồ tát.
[0655a23] Kệ tụng:
Tùy nhiếp, không não hại
Chịu oán hại, dũng lực
Không phóng dật, đa văn
Lợi người gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ lợi người để nói sắc thái Bồ tát.
Tùy nhiếp là bố thí, là thường lấy bốn pháp nhiếp để nhiếp hóa chúng sanh. Không não hại là trì giới, là mình tin tưởng nơi người, không có ý niệm não hại ai. Chịu oán hại là nhẫn nhục, là người đem đến những trái nghịch mà không ôm lòng oán thù. Dũng lực là tinh tiến, là ở trong cảnh khổ hóa độ chúng sanh mà không có tâm thoái lui khuất phục. Không phóng dật là thiền định, là không đắm mùi vị thiền, không màng đời sau thọ sanh vào nơi nào. Đa văn là trí tuệ, là có năng lực đoạn trừ tất cả hoài nghi của chúng sanh.
Tinh cần thực hành những sự lợi người như vậy là sắc thái của Bồ tát.
[0655a26] Kệ tụng:
Chán tiền của, bỏ dục
Quên oán, siêng làm lành
Khéo tướng, không ác kiến
Nội trú gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ an trú công đức để nói sắc thái Bồ tát.
Chán tiền của, là an trú công đức của thí, vì biết tội lỗi của sự tham lam tiền của là sẽ rơi vào đường dữ hay đời sau nghèo túng.
Bỏ dục, là an trú công đức của giới, vì biết mê đắm năm dục thì không thể xuất gia, thọ trì tịnh giới.
Quên oán, là an trú công đức của nhẫn, là người đem lại tổn hại cho mình vẫn không sanh tâm oán thù; người oán thù thì [nghiệp xấu tạo ra còn mãi] như khắc vào tảng đá, sẽ rơi vào đường dữ; người không oán thù thì [nghiệp xấu tạo ra nhanh chóng tiêu trừ] như vẽ trên mặt nước, sẽ sanh vào nẻo lành.
Siêng làm lành, là an trú công đức của tiến, là vì lợi mình và lợi người mà thực hành sáu ba-la-mật.
Khéo tu hữu tướng, là an trú công đức của định, là có khả năng khéo léo phân biệt ba tướng: tịnh chỉ, sách cử và xả.
Không có ác kiến, là an trú công đức của tuệ, là không thủ đắc tất cả các tướng.
Nội trú, là an trú công đức của nguyện, là tự nội an trú bất động, như trong luận Đại thừa nói.
[0655b15] Kệ tụng:
Đủ bi, sanh hổ thẹn
Chịu khổ sở, xả lạc
Trì niệm, khéo tập định
Không xả gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ không thoái lui để nói sắc thái Bồ tát.
Đầy đủ đại bi là bố thí không thoái lui, là thương xót cái khổ của người làm động lực cho sự thực hành bố thí.
Sanh khởi hổ thẹn là trì giới không thoái lui, là quán sát [nhân quả] đời này đời khác, quán sát về con người và các pháp để không tạo tác các lầm lỗi.
Chịu đựng khổ sở là nhẫn nhục không thoái lui, là gió mưa lạnh nóng v.v… và những trái nghịch, tổn hại do người khác đem lại, tất cả khổ sở ấy đều có thể nhận chịu.
Xả lạc là tinh tiến không thoái lui, là người có năng lực thực hành chánh cần, không đắm trong sự hỷ lạc của mình.
Trì niệm là thiền định không thoái lui, là người có năng lực khéo nhiếp tâm, do trước đã có niệm lực.
Khéo tập định là trí tuệ không thoái lui, là đầy đủ trí vô phân biệt.
Không xả bỏ là nguyện không thoái lui, là không xả bỏ Đại thừa.
[0655b25] Kệ tụng:
Trừ khổ, không gây khổ
Ôm khổ, không sợ khổ
Thoát khổ, không nhớ khổ
Muốn khổ gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ lìa khổ để nói sắc thái Bồ tát.
