Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Nầy Hiền Hộ! Ta ngay lúc đó cũng thọ ký cho vị nầy đương lai sẽ thành Phật hiệu là Đức Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri... Phật Thế Tôn.
Nầy Hiền Hộ! Ai đã chứng biết tam muội nầy? Đó là ông Ma Ha Ca Diếp, Bồ tát Đế Thích Đức, Thiên tử Thiên Đức và vô lượng Bồ tát tu tam muội Không nầy, đó là chứng. Làm thế nào chứng Không tam muội nầy? Nầy Hiền Hộ! Ta nhớ lại thuở xưa có đức Phật Thế Tôn hiệu là Tu Ba Nhật, vào thời đó có một người đi lạc vào rừng, đói khát khốn khổ mệt lã, người nầy mới nằm ngủ thiếp bên đường mơ thấy dự một buổi tiệc đầy những thức ăn ngon ngọt, ăn no nê xong vừa khi đói lại, mơ đến đây tỉnh dậy vẫn cảm thấy đói khát như cũ, người nầy mới nghĩ rằng các pháp đều không chẳng thật, giống như cảnh vật thấy trong giấc chiêm bao không phải thật hữu, quán sát như thế ngộ được vô sanh nhẫn đắc bất thối chuyển nơi Vô thượng bồ đề.
Nầy Hiền Hộ! Cũng giống như vậy, nếu có vị Bồ tát hoặc tại gia hay xuất gia nghe tên các đức Phật theo phương hướng ngài hiện đang ngự liền hướng về đó chí tâm đảnh lễ trong lòng khát khao mong mỏi được thấy Phật nên chuyên tinh tưởng nhớ đến ngài như thế. Lại nữa cũng nên quán sát sắc tướng như thế nghĩ tưởng là hư không, sau đó thành tựu được hư không tưởng rồi an trụ trong chánh tư duy như vậy, kế đó sẽ được thấy Phật với thân thể ngài sáng ngời như lưu ly trong trắng, hình tướng đoan chánh như cây cột thuần vàng.
Lại nữa nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có người bỗng nhiên phải rời quê nhà để đến xứ khác, dù ở xứ người nhưng lòng hằng mong nhớ đến quê hương nơi chôn nhau cắt rún. Như những gì được thấy, nghe, nghĩ nhớ, biết được như vậy tưởng nhớ quá lâu ngày nên trong giấc chiêm bao mơ thấy rõ ràng tự thân ở quê xưa, dạo chơi những chỗ như đã từng thấy từng nghe in hệt như trước không khác.
Nầy Hiền Hộ! Cũng như thế đó Bồ tát tại gia hay xuất gia được nghe kẻ khác nói về danh hiệu đức Phật, tùy theo nơi ngài ngự hướng về đó chí tâm đảnh lễ mong muốn được thấy ngài, giữ chánh niệm không để xao động. Tương ứng với niệm sẽ được thấy Phật, hình tượng, hoặc thân như lưu ly hay thân thuần sắc vàng.
Nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có vị tỳ kheo tu pháp quán bất tịnh nhìn thây mới chết màu da vừa đổi hoặc hóa ra xanh, vàng, đen, đỏ rồi tới lúc sình chương lên, thối rả máu mủ tuôn chảy dầm dề, cầm thú chim chóc tới rỉa thịt ăn còn trơ lại xương trắng sắc như màu ngọc. Quán như thế mãi cho đến khi xương tan rã ra mà xương thịt kia không từ đâu đến cũng không đi về đâu, từ tâm hiển hiện trở lại thấy tự tâm. Cũng không như thế, Bồ tát muốn thành tựu tam muội chư Phật hiện tiền nên tùy theo nơi Phật ngự trước tiên hết hướng về nơi đó tưởng nhớ mong mỏi thấy Phật, theo hướng tưởng nhớ tức được thấy Như Lai. Tại sao vậy? Vì có ba nhơn duyên được thấy Phật A Di Đà: một là nhờ nơi năng lực tam muội nầy, hai là nhờ Phật gia hộ, ba là do tự thiện căn thuần thục, Hoàn mãn ba nhơn duyên nầy nên thấy được Phật rõ ràng phân minh.
