Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
XLIV. PHÁP HỘI BỬU LƯƠNG TỤ THỨ BỐN MƯƠI BỐN
1. PHẨM SA MÔN
Như vậy tôi nghe, một lúc Ðức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng đại Tỳ Kheo tám ngàn người câu hội. Còn có sáu ngàn đại Bồ Tát đều bất thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề, đều là bực nhứt sanh bổ xứ từ các Phật thế giới mười phương đến đây tập hội.
Bấy giờ Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Gọi rằng Sa Môn ấy, thế nào là Sa Môn?".
Ðức Phật dạy: "Nầy Ðại Ca Diếp! Gọi là Sa Môn vì tịch diệt vậy, vì điều phục vậy, vì thọ giáo vậy, vì giới thân thanh tịnh vậy, vì nhập thiền định vậy, vì được trí huệ vậy, vì hiểu biết thiệt nghĩa được giải thoát vậy, vì nơi ba môn giải thoát không chỗ nghi vậy, vì an trụ pháp sở hành của Thánh nhơn vậy, vì khéo tu tứ niệm xứ vậy, vì lìa tất cả pháp bất thiện vậy, vì an trụ tứ chánh cần vậy, vì khéo tu tứ như ý túc vậy, vì thành tựu tín căn vậy, vì tin Phật Pháp Tăng vậy, vì thành tựu kiên tín nơi Phật Pháp Tăng vậy, vì chẳng tin đạo pháp khác vậy, vì siêng tu lìa tất cả phiền não vậy, vì khéo tu thất Bồ đề phần lìa tất cả bất thiện như thiệt tu tất cả thiện pháp vậy, vì khéo biết chánh niệm chánh trí phương tiện vậy, vì chuyên niệm tất cả các thiện pháp vậy, vì khéo biết định huệ phương tiện vậy, vì thành tựu ngũ lực vậy, vì khéo tu thất Bồ đề phần vậy, vì khéo biết nhơn duyên phương tiện trong tất cả pháp vậy, vì khéo biết phương tiện Thánh đạo vậy, vì khéo biết phương tiện chánh kiến chánh định vậy, vì được sức tứ biệt tài chẳng tin ngoại đạo vậy, vì y nghĩa chẳng y ngữ, y trí bất y thức, y kinh liễu nghĩa chẳng y kinh bất liễu nghĩa và y pháp bất y nhơn vậy, vì lìa tứ ma vậy, vì khéo biết ngũ ấm vậy, vì dứt tất cả phiền não vậy, vì được tối hậu thân vậy, vì lìa đường sanh tử vậy, vì lìa tất cả ái vậy, vì siêng tu biết khổ đoạn tập chứng diệt tu đạo vậy, vì khéo thấy tứ chánh đế vậy, vì an trụ trong Phật pháp chẳng tin đạo khác vậy, vì chỗ làm đã xong vậy, vì dứt tất cả lậu vậy, vì tu bát hội xả vậy, vì được Thích Phạm Thiên Vương khen vậy, vì từ nào đến giờ chuyên tâm hành đạo vậy, vì ưa chỗ a lan nhã vậy, vì an trụ trong thánh pháp vậy, vì vui nghi thức Phật pháp vậy, vì tâm chẳng khuynh động vậy, vì chẳng thân cận chúng xuất gia tại gia vậy, vì tâm thích độc hành như sừng con tây, vì sợ chúng đông nhiều não loạn vậy, vì thích ở một mình vậy, vì thường kinh sợ tam giới vậy, vì được quả Sa Môn thiệt vậy, vì lìa tất cả hy vọng vậy, vì lìa tám pháp thế gian vậy, đó là đối với lợi suy hủy dự xưng cơ khổ lạc tâm vững chắc bất động như đại địa vậy, vì hộ ý mình ý người không chỗ phạm vây, vì chẳng trược vậy, vì chanh hạnh vậy, vì tâm hành thành tựu như hư không vậy, với các hình tướng tâm không dính mắc như giữa hư không động tay không vướng ngại vậy.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nếu người hay thành tựu các hành pháp như vậy thì gọi là Sa Môn".
Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Thiệt chưa từng có, Ðức Như Lai khéo nói đức hạnh của Sa Môn.
Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu đời sau có các Sa Môn chẳng phải thiệt Sa Môn mà tự nói là Sa Môn, người chẳng phải phạm hạnh mà tự nói có phạm hạnh, người như vậy tức là đã xâm tổn Vô thượng Bồ đề được Như Lai tu tập từ vô lượng vô số kiếp".
Ðức Phật dạy: "Nầy Ðại Ca Diếp! Tội xâm tổn Bồ đề của Như Lai như vậy nói chẳng hết được.
Nầy Ðại Ca Diếp! Sau khi ta diệt độ, ông và chư đại đệ tử cũng đều diệt độ, chư đại Bồ Tát ở thế giới nầy lại đi qua thế giới chư Phật phương khác, bấy giờ trong pháp của ta sẽ có hàng Tỳ Kheo ở nơi sở hành tâm nhiều siểm khúc. Nay ta sẽ nói tội cấu của Sa Môn.
Nầy Ðại Ca Diếp! Trong thời kỳ mạt pháp sẽ có Tỳ Kheo chẳng tu thân chẳng tu giới chẳng tu tâm chẳng tu huệ, ngu si như trẻ nít hướng đến tối tăm mà không biết, tâm họ chẳng điều phục nên thành Sa Môn cấu uế.
