Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận [大乘莊嚴經論] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận [大乘莊嚴經論] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.63 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.69 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh

Kinh này có 13 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |
Việt dịch: Quảng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm Một
DUYÊN KHỞI

[0590b06] Kệ tụng:
Nghĩa trí giải các nghĩa,
Ngôn cú không nhiễm ô.
Cứu giúp chúng sanh khổ,
Do tự tánh từ bi,
Khéo thuyết pháp phương tiện,
Gọi là thừa tối thượng.
Vì người phát đại tâm,
Lược dùng năm nghĩa nói.
Giải thích:
Luận giải về sự trang nghiêm kinh điển Đại thừa thì ai có thể trang nghiêm?
Đáp: [Bậc] nghĩa trí có thể trang nghiêm.
Hỏi: Vì sao [bậc] nghĩa trí có thể trang nghiêm?
Đáp: Vì khai mở các nghĩa.
Hỏi: Dùng gì khai mở?
Đáp: Dùng ngôn từ và câu cú.
Hỏi: Ngôn từ như thế nào, câu cú như thế nào?
Đáp: Đó là ngôn từ không ô nhiễm và câu cú không ô nhiễm. Ngôn từ không ô nhiễm là ngôn từ đưa đến thành Niết-bàn. Câu cú không ô nhiễm là từ ngữ và câu tương ưng. Nếu lìa ngôn từ không ô nhiễm và câu cú không ô nhiễm thì các nghĩa lý không thể được thấu hiểu.
Hỏi: Dùng nghĩa gì để trang nghiêm?
Đáp: Nghĩa cứu giúp chúng sanh đang khổ sở.
Hỏi: Chúng sanh tự làm khổ, dùng nhân tố nào để cứu giúp?
Đáp: Bậc Bồ tát lấy tâm đại bi làm tự thể, thương xót chúng sanh.
Hỏi: Việc cứu khổ chúng sanh thì trang nghiêm cho pháp gì?
Đáp: Trang nghiêm pháp phương tiện mà Như lai đã khéo nói.
Hỏi: Thế nào là pháp phương tiện?
Đáp: Đó là pháp tối thượng thừa.
Hỏi: Vì ai mà trang nghiêm?
Đáp: Vì người phát tâm Đại thừa.
Hỏi: Có mấy nghĩa trang nghiêm?
Đáp: Lược có năm nghĩa thị hiện.
Hỏi: Thế nào là năm nghĩa?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0590b23] Kệ tụng:
Như vàng làm vật dụng
Như hoa đang độ nở
Như ăn một bữa ngon
Như hiểu biết văn tự
Như mở cái tráp báu
Mỗi việc được hoan hỷ
Năm nghĩa pháp trang nghiêm
Hoan hỷ cũng như vậy.
Giải thích:
Năm thí dụ này dụ cho năm nghĩa pháp trang nghiêm kia. Năm nghĩa pháp có thể làm người phát khởi tâm Đại thừa, tuần tự là: tín hướng, thọ giáo, tư duy, tu tập và chứng đắc.
Hỏi: Năm nghĩa pháp ấy như thế nào?
Đáp: Thí dụ vàng làm vật dụng chỉ cho sự tin tưởng hướng về giáo pháp (tín hướng) làm chuyển hóa tâm thức chúng sanh. Thí dụ hoa đang độ nở chỉ cho sự tiếp nhận giáo pháp (thọ giáo) làm cho chúng sanh khai mở tâm thức. Thí dụ ăn một bữa ngon chỉ cho sự tư duy giáo pháp (tư duy) thì có được mùi vị của giáo pháp. Thí dụ hiểu biết văn tự chỉ cho sự tu tập không có do dự (tu tập). Thí dụ mở cái tráp báu chỉ cho sự chứng đắc bồ-đề phần bảo chân thật (chứng đắc), tức là sự tự giác chứng. Do năm nghĩa pháp này mà phân biệt Đại thừa (là thế nào), làm cho người phát tâm sanh tâm ưa thích (Đại thừa).
Hỏi: Nếu pháp Đại thừa có đầy đủ tự tánh và công đức thì còn nghĩa nào nữa cần cho sự trang nghiêm?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0590c06] Kệ tụng:
Như trang sức vật đẹp
Soi gương sanh vui thích
Diệu pháp trang nghiêm rồi
Được cái vui thứ nhất.
Giải thích:
Thí như người trang sức thêm vật đẹp trên thân, đứng trước gương soi thì sanh lòng vui vẻ. Vì sao? Vì có sự vui thích. Bồ tát cũng vậy, trang nghiêm bằng diệu pháp, nghĩa là thể nhập tự tâm, thì sanh tâm hoan hỷ thù thắng. Vì sao? Có câu hỏi sau đây.
Hỏi: Diệu pháp có công đức gì cần cho sự trang nghiêm? Vì sao thôi thúc người sanh tâm cung kính, tin tưởng, tiếp nhận diệu pháp?
[0590c13] Kệ tụng:
Thí như uống thuốc đắng
Bịnh bớt là nhờ thuốc
Trú văn và hiểu nghĩa
Khổ vui cũng như vậy.
Như việc khó hầu vua
Nhờ hầu được uy quyền
Cũng vậy pháp khó hiểu
Nhờ hiểu được pháp tài.
Thí như thấy báu sanh
Không biết thì không thích
Cũng vậy nghe diệu pháp
Không giác ngộ, không vui.
Giải thích:
Ba bài kệ tụng trên lần lượt chỉ ra diệu pháp có ba công đức: 1. Công đức của nhân tố đoạn chướng; 2. Công đức của nhân tố tự tại; 3. Công đức của nhân tố diệu hỷ.
Hỏi: Nghĩa này như thế nào?
Đáp: Như việc uống thuốc đắng, lúc đầu khổ sở vì thuốc đắng khó uống, sau đó vui vẻ vì bịnh tình thuyên giảm. Diệu pháp cũng như vậy, lúc trú ở nơi văn tự thì khổ sở vì khó được pháp vị, nhưng khi hiểu biết được nghĩa lý thì vui thích vì phá được bịnh chướng. Như hầu vị vua nghiêm minh, ban đầu thì khổ sở vì khó được vừa ý vua, nhưng sau đó thì vui vẻ vì được vua ban cho uy quyền. Diệu pháp cũng như vậy, khi tư duy giáo pháp thì khổ sở vì sự thâm sâu, khó hiểu của giáo pháp, nhưng khi tư duy thấu hiểu giáo pháp thì an vui vì tăng trưởng tài sản của bậc Thánh. Như việc nhìn thấy báu vật sanh ra, khi không biết đó là báu vật nên không ưa thích, cho nó là vô dụng, nhưng khi biết được đó là báu vật thì quý trọng, biết nó có công dụng. Diệu pháp cũng như vậy, khi tu hành thì không hoan hỷ, cho là trống rỗng, không thấy được công dụng của sự tu hành, nhưng khi tu hành chứng đắc thì có niềm vui sâu xa, biết rằng sự tu hành có công dụng lớn.