Nầy Hiền Hộ! Như người trai tráng vóc dạng cân đối vẻ mặt cương nghị muốn nhìn vẻ mặt mình đẹp hay xấu mới lấy thau đựng đầy nước hay dầu xanh hoặc lấy thủy tinh hay gương, dùng bốn vật nầy để soi bóng mình, vẻ mặt đẹp hay xấu ảnh hiện lên rõ ràng. Hiền Hộ! Chuyện nầy có ý gì? Hình bóng của kẻ đó ở trong dầu, nước, thủy tinh, gương là vốn sẳn có trước phải không?
Hiền Hộ đáp:
Thưa không phải.
Vốn là không?
Thưa không phải.
Nó nằm ở trong?
Thưa không phải.
Vậy thì hình bóng ấy ở bên ngoài?
Thưa không, bạch Thế Tôn! Chỉ do dầu, nước thủy tinh, gương các vật nầy trong sáng không bợn nên hình bóng của hắn ảnh hiện lên, nhưng hình bóng nầy không phải từ bốn vật đó sanh ra cũng không phải từ chỗ khác đến, cũng không phải tự nhiên có không phải do ai làm ai, nên biết hình bóng nầy không từ đâu đến cũng không đi về đâu, vô sanh vô diệt không có nơi căn cứ.
Phật đáp:
Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời ông vừa trả lời do các vật thanh tịnh sáng chói nên bóng dáng tự hiện không cần nhiều công. Bồ tát cũng vậy nhứt tâm tưởng nhớ sẽ thấy các Như Lai thấy rồi an trụ trong tam muội, trong khi an trụ mới hỏi các ý nghĩa với đức Như Lai được ngài giải thích rành rẽ, lòng vui mừng mới nghĩ: Phật nầy từ đâu đến và thân ta lại từ đâu ra? Quán sát kỹ Như Lai không từ đâu đến cũng không về đâu, thân ta cũng vậy vốn không xuất xứ làm gì có trở lại. Kế đó cũng nên nghĩ: Tam giới duy tâm nên hiện hữu tại sao theo Tâm nghĩ nhớ lại thấy Tâm? Nay ta từ Tâm thấy Phật, Tâm ta làm Phật, Tâm ta là Phật, Tâm không biết Tâm, Tâm không thấy Tâm, Tâm có tưởng niệm tức thành sanh tử, Tâm không tưởng niệm tức là Niết Bàn, các pháp không chơn thật chỉ do tư tưởng duyên khởi, đối tượng bị nghĩ liền diệt chủ thể năng tưởng cũng không. Hiền Hộ! Ông nên biết các Bồ tát nhơn tam muội nầy chứng được trí giác vĩ đại. Phẩm Thứ Ba: Tam Muội Hành
Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Nếu đại Bồ tát nào hoàn mãn được bốn pháp sẽ đắc tam muội Hiện tiền nầy. Bốn pháp đó gồm có: một là tín tâm không hư hoại, hai là không phá vở sự tinh tấn, ba là trí huệ siêu việt, bốn là gần gũi với thiện tri thức.
Nầy Hiền Hộ! Lại có bốn pháp khác Bồ tát nào hoàn mãn cũng sẽ thành tựu tam muội Hiện tiền: một là không có tư tưởng chúng sanh dù trong một khoảng khắc, hai là thức trọn ba tháng không ngủ dù là tạm thời đôi chút, ba là kinh hành trọn ba tháng trừ khi tiểu tiện, bốn là trong lúc ăn bố thí đúng pháp không mong danh lợi cũng chẳng đoái hoài đến sự trả ân. Bốn pháp nầy nếu Bồ tát nào hoàn mãn được sẽ đắc tam muội Hiện tiền.
Nầy Hiền Hộ! Lại có bốn pháp nữa Bồ tát nào thực hành hoàn toàn sẽ đặng thành tựu tam muội Hiện tiền. Một là khuyên người nhìn ngắm Phật, hai là dạy dẻ khác nên nghe pháp, ba là tâm không ganh tỵ, bốn là khuyên người phát tâm Bồ đề.
Nầy Hiền Hộ! Lại có bốn pháp, Bồ tát cần phải tu tập để thành tựu tam muội Hiện tiền. Một là tạo hình tượng Phật, khuyên người thực hành hạnh cúng dường, hai là in chép kinh điển truyền bá ra để người đọc tụng, ba là giáo hoá kẻ khinh khi chánh pháp làm cho họ phát tâm tin nhận, bốn là gìn giữ chánh pháp để pháp được tồn tại vững bền.
Khi đó Thế Tôn nói bài kệ để lập lại nghĩa trên:
Các ông nên trụ trong Phật pháp
Thường tin vững chắc chớ thối chuyển
Tinh tấn siêng niệm trừ mê ngủ
Ba tháng không ngồi chỉ kinh hành.