Nầy Ðại Ca Diếp! Cấu uế của Sa Môn có ba mươi hai thứ mà người xuất gia phải xa lìa:
Dục giác là Sa Môn cấu, sân giác là Sa Môn cấu, não giác là Sa Môn cấu, tự khen là Sa Môn cấu, chê người là Sa Môn cấu, tà cầu lợi dưỡng là Sa Môn cấu, nhơn lợi cầu lợi là Sa Môn cấu, tổn phước cúng thí của người là Sa Môn cấu, che giấu tội lỗi là Sa Môn cấu, thân cận người tại gia là Sa Môn cấu, thân cận người xuất gia là Sa Môn cấu, ư ở đông ồn náo là Sa Môn cấu, chưa được lợi dưỡng mà phương tiện cầu là Sa Môn cấu, có lòng hy vọng lợi dưỡng của người là Sa Môn cấu, với lợi dưỡng của mình lòng chẳng biết đủ là Sa Môn cấu, tật đố lợi dưỡng người là Sa Môn cấu, thường tìm lỗi người là Sa Môn cấu, chẳng thấy lỗi mình là Sa Môn cấu, chẳng kiên trì giới giải thoát là Sa Môn cấu, chẳng biết tàm quý là Sa Môn cấu, không có ý cung kính mà khinh mạn là Sa Môn cấu, khởi các kiết sử là Sa Môn cấu, nghịch mười hai nhơn duyên là Sa Môn cấu, nhiếp thủ biên kiến là Sa Môn cấu, chẳng tịch diệt chẳng ly dục là Sa Môn cấu, ưa sanh tử chẳng ưa Niết bàn là Sa Môn cấu, ưa thích ngoại điển là Sa Môn cấu, ngũ cái che tâm khởi các phiền não là Sa Môn cấu, chẳng tin nghiệp báo là Sa Môn cấu, sợ ba môn giải thoát là Sa Môn cấu, chê pháp thâm diệu và chẳng hành tịch diệt là Sa Môn cấu, ở trong Tam bảo lòng chẳng tôn kính là Sa Môn cấu. Ðây gọi là Sa Môn ba mươi hai cấu, nếu có thể rời lìa các cấu nầy thì gọi là Sa Môn vậy".
Nầy Ðại Ca Diếp! Còn có tám pháp che Sa Môn hạnh:
Chẳng kính thuận Sư Trưởng, chẳng tôn kính pháp, chẳng khéo tư duy, với pháp chưa nghe khi được nghe thì phỉ báng, nghe pháp không có ngã nhơn chúng sanh thọ mạng thì sợ, nghe tất cả hành pháp bổn lai vô sanh rồi mà hiểu pháp hữu vi chẳng hiểu pháp vô vi, nghe nói pháp thứ đệ rồi sa vào chỗ chấp không, nghe tất cả pháp vô sanh vô tánh vô xuất rồi tâm mê một. Ðây gọi là tám pháp che Sa Môn hạnh nên xa lìa.
Nầy Ðại Ca Diếp! Ta chẳng nói cạo đầu, đắp y gọi là Sa Môn, mà ta nói người có công đức và nghi thức đầy đủ gọi là Sa Môn.
Nầy Ðại Ca Diếp! Thầy Sa Môn thân mặc ca sa tâm phải lìa tham sân si. Tại sao? Vì tâm không tham sân si ta mới cho phép mặc ca sa.
Nếu tâm có tham sân si mà thân mặc ca sa, trừ người chuyên tâm trì giới, còn những kẻ chẳng trì giới thì gọi là tiêu diệt ca sa.
Tại sao? Vì biểu thức của Thánh nhơn là người tùy thuận tịch diệt hành lòng từ bi ly dục tịch diệt mới nên mặc vậy.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nay ông lắng nghe ta nói biểu thức của Thánh nhơn có mười hai điều:
Trì giới là biểu thức của Thánh nhơn, thiền định là biểu thức của Thánh nhơn, trí huệ là biểu thức của Thánh nhơn, giải thaót là biểu thức của Thánh nhơn, giải thoát tri kiến là biểu thức của Thánh nhơn, nhập tứ thánh đế là biểu thức của Thánh nhơn, hiểu mười hai nhơn duyên là biểu thức của Thánh nhơn, hành tứ vô lượng tâm là biểu thức của Thánh nhơn, hành tứ thiền là biểu thức của Thánh nhơn, hành tứ vô sắc định là biểu thức của Thánh nhơn, nhập tứ hướng chánh định là biểu thức của Thánh nhơn, dứt tất cả lậu là biểu thức của Thánh nhơn. Ðây gọi là mười hai biểu thức của Thánh nhơn. Nếu có Tỳ Kheo chẳng đủ mười hai điều nầy mà thân họ mặc ca sa thì ta gọi là tà pháp hành chẳng phải tịch diệt hành, là ly Phật pháp hành chẳng gần Niết bàn thuận theo sanh tử, bị ma bắt chẳng khỏi sanh tử, thối thất chánh pháp mà hành tà pháp.
Vì thế nên, nầy Ðại Ca Diếp! Thầy Tỳ Kheo thân mặc ca sa nếu chưa được quả Sa Môn thì nên dùng tám pháp kính trọng ca sa, đó là đối với ca sa trên thân tưởng như tháp, tưởng như Phật, tưởng tịch diệt, tưởng từ bi, kính như Phật, tưởng làm, tưởng quí, tưởng nó khiến tôi đời sau lìa tham sân si đủ pháp Sa Môn. Ðây là tám pháp kính trọng ca sa.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nếu có Tỳ Kheo chẳng hành tri túc đối với tứ thánh chủng thì là lìa pháp Sa Môn, họ cũng chẳng dùng tám pháp kính trọng ca sa, mà họ riêng có trong số tợ Sa Môn phải đọa tiểu địa ngục. Trong tiểu địa ngục ấy, người tợ Sa Môn thọ tội nóng đốt: y bát trên thân đều cháy đỏ, chỗ ngồi nằm những vật dùng đều cháy đỏ như đống lửa lớn. Vì họ thành tựu thân khẩu ý nghiệp bất tịnh nên họ phải đọa chỗ thọ tội ấy.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nếu người chẳng phải Sa Môn mà tự xưng Sa Môn, người chẳng phải phạm hạnh mà tự nói có phạm hạnh, nếu có người trì giới công đức đầy đủ hữu nhiễu cung kính tôn trọng. Tỳ Kheo phá giới nầy thọ sự cúng dướng cung kính ấy mà chẳng tự biết xấu, do căn bất thiện nầy mắc tám tội kinh: đó là ngu si, miệng câm ngọng, thân lùn xấu, dung mạo xấu xí, mặt nghiêng méo người thấy chê cười, thọ thân nữ nhơn nghèo hèn, thân gầy yếu yểu thọ, người chẳng kính mến thường mang tiếng xấu và chẳng gặp đời có Phật.