Phẩm Duyên Khởi trọn vẹn
Phẩm Hai
THÀNH TÔNG
Giải thích:
Có người nghi ngờ rằng pháp Đại thừa không phải do đức Phật nói ra thì làm sao pháp Đại thừa có công đức có thể thủ đắc. Nay tôi xác quyết lưới nghi ngờ kia rằng sự thành lập Đại thừa là sự thật chắc chắn do đức Phật nói ra.
[0591a05] Kệ tụng:
Không dự ký, cùng hành
Không hành và thành tựu
Thể, phi thể, năng trị
Văn khác, tám nhân thành.
Sự thành lập Đại thừa lược nói có tám nhân tố: 1. Không dự ký; 2. Cùng thực hành; 3. Không cùng thực hành; 4. Thành tựu bồ-đề; 5. Thể Đại thừa; 6. Chẳng phải thể Đại thừa; 7. Khả năng đối trị; 8. Văn nghĩa khác lạ.
1. Không dự ký: Khi chánh pháp đã diệt mất thì sau đó một đức Phật chánh thức xuất hiện. Nếu Đại thừa không phải là chánh pháp, tại sao đức Thế Tôn ban đầu không dự ký việc đó? Giả dụ như trong thời gian vị lai mà có giáo pháp nào khác thì ắt hẳn đức Thế Tôn đã dự ký, cho nên sự không dự ký [của đức Thế Tôn] cho thấy Đại thừa là do Phật thuyết.
2. Cùng thực hành: Thanh văn thừa và Đại thừa không thể nói rằng thừa nào có trước, thừa nào có sau, mà đồng thời cả hai thừa cùng thực hành [chánh pháp]. Ông làm sao biết chỉ riêng pháp Đại thừa là không phải do Phật thuyết?
3. Không cùng thực hành: Pháp Đại thừa sâu rộng, không phải là đối tượng phỏng đoán của con người để có thể tin hiểu, huống là có thể thực hành. Luận thuyết của ngoại đạo không có luận điểm nào cho thấy họ thủ đắc Đại thừa, nói cách khác là họ không thực hành pháp Đại thừa. Do ngoại đạo không cùng thực hành pháp Đại thừa, nên Đại thừa là do Phật thuyết.
4. Thành tựu bồ-đề: Nếu ông nói rằng bậc nào đó chứng đắc bồ-đề nói có Đại thừa, chứ không phải đức Phật Thích-ca nói có Đại thừa, như vậy quan điểm của ông đồng với quan điểm của tôi: bậc chứng đắc bồ-đề nói có Đại thừa, cũng tức là nói đức Phật Thích-ca có nói như vậy.
5. Thể Đại thừa: Nếu ông nói đức Phật khác thì có cái thể Đại thừa còn đức Phật Thích-ca không có cái thể Đại thừa, như vậy quan điểm của ông đồng với quan điểm của tôi: Đại thừa không có cái thể sai biệt mà là nhất thể.
6. Chẳng phải thể Đại thừa: Nếu ông nói đức Phật Thích-ca không có cái thể Đại thừa, thì Thanh văn thừa cũng vô thể. Nếu ông nói Thanh văn thừa là do Phật nói nên hữu thể, Đại thừa không phải do Phật nói nên vô thể. Quan điểm như vậy là hết sức sai lầm. Nếu không có Phật thừa mà có Phật xuất thế nói Thanh văn thừa, lý lẽ đó không đúng.
7. Khả năng đối trị: Do y theo pháp Đại thừa tu hành được trí vô phân biệt. Trí vô phân biệt có năng lực phá các phiền não. Vì nhân tố đối trị phiền não nên không thể nói rằng không có Đại thừa.
8. Văn nghĩa khác lạ: Pháp Đại thừa sâu xa, không phải văn nghĩa bình thường. Không nên chỉ một mặt chạy theo văn, nắm lấy nghĩa mà nói rằng văn nghĩa đó không phải lời Phật. Lại nữa, nếu ông nói ban đầu Phật không dự ký là do Phật với cái tâm vô công dụng mà buông bỏ. Quan điểm của ông như vậy là không hợp nghĩa lý.
[0591b02] Kệ tụng:
Chư Phật ba nhân duyên
Hiện thấy và hộ pháp
Trí Như lai vô ngại
Bậc xả không nên vậy.
Giải thích:
Nếu pháp Đại thừa chẳng phải Phật thuyết thì đó là một chướng ngại lớn. Phật có ba nhân duyên, thì không lý do gì Phật không dự ký. Ba nhân duyên là: 1. Phật thì vô công dụng nên trí [vô phân biệt] thường khởi và năm nhãn thường thấy; 2. Phật thường xuyên làm sự chánh cần để thủ hộ chánh pháp; 3. Trí lực của Phật không có chướng ngại.
Phật có ba nhân duyên này, ông lại nói Phật buông xả nên không dự ký, là không hợp đạo lý. Lại nữa, nếu ông nói Đại thừa là hữu thể thì tức là nói Thanh văn thừa là thể của Đại thừa. Vì sao? Vì thừa nhận Thanh văn thừa cũng đắc quả đại bồ-đề. Quan điểm của ông như vậy là không hợp nghĩa lý.
[0591b11] Kệ tụng:
Chẳng toàn, chẳng không trái
Chẳng hành, chẳng dạy bảo
Đó là Thanh văn thừa
Chẳng phải là Đại thừa.
Giải thích:
Có bốn nhân duyên chẳng phải để chỉ ra rằng Thanh văn thừa là thể của Đại thừa, đó là chẳng phải hoàn toàn, chẳng phải không trái, chẳng phải thực hành và chẳng phải dạy bảo.
Chẳng phải hoàn toàn: Thanh văn thừa không có sự dạy bảo lợi người, mà chỉ tự mình yểm ly, ly dục, giải thoát mà có sự dạy bảo.
Chẳng phải không trái: Nếu nói Thanh văn thừa dùng phương tiện là bản thân [tu hành] để dạy bảo cho người, tức có sự dạy bảo lợi người, nghĩa này không đúng. Vì sao? Tuy lấy sự lợi mình để cho người sự yên ổn nhưng hàng Thanh văn chỉ vì cầu niết-bàn cho mình mà tinh tiến thực hành phương tiện dạy bảo, chứ không coi sự dạy bảo đó là vì đắc đại bồ-đề.
Chẳng phải thực hành: Nếu ông nói hàng Thanh văn có thể thực hành lâu xa công hạnh của Thanh văn thừa thì cũng đắc đại bồ-đề, nghĩa này không đúng, bởi lẽ không phải phương tiện. Thanh văn thừa không phải phương tiện của đại bồ-đề, cho nên không thể lấy cái phi phương tiện là sự thực hành lâu xa mà có thể chứng đắc quả Đại thừa. Thí như vắt sừng tìm sữa là không thể có được.