Lúc ăn lại thí cho kẻ khác
Giảng nói pháp vô tỷ của Phật
Không cầu danh tiếng và lợi dưỡng
Nhờ không đắm trước nên chứng thiền.
Các Phật khi xưa và tương lai
Hiện tại siêu việt trong loài người
Các ông nhứt tâm cung kính lễ
Và nên siêng năng cần cúng dường
Các ông cúng dường các Phật đó
Nên dùng hoa, hương đốt, hương bột
Dâng hiến thức ngon khởi tịnh tâm
Chứng tam muội nầy sẽ không khó.
Trước tháp chư Phật trổi âm nhạc
Loa, trống, chiêng, bảng các tiếng hay
Lòng lại vui mừng khôn tả xiết
Chắc chắn thành tựu tam muội nầy.
Khuyên tạo tượng Phật thân vô tỷ
Tô điểm màu đẹp đủ tướng tốt
Sắc vàng sáng chói không bợn vết
Chứng tam muội nầy sẽ không khó.
Liên tục thường niệm, tu pháp thí
Giữ giới trong sạch và học rộng
Siêng năng tinh chuyên trừ biếng lười
Đắc tam muội nầy chẳng bao lâu.
Không mang tâm độc đối kẻ khác
Cũng bỏ dục vọng theo thế gian
Luôn vận từ bi nhớ tất cả
Tam muội nào xa, tại nhãn tiền.
Đối với pháp sư thường vui vẻ
Tôn kính ngang hàng đức Như Lai
Đừng sanh khinh chê cùng keo kiết
Tâm vui cúng dường bỏ ganh tỵ.
Vô lượng chư Phật cùng ca ngợi
Người thường siêng tu tự sẽ được
Thế Tôn trịnh trọng nói pháp nầy
Cho kẻ đã tu pháp tam muội. Phẩm Thứ Tư: Thấy Phật
Đức Thế Tôn lại bảo với Bồ tát Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Nếu Bồ tát muốn thành tựu tam muội, đối với vị thầy dạy cho pháp nầy nên sanh ý tưởng coi như chư Phật, sanh tâm tôn trọng chớ nên kiêu ngạo khinh khi cho đến cũng không có lòng tranh cải chống đối không tùy thuận theo, sau đó mới chuyên tinh tu học một cách siêng năng về môn tam muội nầy chắc chắn sẽ chứng được.
Nầy Hiền Hộ! Nếu có người đối với vị pháp sư nói pháp hay vị tỳ kheo sanh tâm bất thiện hoặc là tâm chống đối, tâm tranh cải, tâm lăng nhục các tâm bất tịnh như vậy cho đến không tưởng như là Phật, Bồ tát có các tâm niệm như thế là tu hành hư dối rốt cuộc không thế nào chứng được tam muội vi diệu nầy nếu có ai nói chứng được thật là hoàn toàn vô căn cứ.
Nầy Hiền Hộ! Thí như khoảng hư không trong sáng không có một áng mây mù kẻ có mắt sáng vào đêm tối nhìn lên sẽ thấy vô lượng vì sao, vị trí, phương hướng, hình thể các ngôi sao đều khác biệt thật rõ ràng hết sức. Cũng giống như thế, nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát tư duy quán sát pháp tánh hư không do tưởng nên thành được thấy các đức Như Lai việc nầy cũng vậy. Nhưng Bồ tát lúc quán Phương Đông thấy nhiều trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn Phật ức Phật, ức trăm ngàn Phật, ức trăm ngàn na do tha Phật không cần tác ý tự nhiên hiển hiện trước mắt. Bồ tát lúc quán phương Đông như thế xong, kế đến quán qua phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, phương trên phương dưới, các thế giới ở các phương như trên đều thấy nhiều Phật thấy nhiều trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn Phật ức Phật, ức trăm ngàn Phật, ức trăm ngàn na do tha Phật không nhờ vào sức dụng công, tự nhiên hiển hiện trước mắt.
Lại nầy Hiền Hộ! Như thế giới của đức Phật A Di Đà mà các Bồ tát được vãng sanh về, vào ngày ban đầu các vị quán phương Đông thấy nhiều Phật, thấy nhiều trăm Phật... thấy trăm ngàn ức na do tha Phật rồi. Ngày thứ hai quán sát phương Nam kế lần lượt quán hết cả mười phương như thế. Nầy Hiền Hộ! Nếu đại Bồ tát thành tựu tam muội Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền. Bồ tát như thế ở ngay thế giới mình quán sát mười phương được thấy nhiều các đức Phật, thấy trăm ngàn Phật... cho đến thấy trăm ngàn ức na do tha Phật.