Phá giới Tỳ Kheo nghe pháp nầy rồi chẳng nên thọ Tỳ Kheo trì giới lễ bái cúng dường.
Nầy Ðai Ca Diếp! Nếu có người chẳng phải Sa Môn mà tự xưng Sa Môn chẳng phải phạm hạnh mà tự nói có phạm hạnh, người ấy ở khắp đại địa nầy còn không có chỗ để họ nhổ nước miếng nước mũi huống là chỗ để họ bước đi co duỗi lui tới. Tại sao, vì quá khứ Ðại Vương đã đem đại địa nầy bố thí cho người trì giới có hạnh đức khiến ở trong ấy hành đạo.
Nầy Ðại Ca Diếp! Chỗ mà Tỳ Kheo phá giới để bàn chân đến thì tất cả tín thí chẳng đến người ấy, huống là tăng phường và tăng xá thường trụ chỗ kinh hành. Người ấy chẳng nên thọ tất cả tín thí phòng nhà giường ghế vườn rừng y bát ngọa cụ y dược.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nay ta sẽ nói người phá giới ấy chẳng thể báo đáp chừng đầu lông cho tín thí. Tại sao? Vì Thánh chúng phước điền như biển cả tối diệu tối thắng, trong đây nếu có thí chủ do tịnh tâm bố thí, đem hột giống bố thí gieo trong phước điền, thí chủ nầy khởi ý tưởng bố thí vô lượng. Ví như chia một sợi lông làm trăm phần, nếu phá giới Tỳ Kheo thọ của thí chủ chừng một phần lông liền tổn mất phần phước báu đại hải của thí chủ, chẳng thể báo đáp hết được.
Vì lẽ ấy nên các Tỳ Kheo phải thanh tịnh tâm mình mà thọ tín thí của người. Phải học như vậy".
Bấy giờ trong đại chúng có hai trăm Tỳ Kheo có tịnh hạnh thiểu dục ly khổ nghe lời trên đây rồi lau lệ bạch Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng tôi thà chết chớ chẳng muốn do chẳng được quả Sa Môn mà thọ của tín thí dầu chỉ là một bữa ăn".
Ðức Phật dạy: "Lành thay lành thay, nầy các thiện nam tử! Các ông tàm quí lo sợ như vậy, với đời sau dụ như kim cương, còn hiện đời là an lạc.
Nay ta sẽ nói trong đời có hai hạng người đáng thọ của tín thí: một là người siêng tu tinh tiến và hai là người được giải thoát.
Nếu có Tỳ Kheo, người được giải thoát, người tu pháp lành như ta đã nói, người giữ giới vững chắc, người quán tất cả hành vô thường khổ tất cả pháp vô ngã, người quán Niết bàn tịch diệt nguyện cầu muốn được. Các Tỳ Kheo nầy thọ của tín thí khối lượng như núi Tu Di cũng quyết có thể báo được phước tín thí. Tỳ Kheo nầy thọ của tín thí khiến thí chủ ấy được lợi ích lớn được quả báo lớn.
Tại sao vậy? Vì thường sanh phước đức vậy.
Có ba thứ phước: một là thường thí thực phẩm, hai là thí Tăng phường xá và ba là hành từ tâm. Trong ba phước, đây hành từ tâm là hơn hết.
Nếu có Tỳ Kheo thọ thí nơi thí chủ những thứ uống ăn y phục ngọa cụ thuốc men, thọ rồi nếu nhập vô lượng định thì khiến thí chủ ấy được vô lượng phước vô lượng báu.
Ví như tất cả đại hải trong tam thiên Ðại Thiên thế giới có thể cạn khô, nhưng phước báu của thí chủ ấy vẫn chẳng hết được.
Trái lại nên biết phá giới Tỳ Kheo làm tổn mất bao nhiêu phước đức ấy của thí chủ. Nếu thọ thí chủ cúng thí rồi mà hành ác pháp thì tổn tín thí ấy.
Nầy Ðại Ca Diếp! Như vậy, ta nói Sa Môn cấu, Sa Môn tội, Sa Môn siểm khúc, kẻ giặc trong hành Sa Môn.
Trì giới Tỳ Kheo phải nên chuyên nhớ xa lìa tất cả ác pháp như vậy.
Nầy Ðại Ca Diếp! Gọi là Sa Môn có nghĩa là người mắt chẳng duyên theo sắc, tai chẳng duyên theo thanh, mũi chẳng duyên theo hương, lưỡi chẳng duyên theo vị, thân chẳng duyên theo xúc và ý chẳng duyên theo pháp.
Sa Môn là người tuyển trạch lục nhập, liễu đạt lục thông, chuyên niệm lục niệm, an trụ lục kính pháp và hành lục trọng pháp.
Người như vậy mới gọi là chơn Sa Môn vậy". 2. PHẨM TỲ KHEO
Bấy giờ Ðức Phật bảo Trưởng lão Ðại Ca Diếp: "Ðược gọi là Tỳ Kheo vì là người hay phá phiền não, vì hay phá ngã tưởng, nhơn tưởng, chúng sanh tưởng, nam tưởng, nữ tưởng nên gọi là Tỳ Kheo vậy.
Nầy Ðại Ca Diếp! Vì có tu giới tu huệ nên gọi là Tỳ Kheo vậy.
