Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Đúng thật như thế chính tôi được nghe:
Một thời Đức Phật cùng vô số đại tì-kheo, mười câu-chi đại bồ-tát thân đồng tử an trú trong núi Linh Thứu tại thành Vương Xá.
Lúc ấy, Thế Tôn bảo vua trời Đế Thích:
- Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật này nghĩa lí sâu xa, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải có tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng lấy chẳng bỏ, không tăng không giảm, không có phiền não, cũng chẳng không có phiền não, chẳng xả chẳng phải không xả, chẳng trụ chẳng phải không trụ, chẳng tương ưng chẳng phải không tương ưng, chẳng phiền não cũng chẳng phải không phiền não, chẳng phải duyên cũng chẳng phải chẳng duyên, chẳng phải thật chẳng phải chẳng thật, chẳng phải pháp cũng chẳng phải chẳng là pháp, chẳng có chỗ trở về cũng chẳng phải không có chỗ trở về, chẳng phải chân tế cũng chẳng phải chẳng là chân tế.
Kiều-thi-ca! Như vậy, tất cả pháp đều bình đẳng, bát-nhã-ba-la-mật cũng bình đẳng; tất cả pháp vắng lặng, bát-nhã-ba-la-mật cũng vắng lặng; tất cả pháp bất động, bát-nhã-ba-la-mật cũng không động; tất cả pháp phân biệt, bát-nhã-ba-la-mật cũng phân biệt; tất cả pháp bố úy, bát-nhã-ba-la-mật cũng bố úy; tất cả pháp biết rõ, bát-nhã-ba-la-mật cũng biết rõ.
Tất cả pháp một vị, bát-nhã-ba-la-mật cũng một vị; tất cả pháp không sinh, bát-nhã-ba-la-mật cũng không sinh; tất cả pháp không diệt, bát-nhã-ba-la-mật cũng không diệt; tất cả pháp rỗng không vọng tưởng, bát-nhã-ba-la-mật cũng rỗng không vọng tưởng; sắc vô biên, bát-nhã-ba-la-mật cũng vô biên; như vậy thụ, tưởng, hành, thức vô biên, bát-nhã-ba-la-mật cũng vô biên.
Thế giới vô biên, bát-nhã-ba-la-mật cũng vô biên; như thế, thủy giới, hỏa giới, phong giới và không giới vô biên, bát-nhã-ba-la-mật cũng vô biên; kim cang bình đẳng, bát-nhã-ba-la-mật cũng bình đẳng; tất cả pháp không hoại, bát-nhã-ba-la-mật cũng không hoại; tất cả pháp tính bất khả đắc, bát-nhã-ba-la-mật cũng bất khả đắc; tất cả pháp tính bình đẳng, bát-nhã-ba-la-mật cũng bình đẳng; tất cả pháp vô tính, bát-nhã-ba-la-mật cũng vô tính.
Tất cả pháp bất tư nghị, bát-nhã-ba-la-mật cũng bất tư nghị; cũng vậy bố thí ba-la-mật, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, phương tiện, nguyện, lực, trí ba-la-mật cũng bất khả tư nghị; ba nghiệp thanh tịnh, bát-nhã-ba-la-mật cũng thanh tịnh. Như vậy nghĩa bát-nhã-ba-la-mật thật vô biên.
Lại nữa Kiều-thi-ca! Nói có mười tám không đó là: Nội không[1], ngoại không,[2] nội ngoại không[3], không không[4], đại không[5], thắng nghĩa không[6], hữu vi không[7], vô vi không[8], vô tế không[9], vô biến dị không,[10] vô thỉ không[11], bản tính không[12], tự tướng không[13], vô tướng không,[14] vô tính không[15], tự tính không,[16] vô tính tự tính không[17], nhất thiết pháp không[18].
Tụng ghi:
Nên quán sát các pháp
Như sao, đèn, bụi mù,
Như mộng, huyễn, bọt, sương
Như điện cũng như mây.
Nay ta nói sơ lược
Bát-nhã-ba-la-mật
Không sinh cũng không diệt
Không đoạn cũng chẳng thường.
Chẳng một cũng chẳng nhiều
Không đến cũng không đi
Như vậy mười hai duyên
Ngưng dứt nên tịch tĩnh
Bậc Chính đẳng đã thuyết
Con kính tin lời Người
Nương tựa mười phương Phật
Xưa, nay, và mai sau
Tam bảo ba-la-mật
Biển công đức vô lượng
Cúng dường các Như Lai
Đại minh chân bí mật.
Đát nễ dã tha, bát la nghê bát la nghê, ma hạ bát la nghê bát la nghê, phạ bà tế bát la nghê, vạm ca ca lí a nghê, dã nẵng vĩ đà ma nễ, tất đề, tô tất đề, tất đình-dạ đổ mâu-hàm bà nga phạ đế, tát lí vạm, nga tốn na lí, bạt ngật đế vãn sa lệ, bá la sa, lí đa hạ tất đế, tam ma sa phạ, sa ca lí tất đình-dạ tất đình-dạ, một đình-dạ một đình-dạ kiếm ba kiếm ba, tả la tả la, la phạ la phạ, a nga tha, a nga tha, bà nga phạ đế ma vĩ la, toa sa phạ ha.