Chẳng phải dạy bảo: Đại thừa có sự dạy bảo, còn Thanh văn thừa thì không có sự dạy bảo, cho nên nói Thanh văn thừa không thể chính là Đại thừa được.
Lại nữa, sau đây tôi sẽ chỉ ông thấy những nghĩa lý trái ngược [giữa Thanh văn thừa và Đại thừa].
[0591b25] Kệ tụng:
Phát tâm và dạy bảo
Phương tiện và trú giữ
Thời gian, thừa thượng hạ
Năm việc hết thảy khác.
Giải thích:
Thanh văn thừa và Đại thừa có năm điểm trái ngược nhau: 1. Phát tâm khác; 2. Dạy bảo khác; 3. Phương tiện khác; 4. Trú giữ khác; 5. Thời gian khác.
Hàng Thanh văn thừa phát tâm, dạy bảo và siêng làm phương tiện đều vì chứng đắc niết-bàn cho mình, trú giữ thì ít vì khối phước đức và trí tuệ nhỏ bé, thời gian cũng ít ỏi vì tu tập chỉ ba đời được giải thoát. Đại thừa không như vậy, sự phát tâm, dạy bảo và siêng làm phương tiện của hàng Đại thừa đều vì lợi người, sự trú giữ thì nhiều vì khối phước đức và trí tuệ lớn lao, thời gian cũng nhiều vì phải trải qua ba vô số kiếp. Qua những điểm trái ngược như vậy thì không nên lấy công hạnh Tiểu thừa để được quả Đại thừa.
Lại nữa, nếu ông nói rằng Phật ngôn có ba sắc thái: 1. Nhập vào tu-đa-la; 2. Hiển thị tỳ-ni; 3. Không trái với pháp không. Ông lấy tất cả pháp đều không có tự tánh làm sự dạy bảo, điều đó đi ngược ba sắc thái ở trên nên không phải là ngôn ngữ mật ý của Phật. Quan điểm của ông như vậy là không hợp nghĩa lý.
[0591c11] Kệ tụng:
Nhập Đại thừa từ kinh
Hiện phiền não từ diệt
Nghĩa rộng lớn sâu xa
Không trái từ pháp không.
Giải thích:
Ở đây, Đại thừa cũng không đi ngược ba sắc thái của Phật ngôn: một là, Đại thừa chính là nhập vào tu-đa-la, [vì kinh điển Đại thừa khế hợp với tu-đa-la]; hai là, phiền não chính là hiển thị tỳ-ni, vì Bồ tát chủ trương sự [hư vọng] phân biệt là phiền não; ba là, pháp rộng lớn sâu xa chính là pháp không của Bồ tát, vì không trái với pháp không thì đắc đại bồ-đề. Cho nên nói Đại thừa không đi ngược với ba sắc thái của Phật ngôn.
Lại nữa, trước có nói về chẳng phải thực hành, nay tôi muốn chỉ bày thêm nghĩa lý này cho ông tin nhận.
[0591c18] Kệ tụng:
Có y và bất định
Duyên tục và không khắp
Thoái lui, người kế đạc
Đâu hiểu nghĩa Đại thừa.
Giải thích:
Do có năm nhân tố làm cho người kế đạc không thể đi vào cảnh giới Đại thừa. Trí tuệ của vị đó bị giới hạn vì có chỗ dựa vào, không có sự quyết định, duyên theo tục đế, không cùng khắp và có sự lùi bước khuất phục. Có chỗ dựa vào, là trí tuệ có được nhờ dựa vào giáo pháp mà sanh, không phải là trí tuệ chứng đắc. Không có sự quyết định, là tùy thời gian và xứ sở mà có những loại trí khác nhau sanh khởi. Duyên theo tục đế, là trí kế đạc thế tục đế, không thể thông đạt đệ nhất nghĩa đế. Không cùng khắp, là tuy duyên theo thế tục đế nhưng sự hiểu biết vẫn có giới hạn nhỏ hẹp, không thể hiểu biết mọi vấn đề. Có sự lùi bước khuất phục là trong sự tranh luận, biện tài có chỗ bế tắc đành phải im lặng chấp nhận.
Hàng Đại thừa không có chỗ dựa vào, cho đến không có sự lùi bước khuất phục. Không có sự lùi bước khuất phục là trong vô lượng kinh điển có nêu lên trăm ngàn kệ tụng nói về pháp Đại thừa, do tâm đắc với pháp này mà hàng Đại thừa có được biện tài vô tận. Cho nên nói Đại thừa không phải cảnh giới của người kế đạc.
Hỏi: Ông nói Thanh văn thừa chẳng cần phương tiện để đi đến Phật quả bồ-đề, như vậy là nghĩa gì?
[0592a01] Kệ tụng:
Rộng lớn và sâu xa
Thành thục vô phân biệt
Nói hai thứ phương tiện
Đó là vô thượng thừa.
Giải thích:
Rộng lớn, là nói về các thần thông trong việc tinh cần không mỏi mệt dùng mọi phương tiện làm sao cho người tin hiểu [Phật pháp]. Sâu xa, là nói về trí vô phân biệt trong việc thực thi hai công việc khó khăn: một là, thành thục chúng sanh; hai là, thành thục Phật pháp. Hai công việc này chính là hai phương tiện đưa đến quả vị Vô thượng bồ-đề. Hai phương tiện này chính là thể của Vô thượng thừa.
Hỏi: Vậy mà có người đối với Đại thừa có sự sợ hãi, lỗi lầm đó thế nào?
[0592a08] Kệ tụng:
Không đáng sợ lại sợ
Do sợ bị thiêu đốt
Sợ dẫn đến không phước
Lâu dài tai nạn khởi.
Giải thích:
Nếu người ở nơi không có sợ hãi bỗng vọng sanh sợ hãi, người ấy liền đọa đường dữ cực nóng, bị thiêu đốt. Vì sao? Do sự sợ hãi mà dẫn sanh cái khối lớn không phước, và do lỗi lầm này mà khiến cho người ấy phải trải qua vô lượng kiếp nhận chịu nỗi khổ nóng bức lớn lao.
Hỏi: Người ấy do nhân gì sanh sợ hãi [đối với Đại thừa]?
[0592a14] Kệ tụng:
Không tánh, không bạn pháp
Ít tuệ, ít sức nhân
Sợ pháp sâu mầu này
Lùi mất đại bồ-đề.
Giải thích:
Người sanh sợ hãi [đối với Đại thừa] do bốn nguyên nhân: 1. Không có chủng tánh, là rời xa chủng tánh Bồ tát; 2. Không có bạn pháp, là rời xa thiện tri thức; 3. Ít sức tuệ, là chưa hiểu pháp không của Đại thừa; 4. Ít sức nhân tố, là đời trước không gieo trồng tự tánh thiện căn của các ba-la-mật. Do các nguyên nhân này mà sanh ý tưởng sợ hãi đối với diệu pháp sâu xa. Do ý tưởng sợ hãi này nên không có được hai khối phước đức và trí tuệ của đại bồ-đề mà lẽ ra đáng được, gọi đó là lùi bước. Nay ông nên biết, sự lùi bước này là lỗi lầm tai hại hết sức sâu nặng.