Lại vì lìa khủng úy, vì qua khỏi tam hữu tứ lưu vậy, vì thấy lỗi họa của hữu và lưu vậy, vì lìa tất cả hữu và lưu vậy, vì ở an nơi đạo vô úy vậy, đây gọi là Tỳ Kheo.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nếu có Tỳ Kheo tự biết chẳng thành tựu các pháp như vậy và các thiện pháp khác lại lìa bỏ pháp ấy mà hành đạo khác, thì chẳng phải là đệ tử Phật, ta chẳng phải là thầy của họ.
Nầy Ðại Ca Diếp! Có nhiều ác Tỳ Kheo phá hoại Phật pháp của ta chớ chẳng phải chín mươi lăm phái ngoại đạo phá hoại Phật pháp được.
Ví như sư tử là chúa muông thú, khi nó chết tất cả hổ lang điểu thú không thể ăn thịt nó được. Trong thây sư tử tự sanh các thứ trùng tự ăn thịt nó.
Cũng vậy, trong Phật pháp ta sản xuất các ác Tỳ Kheo như vậy, họ tham lợi dưỡng, vì lòng tham nên chẳng dứt ác pháp chẳng tu thiện pháp chẳng lìa vọng ngữ. Các Tỳ Kheo nầy có thể làm hư hoại Phật pháp ta.
Nầy Ðại Ca Diếp! Có bốn pháp thành tựu nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là tham, sân, si và ngã mạn vậy.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo đó là ngạo mạn tự cao, vô tàm, vô úy và chẳng gìn lỗi nơi miệng.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là tự điệu thông, khinh khi người, tham cầu lợi dưỡng và làm nhiều điều phi pháp.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là có nhiều gian ngụy, huyễn hoặc người, làm nhiều tà mạng và nói nhiều ác ngôn.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là hiện thọ ơn người chẳng biết báo đáp, làm ơn nhỏ mong báo lớn, trước đã thọ ơn người mà chẳng ghi nhớ và xâm tổn thân hữu.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là thọ của tín thí làm tổn thất phước báo của người, chẳng khéo giữ giới, khinh giới đã thọ, chẳng trì luật vững chắc.
Còn có bốn pháp thành tựu nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là luận có ngã, luận có nhơn, luận có chúng sanh và luận có thọ mạng.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là chẳng kính Phật, chẳng kính Pháp, chẳng kính Tăng và chẳng kính giới.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là nếu Tăng hòa hiệp thì lòng chẳng vui, chẳng ưa ở một mình, ưa ở trong chúng và khi nói chuyện thường luận thế tục.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là cầu lợi, cầu danh, cầu nhiều tri thức và chẳng an trụ thánh chủng.
Còn có bốn pháp nên biết là Ác Tỳ Kheo: đó là hệ thuộc nơi ma, bị ma làm hại, ngủ nghỉ nhiều và làm lành chẳng mừng.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là hủ bại trong Phật pháp, tâm nhiều siểm khúc, bị phiền não hại và lìa Sa Môn quả.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là bị dâm dục thiêu đốt, bị sân khuể thiêu đốt, bị ngu si thiêu đốt và bị tất cả phiền não thiêu đốt.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là đi nhiều vào xóm dâm chẳng biết tội lỗi, chẳng biết tri túc dầu học vấn nhiều, chẳng biết tri túc nơi vật cần dùng và thường có lòng bỏn xẻn chẳng hay bố thí.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là từ tối vào nơi tối, từ si vào nơi si, chẳng thấy thánh đế lòng nhiều nghi hoặc và bị sanh tử cột trói đóng cửa Niết bàn.
Còn có bốn pháp nên biết là ác Tỳ Kheo: đó là thân nhiều gian hành, khẩu nhiều gian hành, ý nhiều gian hành và nghi thức nhiều gian hành.
Những gì là thân gian hành? An tường mà đi là thân gian hành. Chẳng ngó hai bên là thân gian hành. Nếu ngó hai bên chẳng quá một tầm là thân gian hành. Tà mạng mặc y là thân gian hành. Siểm khúc đi nơi không nhàn mà chẳng cầu pháp hành không nhàn, siểm khúc khất thực mà chẳng quán tướng khất thực, siểm khúc mặc y phấn tảo mà chẳng biết là vì tàm quí, siểm khúc đi nơi núi rừng dưới cây mà chẳng biết phân biệt thập nhị duyên hành, siểm khúc uống thuốc cũ bỏ mà chẳng cầu pháp dược cam lộ đây gọi là thân nhiều gian hành.
Những gì gọi là khẩu nhiều gian hành? Như nói rằng: họ biết tôi, họ thỉnh tôi, như sở cầu tôi đã được, tôi chẳng cầu lợi dưỡng mà thọ đưa đến cho tôi, đồ cúng dường tế diệu tôi đều được, nhiều lợi dưỡng tôi đều được, tôi thường hành thiện pháp đáng thọ cúng dường, tôi vấn đáp giỏi, tôi hay thuận hay nghịch pháp tướng, với tất cả pháp tôi hiểu nghĩa và phi nghĩa, nếu họ hỏi tôi như vậy tôi có thể đáp như vậy, tôi đáp rồi chế phục họ khiến họ nín lặng, tôi nói như vậy rồi có thể khiến đại chúng vui đẹp cũng khiến mọi người khen thiện tai khiến đại chúng ấy thỉnh tôi cúng dường, cúng dường rồi còn khiến thí chủ thỉnh tôi nhiều lần.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nếu người chẳng điều phục khẩu mà có nói ra điều gì, tất cả lời nói đều chẳng phải chánh ngôn, là khẩu nhiều gian hành.
Những gì là ý nhiều gian hành? Lòng luôn nghĩ tưởng tham cầu lợi dưỡng y bát ẩm thực ngọa cụ y dược mà miệng nói tôi chẳng cầu tất cả lợi dưỡng, lòng thì cầu nhiều mà dối nói tri túc, đây gọi là ý nhiều gian hành".