Nẵng mô đạt lí mô nại nga, đa tả mạo địa tát đỏa tả, ma hạ tát đỏa tả, ma hạ ca lỗ ni ca tả, nẵng mô sa na bá la, lỗ nĩ đát tả mạo địa tát đỏa tả, ma hạ tát đỏa tả, ma hạ ca lỗ ni ca tả, nẵng mô bát la nghê dã, ba la nhĩ đa duệ, đát nễ dã tha, mâu nễ đạt lí di,
Tăng nga la, hạ đạt lí di, a nỗ nga la, hạ đạt lí di, vĩ mục ngật đa, đạt lí di, tát đỏa nỗ nga la, hạ đạt lí di, phệ thất la phạ, noa đạt lí di, tam mãn đa, nỗ ba lí phạ lí đa, nẵng đạt lí di, ngu noa nga la, hạ tăng nga la, hạ đạt lí di.
Tát lí phạ đát la, nỗ nga đa đạt lí di, tát lí phạ, ca la ba lí bát la, ba noa đạt lí di, sa phạ hạ, bát la nghê dã, la di đa duệ, đát nễ dã tha, a khư nễ, nẵng khư nễ, a khư nẵng, nễ khư nễ, a phạ la vãn đà, nễ bán na, nễ bán na, nễ bát nại lí, sa phạ hạ.
Nẵng mô bát la nghê dã, ba la di đa duệ, đát nễ dã tha, ngang nga ngang nga, nẵng đế la, ngang nga nẵng đế nẵng, phạ bà sa, ngang nga sa phạ hạ.
Nẵng mô bát la nghê dã, ba la di đa, duệ đát nễ dã tha, thất lí duệ, thất lí duệ, mâu nễ thất lí duệ, mâu nễ thất lí dã tế, sa phạ hạ, bát la nghê dã, ba la di đa duệ, đát nễ dã tha, án phạ la vị lệ, sa phạ hạ.
Nẵng mô bát la nghê dã, ba la di đa duệ, đát nễ dã tha, án hột lăng, thất lăng, đặc lăng thất lỗ, đế đặc lí, đế sa mật lí, nga đế vĩ duệ, nặc sa phạ hạ.
Nẵng mô bát la nghê dã, ba la di đa duệ, đát nễ dã tha, vạm phạ lí, vạm phạ lí ma hạ, vạm phạ lí độ lỗ, độ lỗ ma hạ, độ lỗ sa phạ hạ.
Nẵng mô bát la nghê dã, ba la di đa duệ, đát nễ dã tha, hổ đế hổ đế hổ đa, thiết nễ tát lí phọc, ca lí ma, phạ la noa nễ sa phạ hạ.
Nẵng mô bát la nghê dã, ba la di đa duệ, đát nễ dã tha. Án a lỗ lê ca sa phạ hạ.
Nẵng mô bát la nghê dã, ba la di đa duệ, đát nễ dã tha. Án tát lí phạ, vĩ đổ sa phạ hạ.
Nẵng mô bát la nghê dã, ba la di đa duệ, đát nễ dã tha, nga đế nga đế ba, lam nga đế ba, la tăng nga đế mạo địa sa phạ ha.
Khi Thế Tôn thuyết kinh này xong, vua trời Đế Thích và các đại bồ-tát, trời, người, càn-thát-bà, a-tu-la … cùng tất cả đại chúng đều vô cùng vui mừng tin nhận và thực hành. Chú thích:
[1] Nội không內空: chỉ cho sáu nội xứ như mắt…không có ngã , ngã sở và không có các pháp như mắt….
[2] Ngoại không外空: chỉ cho sáu ngoại xứ như sắc…không có ngã , ngã sở và không có các pháp như sắc….
[3] Nội ngoại không內外空: tức mười hai xứ là sáu căn trong thân, sáu cảnh ngoài thân không có ngã, ngã sở và không có các pháp ấy.
[4] Không không空空: không đắm trước ba không nói trên.
[5] Đại không大空: tức trong thế giới mười phương không có các tướng phương vị cố định đây, kia, xưa nay.
[6] Thắng nghĩa không勝義空: Tức lìa các pháp thì không có tự tính Đệ nhất nghĩa thật tướng nào khác, đối với thật tướng không đắm trước.
[7] Hữu vi không有為空: Tức pháp do nhân duyên sinh và pháp tướng của nhân duyên đều không.
[8] Vô vi không無為空: Không chấp trước pháp niết-bàn.
[9] Vô tế không無際空: tức tất cả pháp tuy sinh khởi từ vô thỉ, nhưng cũng xa lìa tướng chấp thủ đối với pháp này.
[10] Vô biến dị không無變異空: Nghĩa là tất cả các pháp chẳng thường, chẳng diệt, không biến không dị pháp tính như như, hoàn toàn bất khả đắc.
[11] vô thỉ không無始空: tức tất cả pháp tuy sinh khởi từ vô thỉ, nhưng cũng xa lìa tướng chấp thủ đối với pháp này.
[12] Bản tính không本性空: tức tự tính các pháp là không.
[13] Tự tướng không自相空: tức tướng tổng biệt, đồng dị của các pháp đều không.
[15] Vô tính không無性空: Các pháp đã hoại diệt thì không có tự tính, pháp vị lai cũng như thế.
[16] Tự tính không自性空: Tức các pháp chỉ do nhân duyên mà có , cho nên hiện có chẳng phải thật có.
[17] Vô tính tự tính không無性自性空: Tức tất cả pháp sinh diệt và pháp vô vi trong ba đời đều không thật có.
[18] Nhất thiết pháp không一切法空: Tức tự tướng của tất cả pháp như uẩn, xứ, giới, …đều bất định, lìa tướng chấp trước.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.188.254.131 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.