Đã nói lỗi lầm và nguyên nhân của sợ hãi, kế nói nguyên nhân không nên sợ hãi.
[0592a23] Kệ tụng:
Không khác tức đều không
Có khác tức chỗ hiểm
Không sánh, các học thuyết
Thuyết liên tục, nhiều môn
Chẳng có như văn nghĩa
Chư Phật thể sâu xa
Thông tuệ người chánh quán
Phải biết không nên sợ.
Giải thích:
Không khác tức đều không [hữu thể]: Nếu ông nói Thanh văn thừa tức là Đại thừa, cũng tức là nói thể Thanh văn thừa không khác cái thể Đại thừa. Nói như vậy cũng tức là nói Thanh văn thừa, Bích-chi Phật thừa đều không có tự thể. Vì sao? Vì cùng đắc quả Phật nên tất cả các thừa đều là Phật thừa, thì nguyên nhân gì phải sợ hãi?
Có khác tức chỗ hiểm: Nếu ông thừa nhận cái thể Thanh văn thừa có khác cái thể Đại thừa, mà cái thể Đại thừa đó chính là con đường dẫn đến nhất thiết trí, là con đường có rất nhiều chỗ hiểm nạn. Do vì khó vượt qua Đại thừa, chỉ có thể ngưỡng mộ và tin tưởng Đại thừa, thì nguyên nhân gì phải sợ hãi?
Không thể so sánh: Trong cùng một thời gian không có hai loại Đại thừa cùng xuất hiện để so sánh, thì nguyên nhân gì sợ một mà không sợ hai?
Các học thuyết: Nay Đại thừa ở đây không chỉ nói về học thuyết pháp không mà còn nói về học thuyết khối phước đức và trí tuệ lớn lao, nên hiểu mật ý này, thì nguyên nhân gì chỉ sợ học thuyết pháp không?
Thuyết giảng liên tục: Phật ở trong tất cả thời gian đều quyết định giảng thuyết về pháp không một cách liên tục, ông chẳng nghe qua, nguyên nhân gì phải sợ?
Thuyết nhiều pháp môn: Trong các kinh điển có nhiều pháp môn, nhiều học thuyết khác nhau, nhưng đều hiển thị tác dụng trọng yếu của Đại thừa là phá hủy sự hư vọng phân biệt để thành tựu trí vô phân biệt. Nếu các pháp môn, học thuyết khác nhau ấy không có tác dụng lớn lao như vậy, thì Như Lai chỉ nên nói về pháp không mà thôi, không cần phải nói về chân như, pháp tánh, thật tế v.v... Đã nói có nhiều pháp môn [giải thoát] thì nguyên nhân gì chỉ sợ học thuyết pháp không?
Chẳng có như văn nghĩa: Pháp Đại thừa sâu xa, không phải chỉ phân biệt trên bình diện văn và nghĩa. Nếu chỉ theo văn, lấy nghĩa thì nguyên nhân gì phải sợ học thuyết pháp không?
Chư Phật thể sâu xa: Phật tánh rất sâu xa khó mà giác ngộ, không phải lãnh vực của nhận thức, nên chỉ là cầu mong học hiểu, thì nguyên nhân gì phải sợ?
Do các nhân tố như vậy, bậc thông tuệ có chánh quán không nên sợ hãi đối với Đại thừa.
Đã nói nguyên nhân không nên sợ hãi, kế nói trí tuệ có khả năng tu hành pháp Đại thừa.
[0592b17] Kệ tụng:
Tuần tự văn tư tu
Được pháp và được tuệ
Trí này hành pháp này
Chưa được chớ hủy bỏ.
Giải thích:
Nếu người tu hành ban đầu dựa vào vị thiện tri thức thì có khả năng sanh khởi sự nghe chánh pháp, tiếp theo là từ [sự hiểu biết] văn nghĩa chánh pháp mà có khả năng sanh khởi sự nghĩ nhớ chánh pháp, sau đó cái trí về chánh pháp được phát sanh từ cảnh giới chân thật. Từ chánh pháp trí mà chứng đắc pháp quả, và cũng từ chánh trí về sau sanh khởi giải thoát trí. Bằng chánh pháp trí, người này tùy thuận và nhập vào chánh pháp một cách sâu xa, có khả năng tu hành pháp Đại thừa. Nếu bản thân ông không có trí này thì không nên xác quyết Đại thừa chẳng phải lời Phật.
Đã nói về chánh trí có khả năng tu hành pháp Đại thừa, kế nói kệ tụng về sự ngăn ngừa sợ hãi đối với pháp Đại thừa.
[0592b25] Kệ tụng:
Không hiểu, hiểu không sâu
Sâu chẳng suy lường hiểu
Hiểu sâu được giải thoát
Chẳng nên sợ hãi vậy.
Giải thích:
Không hiểu: Nếu ông nói, pháp sâu như vậy không phải là chỗ hiểu biết của tôi, do đó ông sanh tâm sợ hãi, là không hợp lý.
Hiểu không sâu: Nếu ông nói, chính Phật cũng không hiểu một câu hỏi sâu xa, làm sao Phật giảng dạy pháp sâu xa, do đó ông sanh tâm sợ hãi, là không hợp lý.
Sâu chẳng suy lường hiểu: Nếu ông nói, vì sao pháp Đại thừa sâu xa, chẳng phải là cảnh giới có thể suy lường, do đó ông sanh tâm sợ hãi, là không hợp lý.
Hiểu sâu được giải thoát: Nếu ông nói, vì sao chỉ có hiểu nghĩa lý sâu xa [của Đại thừa] mới có thể được giải thoát, chẳng phải người suy lường có thể được giải thoát, do đó ông sanh tâm sợ hãi, là không hợp lý.
Như vậy đã nói kệ tụng về sự ngăn ngừa sợ hãi đối với pháp Đại thừa, kế nói sự không tin có sự thành lập Đại thừa.
[0592c06] Kệ tụng:
Do tiểu tín, giới, bạn
Không hiểu sâu pháp lớn
Do ông không hiểu biết
Sự thành thừa vô thượng.
Giải thích:
Tín Tiểu thừa là đức tin và hiểu biết nhỏ hẹp, kém cỏi. Giới Tiểu thừa là huân tập những chủng tử Tiểu thừa trong thức a-lại-da. Bạn Tiểu thừa là những người có đức tin và giới tương tự làm quyến thuộc. Tín, giới và bạn hoàn toàn ở trong phạm vi Tiểu thừa thì không tin rằng ngoài Tiểu thừa có pháp Đại thừa. Do sự không tin này [của ông] mà chỗ lập cước của tôi là pháp vô thượng được thành tựu.