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Lòng cầu lợi dưỡng
Miệng nói tri túc
Tà mạng cầu lợi
Thường không vui sướng
Lòng họ nhiều gian
Khi dối mọi người
Tâm mà như vậy
Ðều chẳng thanh tịnh
Chư Thiên Long Thần
Người có thiên nhãn
Chư Phật Bồ Tát
Ðều thấy biết rõ.
Nầy Ðại Ca Diếp! Ác Tỳ Kheo như vậy rời lìa thiện pháp nghi thức mà làm hạnh tà mạng phải đọa ba ác đạo. 3. PHẨM CHIÊN ĐÀ LA SA MÔN
Ðức Phật bảo Trưởng lão Ðại Ca Diếp: "Thế nào là chiên đà la Sa Môn?
Nầy Ðại Ca Diếp! Ví như người chiên đà la không có tâm từ bi nhìn các chúng sanh, họ thường ở trong gò mả tìm tử thi, họ được thấy tử thi thì lòng họ rất vui mừng. Cũng vậy Sa Môn chiên đà la thường không có từ tâm, họ đến nhà thí chủ hành tâm bất thiện cầu các lợi dưỡng, cầu được rồi sanh lòng quí trọng, thọ lợi dưỡng nơi nhà thí chủ rồi họ chẳng dạy thí chủ về Phật pháp giới luật, họ vì lợi dưỡng mà thân cận tại gia chớ chẳng vì Phật pháp, họ cũng không có từ tâm thường cầu lợi dưỡng. Ðây gọi là Sa Môn chiên đà la.
Ví như chiên đà la bị mọi người bỏ rời, những hàng quốc vương đại thần trưởng giả sát lợi Bà La Môn các thứ dân cho đến kẻ hạ tiện đều xa rời họ chẳng muốn cùng làm tri thức với họ. Cũng vậy, Sa Môn chiên đà la bị tất cả người trì giới có đức đáng kính Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà xa rời, vì biết họ phá giới làm ác vậy. Ðây gọi là Sa Môn chiên đà la.
Ví như chiên đà la có những đồ vật dụng như y phục ẩm thực đều chẳng phải là vật mà người tốt ưa thích cũng chẳng thọ dùng. Cũng vậy, Sa Môn chiên đà la nếu có y bát vật dụng đều là do phá giới phi pháp thân khẩu ý nghiệp siểm khúc mà được, các vật dụng ấy chẳng được Sa Môn Bà La Môn trì giới ưa thích cũng chẳng thọ dùng, thường sanh lòng thương xót đối với kẻ ấy. Ðây gọi là Sa Môn chiên đà la.
Ví như chiên đà la lòng thẹn thùng cầm chén bát xin ăn nơi người. Cũng vậy, Sa Môn chiên đà la lòng luôn thẹn thùng khi vào nhà người hoặc đến trong chúng, họ cũng thẹn thùng khi đến chỗ Phật, họ thẹn thùng lễ tháp Như Lai, đến lui cúi ngửu đi đứng ngồi nằm họ đều thẹn thùng, vì họ che đậy ác pháp vậy.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nay ta nói chỗ đến của người chiên đà la chẳng đến chỗ lành, vì họ tự hànhg ác pháp vậy. Cũng thế, Sa Môn chiên đà la chỗ đi đến cũng chẳng đến thiệnt đạo vì họ làm nhiều nghiệp ác không ngăn pháp ác đạo vậy. Ðây gọi là Sa Môn chiên đà la.
Nầy Ðại Ca Diếp! Thế nào là Sa Môn bại hoại?
Ví như rượu tốt được cất lấy hết khí vị thơm ngon, còn lại cặn bã bị người chê bỏ. Cũng vậy Sa Môn bại hoại rời lìa pháp vị lấy cặn phiền não, họ bỏ hương trì giới mà ngửi mùi hôi phiền não, họ đến chỗ nào đều chẳng thể tự lợi cũng chẳng lợi cho người. Ðây gọi là Sa Môn bại hoại.
Ví như thực phẩm được ăn biến thành phẩn uế hôi thúi bất tịnh bị người chán lìa. Cũng vậy, Sa Môn bại hoại thân khẩu ý nghiệp chẳng thanh tịnh nhơ uế cũng như vậy.
Ví như hột giống hư gieo vào đất trọn chẳng mọc mầm kết trái. Cũng vậy, Sa Môn bại hoại dầu ở trong Phật pháp mà chẳng sanh thiện căn chẳng được quả Sa Môn.
Nầy Ðại Ca Diếp! Thế nào là trấp Sa Môn?
Ví như cái trấp sơn vẽ do thợ khéo làm thành, trong ấy đựng các thứ bất tịnh hôi thúi. Cũng vậy, trấp Sa Môn ngoài hiện thành tựu tợ hạnh Sa Môn mà nội tâm nhiều thứ cấu uế hành những nghiệp ác.
Nầy Ðại Ca Diếp! Thế nào là Sa Môn câu lan trà?
Ví như hoa câu lan trà màu sắc sáng đẹp cứng như gỗ đá có mùi hôi thúi như trét phẩn. Người có trí nếu thấy hoa nầy thì chẳng gần chẳng chạm đến mà tránh đi xa, kẻ ngu chẳng biết lợi hại, họ thấy hoa ấy liền đến gần để ngửi. Cũng vậy, Sa Môn câu lan trà hiện tợ hạnh Sa Môn mà có thô bạo ngạo mạn tự cao ác bất tịnh, họ lại phá giới phá chánh kiến. Người trí chẳng thân cận lễ kính họ, vì họ là ác nhơn nên người trí lánh xa. Có kẻ ngu si như trẻ nít thân cận lễ kính họ tin lời họ nói. Ðây gọi là Sa Môn câu lan trà.
Nầy Ðại Ca Diếp! Thế nào là Sa Môn cầu lợi?
Ví như có người siểm khúc tâm thường bỏn xẻn bị tham che lấp, nếu thấy tài vật người thì hy vọng muốn được, chứa dao bén gậy cứng không lòng hổ thẹn không lòng thương xót thường có lòng tổn hại, lúc đi trong núi chầm tụ lạc có tâm nguyện đối với tài vật người mong cầu muốn được, thường ẩn núp chẳng cho người thấy.
Cũng vậy, Sa Môn cầu lợi long thường bỏn xẻn bị tham che lấp, nơi lợi dưỡng đã được lòng không biết đủ, nơi tài vật người hy vọng muốn được, khi đến thành ấp tụ lạc thì vì lợi dưỡng chẳng vì thiện phap, che giấu tội ác, cho rằng các Tỳ Kheo tốt chỉ sanh lòng e sợ, thường dua nịnh hiện làm nghi thức. Chư Thiên Long Quỉ Thần có thiên nhãn thấy biết Tỳ Kheo nầy đến là tặc đến, đi là tặc đi, ngồi là tặc ngồi, nằm là tặc nằm, dậy là tặc dậy, lấy y là tặc y, mặc y là tặc mặc y, vào tụ lạc là tặc vào tụ lạc, xuất tụ lạc là tặc xuất, ăn là tặc ăn, uống là tặc uống, cạo tóc là tặc cạo tóc. Người ngu si ấy đến đi cử động đều bị chư Thiên Long Quỉ Thần thấy biết liền quở mắng kẻ ác nầy chính là kẻ làm hoại diệt pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni. Sa Môn cầu lợi nầy xuất gia trong Phật pháp chẳng sanh được một niệm tịch diệt ly dục huống là được quả Sa Môn. Ðây gọi là Sa Môn cầu lợi.
Nầy Ðại Ca Diếp! Thế nào là Sa Môn cỏ dại?
Ví như trong ruộng lúa mọc cỏ dại giống cây lúa khó phân biệt được, nông phu cho là lúa tốt, đến khi trổ bông mới biết chẳng phải là lúa. Cũng vậy, Sa Môn cỏ dại ở trong đại chúng giống như người trì giới có đức hạnh, thí chủ thấy cho là Sa Môn, mà kẻ si nầy chẳng phải Sa Môn tự nói là Sa Môn, chẳng phạm tự xưng phạm hạnh, từ trước đã bại hoại rời trì giới cũng chẳng vào số Tăng chúng, trong Phật pháp không có trí huệ mạng sẽ đọa ác đạo như cỏ dại ở trong ruộng lúa. Bấy giờ chư Thiên Long Thần có thiên nhãn thấy kẻ si ấy đọa địa ngục họ bảo nhau rằng: Ðây là người ngu si trước kia tợ Sa Môn mà hành pháp bất thiện nay sẽ đọa trong đại địa ngục, từ nay về sau trọn không có được đức hạnh Sa Môn và quả Sa Môn như cỏ dại ở trong ruộng lúa. Ðây gọi là Sa Môn cỏ dại.
Nầy Ðại Ca Diếp! Thế nào là bồ sanh Sa Môn?
Ví như cỏ lác mọc trong ruộng lúa, vì nó chẳng chín nên gọi là bồ sanh, vì nó không có hột bị gió thổi bay nó không có sức cứng nặng, tợ lúa mà chẳng phải lúa. Cũng vậy, bồ sanh Sa Môn thân hình tợ Sa Môn mà không người dạy bảo không có đức lực bị ma phong thổi bay, họ cũng không sức huyết khí trì giới, lìa đa văn tổn thất định lực, cũng xa trí huệ chẳng thể phá hoại giặc phiền não, người như vậy yếu kém không có sức lực bị hệ thuộc nơi ma bị ma nó câu chìm trong tất cả phiền não, bị ma phong thổi bay như bồ sanh trong ruộng lúa.
Nầy Ðại Ca Diếp! Hột cỏ lác không dùng làm giống lúa được, không mọc mầm lúa được. Cũng vậy, ở trong Phật pháp bồ sanh Sa Môn không có chủng tử đạo, trong pháp hiền thánh không được giải thoát. Bồ sanh Sa Môn là Tỳ Kheo phá giới làm ác. Ðây gọi là bồ sanh Sa Môn.
Lại nầy Ðại Ca Diếp! Thế nào là hình tợ Sa Môn?
Ví như có thợ khéo dùng vàng mạ lên đồng màu sắc tợ vàng mà giá trị chẳng đồng với vàng, lúc chà mài mới biết chẳng phải vàng.
Cũng vậy, người hình tợ Sa Môn ưa tự nghiêm sức thờng tắm rửa đắp y tề chỉnh, nghi thức Sa Môn tất cả đều đủ, đến đi cúi ngước thường đúng nghi thu, nhung nguo nầy thường bị tham sân si làm hại, cũng bị lợi dưỡng cung kính tán thán làm hại, cũng bị ngã mạn tăng thượng mạn tất cả phiền não làm hại, dầu được người quí trọng mà y kông trọng pháp, thường siêng trang nghiêm thân mà chỉ cầu ẩm thực chẳng cầu Tháng pháp, chẳng lo sợ đời sau, thấy sự tôn trọng hiện tại chẳng phải tương lai tôn trọng, chỉ lo mập béo thêm dựa nơi lợi dưỡng chẳng phải dựa nơi pháp, nhiều thứ hệ phược, siêng tạo gia nghiệp thuận lòng người tại gia cũng tùy theo sở thọ của họ, lúc khổ thọ khổ lúc vui thọ vui, bị ghét thương làm hại, nơi pháp Sa Môn họ không có lòng muốn thiệt hành rời các nghi thức, tất sẽ đọa địa ngục ngạ quỷ súc sanh. Người nầy không có thiệt nghĩa Sa Môn, không có thiệt danh Sa Môn, chẳng đồng với Sa Môn. Ðây gọi là hình tợ Sa Môn.
Nầy Ðại Ca Diếp! Thế nào là mất huyết khí Sa Môn?