Trừ khổ là bố thí, là thí cho người tài vật để trừ bỏ sự nghèo túng.
Không gây khổ là trì giới, là khi Bồ tát sống trong tịnh giới thì không gây khổ não cho người.
Ôm khổ là nhẫn nhục, là khi làm việc lợi mình lợi người thì cần có năng lực chấp nhận khổ đau.
Không sợ khổ là tinh tiến, là khi làm việc khó làm thường không thoái lui.
Thoát khổ là thiền định, là khi rời xa những ham muốn của cõi Dục thì giải thoát khổ khổ.
Không nhớ khổ là trí tuệ, là khi ba luân thanh tịnh thì không còn sanh khởi phân biệt.
Muốn khổ là nguyện, là vì hóa độ chúng sanh mà Bồ tát ưa thích trú trong sanh tử.
[0655c05] Kệ tụng:
Pháp ưa, pháp tự tánh
Pháp quở, pháp siêng năng
Pháp tự tại, pháp sáng
Pháp hướng gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ pháp tu để nói sắc thái Bồ tát.
Pháp tu ưa thích là bố thí, là ưa thích tu tập các pháp môn như bố thí v.v…
Pháp tu tự tánh là trì giới, là lấy tự tánh giới mà hộ trì (thân tâm).
Pháp tu quở trách là nhẫn nhục, là pháp tu đối trị chê bai, oán ghét, giận dữ.
Pháp tu siêng năng là tinh tiến, là siêng năng thực hành giáo pháp Đại thừa.
Pháp tu tự tại là thiền định, là xuất nhập các thiền định một cách tự tại.
Pháp tu sáng tỏ là trí tuệ, là đầy đủ tuệ giác tuyệt bậc.
Pháp tu một hướng là nguyện, là một bề ưa thích đại bồ-đề.
Hỏi: Vì sao gọi là pháp tu?
Đáp: Vì tất cả các pháp ba-la-mật đều triển chuyển theo nhau [mà tu tập].
[0655c14] Kệ tụng:
Tài, chế, hộ, thiện, lạc
Pháp tánh và Đại thừa
Bảy thứ không phóng dật
Cho nên gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ không phóng dật để nói sắc thái Bồ tát.
1. Không phóng dật tài sản: Đây là nói về bố thí; tiền của không thí thì không vững chắc, tiền của đã thí thì vững chắc;
2. Không phóng dật cấm chế: Đây là nói về trì giới; như Phật dạy, có điều cần phải làm thì làm, điều không nên làm thì không làm;
3. Không phóng dật hộ trì: Đây là nói về nhẫn nhục; hộ trì cái tâm của mình, cái tâm của người, không cho cả hai bị tổn hại;
4. Không phóng dật thiện pháp: Đây là nói về tinh tiến; thường khởi [bốn] chánh cần, tu hành sáu ba-la-mật;
5. Không phóng dật lạc thọ: Đây là nói về thiền định; khi tu các thiền định thì tâm có lạc thọ nhưng không tham đắm mùi vị của nó;
6. Không phóng dật pháp tánh: Đây là nói trí tuệ; là biết đúng như sự thật về pháp tánh chân như [đồng nhất];
7. Không phóng dật Đại thừa: Đây là nói về đại nguyện; ma vương có đến phá hoại người tu thì tâm bồ-đề cũng không thoái chuyển.
[0655c25] Kệ tụng:
Không toại ý, tội nhỏ
Chưa nhẫn, thoái, tán động
Thấy nhỏ hẹp, thừa khác
Bảy thẹn gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ có hổ thẹn để nói sắc thái Bồ tát.