Đã nói sự thành lập Đại thừa, kế nói sự ngăn ngừa việc hủy báng Đại thừa:
[0592c13] Kệ tụng:
Nhờ nghe mà hiểu được
Chưa nghe chớ khinh chê
Vô lượng người chưa nghe
Chê bai thành nghiệp si.
Giải thích:
Ông theo Tiểu thừa, nghe pháp Tiểu thừa mà có được giác ngộ, không nên theo sự nghe ấy rồi sanh khinh chê. Ông chưa nghe pháp Đại thừa nên đương nhiên không có đức tin. Vì sao? Vì ông không có tích chứa thiện căn. Người chưa nghe Đại thừa thì nhiều, nhưng phải thận trọng chớ có khinh chê Đại thừa. Ông không biết nhận định toàn diện, chỉ biết khinh chê thì làm tăng thêm nghiệp si mê, phá hủy mọi sự nghe biết của ông.
Đã nói sự ngăn ngừa việc hủy báng Đại thừa, kế nói sự ngăn ngừa tư duy sai lầm.
[0592c19] Kệ tụng:
Khi theo văn lấy nghĩa
Sư tâm, thoái chân tuệ
Chê thuyết và khinh pháp
Duyên đây lỗi lớn sanh.
Giải thích:
Lấy tâm ý làm thầy, là kiến thủ của mình, tức nghiêng lệch tìm cầu nghĩa lý nên không phải bậc trí. Thoái lui chân tuệ, là chưa có được trí tuệ lý giải nghĩa chân thật nên thoái lui. Chê bai học thuyết, là hủy hoại những học thuyết tốt đẹp. Khinh khi giáo pháp, là ghét bỏ những gì nghe được [về pháp Đại thừa]. Duyên theo những tư duy phi phước này, thân sau của ông chịu quả báo khổ lớn lao. Đây gọi là lỗi lầm lớn sanh khởi.
Đã nói sự ngăn ngừa tư duy sai lầm, kế nói sự ngăn ngừa ý nghĩ xấu xa.
[0592c25] Kệ tụng:
Ác ý, tự tánh ác
Bất thiện không nên khởi
Huống khởi nơi thiện pháp
Nên bỏ lỗi lầm lớn.
Giải thích:
Ác ý, là tâm ganh ghét. Tự tánh ác, là tâm ganh ghét ấy chính là tự tánh tội. Không thể để cho tâm ấy sanh khởi trong bất thiện pháp, huống là để cho tâm ấy sanh khởi trong thiện pháp? Vì vậy phải cấp tốc trừ bỏ lỗi lầm tai hại lớn lao ấy.
Phẩm Thành Tông trọn vẹn
Phẩm Ba
QUY Y
Giải thích:
Sự thành lập Đại thừa là như vậy, kế dựa vào Đại thừa mà nhiếp thọ sự quy y thù thắng.
[0593a05] Kệ tụng:
Người quy y Tam bảo
Đại thừa quy trên hết
Khắp tất cả, dũng mãnh
Đắc quả, không đạt đến.
Giải thích:
Trong tất cả sự quy y Tam bảo, nên biết sự quy y Tam bảo của Đại thừa là trên hết. Vì sao? Vì có bốn thứ đại nghĩa thuộc về tự tánh cho nên nói là thù thắng. Bốn đại nghĩa đó là: 1. Đại nghĩa khắp tất cả; 2. Đại nghĩa dũng mãnh; 3. Đại nghĩa đắc quả; 4. Đại nghĩa không thể đạt đến. Những đại nghĩa này sẽ nói ở sau, vì bốn đại nghĩa này có nhiều lưu nạn, như những người quy y thì có người có khả năng, có người không có khả năng, và người có khả năng [tiếp nhận Đại thừa] thì thù thắng.
Đã nói về sự quy y thù thắng, kế khuyến khích sự quy y thù thắng.
[0593a13] Kệ tụng:
Khó khởi cũng khó thành
Cần có ý chí lớn
Vì thành lợi mình người
Làm nên thắng quy y.
Giải thích:
Khó khởi, là khó khởi thệ nguyện thù thắng, vì [Đại thừa] phải có thệ nguyện rộng lớn. Khó thành, là khó thành công hạnh thù thắng, vì [Đại thừa] phải trải qua vô lượng kiếp [tu hành]. Do có những khó khăn như vậy, hành giả cần phải phát ý chí cao cả. Vì sao? Vì muốn thành tựu sự nghiệp lợi người và lợi mình. Lợi người là thệ nguyện và công hạnh [của Đại thừa], vì thệ nguyện và công hạnh là nhân tố của danh văn. Lợi mình là đại nghĩa [của Đại thừa], vì đại nghĩa là kết quả của tự thể [Đại thừa].
Trên đây có nêu bốn [đại] nghĩa, nay trước hết xin nói về đại nghĩa khắp tất cả.
[0593a21] Kệ tụng:
Chúng sanh khắp, thừa khắp
Trí khắp, tịch diệt khắp
Gọi là bậc trí tuệ
Bốn thứ khắp tất cả.
Giải thích:
Sự quy y của Đại thừa có bốn thứ khắp tất cả: 1. Khắp tất cả chúng sanh, là muốn độ tất cả chúng sanh; 2. Khắp tất cả các thừa, là hiểu biết rành rõ ba thừa; 3. Khắp tất cả các trí, là thông đạt nhân vô ngã và pháp vô ngã; 4. Khắp tất cả tịch diệt, là thể của sanh tử và thể của niết-bàn đều có mùi vị đồng nhất, là tội ác và công đức thì vô phân biệt.
Đã nói đại nghĩa khắp tất cả, kế nói đại nghĩa dũng mãnh.
[0593a28] Kệ tụng:
Mong mỏi Phật bồ-đề
Bất thoái, hạnh khó làm
Chư Phật bình đẳng giác
Dũng mãnh thắng có ba.
Giải thích:
Sự quy y của Đại thừa có ba thứ thù thắng dũng mãnh: 1. Nguyện thù thắng dũng mãnh, là khi quy y Phật thì cầu quả đại bồ-đề, sanh nhiều hoan hỷ và biết công đức thù thắng [của sự quy y ấy]; 2. Hạnh thù thắng dũng mãnh, là khi khởi sự tu hành thì không lùi bước, khuất phục trước những khổ hạnh khó làm; 3. Quả thù thắng dũng mãnh, là [từ nay] cho đến khi thành Phật cùng với tất cả chư Phật bình đẳng trong bản thể viên giác.
Lại nữa, do những yếu tố dũng mãnh này mà các Phật tử Đại thừa thường được sanh ra trong những điều kiện tốt.
[0593b08] Kệ tụng:
Phát tâm và trí độ
Khối đầy và đại từ
Chủng tử và sanh mẫu
Thai tạng nhũ mẫu thắng.