Ví như có nam tử hay nữ nhơn, hoặc đồng nam hay đồng nữ bị phi nhơn ăn mất huyết khí. Người nầy gầy yếu xanh xao vì bị mất huyết khí, các thứ thuốc men chú thuật và dao gậy chẳng chữa trị được, tất phải chết. Cũng vậy, Sa Môn không có huyết khí giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến và huyết khí từ bi hỷ xả, cũng không có huyết khí bố thí điều phục hộ thân khẩu ý nghiệp, cũng không có huyết khí an trụ tứ thánh chủng, không có huyết khí nghi thức Sa Môn, không có huyết khí tịnh thanh thân khẩu ý. Ðây gọi là Sa Môn mất huyết khí. Sa Môn mất huyết khí nầy dầu thọ pháp dược Như Lai mà chẳng dùng pháp dược để tự độ: như là nếu khởi dâm dục phải quán bất tịnh, nếu sanh sân hận phải hành từ tâm, nếu khởi ngu si nên quán thập nhị nhân duyên, với các phiền não nên chánh tư duy, rời lìa lòng ưa thích chúng đông, xả bỏ sở hữu, ba sự xuất gia phải nên mến gìn: một là trì giới thanh tịnh, hai là điều phục tâm mình và ba là nhập định chẳng loạn. Các pháp dược như vậy được Như Lai tuyên nói, được Như Lai cho phép uống. Người nầy dầu thọ pháp dược ấy mà chẳng dùng tự độ. Lại còn những pháp xuất thế, như là không quán, vô tướng quán, vô tác quán, tỏ ấm giới nhập, biết bốn thánh đế và mười hai nhơn duyên.
Các pháp dược nhu vậy cũng chẳng được người ấy dùng tự độ. Sa Môn nầy hôi thúi bất tịnh vì phá giới vì bạc đức vậy, sẽ sanh chỗ tột thấp vì kiêu mạn vậy. Nơi thân ấy chết tất chẳng sanh nơi nào khác mà quyết sẽ đọa đại địa ngục, như người mất huyết khí quyết rồi sẽ chết. Ðây gọi là Sa Môn mất huyết khí".
Lúc Ðức Phật tuyên nói như vậy rồi, có năm trăm Tỳ Kheo xả giới hoàn tục. Các Tỳ Kheo khác quở rằng: Ở trong Phật pháp nếu chư Ðại Ðức bỏ mà hoàn tục là phi thiện là phi pháp.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: "Các ông chớ nói như vậy. Tại sao, vì làm như vậy gọi là thuận pháp. Nếu Tỳ Kheo chẳng muốn thọ của tín thí mà thối lui hoàn tục thì gọi là thuận pháp. Các Tỳ Kheo kia vì tâm tín giải nhiều nên sanh lòng hối lỗi. Họ nghe lời dạy trên kia rồi tự suy nghĩ chúng ta hoặc có thể hành bất tịnh hạnh mà thọ của tín thí, chúng ta phải sanh lòng hối lỗi thối lui mà hoàn tục.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nay ta nói chư Tỳ Kheo thối lui hoàn tục ấy sau khi mạng chung sanh Trời Ðâu Suất chỗ của Di Lặc Bồ Tát. Thời kỳ Di Lặc Như Lai xuất thế, chư Tỳ Kheo ấy sẽ ở trong pháp hội đầu tiên". 4. PHẨM DOANH SỰ TỲ KHEO
Bấy giờ Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Tỳ Kheo hay quản lý sự việc trong Tăng chúng?”
Ðức Phật dạy: "Nầy Ðại Ca Diếp! Ta cho phép hai hạng Tỳ Kheo có thể quản lý chúng sự: Một là người hay trì giới thanh tịnh, hai là người sợ nơi đời sau, ví như kim cương.
Còn có hai hạng: Một là biết các nghiệp báo, hai là có lòng tàm quí và lòng hối lỗi.
Còn có hai hạng: Một là A La Hán, hai là có thể tu tập được Bát hội xả.
Nầy Ðại Ca Diếp! Ðó là hai hạng Tỳ Kheo được ta cho quản lý chúng sự tự mình không lầm lỗi. Tại sao, vì hộ ý của người là việc khó vậy.
Nầy Ðại Ca Diếp! Trong Phật pháp có nhiều hạng xuất gia, nhiều thứ tánh, nhiều thứ tâm, nhiều thứ giải thoát, nhiều thứ đoạn kiết sử, hoặc có người a lan nhã, hoặc có người khất thực, hoặc có ở người thích ở núi rừng, hoặc có người thích ở gần tụ lạc thanh tịnh trì giới, hoặc có người hay lìa tứ ách, hoặc có người siêng tu đa văn, hoặc có người biện nói các pháp, hoặc có người hay trì giới luật, hoặc có người hay trì tỳ ni nghi thức, hoặc có người du hành các tụ lạc vì người nói pháp. Có bao nhiêu Tỳ Kheo Tăng như vậy, Tỳ Kheo quản lý khéo biết và làm vừa ý mọi người.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nếu với Tỳ Kheo a lan nhã ưa chỗ không nhàn, thì Tỳ Kheo quản sự chẳng nên sai khiến làm tất cả công việc, nếu là lúc họ phải làm việc trong Tăng chúng thì Tỳ Kheo quản sự nên làm thế, nếu tự mình không làm thì thuê người khác làm thay chẳng nên để họ làm, nếu chẳng phải là giờ hành đạo thì có thể sai làm chút ít.
Nếu với Tỳ Kheo khất thực, thì Tỳ Kheo quản sự nên cho họ đồ ăn ngon.