1. Hổ thẹn không toại ý: hổ thẹn vì còn tâm keo lẫn, tham lam;
2. Hổ thẹn tội nhỏ: hổ thẹn vì còn những tội lỗi nhỏ nhặt, thấy được mà lòng lo sợ;
3. Hổ thẹn chưa nhẫn: hổ thẹn vì chưa nhẫn chịu được;
4. Hổ thẹn thoái lui: hổ thẹn vì còn biếng nhác;
5. Hổ thẹn tán động: hổ thẹn vì thoái lui khi tu tập thiền định;
6. Hổ thẹn thấy nhỏ hẹp: hổ thẹn vì còn kiến chấp nhỏ hẹp nên chưa thông suốt pháp vô ngã;
7. Hổ thẹn thừa khác: hổ thẹn vì khởi tâm tiểu thừa, bỏ đại bồ-đề.
[0656a03] Kệ tụng:
Đời này, đời sau, xả
Khởi tinh cần, đắc thông
Bình đẳng thuyết, đại quả
Bảy nhiếp gọi Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này lấy cửa ngõ nhiếp hóa chúng sanh để nói sắc thái Bồ tát.
1. Nhiếp hóa đời này: là lấy bố thí để nhiếp hóa chúng sanh hiện tại;
2. Nhiếp hóa đời sau: là lấy trì giới để nhiếp hóa chúng sanh vị lai, vì có được chỗ sanh thù thắng mới đủ năng lực nhiếp hóa;
3. Nhiếp hóa buông xả: là lấy nhẫn nhục để nhiếp hóa chúng sanh bức não, vọng động;
4. Nhiếp hóa khởi tinh cần: là lấy tinh tiến để nhiếp hóa chúng sanh biếng nhác;
5. Nhiếp hóa đắc thần thông: là lấy thiền định để nhiếp hóa chúng sanh ở phương khác, qua lại mà giáo hóa;
6. Nhiếp hóa bình đẳng thuyết pháp: là lấy trí tuệ để nhiếp hóa chúng sanh bậc thấp, bậc vừa và bậc cao, bằng cái tâm bình đẳng mà thuyết [chân như] không có thêm lên hay bớt đi;
7. Nhiếp hóa đại quả: là lấy đại nguyện chứng đắc quả vị Phật đà để nhiếp hóa chúng sanh không bỏ sót [một loài nào].
Ý nghĩa của các kệ tụng trên là lấy những cửa ngõ khác nhau để nói về sáu ba-la-mật và đại nguyện. Đó là những sắc thái Bồ tát cần phải biết.
Đã nói các sắc thái sai biệt của Bồ tát, kế nói các danh sai biệt của Bồ tát.
[0656a16] Kệ tụng:
Nên biết các Bồ tát
Cũng gọi ma ha tát
Cũng gọi hữu tuệ giả
Cũng gọi thượng thành tựu
Cũng gọi hàng phục tử
Cũng gọi hàng phục trì
Cũng gọi năng hàng phục
Cũng gọi hàng phục nha
Cũng gọi là dũng mãnh
Cũng gọi là thượng thánh
Cũng gọi là đạo sư
Cũng gọi là đại danh xưng
Cũng gọi là hữu bi
Cũng gọi là đại phước đức
Cũng gọi tự tại hành
Cũng gọi chánh thuyết giả.
Giải thích:
Mười sáu tên gọi này đều dựa vào nghĩa mà lập ra. Tất cả Bồ tát có chung những tên gọi này. Nếu ai nghe những tên gọi này thì phải biết đó là bậc Bồ tát.
Đã nói các danh sai biệt của Bồ tát, kế nói các nghĩa sai biệt của Bồ tát.
[0656a27] Kệ tụng:
Thật giác, đại nghĩa giác
Nhất thiết giác, hằng giác
Và cùng phương tiện giác
Năm giác gọi Bồ tát.
Giải thích:
Do có năm tuệ giác mà gọi là Bồ tát:
1. Tuệ giác thật nghĩa: là giác ngộ nhân vô ngã và pháp vô ngã;
2. Tuệ giác đại nghĩa: là giác ngộ nghĩa lợi ích mình người;
3. Tuệ giác nhất thiết: là giác ngộ nghĩa nhất thiết chủng;
4. Tuệ giác hằng hữu: là tuy thị hiện niết-bàn nhưng tuệ giác thì vô tận;
5. Tuệ giác phương tiện: là hiểu rõ đối tượng, căn cơ mà làm các phương tiện.
[0656b05] Kệ tụng:
Tùy ngã và tiểu kiến
Cùng với các thức thân
Và bất chân phân biệt
Bốn giác gọi Bồ tát.
Giải thích:
Lại do có bốn tuệ giác mà gọi là Bồ tát:
1. Tuệ giác tùy ngã: là giác ngộ về tâm; tâm ấy là thức a-lại-da;
2. Tuệ giác tiểu kiến: là giác ngộ về ý; ý ấy là [hoạt động tư duy, đắn đo, ước lượng, phán đoán tương ưng với bốn hoặc là ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái mà vin theo thức a-lại-da;
3. Tuệ giác thức thân: là giác ngộ về thức; thức ấy là các thức thân;
4. Tuệ giác bất chân phân biệt: là giác ngộ về bất chân phân biệt; bất chân phân biệt là ở trước tâm, ý và thức, tất cả Bồ tát chỉ có tuệ giác, đó gọi là bất chân phân biệt.
[0656b08] Kệ tụng:
Vô cảnh và chân nghĩa
Vĩnh vô và viên mãn
Cũng nói bất khả đắc
Năm giác gọi Bồ tát.
Giải thích:
Lại do có năm tuệ giác mà gọi là Bồ tát:
1. Tuệ giác vô cảnh: là giác ngộ tánh y tha;
2. Tuệ giác chân nghĩa: là giác ngộ tánh chân thật;
3. Tuệ giác vĩnh vô: là giác ngộ tánh phân biệt;
4. Tuệ giác viên mãn: là giác ngộ nhất thiết cảnh, nhất thiết chủng;
5. Tuệ giác bất khả đắc: là giác ngộ ba luân thanh tịnh; ba luân: một là tuệ giác thích ứng, là cảnh giới của Bồ tát; hai là tuệ giác y chỉ, là thân của Bồ tát; ba là tánh giác, là trí của Bồ tát; ba luân này không thể thủ đắc nên gọi là tuệ giác bất khả đắc.
[0656b21] Kệ tụng:
Thành tựu và xứ sở
Thai tạng, tùy thứ hiện
Và đã đoạn nghi sâu
Năm giác gọi Bồ tát.
Giải thích:
Lại do có năm tuệ giác mà gọi là Bồ tát:
1. Tuệ giác thành tựu: là thành tựu quả vị Phật đà;
2. Tuệ giác xứ sở: là trú cung trời Đâu-suất;
3. Tuệ giác thai tạng: là nhập thai mẹ;
4. Tuệ giác tùy thứ hiện: là xuất thai, thọ dục, xuất gia, tu hành và thành đạo;
5. Tuệ giác đoạn nghi sâu: là vì các chúng sanh mà chuyển đại pháp luân.
[0656b27] Kệ tụng:
Đắc, không đắc và trú
Với mình và với người
Có thuyết và không thuyết
Có mạn và mạn đoạn
Chưa thục, đã thành thục
Mười một thứ như vậy
Tất cả đều năng giác
Cho nên gọi Bồ tát.
Giải thích:
Lại do có mười một tuệ giác mà gọi là Bồ tát:
Đắc, không đắc và trú: Là tuệ giác về quá khứ, vị lai và hiện tại.
Với mình và với người: Là tuệ giác ở trong và tuệ giác ở ngoài.
Có thuyết và không thuyết: Là tuệ giác thô trọng và tuệ giác vi tế.
Có mạn và mạn đoạn: Là tuệ giác hạ liệt và tuệ giác thù thắng.
Chưa thục, đã thành thục: Là tuệ giác ở xa và tuệ giác ở gần [bồ-đề]; tuệ giác của bậc chưa thành thục nghĩa là vị ấy còn rất lâu xa mới đạt đến toàn giác; tuệ giác của bậc đã thành thục nghĩa là vị ấy đến rất gần sự toàn giác.
Phẩm Công Đức trọn vẹn Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.144.109 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.