Giải thích:
Sự sanh ra trong những điều kiện tốt của Bồ tát có bốn yếu tố: 1. Chủng tử thù thắng, vì lấy tâm bồ-đề làm chủng tử; 2. Sanh mẫu thù thắng, vì lấy Bát-nhã ba-la-mật làm sanh mẫu; 3. Thai tạng thù thắng, vì lấy sự trú giữ hai khối phước đức và trí tuệ làm thai tạng; 4. Nhũ mẫu thù thắng, vì lấy sự trưởng dưỡng đại bi làm nhũ mẫu.
Lại nữa, do những yếu tố dũng mãnh của sự sanh ra trong những điều kiện tốt nên Bồ tát thường được thân thù thắng.
[0593b15] Kệ tụng:
Diệu tướng, lực thành sanh
Lạc lớn, phương tiện lớn
Bốn thành tựu như vậy
Gọi là thân thù thắng.
Giải thích:
Thân thù thắng của Bồ tát có bốn điều: 1. Sắc tướng thù thắng, là được thân trang nghiêm sắc tướng đẹp đẽ thù thắng như thân tướng của Chuyển luân vương; 2. Năng lực thù thắng, là được năng lực tự tại trong việc thành thục chúng sanh; 3. Ý lạc thù thắng, là được thượng phẩm tịch diệt (nhẫn) và sự an lạc vô biên của Phật địa; 4. Trí tuệ thù thắng, là được phương tiện thiện xảo để cứu giúp tất cả chúng sanh.
Bốn thành tựu này chính là sự sanh trưởng tốt của Phật tử, đó là sắc tướng thành tựu, năng lực thành tựu, ý lạc thành tựu và trí tuệ thành tựu.
Lại nữa, do những yếu tố dũng mãnh của bốn thành tựu này mà Phật tử được địa vị tương tự như vương tử.
[0593b24] Kệ tụng:
Trước trao, pháp tự tại
Khéo nói, khéo trị nhiếp
Do bốn nhân tố này
Giống Phật không đoạn dứt.
Giải thích:
Do bốn nhân duyên để hạt giống vua chúa không đoạn dứt: 1. Nhập vị thọ chức; 2. Tăng thượng, không chống trái phép tắc; 3. Khả năng khéo quyết đoán; 4. Thưởng phạt phân minh.
Phật tử sanh trưởng với điều kiện tốt cũng vậy: 1. Trước tiên được thọ chức, là được tất cả chư Phật thọ chức qua ánh sáng vĩ đại; 2. Pháp tự tại, là có trí tuệ tự tại trong tất cả pháp, không chống trái với người khác; 3. Khả năng khéo thuyết giảng, là ở trước các chúng của Phật khéo thuyết pháp; 4. Khéo trị nhiếp, là đối với các học giới có khả năng sửa trị tội lỗi, có khả năng nhiếp lấy công đức.
Lại nữa, do những yếu tố dũng mãnh của bốn thành tựu này mà Phật tử được địa vị tương tự như đại thần.
[0593c05] Kệ tụng:
Nhập độ, thấy giác phần
Trì mật, lợi chúng sanh
Do bốn nhân tố này
Được tương tự đại thần.
Giải thích:
Có bốn nhân tố dành cho vị đại thần có công đức: 1. Vào được cấm cung của vua; 2. Thấy được báu vật tuyệt diệu của vua; 3. Giữ kín mật ngữ của vua; 4. Tự tại ban thưởng.
Bồ tát dũng mãnh cũng vậy: 1. Thường khéo nhập vào các ba-la-mật; 2. Thường thấy pháp bảo là các đại bồ-đề phần ở nhiều chỗ trong kinh điển, vì không quên kinh pháp; 3. Thường thọ trì thân khẩu ý mật của Như Lai; 4. Thường xuyên làm lợi ích cho vô biên chúng sanh.
Đã nói đại nghĩa dũng mãnh, kế nói đại nghĩa đắc quả.
[0593c13] Kệ tụng:
Phước đức và tôn trọng
Có lạc và khổ diệt
Chứng lạc, chứng pháp uẩn
Tập tận, hữu diệt xả.
Giải thích:
Sự quy y của Đại thừa được tám quả sau: 1. Khi tin hiểu [Đại thừa] thì được khối phước đức lớn; 2. Khi phát tâm [bồ-đề] thì được [chúng sanh trong] ba cõi tôn trọng; 3. Khi cố ý thọ sanh thì được an lạc trong ba cõi; 4. Khi hiểu mình người bình đẳng thì diệt được khối khổ sở lớn [cho mình] và có năng lực diệt trừ tất cả khổ của chúng sanh; 5. Khi nhập Vô sanh nhẫn thì giác chứng sự an lạc tối thượng; 6. Khi được bồ-đề thì chứng đại pháp ấm. Pháp ấm có chỗ gọi là pháp thân. Pháp thân ấy có 4 sắc thái là đại, thắng, thường và thiện tụ. Vì là kho tàng chánh pháp của vô biên tu-đa-la v.v... nên gọi là đại, vì là pháp tối thượng trong tất cả pháp nên gọi là thắng, vì là vĩnh viễn không có cùng tận nên gọi là thường, vì là gom chứa những thiện pháp như mười lực, bốn vô úy v.v... nên gọi là thiện tụ; 7. Khi khối huân tập hết, thì [tạp nhiễm] vĩnh viễn diệt, không còn sót; 8. Được hữu xả và diệt xả: hữu xả là không trú sanh tử, diệt xả là không trú niết-bàn.
Đã nói đại nghĩa đắc quả, kế nói đại nghĩa không thể đạt đến.
[0593c27] Kệ tụng:
Đại thể và đại nghĩa
Vô biên và vô tận
Do thiện thế xuất thế
Vì thành thục thần thông.
Giải thích:
Sự quy y của Đại thừa có bốn nhân tố đem lại thiện căn mà tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật không thể đạt đến: 1. Đại thể; 2. Đại nghĩa; 3. Vô biên; 4. Vô tận.
Hỏi: Những nhân tố đó là gì?
Đáp: Đại thể là thiện căn thế gian, vì (Đại thừa) đã vượt qua được nhị thừa. Đại nghĩa là thiện căn xuất thế, vì sự xuất thế của nhị thừa chỉ là lợi mình. Vô biên là thiện căn thành thục, vì (Đại thừa) có khả năng thành thục vô biên chúng sanh. Vô tận là thiện căn thần thông, vì (Đại thừa) đưa đến niết-bàn vô dư cũng vô tận.
Đã nói thắng nghĩa của sự quy y, kế nói sai biệt của sự quy y.
[0594a08] Kệ tụng:
Mong cầu và đại bi
Chủng trí, không thoái chuyển
Ba xuất và hai được
Sai biệt có sáu thứ.
Giải thích:
Có sáu thứ sai biệt trong sự quy y: 1. Tự tánh; 2. Nhân; 3. Quả; 4. Nghiệp; 5. Tương ưng; 6. Phẩm loại.