Lại nầy Hiền Hộ! Như các đức Như Lai thành tựu Phật nhãn vừa thấy như vậy đối với tất cả nơi đều biết như vậy đều nhận như vậy. Nầy Hiền Hộ! Nếu đại Bồ tát cũng đã thành tựu môn tam muội Bồ tát niệm tất cả chư Phật hiện tiền rồi tự nhiên hoàn mãn các hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ ba la mật cho đến các công đức của Bồ tát.
Khi đó Thế Tôn muốn lập lại lời trên nên nói bài kệ:
Dường như trong đêm sạch mây mờ
Kẻ có mắt sáng nhìn khoảng không
Thấy các ánh sao quá trăm ngàn
Đến ngày còn nhớ không quên mất!
Bồ tát đắc định Hiện tiền rồi
Thấy nhiều vô lượng ức ngàn Phật
Lại xuất khởi từ tam muội nầy
Để vì đại chúng giảng pháp diệu.
Như Phật nhãn ta được thanh tịnh
Thấy cả thế gian không chướng ngại
Các Phật tử mắt Bồ tát nầy
Nhờ định có cái nhìn siêu việt
Do tưởng vô tướng nhớ Như Lai
Mà thấy mười phương các đức Phật.
Phá trừ phiền não cùng các tưởng
Ông nghe công đức Bồ tát nầy
Nếu nghe pháp đây tâm mát mẻ
Thể nhập không tịch lòng không sợ
Như ta hiện giờ giảng nói pháp
Và làm chúng sanh chứng bồ đề.
Như thế các Bồ tát an lạc
Thấy nhiều vô lượng Phật Thế Tôn
Bồ tát như vậy vào tư duy
Cũng thấy trăm ngàn đức điều ngự
Tỳ kheo được vậy chỉ A Nan
Vừa nghe ta dạy liền hiểu được
Bồ tát đắc tam muội như thế
Nghe tất cả pháp ghi nhớ hết
Thành tựu tín, tam muội viên mãn
Xả bỏ hết thảy lời thế gian
Thường dùng từ tâm dạy dỗ người
Cần phải đi đến nơi tịch tịnh. Phẩm Thứ Năm: Chánh Tín
Đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Nếu có đại Bồ tát nào cầu báu vật tam muội như thế, nên cần siêng năng hăng hái tu học tự nhiên sẽ được nhập tam muội nầy.
Hiền Hộ! Thí như có người đi trên chiếc thuyền lớn vào bể cả tha hồ chở đầy những báu vật hy hữu, vượt qua hết những nỗi khó khăn to tát giờ đây kề cận bên bờ, bỗng đâu thuyền bị vỡ chìm mang theo hết những châu báu. Ngay khi đó các người ở Diêm Phù Đề nầy hô hoảng lên lòng cực kỳ khổ sở vì sự kiện mất châu báo vô giá như thế. Nầy Hiền Hộ! Cũng giống như vậy, như có kẻ thiện nam thiện nữ nào tai nghe được báu tam muội nầy lại không in chép đọc tụng, thọ trì, lại cũng không nghĩ sẽ thực hành như pháp. Nầy Hiền Hộ! Ngay lúc đó tất cả trời thần ở cả thế gian cũng nên kêu to lên như vậy sanh sự sót thương vô hạn và nói rằng: Các chúng sanh nầy rất đáng thương xót, tại sao ngay ở báu vật tam muội siêu việt của chư Phật Thế Tôn, được các ngài ca ngợi, các ngài ấn chứng, các ngài dạy dỗ, công đức tối thượng mà các ngài đã thành tựu viên mãn không còn thiếu sót, hàng Bồ tát nghe được rồi hết lòng siêng năng tu học, tại sao kẻ đặng nghe trở lại bỏ rơi không ra công in chép, không thích đọc tụng, không thể thọ trì, không giải thích được nghĩa lý cũng không có khả năng suy tưởng sống trong pháp nầy! Hạng chúng sanh biếng nhát như thế tương lai sẽ chịu sự thiệt hại lớn lao.
Nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có người cầm khúc chiên đàn đỏ tía đưa cho kẻ ngu si xem, hắn ta vì ngu si nên nghĩ tưởng khúc chiên đàn là vật dơ bẩn. Khi ấy chủ nhân mua chiên đàn là kẻ trí bảo hắn rằng: Ông đừng nên đối với khúc chiên đàn nầy lại nghĩ cho là vật dơ bẩn. Tại sao? Vì chiên đàn nầy rất tinh sạch hương thơm đệ nhứt, giờ đây ông do duyên cớ gì lại nghĩ ngược cho là dơ bẩn? Nếu như ông không tin hãy thử ngửi coi là thối hay thơm và ông cũng nên mở to mắt ra để xem sắc vân của chiên đàn là xấu hay đẹp, tròn trịa hay ghồ ghề? Kẻ ngu si dù được nghe người trí nói thế bằng đủ mọi cách nhưng vì do ngu si hắn trở lại sanh lòng ghen ghét lấy tay bịt mũi không thèm ngửi, che mắt lại không thèm nhìn.
Cũng giống như vậy đó Hiền Hộ! Trong đời tương lai sẽ có hạng tỳ kheo hung ác oán ghét kinh nầy, hạng nầy không biết tu tập thân, giới, tâm, huệ, ngu si vô trí như con dê trắng ngây ngô khờ khạo. Kẻ hung ác nầy vì do kém phước nên dù có nghe kinh điển vi diệu Chánh niệm chư Phật hiện tiền tam muội như vậy cũng không cần in chép, không đọc tụng được, cũng không có khả năng thọ trì, không thể suy tưởng không có năng lực nói cho kẻ khác hiểu biết lại cũng không sanh tâm tùy hỷ rộng rãi, làm thế nào để được tu hành như lời Phật dạy. Lại có khi họ nghĩ rằng: Kinh điển nầy không phải Phật dạy mà kẻ ác tự trứ tác văn chương rồi nói dối là kinh Phật.
Nầy Hiền Hộ! Ông nên biết hạng như trên đã vĩnh viển bỏ rơi báu vật tối thượng vi diệu như kẻ ngu si kia thấy gỗ chiên đàn lại tự che mắt bịt mũi không cần ngửi nhìn. Như có kẻ tỳ kheo tín căn sâu dày huệ nhãn sáng suốt đã từng gần gũi cúng dường pháp, tu hành như lời các ngài dạy, vun trồng nhiều căn lành, tỳ kheo nầy nghe được tam muội Bồ tát niệm như Phật hiện tiền liền vâng lãnh đọc tụng, suy gẫm nghĩa lý thực hành tam muội, đắc được tam muội nầy rồi dạo chơi các thế giới Phật, khắp giảng nói cho kẻ khác nghe giải thích các ý nghĩa sâu xa, thường nguyện như thế nầy: Sẽ làm cho kinh điển dạy về môn tam muội Bồ tát niệm Phật được truyền bá rộng rãi trong đời và hằng tồn tại ở thế gian.
Phật bảo Hiền Hộ:
Ta lại nói cho ông nghe: Lúc ta đang đối trước tất cả thế gian Phạm thiên, Ma vương, Sa môn, Bà la môn và các trời người a tu la v.v... dạy về môn tam muội vi diệu nầy nếu có thiện nam thiện nữ nào nghe rồi tùy hỷ đọc tụng thọ trì niệm Phật tam muội suy gẫm tin hiểu phát lời như vầy: "Đây chơn thật là lời Phật nói", nên biết người nầy đã tom góp phước đức rất nhiều không thễ nghĩ lường được.
Nầy Hiền Hộ! Nếu có thiện nam thiện nữ nào dùng các thứ châu báo đầy cả tam thiên đại thiên thế giới dùng để cúng dường tất cả đức Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng giác được công đức dù to tát nhưng sánh với công đức người trì kinh nầy trăm, ngàn, muôn phần không được một, cho đến không được một phần trong vô lượng, vô biên a tăng kỳ.
Khi đó Thế Tôn nói lên bài kệ để lập lại nghĩa trên:
Kẻ ngu mê u tối
Buông lung, căn chưa thuần
Bị bạn ác phá hoại
Không có tâm chánh tín
Phá giới tạo các tội
Chấp say đắm ngã mạn
Họ đều nói kinh nầy
Không phải lời Phật nói.
Kẻ nào đối kinh nầy
Nghe rồi sanh vui vẻ,
Kẻ nầy không nghi nan
Không nói là ngụy tạo.
