Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM THỨ HAI MƯƠI SÁU : XẢ THÂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã vì đại chúng nói về nhân duyên thuở xưa của mười ngàn thiên tử này, rồi lại bảo thần cây Bồ Đề và các đại chúng rằng :
- Ta ở đời quá khứ, hành đạo Bồ tát, chẳng phải chỉ bố thí nước và đồ ăn cứu tế mạng sống của những con cá đó mà còn cho đến cũng xả bỏ tấm thân sở ái của mình nữa ! Những nhân duyên như vậy, các ông có thể cùng nhau quan sát !
Lúc bấy giờ, đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, bậc Thiên Thượng Thiên Hạ Tối Thắng Tối Tôn với trăm ngàn ánh sáng soi khắp cõi mười phương, đầy đủ Nhất Thiết Trí, công đức viên mãn... đem các Bí sô và đại chúng đến tụ lạc Bát Già La (Pancàla), vào trong một khu rừng. Đất rừng ấy bằng phẳng, không có gai góc, hoa đẹp, cỏ mềm trải khắp nơi ấy. Đức Phật bảo cụ thọ A Nan Đà rằng :
- Ông có thể ở dưới cây này vì ta bày tòa ngồi !
Ngài A Nan Đà thọ giáo, bày tòa xong, bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Tòa ngồi đã bày xong ! Xin báo đức Thánh biết !
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền lên tòa, ngồi kiết già, thân ngay, niệm chính, bảo các Bí sô rằng :
- Này các ông ! Các ông có muốn thấy xá lợi cũ thuở xưa khi ta làm Bồ tát tu khổ hạnh không ?
Các Bí sô bạch rằng :
- Chúng con ưa thấy !
Đức Thế Tôn liền dùng tay tướng tốt trang nghiêm trăm phước vỗ xuống đất nơi ấy. Tức thời đất đai sáu thứ chấn động liền nứt toạt ra, một ngôi Chế Để (tháp) thất bảo vọt ra với lưới báu trang nghiêm ở bên trên. Đại chúng thấy vậy rồi, sinh lòng hy hữu. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền đứng dậy, làm lễ, đi nhiễu quanh bên phải, rồi trở lại tòa ngồi cũ, bảo ngài A Nan Đà rằng :
- Ông có thể mở cửa Chế để (tháp) này !
Ngài A Nan Đà liền mở cửa ngôi tháp ấy, nhìn thấy cái hộp thất bảo được trang sức trân kỳ mà bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Có cái hộp thất bảo được trang sức bằng mọi thứ báu !
Đức Phật dạy rằng :
- Ông hãy mở hộp ra !
Ngài A Nan Đà vâng lời dạy, mở ra, thấy có xá lợi trắng như ngọc kha tuyết, như hoa Câu vật đầu, liền bạch đức Phật rằng :
- Thưa trong hộp có xá lợi màu sắc đẹp lạ thường !
Đức Phật nói rằng :
- Này A Nan Đà ! Ông có thể mang xương xủa vị Đại Sĩ này lại !
Ngài A Nan Đà liền lấy xương ấy mà dâng trao lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận rồi, bảo các vị Bí sô rằng :
- Các ông hãy quan sát xá lợi di thân của Bồ tát khổ hạnh đi !
Rồi đức Phật nói lời tụng rằng :
Thắng đức Bồ tát tương ứng tuệ
Tinh cần dũng mãnh lục độ tròn
Vì Bồ Đề thường tu chẳng dứt
Không mệt, chẳng xả kiên cố tâm.
Này các Bí sô ! Các ông đều nên lễ kính thân xưa của Bồ tát ! Xá lợi này mới chính là sự huân tập hương thơm của vô lượng giới hương, định hương, tuệ hương, là ruộng phước tối thượng rất khó gặp gỡ !
Các vị Bí sô và đại chúng đều chí tâm chắp tay cung kính đảnh lễ xá lợi, khen chưa từng có ! Ngài A Nan Đà trước lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai đại sư ra khỏi tất cả, được sự cung kính của các loài hữu tình thì vì nhân duyên gì mà làm lễ thân cốt này ?
Đức Phật dạy rằng :
- Này A Nan Đà ! Ta nhân cái xương này mà mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Vì báo ơn xưa nên nay ta làm lễ !
Đức Phật lại bảo ngài A Nan Đà rằng :
- Ta nay vì ông và các đại chúng đoạn trừ nghi hoặc mà nói về nhân duyên thuở xưa của xá lợi này. Các ông khéo suy nghĩ, phải một lòng lắng nghe !
Ngài A Nan Đà bạch rằng :
- Chúng con rất ưa nghe ! Nguyện xin đức Phật vì chúng con mà siển khai !
- Này A Nan Đà ! Thuở đời quá khứ có một vị quốc vương tên là Đại Xa, giàu to, nhiều của cải, kho tàng đầy ắp, quân binh dũng mãnh, mọi người khâm phục, thường dùng chánh pháp thí hóa lê dân (kiềm lê = dân đen), nhân dân đông đúc, không có oán địch. Đại phu nhân của nước (vợ vua) sinh ra ba người con, dung mạo đoan chính, mọi người ưa nhìn. Thái tử tên là Ma Ha Ba La, thứ tử tên là Ma Ha Đề Bà, người con nhỏ tên là Ma Ha Tát Đỏa. Lúc đó, vị đại vương vì muốn dạo chơi thưởng lãm núi rừng nên ba vị vương tử ấy cũng đều đi theo. Vì tìm hoa quả nên họ bỏ xa cha, đi lại cùng khắp, đến khu rừng trúc lớn, trong lúc dừng nghỉ, vị vương tử thứ nhất nói như vầy : “Ngày hôm nay ở trong rừng này, lòng ta rất kinh hoàng ! Sắp không thú dữ tổn hại đến ta”. Người vương tử thứ hai nói rằng : “Ta đối với thân mình không tham tiếc, chỉ sợ đối với sự yêu thương phải có khổ biệt ly !”. Vị vương tử thứ ba bạch với hai anh rằng :
Đây là chỗ ở của thần tiên
Ta không kinh sợ buồn ly biệt
Thân tâm sung biến sinh vui mừng
Sẽ được thù thắng các công đức.