Mong cầu là tự tánh, vì chí nguyện mong cầu bản thể Phật-đà. Đại bi là nhân, vì [cứu khổ] tất cả chúng sanh. Chủng trí là quả, vì đắc Vô thượng bồ-đề. Không thoái chuyển là nghiệp, vì thực hành sự lợi người và khổ hạnh khó làm mà không thoái lui, khuất phục. Ba xuất là tương ưng, vì đầy đủ hạnh xuất ly của ba thừa. Hai được là phẩm loại, vì sự được thế tục và sự được pháp tánh thì thô tế khác nhau.
Đã nói sự sai biệt về công đức, kế nói sự sai biệt về công hạnh.
[0594a17] Kệ tụng:
Quy y có đại nghĩa
Khối công đức tăng trưởng
Ý bi khắp thế gian
Rộng lưu thánh pháp lớn.
Giải thích:
Đại nghĩa là hạnh lợi mình lợi người. Hạnh lợi mình [của Đại thừa] là làm cho công đức tăng trưởng, có nhiều cách như tư duy thấu hiểu [giáo pháp], như thường thường [tu tập], như thời gian [tu hành], thảy đều không có hạn lượng, vì không thể suy lường, không thể đếm biết, hoàn toàn chuyên tu, thời gian không gián đoạn. Hạnh lợi người [của Đại thừa] là làm sự tác ý và bủa tâm từ bi trùm khắp tất cả chúng sanh, siêng tu phương tiện rộng rãi để lưu truyền Thánh pháp vĩ đại. Thánh pháp vĩ đại chính là pháp Đại thừa.
Phẩm Quy Y trọn vẹn
Phẩm Bốn
CHỦNG TÁNH
Giải thích:
Đã nói ý nghĩa quy y, kế nói về chủng tánh sai biệt.
[0594a27] Kệ tụng:
Hữu, thắng, tánh, tướng, loại
Tội lỗi và công đức
Dụ vàng và dụ bảo
Chín thứ mỗi bốn loại.
Giải thích:
Chủng tánh có chín thứ sai biệt: 1. Hữu thể; 2. Tối thắng; 3. Tự tánh; 4. Sắc thái; 5. Phẩm loại; 6. Tội lỗi; 7. Công đức; 8. Thí dụ vàng ròng; 9. Thí dụ châu báu.
Chín nghĩa như vậy, mỗi một nghĩa lại có bốn loại sai biệt.
Kệ tụng này là nói tổng quát, các kệ tụng sau sẽ nói chi tiết. Trong những điều nêu trên, trước hết sẽ phân biệt phần hữu thể.
[0594b04] Kệ tụng:
Do giới và do tín
Do hành và do quả
Do bốn loại sai biệt
Nên biết có tánh thể.
Giải thích:
Hữu thể của chủng tánh có bốn loại sai biệt: 1. Giới sai biệt; 2. Tín sai biệt; 3. Hành sai biệt; 4. Quả sai biệt.
Giới sai biệt, là chúng sanh có đa dạng giới vô lượng sai biệt, như kinh Đa giới đề cập. Do giới sai biệt mà biết chủng tánh của ba thừa có sai biệt.
Tín sai biệt, là chúng sanh có nhiều đức tin khác nhau, có đức tin do tác động của nhân sanh khởi, có đức tin do tác động của duyên sanh khởi. Trong ba thừa, chúng sanh có thể tin một thừa, không nhất thiết tin hai thừa kia. Nếu nói không có chủng tánh sai biệt thì cũng có nghĩa là nói không có đức tin sai biệt.
Hành sai biệt, là chúng sanh làm những công hạnh, hoặc có khả năng đi tới, hoặc không có khả năng đi tới. Nếu nói không có chủng tánh sai biệt thì cũng có nghĩa là nói không có công hạnh sai biệt.
Quả sai biệt, là chủng tử bồ-đề của chúng sanh có bậc thấp, bậc vừa và bậc cao; quả vị bồ-đề tương tự như chủng tử bồ-đề [, cũng có bậc thấp, bậc vừa và bậc cao]. Nếu nói không có chủng tánh sai biệt thì cũng có nghĩa là nói không có quả vị sai biệt.
Do bốn loại sai biệt này mà biết chủng tánh là hữu thể.
Đã nói hữu thể của chủng tánh rồi, kế nói sự tối thắng của chủng tánh.
[0594b18] Kệ tụng:
Minh tịnh và phổ nhiếp
Đại nghĩa và vô tận
Do khéo có bốn thắng
Chủng tánh ấy trên hết.
Giải thích:
Chủng tánh Bồ tát do bốn nhân duyên trở nên tối thắng: 1. Thiện căn minh tịnh; 2. Thiện căn phổ nhiếp; 3. Thiện căn đại nghĩa; 4. Thiện căn vô tận.
Vì sao? [1] Vì thiện căn của Thanh văn v.v... không có được sự minh tịnh như vậy, [2] vì thiện căn của tất cả nhân loại không nhiếp thủ được mười lực, bốn vô úy v.v..., [3] vì thiện căn của nhị thừa không có sự lợi người, [4] vì thiện căn của nhị thừa lấy sự chứng đắc niết-bàn là tận cùng [sự tu hành].
Thiện căn của Bồ tát không như vậy. Thiện căn ấy lấy minh tịnh, phổ nhiếp, đại nghĩa và vô tận làm nhân tố cho chủng tánh, nên chủng tánh Bồ tát là tối thắng.
Đã nói sự tối thắng của chủng tánh, kế nói tự tánh của chủng tánh.
[0594b27] Kệ tụng:
Tánh chủng và tập chủng
Sở y và năng y
Nên biết hữu, phi hữu
Là nghĩa công đức độ.
Giải thích:
Chủng tánh Bồ tát có bốn loại tự tánh: 1. Tánh chủng tự tánh; 2. Tập chủng tự tánh; 3. Sở y tự tánh; 4. Năng y tự tánh. Các tự tánh được xếp theo thứ tự như vậy. Lại nữa, nếu chủng tánh Bồ tát là một hữu thể thì thể của nhân phải có mặt; nếu chủng tánh Bồ tát không phải là một hữu thể thì thể của quả không có.
Hỏi: Vậy thì làm sao định danh chủng tánh Bồ tát?
Đáp: Là nghĩa công đức độ. Độ mang ý nghĩa xuất sanh công đức. Do đạo lý này mà định danh chủng tánh Bồ tát.
Đã nói tự tánh của chủng tánh, kế nói sắc thái của chủng tánh.
[0594c07] Kệ tụng:
Đại bi và đại tín
Đại nhẫn và đại hạnh
Có sắc thái như vậy
Gọi chủng tánh Bồ tát.
Giải thích:
Chủng tánh Bồ tát có bốn loại sắc thái: 1. Sắc thái đại bi, là thương xót tất cả chúng sanh đau khổ; 2. Sắc thái đại tín, là ưa thích tất cả pháp Đại thừa; 3. Sắc thái đại nhẫn, là nhẫn chịu tất cả, làm những việc khó làm; 4. Sắc thái đại hạnh, là thực thi khắp cả tự tánh thiện căn của các ba-la-mật.