Như kẻ giới thanh tịnh
Kính pháp sanh tôn trọng
Báu vật đầy tam thiên
Đem cúng dường chư Phật
Để cầu đại bồ đề
Phước đó khó thể nói
Nếu có các tỳ kheo
Nghe Phật ca ngợi định
Vừa nghe sanh tin nhận
Phước đức hơn kẻ trên.
Nầy Hiền Hộ! Có hạng Bồ tát hoặc tại gia hay xuất gia nghe được môn tam muội nầy không sợ hãi hủy báng, nghe rồi vui theo sanh tăm kính tin quyết định chơn thật không còn nghi ngờ gì nữa, chịu đọc tụng thọ trì suy gẫm ý nghĩa. Nầy Hiền Hộ! Các hạng người như trên đức Thế Tôn đã thấy biết hiễu hết về họ cả hết rồi.
Nầy Hiền Hộ! Nếu ai có khả năng đọc tụng thọ trì tưởng nhớ môn tam muội nầy họ không bao giờ làm việc ác, không phá vỡ tịnh giới, không hủy hoại chánh tín, không theo bọn tà kiến. Hiền Hộ! Thiện nam và thiện nữ nầy phân biệt một cách hoàn hảo, thành tựu đức suy tư, hoàn toàn có tín tâm đối với pháp nầy lại có khả năng thọ trì gìn giữ. Hiền Hộ! Ông nên biết rằng kẻ nầy đã từng trải qua trăm ngàn vô lượng vô biên các đức Như Lai đời quá khứ tu hành cúng dường vun trồng căn lành mới có năng lực vừa nghe môn tam muội niệm Phật hiện tiền, nghe rồi phát lòng tin nhận tâm mở mang ý hiểu biết cho đây là chơn thật không còn nghi hoặc, đã được nghe xong lại ưa thích in chép đọc tụng thọ trì cho đến đem ý nghĩa sâu rộng ra giảng cho người khác biết. Tại sao lại làm như thế? Nầy Hiền Hộ! Là vì các thiện nam và thiện nữ nầy đã từng đích thân nghe các Đức Như Lai đời quá khứ nói về môn tam muội nầy rồi đọc tụng thọ trì. Vì lý do nầy, sau khi Đức Như Lai nhập diệt khoảng cuối năm trăm năm sau lúc chánh pháp sắp hoại diệt lại còn nghe được môn tam muội nầy, nghe rồi lại sanh tâm tin nhận không có sợ hãi kinh hoàng thối lui, lòng còn vui mừng khấp khởi ra công đọc tụng thọ trì suy gẫm ý nghĩa lại đem nói cho kẻ khác nghe cho đến trọn cả ngày đêm thực hành môn tam muội nầy.
Hiền Hộ! Nếu có ai nghe về môn tam muội nầy không sợ hãi, không thối lui, không hủy báng, nghe rồi lại vui theo, chịu suy gẫm kỹ lưỡng, nhập pháp nầy là chơn thật, tâm mở mang trí hiểu biết rồi chỉ tạm thời ca ngợi cho người khác nghe, cũng đã thu hoạch phước đức vượt bực không thể tính đếm được, còn nói gì đến việc có thể đọc tụng thọ trì siêng năng tưởng nhớ để thực hành nói cho kẻ khác nghe, trọn cả ngày đêm tu môn tam muội Niệm Phật. Hiền Hộ! Ông phải biết thiện nam thiện nữ nầy nhơn việc trên đã thu hoạch được vô lượng vô số công đức vĩ đại trụ bực bất thối chuyển, tùy theo tâm nguyện đều được thành tựu. Nầy Hiền Hộ! Sự kiện đã rõ ràng như vậy giờ đây ta lại nói thêm thí dụ để ý nghĩa càng rõ hơn.
Thí dụ như có người đem tất cả đất đai trong cả tam thiên đại thiên thế giới đều nghiền nát ra bụi rồi lại đem tất cả cây cỏ lá nhánh đủ cỡ lớn nhỏ cũng nghiền nát ra bụi. Lúc đó người nầy mới lấy một hạt bụi trong đống bụi hết sức vĩ đại kia ra chia chẻ như thế số bằng đống bụi trên, mỗi hạt bụi đều chia chẻ như thế cả lần lần cho đến hết số đống bụi trên. Nầy Hiền Hộ! Theo ý ông nghĩ thế nào? Số bụi kia nhiều hay ít?