Các vị vương tử đều nói việc suy nghĩ của lòng mình rồi tiếp tục đi về trước, thấy có một con hổ sinh sản bảy hổ con vừa trải qua bảy ngày, các hổ con vây quanh, đang bị đói khát bức bách, thân hình gầy yếu, sắp chết chẳng lâu nữa. Vị vương tử thứ nhất nói rằng : “Thương thay ! Con hổ này sinh đã bảy ngày, bảy con vây quanh không rỗi đi tìm đồ ăn, bị đói khát bức bách thì nhất định trở lại ăn thịt con”. Vương tử Tát Đỏa hỏi rằng : “Con hổ này thường ăn vật gì ?”. Vương tử thứ nhất đáp rằng :
Hổ, báo, sói, sư tử
Chỉ ăn máu thịt tươi
Không đồ ăn gì khác
Có thể đỡ yếu gầy.
Vị vương tử thứ hai nghe lời nói này rồi, nói rằng : “Con hổ này gầy yếu, đói khát bức bách, mạng còn không bao lâu thì chúng ta làm sao có thể vì nó tìm đồ ăn thức uống khó được như vậy. Ai lại có thể vì nó tự xả thân mạng mà cứu giúp sự đói khổ ấy ?”. Vị vương tử thứ nhất nói rằng : “Tất cả sự khó xả không gì qua thân mình !”. Tát Đỏa vương tử nói rằng : “Chúng ta hôm nay đối với bản thân mình đều sinh ra luyến ái, lại không trí tuệ nên chẳng thể đối với người mà dấy khởi lợi ích. Nhưng có bậc Đại Sĩ mang lòng đại bi thường vì lợi tha mà quên thân cứu giúp vật”. Ông lại nghĩ rằng : “Thân này của ta hôm nay đối với trăm ngàn chúng sinh là rỗng không, bỏ đi, hoại rữa, từng không ích lợi gì thì sao ngày hôm nay mà chẳng thể xả bỏ để cứu giúp đói khổ như nhổ bỏ nước dãi”. Các vị vương tử bàn luận vậy xong, đều khởi lên lòng từ, nghĩ ngợi xót thương, cùng nhau quan sát con hổ gầy yếu, mắt chẳng tạm rời, bồi hồi lúc lâu, rồi đều bỏ đi. Lúc bấy giờ, vương tử Tát Đỏa liền khởi lên ý niệm này : “Ta xả bỏ thân mạng, hôm nay chính là lúc ! Vì sao vậy ? Vì :
Ta giữ thân này từ lâu lắm
Bẩn hôi mủ chảy chẳng đáng thương
Cung cấp đồ dùng cùng y thực (ăn mặc)
Voi ngựa, xe cộ, của quí tràn
Thân thể vô thường, pháp biến hoại
Hằng cầu khó thỏa, khó giữ gìn
Tuy thường cung dưỡng (nhưng) ôm oán hại
Chung qui bỏ ta, chẳng biết ơn.
Lại nữa, thân này chẳng bền, đối với ta vô ích, đáng sợ như giặc, chẳng sạch như phân. Ngày hôm nay ta sẽ sai khiến thân này tu nghiệp quảng đại, ở trong biển sinh tử làm chiếc thuyền lớn, xả bỏ luân hồi khiến cho được xuất ly”. Ông lại nghĩ rằng : “Nếu ta xả bỏ thân này thì tức là xả bỏ vô lượng bệnh ác ung thư, trăm ngàn kinh sợ! Thân này chỉ có đại, tiểu tiện lợi, chẳng bền như bọt nước, chỗ tập trung của các loài trùng, do mạch máu, gân xương... chung nối liền nhau rất đáng chán ngại ! Vậy nên ta nay cần phải xả bỏ để cầu Vô Thượng cứu cánh Niết Bàn, vĩnh viễn lìa khỏi nạn lo vô thường khổ não, chấm dứt sinh tử, cắt đứt các trần lụy, dùng sức định tuệ viên mãn huân tu, trăm phước trang nghiêm thành Nhất Thiết Trí, được chư Phật khen ngợi pháp thân vi diệu, đã chứng được rồi thì thí cho các chúng sinh vô lượng pháp lạc”. Lúc đó, vương tử dấy lên sự dũng mãnh phát hoằng thệ nguyện do niệm đại bi tăng thêm tấm lòng xả bỏ ấy. Lo hai người anh kia, tình mang sợ sệt, bị lưu nạn chung mà chẳng đạt kết quả việc cầu phúc, vương tử liền bạch rằng : “Hai anh đi trước, còn em ở sau !”. Lúc bấy giờ, vương tử Tát Đỏa trở vào trong rừng, đến chỗ con hổ kia, cởi bỏ quần áo, mắc lên cành trúc, rồi thề rằng :
Ta vì pháp giới, các chúng sinh
Chí cầu chỗ Bồ Đề Vô Thượng
Chẳng khuynh động, khởi đại bi tâm
Sẽ bỏ thân phàm phu yêu thích
Bồ Đề không hoạn, không não phiền
Niềm vui của những người có trí
Chúng sinh ba cõi khổ mênh mông
Ta nay cứu vớt khiến an lạc.
Lúc đó, vương tử nói lời này rồi, phó mặc thân mà nằm trước hổ đói. Nhưng do uy thế từ bi của Bồ tát này nên con hổ không thể làm gì. Bồ tát thấy rồi liền lên núi cao gieo thân xuống đất, nhưng các thần tiên đỡ lấy vương tử nên không bị thương tổn. Vương tử lại nghĩ : “Hổ nay đã gầy yếu chẳng thể ăn thịt được ta !”. Ông liền đứng dậy tìm dao, rốt cuộc cũng chẳng thể được, nên liền dùng tre khô đâm vào cổ cho chảy máu, rồi xáp gần đến bên hổ. Lúc đó, đại địa sáu thứ chấn động như gió tuông, nước trào, chìm đắm chẳng yên, mặt trời không tinh minh như chướng la hầu (Ràhu), các phương bóng tối che phủ không còn ánh sáng nữa, trời mưa danh hoa và bột thơm vi diệu rơi xuống loạn xạ đầy khắp trong rừng. Lúc bấy giờ, trong hư không, có các thiên chúng thấy việc này rồi phát sinh lòng tùy hỉ, khen chưa từng có, đều cùng khen rằng : “Hay thay ! Bậc Đại Sĩ !”. Rồi liền nói lời tụng rằng :
Đại sĩ cứu hộ vận bi tâm
Nhìn chúng sinh bình đẳng như con
Dũng mãnh vui mừng tình không lận
Xả thân cứu khổ, phước khó bàn
Nhất định đến chỗ chân diệu thắng
Mãi lìa sinh tử các buộc ràng
Chẳng lâu sẽ chứng Bồ Đề quả
Lạc an tịch tịnh ngộ vô sanh.
Lúc đó, cọp đói đã thấy cổ Bồ tát chảy máu, liền liếm ăn thịt cho đến hết, chỉ lưu lại xương. Bấy giờ, vị vương tử thứ nhất thấy đất động rồi thì bảo người em thứ rằng :
Sông núi, đất đai đều chấn động
Các phương che tối, nhật không sáng
Hoa trời rơi loạn khắp không trung
Nhất định em ta xả thân tướng.
Vị Vương tử thứ hai nghe lời anh nói rồi, nói tụng rằng :
Ta nghe lời Tát Đỏa từ bi
Thấy hổ đói kia thân yếu gầy
Sợ nó ăn con vì đói khổ
Ta nghi em đã xả thân rồi.
Hai vị vương tử phát sinh đại sầu khổ, khóc lóc buồn than, liền cùng theo nhau đi trở lại chỗ con hổ, thấy quần áo của em ở trên cành trúc, hài cốt và tóc tại chỗ dọc ngang, máu chảy thành bùn thấm bẩn cả đất. Thấy rồi ngất đi, chẳng thể tự giữ gìn, gieo thân mình lên xương, hồi lâu mới tỉnh lại, họ liền đưa tay lên gào thương khóc lớn, đồng thời than rằng :
Dung mạo em đoan nghiêm
Cha mẹ dành yêu thương
Sao đều cùng ra dạo
Mà chẳng về, xả thân
Cha mẹ nếu khi hỏi
Chúng ta đáp sao tròn
Thà nên đồng tổn mạng
Đâu lại tự còn thân.
Hai vương tử buồn khóc áo não, bỏ mà đi. Những thị tùng đem theo của tiểu vương tử nói với nhau rằng : “Vương tử ở đâu ? Chúng ta phải cùng nhau tìm kiếm !”
Lúc bấy giờ, đại phu nhân của nước ngủ trên lầu cao ở trong mơ thấy tướng chẳng lành, bị cắt hai vú, răng cỏ rơi rụng, được ba con chim bồ câu mà một con bị chim ưng bắt, hai con bị kinh sợ. Khi động đất thì phu nhân liền thức dậy, lòng rất sầu não, nói lời như vầy :
Vì sao hôm nay đất đai động
Chấn động cả sông núi cây rừng
Nhật không tinh quang như che phủ
Khi mắt nháy, vú động lạ thường
Như tên bắn lòng, ưu khổ bức
Khắp châu thân rúng động chẳng yên
Giấc mơ của ta, điềm chẳng tốt
Ắt có việc tai biến phi thường.
Hai vú của phu nhân bỗng nhiên chảy ra sữa, nghĩ điều này nhất định có việc biến quái. Có thị nữ nghe người ngoài nói rằng, tìm kiếm vương tử đến nay còn chưa được, lòng rất kinh sợ, liền vào trong cung, bạch với phu nhân rằng : “Thưa Đại gia có biết không ? Bên ngoài nghe những người đi tứ tán tìm kiếm vương tử, tìm khắp mà chẳng được”. Vị phu nhân kia nghe lời nói đó rồi, phát sinh đại ưu não, nước mắt lưng tròng, đi đến chỗ vị đại vương mà bạch rằng : “Thưa đại vương ! Thiếp nghe người ngoài nói như vầy, đã mất đứa con yêu quí nhỏ nhất của thiếp rồi !”. Nhà vua nghe lời nói này rồi thì kinh hoàng, thất sắc, nghẹn ngào mà nói rằng : “Khổ thay ! Hôm nay đã mất đứa con yêu”. Nhà vua liền lau nước mắt an ủi dỗ dành phu nhân, bảo rằng : “Này Hiền thủ ! Nàng chớ lo buồn ! Ta nay cùng nhau ra đi tìm kiếm đứa con yêu !”. Nhà vua cùng đại thần và các dân chúng liền cùng nhau ra khỏi thành, mỗi mỗi đều phân tán đi khắp nơi tìm kiếm. Thời gian chưa lâu, có một đại thần bạch trước đức vua rằng : “Nghe nói các vương tử còn, nguyện xin vua chớ lo buồn. Vương tử nhỏ nhất ấy thì hiện nay còn chưa tìm thấy”. Nhà vua nghe lời nói đó, buồn than mà nói rằng : “Khổ thay ! Khổ thay ! Mất đứa con yêu quí của ta.
Khi mới có con, ít vui mừng
Sau khi con mất, nhiều ưu khổ
Nếu khiến con ta thọ mạng trùng (sống trở lại)
Dù mất thân ta chẳng làm khổ”.
Phu nhân nghe rồi, ưu não đeo bám như bị trúng tên mà ta thán rằng :
Con ta ba đứa theo thị tùng
Đều chúng đi dạo ở trong rừng
Con yêu nhỏ nhất chẳng trở lại
Nhất định có việc gặp tai ương.
Thứ đến, người bề tôi thứ hai đi đến chỗ nhà vua. Nhà vua hỏi người bề tôi rằng : “Con yêu của ta ở đâu ?”. Vị đại thần thứ hai khóc lóc áo não, miệng nghẹn ngào, lưỡi khô cứng chẳng thể nói lên lời đáp lại. Phu nhân hỏi rằng :
Con nhỏ nay đâu ? Hãy báo nhanh !
Thân ta nhiệt não cháy khắp cùng
Mê man buồn loạn, bản tâm mất
Chớ khiến ngực ta nay vỡ tan.
Vị đại thần thứ hai đem việc vị vương tử xả thân tâu cho nhà vua biết đầy đủ. Nhà vua và phu nhân nghe việc ấy rồi, chẳng thắng được bi thương nghẹn ngào, trông về chỗ xả thân, cho xa giá đi về phía trước. Đi tới chỗ rừng trúc, đến vùng đất xả thân của Bồ tát, nhìn thấy hài cốt lăn lóc khắp nơi, vua và phu nhân gieo mình xuống đất, ngất đi sắp chết như gió mạnh thổi ngã cây đại thọ, lòng mê loạn, mất hết đầu mối, không còn biết gì nữa. Các vị đại thần dùng nước tưới khắp người vua và phu nhân, hồi lâu mới tỉnh lại, đưa tay lên mà gào khóc, ta thán rằng :
Họa thay ! Con yêu tướng đoan nghiêm
Nhân đâu khổ chết đến trước tiên ? Nếu ta được thay ngươi chết trước
Đâu thấy việc khổ này cắt lòng.
Lúc bấy giờ, phu nhân hơi bớt mê man, đầu tóc rối bù, hai tay đấm ngực, lăn lộn dưới đất như cá lên mặt đất, như trâu mất con, buồn khóc mà rằng :
Con ta ai giết hại
Mà trên đất xương còn ?
Con ta yêu đã mất
Chẳng tự thắng lo buồn
Khổ thay ! Con ai giết ?
Đem đến việc ưu phiền
Lòng ta chẳng cứng rắn (chẳng phải Kim Cương)
Sao mà chẳng vỡ tan ?
Điều trong mơ ta thấy :
Hai vú bị cắt phân
Răng cỏ đều rơi rụng
Khổ đau nay tao phùng.
Ba chim câu mơ thấy
Một bị ứng bắt liền
Thì nay mất ái tử
Điềm ác, chẳng rỗng không !
Lúc bấy giờ, vị đại vương và phu nhân cùng hai con đau buồn gào khóc hết mực, chuỗi ngọc chẳng mang, cùng với mọi người cùng nhau thu nhặt xá lợi di thân của Bồ tát, vì cúng dường nên đặt trong Tốt đổ ba (tháp). Này A Nan Đà ! Các ông nên biết, đây tức là xá lợi của Bồ tát đó ! Này A Nan Đà ! - Đức Phật lại bảo - Ta thuở xưa, tuy đủ phiền não, tham, sân, si.v.v... nhưng có thể ở trong địa ngục, ngã quỉ, bàng sinh, năm đường tùy duyên cứu tế khiến cho được ra khỏi. Huống gì hôm nay, phiền não đều hết, không còn dư tập, hiệu Thiên Nhân Sư, đủ Nhất Thiết Trí mà chẳng thể vì mỗi một chúng sinh kinh qua nhiều kiếp ở trong địa ngục và những chỗ khác, thay cho chúng sinh chịu mọi thứ khổ, khiến cho họ ra khỏi sinh tử phiền não luân hồi ư ?
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên ý nghĩa này mà nói lời tụng rằng :
Ta nhớ đời quá khứ
Vô số kiếp không lường
Hoặc khi làm vương tử
Hoặc lại làm quốc vương
Thường làm việc đại thí
Và xả thân yêu thương.
Nguyện ra khỏi sinh tử
Đến Bồ Đề diệu tràng.
Thuở xưa có nước lớn
Đại Xa làm quốc vương
Vương tử tên Dũng Mãnh (Sattva)
Lòng không lận, thí ban.
Hai anh của vương tử
Hiệu Đại Cừ, Đại Thiên
Ba người đồng ra dạo
Dần đến chỗ núi rừng.
Thấy cọp bị đói bức
Lòng như vầy sinh liền :
Hổ này lửa đói đốt
Không gì có thể ăn.
Đại Sĩ thấy như thế
Sợ hổ sắp ăn con
Xả thân không nuối tiếc
Cứu con chẳng tổn thương.
Đất đai và các núi
Nhất thời đều động rung
Sông biển đều bay nhảy
Sóng kinh, nước ngược dòng
Trời đất mất ánh sáng
Không thấy gì, tối tăm
Rừng hoang, các cầm thú
Bay, chạy mất chỗ nương.
Hai anh chẳng trở lại (nhà)
Sinh bi khổ, lo buồn
Liền cùng các thị vệ
Tìm kiếm khắp núi rừng
Anh em chung bàn bạc
Lại đến chỗ thâm sơn
Nhìn khắp (tứ cố) không sở hữu
Thấy cọp còn tại rừng.
Bảy con cùng cọp mẹ
Miệng chúng có máu loang
Xương tàn cùng với tóc
Ở trên đất lung tung,
Lại thấy có máu chảy
Lan khắp chỗ cây rừng.
Hai anh đã nhìn thấy
Lòng sinh đại kinh hoàng
Ngất xỉu lăn ra đất
Chẳng hay biết mê man.
Thân họ lấm bụi đất
Sáu tình, niệm tiêu vong.
Thị tùng các vương tử
Gào khóc lòng ưu phiền.
Dùng nước vảy cho tỉnh
Cất tay gào khóc than.
Khi thân Bồ tát xả
Thì từ mẫu trong cung
Cùng năm trăm thể nữ
Diệu lạc hưởng thụ chung.
Bỗng nhiên hai vú của
Phu nhân, sữa thành dòng.
Khắp thân như kim chích
Đau khổ chẳng thể yên
Phát sinh thất tử tưởng (ý tưởng mất con)
Ưu tiễn (mũi tên lo) tổn thương lòng.
Liền bạch đại vương biết
Trần tình việc khổ phiền
Buồn khóc chẳng nhịn nỗi
Ai thanh (tiếng bi ai) bạch vua rằng :
Đại vương nay phải biết,
Thiếp sinh đại khổ phiền (não)
Hai vú bỗng chảy sữa
Cấm chỉ chẳng tùy lòng
Như khắp thân kim chích
Sợ, phiền ngực vỡ tung.
Thiếp trước mơ điềm ác
Ắt sẽ mất con thương (ái tử)
Nguyện vua cứu mạng thiếp
Biết con tồn hay vong.
Ba chim câu mơ thấy
Chim nhỏ là con thương (ái tử)
Bỗng bị chim ưng bắt
Sầu bi khó trần tường (trình bày rõ đủ).
Thiếp nay chìm ưu hãi (biển âu lo)
Chẳng lâu, chết đến liền.
Sợ con chẳng toàn mạng
Nguyện ngài mau kiếm tìm !
Lại nghe người ngoài nói
Con nhỏ tìm chẳng thấy
Thiếp nay, ý chẳng yên
Nguyện vua xót thương thiếp !
Phu nhân bạch vua xong
Toàn thân lăn ra đất
Lòng buồn đau chất ngất
Chẳng hay biết, mê man.
Thể nữ thấy phu nhân
Ngất xỉu ở dưới đất
Cất tiếng khóc rống lên
Lo lắng mất chỗ dựa.
Vua nghe lời nói trên
Ôm lo chẳng tự thắng
Nhân đó lệnh quần thần
Đi tìm kiếm ái tử.
Họ đều ra ngoài thành
Theo mọi chỗ tìm kiếm
Khóc lóc, hỏi nhân dân :
Vương tử nay đâu vậy ?
Hôm nay mất hay còn ?
Chỗ ngài đi ai biết ?
Làm sao ta được nhìn
Thì lòng lo buồn giải ?
Mọi người đều cùng truyền
Đều nói vương tử chết.
Người nghe đều tiếc thương
Buồn than khổ khó cắt.
Bấy giờ, Đại Xa Vương
Buồn kêu khóc, đứng dậy
Liền đến chỗ phu nhân
Lấy nước vẩy thân ấy.
Nhờ vẩy nước phu nhân
Hồi lâu mới tỉnh ngộ
Buồn khóc mà hỏi vương :
Con thiếp còn không vậy ?
Vua bảo phu nhân rằng :
Ta đã sai người kiếm
Bốn hướng truy tìm con
Còn chưa có tin tức !
Vua lại bảo phu nhân :
Nàng chớ sinh phiền não
Vả tự an ủi mình
Nên cùng đi tìm kiếm !
Vua liền cùng phu nhân
Nghiêm xa giá tiến trước
Tiếng kêu gào thê lương
Lòng lo như lửa cháy.
Trăm ngàn vạn sĩ, dân
Cũng ra thành theo chúa
Muốn tìm con của vương
Tiếng bi thương chẳng dứt.
Vua tìm con yêu nên
Bốn phương mắt nhìn khắp
Thấy một người đi sang
Máu thấm tóc, quần áo
Toàn thân lấm bụi trần
Buồn khóc ngược hướng đến.
Vua thấy ác tướng xong
Bội phần sinh ưu não
Vua đưa hai tay lên
Kêu thương chẳng tự dứt.
Có một vị đại thần
Chỗ vua, vội vàng đến
Tiến bạch đại vương rằng :
Xin vua chớ buồn tiếc
Đứa con yêu của vương
Nay tuy tìm chưa được
Chẳng lâu sẽ tìm xong !
Nỗi lo vua cởi mở
Đường trước vua tiến lên
Tiếp thấy đại thần đến
Tới chỗ vua, đại thần
Rơi nước mắt tâu bạch :
Hai con nay hiện còn
Bị ưu hỏa (lửa lo) bức bách,
Con thứ ba của vương
Đã bị vô thường nuốt !
Thấy cọp đói mới sinh
Sắp muốn ăn con nó.
Vương tử Tát Đỏa nhìn
Mà lòng bi khởi lên
Nguyện cầu đạo Vô Thượng
Sẽ độ mọi chúng sinh.
Buộc tưởng Bồ Đề diệu
Như biển quảng đại thâm.
Liền lên trên đỉnh núi
Trước cọp đói gieo thân
Cọp yếu chẳng ăn được
Dùng tre cứa cổ mình
Cọp liền ăn vương tử
Chỉ còn lại phần xương !
Vua và phu nhân đã
Nghe rồi liền ngất luôn
Lòng chìm vào ưu hãi
Lửa phiền não cháy bừng.
Thần đem chiên đàn thủy(Nước hương chiên đàn)
Vẩy vua và phu nhân
Tỉnh dậy gào thương lớn
Cất tay đấm ngực mình.
Đại thần thứ ba đến
Tâu bạch đức vua rằng :
Thần thấy hai vương tử
Ngất xỉu ở trong rừng
Thần dùng nước lạnh vẩy
Vậy mới tỉnh lại xong.
Bốn phương quay nhìn khắp
Như lửa mạnh khắp cùng
Tạm đứng lên trở lại
Chẳng tự thắng, gào thương
Cất tay, lời bi thiết
Xưng : Hy hữu ! Khen em.
Vua nghe nói như vậy
Ưu hoa nung nấu thêm
Phu nhân gào khóc lớn
Cả tiếng nói lên rằng :
Con nhỏ mà ta yêu thương nhất
Đã bị nuốt bởi quỉ vô thường
Còn có hai con nay hiện tại
Lại bị đốt bằng lửa lo buồn
Ta nay mau đến dưới chân núi
An ủi khiến mạng chúng bảo toàn !
Liền dong duỗi xe, trông đường trước
Một lòng đến chỗ con xả thân.
(Trên) Đường, gặp hai con đi vừa khóc
Đấm ngực áo não mất nghi dung :
Cha mẹ thấy rồi ôm ưu não
Đều đến chỗ rừng núi xả thân.
Đã đến đất xả thân Bồ tát
Chung tụ bi thương, đại khổ sinh
Hết lòng thương, cởi bỏ chuỗi ngọc
Thâu nhặt xương cốt Bồ tát thân
Cùng mọi người xây tháp bảy báu
Để chung nhau lễ bái cúng dường
Đem xá lợi đó đặt trong hộp
Chỉnh xa giá buồn lo về cung (thành)
Phật lại bảo A Nan :
Ông Tát Đỏa thuở trước
Là chính ta hiện thân
Ông chớ sinh nghĩ khác !
Vua là Tịnh Phạn Vương
Hậu là Ma Gia mẹ
Thái tử là Từ Thị
Thứ : Mạn Thù Thất Lị
Cọp là Đại Thế chủ (Mahàprajàpati)
Năm con : năm bí sô
Một là Đại Mục Liên
Một là Xá Lợi Phất.
Ta vì các ông nói
Duyên thuở xưa lợi tha !
Như vậy Bồ tát hạnh
Phải học thành Phật nhân
Phát hoằng thệ như vậy
Nguyện xương thân ta còn
Đời sau ích sinh chúng.
Đây là chỗ xả thân
Ngôi tháp bằng thất bảo
Trải thời gian không lường
Nên chìm sâu trong đất.
Do lực xưa thề nguyền
Tùy duyên hưng tế độ
Vì lợi cho nhân thiên
Từ đất mà vọt lên.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khi nói nhân duyên xưa thì vô lượng a tăng xỉ gia người, trời, đại chúng đều rất bi hỷ khen chưa từng có, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Phật lại bảo thần cây rằng :
- Ta vì báo ân nên làm lễ cung kính !
Đức Phật thu nhiếp thần lực thì ngôi tháp ấy trở lại biến mất vào trong đất. PHẨM THỨ HAI MƯƠI BẢY :
BỒ TÁT MƯỜI PHƯƠNG TÁN THÁN
Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, khi nói Kinh này thì ở thế giới mười phương có vô lượng trăm ngàn vạn ức những chúng Bồ tát đều từ cõi của mình đi đến núi Thứu Phong, tới chỗ đức Thế Tôn, năm vóc gieo xuống đất, làm lễ đức Thế Tôn, rồi một lòng chắp tay, khác miệng đồng thanh mà khen ngợi rằng :
Thân Phật vi diệu chân kim sắc
Ánh sáng soi khắp ngang kim sơn
Như hoa sen thanh tịnh nhu nhuyến
Mà nghiêm sức sáng đẹp không lường !
Ba mươi hai tướng trang nghiêm khắp
Tám mươi vẻ đẹp đều mãn viên
Luồng ánh sáng tỏa không ai sánh
Ly cấu giống như ánh trăng trong.
Tiếng Phật trong suốt rất vi diệu
Như sư tử rống tiếng rền vang
Tám thứ vi diệu, quần cơ (máy móc) ứng
Ca Lăng Tần Già (loài chim) cũng vượt hơn
Nghiêm dung bằng diệu tướng trăm phước
Ánh sáng đủ, không bẩn sạch trong.
Trí tuệ lắng sáng như biển cả
Công đức rộng lớn như hư không
Vòng sáng (viên quang) đầy khắp thập phương giới
Tùy duyên cứu khắp những hữu tình.
Phiền não, ái nhiễm... đều trừ hết
Hằng thắp đuốc pháp chẳng nghỉ ngưng
Xót thương, lợi ích các sinh chúng
Hiện tại, vị lai cho lạc an
Thường vì tuyên nói Đệ Nhất Nghĩa
Khiến chứng chân tịch tịnh Niết Bàn.
Phật nói pháp cam lộ thù thắng
Nghĩa cam lộ vi diệu hay ban (cho)
Dẫn vào thành Niết Bàn cam lộ
Vui vô vi cam lộ hưởng tràn.
Thường ở trong biển cả sinh tử
Giải thoát khổ tất cả chúng sinh
Khiến cho họ trụ đường yên ổn
Hằng cho vui như ý khó bàn !
Biển đức Như Lai rất sâu rộng
Chẳng phải thí dụ mà biết thông !
Với mọi người Đại Bi thường khởi
Tinh cần phương tiện luôn chẳng dừng.
Biển trí Như Lai không bờ cõi
Tất cả người trời chung đo lường
Giả sử trong ngàn vạn ức kiếp
Chẳng thể được biết một ít phần.
Con nay lược khen công đức Phật
Chỉ một giọt (trong) biển đức Thế Tôn !
Hồi hướng phước ấy thí sinh chúng
Nguyện quả Bồ Đề mau chứng thành !
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Bồ tát rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Các ông khéo có thể như vậy khen công đức đức Phật, lợi ích cho hữu tình, hưng khởi Phật sự rộng rãi, có thể diệt các tội, sinh ra vô lượng phước.
PHẨM THỨ HAI MƯƠI TÁM :
BỒ TÁT DIỆU TRÀNG KHEN NGỢI
Lúc bấy giờ, Bồ tát Diệu Tràng liền đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật mà nói lời khen rằng :
Tướng trăm phước Mâu Ni viên mãn
Vô lượng công đức dùng nghiêm thân
Quảng đại, thanh tịnh người ưa quán (quan sát)
Như ánh sáng ngàn mặt trời lên
Chói lọi vô biên, quang xí thạnh
Như gom diệu bảo, tướng đoan nghiêm
Ánh lên không như mặt trời mọc
Hồng, trắng phân minh, xen sắc vàng
Như ánh sáng núi vàng soi khắp
Có thể khắp cùng cõi trăm ngàn
Hay diệt chúng sinh vô lượng khổ
Cho đến thắng diệu lạc vô biên
Các tướng đầy đủ đều nghiêm tịnh
Chúng sinh ưa nhìn, không chán nhàm
Tóc đầu mềm mại màu xanh biếc
Như trên hoa đẹp gom ong đen
Tịnh trang nghiêm Đại hỷ, Đại xả
Đại từ, Đại bi đều hoàn toàn (đầy đủ)
Mọi diệu tướng tốt làm nghiêm sức
Pháp Bồ Đề phận đã hoàn thành.
Như Lai hay ban cho phúc lợi
Khiến họ thường được đại lạc an.
Chung trang nghiêm đủ thứ diệu đức
Ánh sáng soi khắp cõi ngàn muôn
Quang tướng Như Lai rất viên mãn
Như mặt trời sáng khắp không trung
Phật như Tu Di công đức đủ
Hay thị hiện khắp cùng mười phương.
Kim khẩu Như Lai trang nghiêm diệu
Răng trắng, bằng, kín ngọc tuyết nhường.
Diện mạo Như Lai không ai sánh
Hào tướng vùng mi xoắn phải thường
Sáng thuần tươi trắng, pha lê vậy
Giống như trăng tròn ở trên không.
Đức Phật bảo Bồ tát Diệu Tràng :
- Ông có thể như vậy khen công đức Phật, chẳng thể nghĩ bàn, lợi ích cho tất cả, khiến cho người chưa biết thì thuận theo tu học. PHẨM THỨ HAI MƯƠI CHÍN :
THẦN CÂY BỒ ĐỀ KHEN NGỢI
Lúc bấy giờ, thần cây Bồ Đề cũng dùng lời tụng khen đức Thế Tôn rằng :
Kính lễ Như Lai thanh tịnh tuệ !
Kính lễ Thường cầu Chánh pháp tuệ !
Kính lễ Năng ly phi pháp tuệ !
Kính lễ Hằng vô phân biệt tuệ !
Hy hữu bạch Thế Tôn vô biên !
Hy hữu khó thấy ! Ưu Đàm sánh !
Hy hữu như biển trấn sơn vương !
Hy hữu Thiện Thệ sáng vô lượng !
Hy hữu Điều Ngự từ nguyện hoằng !
Hy hữu họ Thích sáng hơn nhật ! (mặt trời)
Hay nói như vậy báu trong Kinh
Thương xót quần sinh đem lợi ích
Mâu Ni Tịch Tịnh, định các căn
Hay vào thành Niết Bàn tịch tịnh
Hay trụ Tịch Tịnh Đẳng Trì môn
Hay biết cảnh giới sâu tịch tịnh
Đấng Lưỡng Túc Tôn trụ Tịch Không.
Thân đệ tử Thanh Văn cũng rỗng (không)
Thể tính tất cả pháp đều không
Tất cả chúng sinh đều không tịch !
Con thường ức niệm các Thế Tôn
Con thường ưa thấy các đức Phật
Con thường phát khởi lòng ân cần
Thường được gặp gỡ mặt trời Phật
Con thường đảnh lễ đấng Thế Tôn !
Nguyện luôn khát ngưỡng, lòng chẳng xả
Buồn khóc rơi lệ, không đoạn tình (không gián đoạn)
Thường được phụng sự, chẳng biết chán !
Nguyện xin Thế Tôn khởi bi tâm
Dung nhan hòa nhã con thường thấy !
Phật và Thanh Văn chúng sạch trong
Nguyện ở trời, người thường cứu giúp !
Thân Phật vốn sạch như hư không
Như huyễn, ngọn lửa và trăng nước
Nguyện nói pháp cam lộ Niết Bàn
Có thể sinh tất cả công đức !
Cảnh giới tịnh của đức Thế Tôn
Chẳng nghĩ bàn Từ Bi, chánh hạnh
Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể lường
Đại tiên Bồ tát chẳng đo được !
Nguyện xin Như Lai thương xót con
Thân Đại Bi thường cho con thấy !
Ba nghiệp không mệt phụng từ tôn
Mau ra sinh tử, về chân tế (cõi chân như).
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nghe lời khen này xong, dùng âm thanh Phạm bảo thần cây rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nữ thiên ! Ngươi có thể đối với ta chân thật không hư dối, pháp thân thanh tịnh, tự lợi, lợi tha tuyên dương diệu tướng. Do công đức này nên khiến cho ngươi mau chứng Bồ Đề Vô Thượng. Tất cả hữu tình đồng chỗ tu tập nếu được nghe thì đều vào cửa pháp Vô Sinh Cam Lộ.
PHẨM THỨ BA MƯƠI :
THIÊN NỮ ĐẠI BIỆN TÀI KHEN NGỢI
Bấy giờ, thiên nữ Đại Biện Tài liền đứng dậy, chắp tay cung kính, dùng ngôn từ chính trực, khen đức Thế Tôn rằng :
- Nam mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ! Thân chơn kim sắc, yết hầu như loa bối (vỏ ốc xoắn), mặt như trăng tròn, mắt là loài hoa sen, miệng môi đỏ đẹp như màu pha lê, mũi cao, dài, thẳng nhe cắt đĩnh vàng, răng trắng, bằng, kín như hoa Câu đầu vật, ánh sáng thân soi khắp như trăm ngàn mặt trời, tia sáng ánh lên như vàng Chiêm Bộ, lời nói của ngài không lầm lẫn, bày ba cửa giải thoát, mở ba đường Bồ Đề, lòng thường thanh tịnh, ý lạc cũng vậy; chỗ trụ xứ và hành cảnh của đức Phật cũng thường thanh tịnh, lìa khỏi chẳng phải oai nghi, tiến, dừng không sai lầm, sáu năm khổ hạnh, ba chuyển pháp luân độ chúng sinh khổ khiến cho họ về đến bờ kia, thân tướng viên mãn như cây Câu Đà, sáu độ huân tu, ba nghiệp không lỗi, đủ Nhất Thiết Trí, tự lợi, lợi tha viên mãn, lời nói ra thường vì chúng sinh, nói chẳng bịa đặt hư dối, ở trong dòng họ Thích là Đại Sư Tử, kiên cố dũng mãnh đủ tám giải thoát ! Con nay theo sức mình xưng tán một phần ít công đức của đức Như Lai giống như con muỗi uống nước của biển cả ! Con nguyện đem phước này rộng phổ cập đến loài hữu tình, vĩnh viễn lìa khỏi sinh tử, thành đạo Vô Thượng !
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo trời Đại Biện Tài rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Ngươi tu tập đã lâu, đủ đại biện tài, nay lại đối với ta rộng trần tình khen ngợi, khiến cho ngươi mau chứng pháp môn Vô Thượng, tướng tốt viên minh, lợi khắp tất cả.
PHẨM THỨ BA MƯƠI MỐT : PHÚC CHÚC
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khắp bảo với vô lượng Bồ tát và những trời, người, tất cả đại chúng rằng :
- Các ông phải biết, ta đã ở vô lượng vô số đại kiếp, siêng tu khổ hạnh, được pháp thậm thâm, chánh nhân Bồ Đề mà ta đã vì các ông nói rồi ! Các ông, ai có thể phát tâm dũng mãnh cung kính thủ hộ ? Sau khi ta Niết Bàn, đối với pháp môn này, tuyên nói rộng rãi, lưu bố khắp nơi có thể khiến cho chánh pháp trụ lâu dài ở thế gian ?
Bấy giờ, trong chúng có sáu mươi câu chỉ những Đại Bồ tát, sáu mươi câu chỉ đại chúng chư thiên, khác miệng đồng âm mà nói lên lời như vầy :
- Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con đều có lòng hân hoan đối với đức Phật Thế Tôn ở vô lượng đại kiếp siêng tu khổ hạnh, đã được pháp vi diệu thậm thâm, chánh nhân Bồ Đề, chúng con cung kính hộ trì, chẳng tiếc thân mạng. Sau khi đức Phật Niết Bàn đối với pháp môn này, chúng con tuyên dương rộng rãi, lưu bố cùng khắp, sẽ khiến cho chính pháp lâu dài trụ ở thế gian.
Lúc bấy giờ, các vị Đại Bồ tát liền ở trước đức Phật nói lời kệ tụng rằng :
Thế Tôn, lời thật chân
An trụ ở thật pháp
Do chân thật đó nên
Đối Kinh này trì hộ !
Đại bi là giáp, trụ (mũ, áo đi trận)
Với Đại từ trụ yên,
Do lực từ bi đó
Nên Kinh này giữ gìn !
Của cải pháp viên mãn
Sinh khởi trí tư lương (của cải trí)
Do tư lương đầy đủ
Nên Kinh này (được) giữ gìn.
Tất cả ma hàng phục
Các tà luận phá tan
Hộ Thế cùng Thích, Phạm
Cho đến A Tô La (A tu la)
Long thần và Dược xoa...
Hộ trì cho Kinh ấy.
Trên đất và hư không
Người trụ lâu ở đó
Vâng lời Phật dạy nên
Hộ trì cho Kinh ấy !
Bốn Phạm (hạnh) trụ tương ưng
Bốn Thánh đế nghiêm sức
Hàng phục bốn ma nên
Hộ trì cho Kinh ấy.
Hư không thành trở ngại
Trở ngại thành hư không
Sự hộ trì chư Phật
Không ai khuynh động được !
Lúc bấy giờ, bốn vị Đại Thiên Vương nghe đức Phật nói diệu pháp hộ trì này đều phát sinh lòng hoan hỷ hộ chánh pháp, nhất thời đồng thanh nói kệ tụng rằng :
Với Kinh này nay con
Và quyến thuộc nam nữ
Đều ủng hộ một lòng
Khiến được lưu thông rộng.
Nếu có người trì Kinh
Nhân Bồ Đề tạo tác
Con sẽ ở bốn phương
Vưng việc mà ủng hộ.
Bấy giờ, trời Đế Thích chắp tay cung kính, nói kệ tụng rằng :
Pháp này chư Phật chúng
Vì muốn đền ơn nên
Nhiêu ích chúng Bồ tát
Kinh ấy diễn thế gian
Con đối chư Phật đó
Thường cúng dường đền ơn
Hộ trì Kinh như vậy
Và cả người trì Kinh.
Bấy giờ, thiên tử Đổ Sử Đa chắp tay cung kính nói kệ tụng rằng:
Phật nói Kinh như vậy
Nếu có người giữ gìn
Sẽ trụ Bồ Đề vị
Sau sinh Đổ Sử Thiên
Thế Tôn ! Con vui sướng.
Bỏ báo thù thắng thiên (quả báo thù thắng của trời)
Mà xuống châu Chiêm Bộ
Đem Kinh này tuyên dương.
Bấy giờ, chủ thế giới Tác Ha, Phạm Thiên Vương chắp tay cung kính nói kệ tụng rằng :
Các Tịnh lự không lường
Các thừa và giải thoát
Đều xuất hiện từ Kinh
Vậy nên diễn Kinh ấy
Nếu có chỗ nói Kinh
Con bỏ vui trời Phạm
Được nghe như vậy Kinh
Cũng thường làm ủng hộ.
Bấy giờ, con của ma vương tên là
Thương Chủ chắp tay cung kính, nói kệ tụng rằng :
Nếu có người thọ trì
Kinh tương ứng chánh nghĩa
Chẳng theo việc làm ma
Trừ sạch nghiệp ma ác.
Chúng con đối kinh này
Cũng sẽ siêng thủ hộ
Phát ý tinh tấn ngay
Tùy chỗ lưu thông rộng !
Bấy giờ, ma vương chắp tay cung kính, nói kệ tụng rằng :
Nếu có trì Kinh này
Hay phục các phiền não
Loại chúng sinh như vầy
Ủng hộ khiến an lạc
Nếu có nói Kinh này
Các ma chẳng được tiện
Do lực Phật thần uy
Con sẽ ủng hộ họ.
Thiên tử Diệu Cát Tường cũng ở trước đức Phật nói kệ tụng rằng:
Chư Phật diệu Bồ Đề
Ở trong Kinh này nói
Kinh này nếu người trì
Là cúng dường chư Phật.
Kinh này con sẽ trì
Vì câu chỉ trời nói
Người cung kính lắng nghe
Khuyên đến Bồ Đề xứ.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Từ Thị chắp tay cung kính, nói kệ tụng rằng:
Nếu thấy trụ Bồ tát
Cùng là chẳng thỉnh bạn
Cho đến xả thân mạng
Vì hộ Kinh vương này
Con nghe pháp như vầy
Sẽ đến trời Đổ Sử
Do Thế Tôn gia hộ
Rộng nói vì người trời.
Bấy giờ, thượng tọa Đại Ca Diếp chắp tay cung kính, nói tụng rằng :
Phật ở thừa Thanh Văn
Nói trí tuệ con tốt
Con nay theo lực mình
Hộ trì Kinh như vậy.
Nếu có người trì Kinh
Con sẽ nhiếp thọ họ
Trao lực từ biện liền
Lời “Hay thay !” thường nói !
Bấy giờ, cụ thọ A Nan Đà chắp tay hướng về đức Phật nói kệ tụng rằng :
Con từng theo Phật nghe
Vô lượng những Kinh điển
Chưa từng như vậy nghe
Vua trong pháp Thâm diệu
Con nay nghe Kinh này
Gần ở trước Phật thọ
Những người ưa Bồ Đề
Sẽ vì họ tuyên rộng.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thấy các Bồ tát, đại chúng người trời, mỗi mỗi đều phát tâm lưu thông, ủng hộ đối với Kinh điển này, để khuyến tiến Bồ tát làm lợi chúng sinh rộng rãi, ngài khen rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Các ông có thể đối với Kinh Vương vi diệu như vậy, thành kính lưu bố, cho đến sau khi ta Bát Niết Bàn, chẳng cho tan diệt, tức là chánh nhân Bồ Đề Vô Thượng, mà công đức thu được nói đến hằng hà sa số kiếp chẳng thể hết. Nếu có Bí sô, Bí sô ni, Ổ ba tác ca, Ổ ba tư ca và thiện nam tử, thiện nữ nhân khác.v.v.. cúng dường cung kính, ghi chép cho lưu thông, vì người giải nói thì công đức thu hoạch được cũng lại như vậy. Vậy nên các ông phải siêng tu tập !
Lúc bấy giờ, vô lượng vô biên hằng hà sa số đại chúng nghe đức Phật nói rồi đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành. KINH KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG
- Quyển thứ mười hết – Chú thích:
1- Sách Phạm Kinh này tàng trữ ở hiệp hội Á Tế Á của vua nước Anh lập, so sánh với những bản đang dịch vả có chỗ khiếm khuyết như Đà la ni chẳng còn thì rất nhiều, liền nương theo bản dịch Tây Tạng của Tôn Giáo Đại Học Đồ Thư Quán mà đối chiếu so sánh rút ra. Trong số Kinh Kim Quang Minh cất giữ nhiều đó, có hai bộ mà một bộ thật nguyên là bản chữ Hán của ngài Nghĩa Tịnh. Chúng tôi cố hợp liền lạc những chỗ ấy rồi mà vẫn còn xen có khác chút ít xin độc giả biết cho vậy. (Theo bản của Đại Chính Tân Tu - Nhật Bản).
2- Những bài chú trong Kinh này chúng tôi có căn cứ theo Đại Chính Tân Tu ghi lại bằng tiếng Phạn theo mẫu tự La Tinh - (Người dịch)
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.185.12 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.