Đã nói sắc thái của chủng tánh, kế nói phẩm loại của chủng tánh.
[0594b14] Kệ tụng:
Quyết định và bất định
Bất thoái và thoái đọa
Gặp duyên theo thứ tự
Phẩm loại có bốn loại.
Giải thích:
Phẩm loại của chủng tánh Bồ tát lược nói có bốn loại: 1. Quyết định; 2. Bất định; 3. Bất thoái; 4. Thoái đọa. Với thứ tự như vậy, chủng tánh Bồ tát quyết định khi gặp duyên thì bất thoái; chủng tánh Bồ tát bất định khi gặp duyên thì [dễ] thoái đọa.
Đã nói phẩm loại của chủng tánh, kế nói tội lỗi của chủng tánh.
[0594c20] Kệ tụng:
Nên biết Bồ tát tánh
Lược nói có bốn lỗi
Tập hoặc và bạn ác
Nghèo túng, hệ thuộc người.
Giải thích:
Tội lỗi của chủng tánh Bồ tát lược nói có bốn loại: 1. Tập hoặc, là không làm những việc công đức, làm nhiều điều gây phiền não; 2. Bạn ác, là rời xa thiện tri thức, gần gũi người xấu; 3. Nghèo túng, là tất cả đồ dùng cần thiết cho đời sống đều thiếu thốn; 4. Hệ thuộc người, là quan hệ trói buộc với người nên không được tự tại.
Đã nói tội lỗi của chủng tánh, kế nói công đức của chủng tánh.
[0594c27] Kệ tụng:
Công đức cũng bốn loại
Tuy đọa vào đường ác
Chậm vào lại mau ra
Khổ nhẹ, tâm bi sâu.
Giải thích:
Chủng tánh Bồ tát tuy có những tội lỗi đã nói ở trên, nhưng khi đọa vào đường ác, nên biết, thì chính trong đường ác, lại có bốn loại công đức: 1. Chậm vào, là sự thể bị đọa không được tính kể; 2. Mau ra, là không ở lâu trong đường ác; 3. Khổ nhẹ, là chỉ bị bức não nhẹ; 4. Tâm bi càng sâu, là lòng bi mẫn đối với chúng sanh nhờ đó mà thành tựu.
Đã nói công đức của chủng tánh, kế nói thí dụ vàng ròng của chủng tánh.
[0595a05] Kệ tụng:
Thí như tánh vàng ròng
Xuất sanh có bốn loại
Các thiện và các trí
Các tịnh, các thông vậy.
Giải thích:
Vàng ròng có bốn tính chất: 1. Số lượng rất nhiều; 2. Tỏa sáng; 3. Không bẩn; 4. Mềm dẻo. Chủng tánh Bồ tát cũng vậy: 1. Dựa vào vô lượng thiện căn; 2. Dựa vào vô lượng trí tuệ; 3. Dựa vào sự thanh tịnh tất cả phiền não chướng và trí chướng; 4. Dựa vào tất cả thần thông biến hóa.
Đã nói thí dụ vàng ròng của chủng tánh, kế nói thí dụ châu báu của chủng tánh.
[0595a13] Kệ tụng:
Thí như tính báu mầu
Bốn loại nhân thành tựu
Đại quả và đại trí
Đại định, đại nghĩa vậy.
Giải thích:
Tính chất của châu báu tuyệt diệu là dựa vào bốn thứ thành tựu: 1. Dựa vào chân thật thành tựu; 2. Dựa vào thể sắc thành tựu; 3. Dựa vào hình tướng thành tựu; 4. Dựa vào phẩm lượng thành tựu. Chủng tánh Bồ tát cũng vậy, [có bốn sự tuyệt diệu là:]: 1. Làm nhân tố cho đại bồ-đề; 2. Làm nhân tố cho đại trí; 3. Làm nhân tố cho đại định, và định là do tâm an trú; 4. Làm nhân tố cho đại nghĩa, nghĩa là thành tựu vô biên chúng sanh.
Đã rộng phân biệt chủng tánh vị, kế phân biệt vô chủng tánh vị.
[0595a21] Kệ tụng:
Một hướng hành ác hạnh
Khắp đoạn các bạch pháp
Không có giải thoát phần
Thiện ít, không nhân tố.
Giải thích:
Vô chủng tánh vị là hạng người không có pháp đạt đến niết-bàn, lược nói có hai loại: 1. [Loại người cho rằng] pháp đạt đến niết-bàn có giới hạn thời gian; 2. [Loại người cho rằng] hoàn toàn không có pháp đạt đến niết-bàn.
Trong loại thứ nhất lại có bốn hạng người: 1. Người chỉ một chiều hướng thực hành ác hạnh; 2. Người đoạn trừ khắp cả các thiện pháp; 3. Người không có thiện căn giải thoát phần; 4. Người thiện căn không đầy đủ.
Trong loại thứ hai thì không có nhân tố, vì loại người này không có chủng tánh niết-bàn, nghĩa là họ chỉ cầu sanh tử, không ưa niết-bàn.
Đã nói về vô chủng tánh vị, kế nói về sự thể hội.
[0595b01] Kệ tụng:
Giảng rộng pháp lớn sâu
Khiến tin, khiến thắng nhẫn
Rốt ráo đại bồ-đề
Hai tri, hai tánh thắng.
Giải thích:
Giảng rộng pháp lớn sâu, là làm lợi người, nghĩa là: Nếu người không trí tuệ thì khiến họ có được đức tin lớn. Người đã được đức tin lớn rồi thì khiến họ thành tựu hạnh nhẫn nhục thù thắng mà có khả năng tu hành không còn thoái chuyển. Người đã được nhẫn nhục thù thắng rồi thì khiến cho họ rốt ráo thành tựu Vô thượng bồ-đề. Hai tri, là chỉ cho hai hạng người, phàm phu và Thanh văn. Hai hạng người ấy nếu được sự thể hội như vậy thì biết tự tánh [của chủng tánh Bồ tát] và tánh đức viên mãn tánh [của pháp thân chư Phật] đều rất thù thắng.
Hỏi: Vì sao thù thắng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0595b08] Kệ tụng:
Tăng trưởng cây bồ-đề
Sanh lạc và diệt khổ
Lợi mình người làm quả
Thắng đây như cát căn.
Giải thích:
Chủng tánh như vậy có năng lực tăng trưởng công đức cực kỳ lớn lao cho cây bồ-đề vĩ đại; có năng lực được an lạc lớn, có năng lực diệt khổ sở lớn, có năng lực mang lại lợi lạc cho mình và người, lấy đó làm thành quả vĩ đại; vì vậy chủng tánh Bồ tát là bậc nhất [vượt trên] hết thảy. Ví như gốc cây cát tường, chủng tánh Bồ tát cũng như thế.
Phẩm Chủng Tánh trọn vẹn
Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh

« Kinh này có tổng cộng 13 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.142.255.23 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập