Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ đức Thế Tôn ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với chúng đại Tỳ-kheo và chúng đại Bồ-tát.
Khi ấy, đức Thế Tôn bảo tôn giả Tu-Bồ-Đề:
- Này Tu-Bồ-Đề! Sắc là vô tánh, giả tánh, thật tánh. Thọ, tưởng, hành, thức là vô tánh, giả tánh, thật tánh.
Này Tu-Bồ-Đề! Như vậy cho đến Nhãn - sắc, nhãn thức; Nhĩ - thanh, nhĩ thức; Tỷ - hương, tỷ thức; Thiệt - vị, thiệt thức; Thân - xúc, thân thức; Ý - pháp, ý thức là vô tánh, giả tánh, thật tánh.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Ở trong ba tánh ấy, đối với sắc không còn ngu si. Nên biết sở hành ấy là hành chân chánh của Bồ-tát. Hành như vậy thì Bồ-tát ấy mau chứng quả Vô thượng Bồ-đề.
Này Tu-Bồ-Đề! Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy. Ở trong các thức, nếu đại Bồ-tát hiểu rõ pháp vô tướng thì các khổ tự tiêu trừ, các tướng tịch tịnh. Nên biết, sở hành như vậy là hành chân chánh của Bồ-tát. Nếu hành như vậy thì Bồ-tát ấy mau chứng quả Vô thượng Bồ-đề.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói lại bằng kệ:
- Nếu hiểu pháp vô tướng
Thì khổ tự tiêu diệt
Các tướng đều tịch tịnh
Là sở hành Bồ-tát.
(Phật dạy tiếp):
- Này Tu-Bồ-Đề! Ở trong các sắc, tối và sáng đều nương tựa bình đẳng. Bồ-tát nên hiểu rõ một cách như thật. Nếu hiểu rõ và thể nhập điều này thì các pháp cũng như vậy, Bồ-tát ấy mau chứng quả Vô thượng Bồ-đề.
Này Tu-Bồ-Đề! Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy, ở trong các thức tối và sáng nương tựa bình đẳng. Bồ-tát nên hiểu rõ một cách như thật. Nếu hiểu rõ và thể nhập điều này thì các pháp cũng vậy, Bồ-tát ấy mau chứng quả Vô thượng Bồ-đề.
Bấy giờ, Thế Tôn nói lại bằng kệ:
Nếu pháp sáng và tối
Tánh bình đẳng như vậy
Nương tựa và thể nhập
Biết rồi đắc Bồ-đề.
Lại nữa, Tu-Bồ-Đề! Đại Bồ-tát đối với các sắc, thọ, tưởng, hành, thức chuyển nơi ba tánh, nếu vị nào có trí hiểu rõ một cách như thật thì ở trong thức không có chấp thủ, cũng không có hiện chuyển, tâm vị ấy khai sáng. Với thức, vị ấy không chấp thủ, tâm đã khai sáng rồi thì có thể ra khỏi pháp Đại thừa, huống chi pháp Thanh văn, Duyên giác. Do không chấp thủ, tâm khai sáng như vậy nên mãi mãi không bao giờ sanh trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, trời, chịu khổ sanh tử.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Sắc sanh hay sắc diệt? - Nếu nói rằng sắc hữu sanh thì sắc ấy là vô sanh. Nếu nói rằng sắc vô sanh thì sắc ấy là tự tánh vô sanh. Nếu Bồ-tát hiểu rõ một cách như thật thì sắc ấy là tự tánh vô sanh, cho nên với sắc có vô sanh.
Này Tu-Bồ-Đề! Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thức sanh hay thức diệt? Nếu nói thức hữu sanh thì thức ấy là vô sanh. Nếu nói rằng thức vô sanh thì thức ấy là tự tánh vô sanh. Nếu Bồ-tát hiểu rõ một cách như thật thì thức ấy là tự tánh vô sanh, cho nên với thức có vô sanh.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Sắc là ngã, là ngã sở”, nếu ai nói như vậy thì Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si tà kiến.
Này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Thọ, tưởng, hành thức là ngã, là ngã sở”, ai nói như vậy Ta nói người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si tà kiến.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Sắc là do đời trước tạo thành, hoặc do Đại Tự Tại Thiên hóa thành, hoặc không có nhơn duyên”, ai nói như vậy, Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si, tà kiến.
Này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Thọ, tưởng, hành, thức là do đời trước tạo thành, hoặc do Đại Tự Tại Thiên hóa thành, hoặc không có nhơn duyên”, ai nói như vậy, Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si, tà kiến.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Sắc lấy sắc tượng làm tướng; thọ lấy sự lãnh nạp làm tướng, tưởng lấy biến tri làm tướng, hành lấy tạo tác làm tướng, thức lấy sự phân biệt làm tướng”, ai nói như vậy, Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si, tà kiến.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Khổ không có tịch tịnh. Nếu sắc ấy diệt thì lạc này tịch tịnh ”, ai nói như vậy, Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si, tà kiến.
Này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy, khổ không có tịch tịnh, nếu thứ ấy diệt thì lạc này tịch tịnh ”, ai nói như vậy, Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si, tà kiến.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Sắc ấy không có; thọ, tưởng, hành, thức cũng không có”, ai nói như vậy, Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si, tà kiến.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói rằng: “Như lời Phật đã nói: Sắc không có tự tánh, không sanh không diệt, xưa nay tịch tịnh, tự tánh Niết-bàn”, ai nói như vậy thì với tất cả pháp vị ấy không hòa hợp, cũng không ưa thích. Theo lời nói của vị ấy mà hiểu biết, Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si, tà kiến.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói: “Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy, theo lời Phật đã nói thì chúng đều không có tự tánh, không sanh không diệt, xưa nay tịch tịnh, tự tánh Niết-bàn”, ai nói như vậy thì với tất cả pháp vị ấy không hòa hợp, cũng không ưa thích. Theo lời nói của vị ấy mà hiểu biết, Ta nói rằng người ấy là kẻ ngoại đạo trong ngoại đạo, là phần vị của hàng phàm phu ngu si, tà kiến.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người cho rằng: “Sắc là có”, rồi chấp trước vào sắc mà có sự sanh khởi, theo sự nói năng mà chuyển. Lại cho rằng: “Sắc là có, tức là với sắc ấy nương tựa tạp nhiễm mà có tướng lưu chuyển”. Lại cho rằng: “sắc là có thì sắc ấy tu tập tịnh pháp, thành lập tùy chuyển”.
Này Tu-Bồ-Đề! Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Nếu có người cho rằng: “Thức là có”, rồi chấp trước vào thức nên có sự sanh khởi, theo sự nói năng mà chuyển; rồi lại cho rằng: “Thức là có, tức là với thức ấy nương tựa tạp nhiễm mà có tướng tùy chuyển”. Lại cho rằng: “Thức là có, thì thức ấy tu tập tịnh pháp, thành lập tùy chuyển”.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu các Bồ-tát cho rằng: sắc là có, trong sắc ấy có đoạn có biết, ở trong hành động ưa thích thì nói năng trở nên thông suốt, rồi theo đối tượng mà chuyển. Các Bồ-tát cho rằng: sắc là có, ở trong sắc ấy có đoạn có biết, biểu hiện đầy đủ theo đối tượng mà chuyển. Lại các Bồ-tát cho rằng: sắc là có, ở trong sắc ấy hiểu rõ đầy đủ bạch pháp, nói rằng với các pháp đã đạt được tự tại, ở trong hành động ưa thích thì có khả năng tùy chuyển.
Này Tu-Bồ-Đề! Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Nếu các Bồ-tát cho rằng: thọ, tưởng, hành, thức là có, ở trong thức ấy có đoạn có biết, ở trong hành động ưa thích thì sự nói năng trở nên thông suốt. Các Bồ-tát cho rằng: thức là có, ở trong thức ấy có đoạn có biết, biểu hiện đầy đủ theo đối tượng mà chuyển. Các Bồ-tát cho rằng thức là có, ở trong thức ấy hiểu rõ đầy đủ bạch pháp, nói rằng: “Với các pháp đã đạt được tự tại, ở trong hành động ưa thích thì sự nói năng trở nên thông suốt”.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người với tất cả phần lượng của sắc trong sắc, với tất cả phần lượng khổ trong khổ, không thể như thật quán sát bình đẳng, tức là ngã trong sắc có sở đắc. Nếu ngã trong sắc có sở đắc thì ngã kiến trong sắc có sở đắc. Nếu ngã kiến trong sắc có sở đắc thì chúng sanh kiến trong sắc có sở đắc. Nếu chúng sanh kiến trong sắc có sở đắc thì chúng sanh trong sắc không có sở đắc. Khi chúng sanh kiến ấy trong sắc không có sở đắc thì chúng sanh ấy cũng không có sở đắc. Nếu đối với sắc pháp, ai có tướng sở đắc để thành lập thì tướng có sở đắc ấy có chỗ nương tựa. Cho nên trong Thanh văn, Duyên giác thừa vị ấy không thể ra khỏi, huống chi là Đại thừa.
Này Tu-Bồ-Đề! Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nếu có người với tất cả phần lượng của thức trong thức, với tất cả phần lượng của khổ trong khổ mà không thể như thật quán sát bình đẳng thì ngã trong thức có sở đắc.
Nếu ngã trong thức có sở đắc tức là ngã kiến trong thức có sở đắc. Nếu ngã kiến trong thức có sở đắc thì chúng sanh trong thức có sở đắc. Nếu chúng sanh kiến trong thức có sở đắc thì chúng sanh kiến ấy ở trong thức không có sở đắc. Khi chúng sanh kiến ấy trong thức không có sở đắc tức là chúng sanh ấy cũng không có sở đắc. Nếu với pháp mà có tướng sở đắc để thành lập tức là có tướng sở đắc có chỗ nương tựa. Cho nên trong Thanh văn, Duyên giác thừa còn không thể ra khỏi, huống chi là Đại thừa.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người với tất cả phần lượng của sắc trong sắc, với tất cả phần lượng của khổ trong khổ mà có thể như thật quán sát bình đẳng, tức là ngã ở trong sắc không có sở đắc. Nếu ngã trong sắc không có sở đắc thì ngã kiến trong sắc không có sở đắc. Nếu ngã kiến trong sắc không có sở đắc thì chúng sanh kiến trong sắc không có sở đắc. Nếu chúng sanh kiến trong sắc không có sở đắc thì chúng sanh kiến ấy trong sắc có sở đắc. Khi chúng sanh kiến ấy trong sắc có sở đắc thì chúng sanh ấy cũng có sở đắc. Nếu với pháp mà có tướng sở đắc để thành lập thì có tướng sở đắc và có chỗ nương tựa. Cho nên ở trong Thanh văn, Duyên giác thừa còn không thể ra khỏi, huống chi là Đại thừa.
Này Tu-Bồ-Đề! Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Nếu có người với tất cả phần lượng của thức trong thức, với tất cả phần lượng của khổ trong khổ mà có thể như thật quán sát bình đẳng, tức là ngã trong thức không có sở đắc. Nếu ngã trong thức không có sở đắc thì ngã kiến trong thức không có sở đắc. Nếu ngã kiến trong thức không có sở đắc thì chúng sanh kiến trong thức không có sở đắc. Nếu chúng sanh kiến trong thức không có sở đắc thì chúng sanh kiến ấy ở trong thức có sở đắc. Nếu chúng sanh kiến ấy trong thức có sở đắc thì chúng sanh ấy cũng có sở đắc. Nếu với pháp có tướng sở đắc để thành lập thì có tướng sở đắc và có nơi nương tựa. Cho nên ở trong Thanh văn, Duyên giác thừa không thể ra khỏi, huống chi Đại thừa.
Lại nữa, này Tu-Bồ-Đề! Nếu người nào đối với trong sắc mà không thể như thật quán sát bình đẳng, không như thật phân biệt về phần lượng và phân vân về phần lượng thì sắc trong sắc có sở đắc. Khi sắc trong sắc có sở đắc thì sắc kiến trong sắc có sở đắc. Nếu sắc kiến trong sắc có sở đắc thì chúng sanh kiến trong sắc có sở đắc. Nếu chúng sanh kiến trong sắc có sở đắc thì tất cả trong sắc có sở đắc. Khi tất cả có sở đắc thì tất cả không có sở đắc. Nếu với pháp mà có tướng sở đắc để thành lập thì có tướng sở đắc và có chỗ nương tựa. Cho nên ở trong Thanh văn, Duyên giác thừa vị ấy còn không ra khỏi, huống gì Đại thừa.
Này Tu-Bồ-Đề! Nếu có người ở trong thọ, tưởng, hành, thức mà không thể như thật quán sát bình đẳng, không như thật phân biệt về phần lượng và phân vân về phần lượng tức là thức trong thức có sở đắc. Nếu thức trong thức có sở đắc thì thức kiến trong thức có sở đắc. Nếu thức kiến trong thức có sở đắc thì chúng sanh trong thức có sở đắc. Nếu chúng sanh trong thức có sở đắc tức là tất cả trong thức có sở đắc. Khi tất cả trong thức có sở đắc thì tất cả không có sở đắc. Nếu với pháp, ai có tướng sở đắc để thành lập thì có tướng sở đắc và có chỗ nương tựa. Cho nên ở trong Thanh văn, Duyên giác thừa vị ấy không ra khỏi, huống chi Đại thừa. KINH PHẬT THUYẾT KHAI GIÁC TỰ TÁNH BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
Hết quyển 1
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.220.78.64 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.