Hiền Hộ đáp:
Hết sức nhiều, bạch Thế Tôn.
Phật lại tiếp:
Nầy Hiền Hộ! Nếu có thiện nam thiện nữ nào đem số châu báu bằng như số bụi trên ra bố thí, ý ông lại nghĩ ra sao? Phước đức kẻ thiện nam thiện nữ nầy thu hoạch được sẽ nhiều không?
Hiền Hộ thưa:
Bạch Thế Tôn! Thật hết sức nhiều! Kẻ thiện nam thiện nữ nầy do hạnh bố thí trên đã thu hoạch phước đức nhiều vô lượng vô số.
Phật lại bảo:
Nầy Hiền Hộ! Ta lại nói thêm cho ông nghe: Như kẻ thiện nam thiện nữ bố thí bảy báu bằng đống bụi trên được phước như thế và kẻ thiện nam thiện nữ nghe môn tam muội Niệm Phật hiện tiền tạm thời sanh tin nhận, phân tích rõ ràng nhìn nhận pháp nầy chơn thật, tâm ý mở mang bằng lòng đọc tụng thọ trì cho đến tạm thời nói cho kẻ khác nghe tu hoạch được phước đức. Đem so sánh cả hai đàng lại thì phước đức kẻ dưới thật là vô lượng vô biên không thể tính đếm so sánh suy lường được, vượt bực kẻ trên rất nhiều.
Nầy Hiền Hộ! Kẻ thiện nam thiện nữ nào nghe được môn tam muội sanh tâm tin nhận.... vì nói cho kẻ khác nghe như thế thu hoạch phước đức vô lượng vô biên, huống gì kẻ thiện nam thiện nữ đối với kinh điển dạy về môn tam muội nầy sanh tâm tin nhận như chỗ được nghe thấy, thọ trì theo đức tin, diễn nói trên sự kinh nghiệm, thọ trì và thực hành theo như lời nói.
Khi ấy đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói bài kệ:
Nếu ai chất báu đầy tam thiên
Thành tâm hành hạnh bố thí độ
Ta bảo phước nầy dù rất nhiều
Nhưng không bằng nghe kinh công đức
Bồ tát mong cầu chứa phước đức
Tin hiểu thọ trì lại suy tưởng
Diễn giảng tu hành: Niệm tam muội
Phước thu hoạch được hơn trên nhiều.
Nghiền ba ngàn cõi ra bụi cả
Lại chia hạt bụi bằng số trên
Đem báu bằng như số bụi đó
Thành tâm bố thí mức cứu cánh
Các Phật ca ngợi tam muội kinh
Chỉ đem một kệ dạy kẻ khác
Ta nói công đức của người nầy
Vượt lên phước thí trên rất nhiều
Nếu nói đầy đủ cho người nghe
Cho đến chỉ nói một chút ít
Suy gẫm tăng trưởng các căn lành
Lại hưởng lâu dài vô lượng phước.
Tất cả chúng sanh đều làm Phật
Tịnh huệ rốt cuộc chứng chơn như
Giả sử trong số ức nhiều kiếp
Kể phước kệ nầy khó cùng tận.
Các Phật lần lượt nhập diệt hết.
Nhiều ức số kiếp thường nói ra
Cũng không làm sao hết bờ phước
Của người duyên theo kệ kinh nầy.
Tất cả thế giới có trong đời
Bốn phương, trên, dưới và bốn góc
Chất chứa dẫy đầy các báu lạ
Vì cầu phước báo đem dâng Phật
Công đức kẻ nầy khó lường được
Tính ra số bằng các thế giới.
Lại kẻ nghe được tam muội nầy
Khéo léo giảng nói, phước hơn trên.
Kẻ nào không nghi nơi kinh nầy
Với các pháp khác cũng rõ thấu
Chắc chắn dứt hẳn vào đường ác
Lại nhập thắng tịch tam muội thiền.
Kẻ nầy nếu thường cúng dường ta
Chắc hưởng nhiều phước khó suy lường
Tăng trưởng đa văn chứng bồ đề
Do nghĩ nhớ Phật khen định nầy
Nay ta bảo ông lời thành thật
Nên siêng năng nhớ đừng buông lung
Nhứt tâm ca ngợi, lòng hăng hái.
Tự nhiên mau chứng bồ đề nầy
Lại vì cúng dường trăm số Phật
Có thể lănh thọ tam ma đề
Dù ở vào đời cực ác độc
Tự sẽ mau chứng định vi diệu
Hoặc có thấy ta và tỳ kheo
Và ông Bồ tát Hiền Hộ đây,
Bồ tát như vậy thích đa văn
Quyết định sẽ đắc tam muội nầy
Hoặc ai nghe được thánh tam muội
Nói cho kẻ khác hay biên chép
Là đà la ni, Thế Tôn khen
Sẽ chứng tất cả Phật Bồ đề.
Nếu người hằng tưởng tam muội nầy
Tất cả chư Phật cùng ca ngợi
Sẽ đắc vô sanh và đa văn
Các Phật lần lượt dạy dỗ pháp. Phẩm Thứ Sáu: Quán Sát
Đức Thế Tôn lại bảo Bồ tát Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Nếu các đại Bồ tát nào muốn suy gẫm tam muội nầy, nên suy gẫm thế nầy: Như đức Thế Tôn của ta giờ dây đang ở trong chúng hội trời người giảng nói pháp trọng yếu. Nầy Hiền Hộ Bồ tát nhứt tâm suy tưởng các đức Phật Như Lai ngồi trên tòa sư tử đang giảng nói chánh pháp đủ tất cả tướng tốt hết sức đẹp đẽ đoan nghiêm kẻ ngắm không nhàm. Quán sát các tướng đại nhân, mỗi một tướng nên phải chí tâm quán kỹ tức sẽ thấy rõ các đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng giác, đã được thấy các ngài rồi, trước nên tự hỏi tại sao không thấy được đảnh tướng? Vừa tự hỏi xong lại lần lượt quán các tướng cho rõ ràng. Quán như thế và nghĩ rằng tướng của đức Phật Như Lai vi diệu hiếm có. Nguyện cho con đời vị lai sẽ được thành tựu đầy đủ thân tướng vi diệu.
Nguyện cho con trong đời vị lai cũng được gìn giữ cấm giới một cách trong sạch, oai nghi không thiếu.
Nguyệt cho con trong đời vị lai được hoàn mãn môn tam muội như vậy.
Nguyện cho con đời vị lai thành tựu trí huệ giải thoát, giải thoát tri kiến như vậy.
Nguyện cho con trong đời vị lai thành tựu viên mãn các thân tướng như thế liền đắc thành trí giác vô thượng, sau khi thành Phật cũng sẽ ở trong chúng hội trời người như thế giảng nói diệu pháp như đây.
Bồ tát quán sát đầy đủ các đức Phật Như Lai cho đến khi thành tựu nhứt thiết trí rồi, lại nên suy gẫm trong đó ai là ta? Ai là của ta (ngã sở hữu)? Các Phật đắc Bồ đề, là thân đắc? Hay là tâm đắc? Nếu thân đắc, thân ngây ngô vô giác vô tri giống như cây cỏ, gạch, vách, bóng trong gương. Còn bồ đề không sắc không hình, không phải bóng, không phải tướng trạng, không thể thấy biết, không thể chạm hiểu. Tại sao lại dùng thân ngây ngô vô giác vô tri, không thấy, không biết, không phân biệt, không tác ý để đắc Bồ đề nầy? Bồ đề như vậy đã không hình sắc không tướng trạng bóng dáng, không thể thấy biết, không thể chạm hiểu, ai lại hành chứng trong đó?
Nếu như tâm đắc, tâm là vô sắc, không thể thấy được, Tâm là vô tướng không thể biết được, Tâm như thế đồng như ảo hóa, nhưng Bồ đề cũng vậy vô sắc không thể thấy, vô tướng không thể biết, vô lậu vô vi cũng đồng như ảo hóa, tại sao lại chứng được? Thế nào giác tri? Mà lại nói rằng thân tâm đắc bồ đề ư? Đại Bồ tát lúc quán sát như thế rõ ràng phân minh là thân tướng không đắc bồ đề cũng biết rằng tâm không đắc Bồ đề. Tại sao thế? Vì các pháp không có chuyện dùng sắc chứng sắc, dùng tâm chứng tâm. Nhưng sự kiện nầy ở trong ngôn thuyết dù biết tất cả là vô sắc, vô hình, vô tướng, vô lậu, không thể nhìn thấy không có chứng biết cũng không phải không chứng biết. Tại sao? Vì do tất cả thân Như Lai không thuộc hữu lậu, thân các ngài vô lậu, tâm cũng vô lậu. Vì các Như Lai tâm vô lậu nên sắc cũng vô lậu.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.143.235.104 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.