Nếu với Tỳ Kheo lìa tứ ách, thì Tỳ Kheo quản sự phải cung cấp các thứ cần dùng như y phục ẩm thực ngọa cụ và y dược, chỗ họ ở không được nói to gọi lớn vì muốn phòng hộ ý niệm của họ. Ðối với Tỳ Kheo ly ách thì Tỳ Kheo quản sự phải tôn kính tưởng như đức Thế Tôn và nghĩ rằng: Tỳ Kheo nầy có thể làm pháp trụ trong Phật pháp, tôi phải cung cấp các đồ cần dùng cho Ngài.
Nếu có Tỳ Kheo siêng tu đa văn, thì Tỳ Kheo quản sự phải khuyến khích họ rằng: Ðại Ðức siêng tu đa văn đọc tụng cho thông thuộc, tôi sẽ vì Ðại Ðức mà lo cung cấp phục dịch. Nếu chư Ðại Ðức mà siêng tu đa văn như vậy thì tức là anh lạc tốt trong Tăng chúng có thể lên tòa cao rộng thuyết chánh pháp cũng tự mình sanh trí huệ. Với các Tỳ Kheo tu đa văn nầy, Tỳ Kheo quản sự chẳng nên sai làm việc phi thời phải ủng hộ cho họ tu đa văn.
Nếu có Tỳ Kheo giỏi thuyết pháp, thì Tỳ Kheo quản sự nên cung cấp mọi sự, nên dắt Tỳ Kheo ấy đến tụ lạc thành ấp khuyến dụ mọi người đến để nghe thuyết pháp, chỗ thuyết pháp cũng phải cung cấp đồ cần thiết, vì người thuyết pháp mà đặt tòa cao tốt. Nếu có Tỳ Kheo khác dùng cường lực muốn phá hoại người thuyết pháp thì Tỳ Kheo quản sự nên đến hòa giải và cũng nên thường đến chỗ người thuyết pháp khen thiện tai.
Nếu có Tỳ Kheo khéo trì giới khéo hiểu nghĩa luật thì Tỳ Kheo quản sự phải thường đến hỏi: Tôi lo công việc thế nào để khỏi phạm tội chẳng tổn mình cũng chẳng hại người? Tỳ Kheo trì luật nên quan sát tâm của Tỳ Kheo quản sự mà chỉ dẫn việc ấy nên làm, việc ấy chẳng nên làm. Tỳ Kheo quản sự đối với Tỳ Kheo trì luật phải hết lòng kính tin cúng dường.
Nếu chúng Tăng có tài vật dùng chia, thì Tỳ Kheo quản sự phải tùy thời cung cấp cho Tăng chẳng nên cất giấu, tùy lúc Tăng cần dùng nên chia cho Tăng. Phải có đúng lúc, chẳng vì ac tâm cho, chẳng vì phi pháp cho, chẳng vì tham vì sân vì si mà cho, chẳng vì sợ mà cho, theo pháp hành của Tăng chẳng theo pháp tục gia, tùy Tăng chế chẳng tùy tự chế, nơi tài vật của Tăng chẳng có ý tưởng tự do cho đến việc nhỏ cũng cùng Tăng phân phân đoán, chẳng riêng tự đoán. Nếu là vật dụng hoặc vật thường trụ Tăng, vật của Phật, vật tứ phương Tăng, Tỳ Kheo quản sự phải biết rõ, vật của thường trụ Tăng chẳng nên cho tứ phương Tăng, vật của tứ phương Tăng chẳng nên làm vật thường trụ Tăng, vật thường trụ vật tứ phương chẳng nên lộn lạo, cũng chẳng lộn với vật của Phật. Nếu vật thường trụ Tăng nhiều mà tứ phương Tăng cần dùng thì Tỳ Kheo quản sự nên họp Tăng yết ma. Nếu Tăng hòa hiệp chấp thuận nên đem vật thường trụ Tăng chia cho tứ phương Tăng. Nếu tháp điện Phật có chỗ cần, hay hư cần tu sửa mà vật thường trụ Tăng hay vật tứ phương Tăng nhiều thì Tỳ Kheo quản sự nên họp Tăng yết ma, nếu Tăng hòa hiệp chấp thuận cho thì quản sự Tỳ Kheo lấy vật ấy dùng tu bổ tháp điện. Nếu Tăng không hòa hiệp chấp thuận thì Tỳ Kheo quản sự nên khuyên hóa hàng tại gia cầu xin tài vật để tu bổ tháp điện. Nếu vật của Phật nhiều nhứt thiết không được đem chia cho thường trụ Tăng hay tứ phương Tăng. Tại sao? Vì trong những vật ấy dầu là một sợi dây đều là của thí chủ tín tâm thí cho Phật, do đó chư THiên và người đời đều có ý nghĩa là Phật tháp huống là các bửu vật. Nếu nơi Phật pháp trước đã có cúng y, thì y nầy nên để cho gió thổi mưa rã chớ chẳng nên đem đổi vật khác dầu là bửu vật. Tại sao? Vì vật nơi tháp điện Phật không ai có thể đánh giá được, vả lại Phật không chỗ cần dùng vậy. Nơi vật của Tam bửu, Tỳ Kheo quản sự tốt trong sạch chẳng nên để lộn lẫn nhau, với tự lợi dưỡng phải có tâm tri túc, nơi vật Tam bửu chẳng có ý nghĩ là của mình.
Nầy Ðại Ca Diếp! Ở nơi người trì giới có đức hạnh lớn đáng lễ kính hữu nhiễu, mà Tỳ Kheo quản sự có sân tâm dùng quyền sai khiến làm việc, vì sân tâm nên Tỳ Kheo quản sự sẽ đọa đại địa ngục, nếu được làm người thì làm tôi mọi bị chủ nhơn sai khiến đánh mắng khổ cực.
Nếu Tỳ Kheo quản sự dùng quyền đặt quy chế nặng quá hạn thường của Tăng trách phạt chư Tỳ Kheo sai làm phi thời, do cớ nầy nên quản sự Tỳ Kheo sẽ đọa tiểu địa ngục nhiều đinh bị trăm ngàn mũi đinh đóng căng thân thể cả thân cháy phừng như đống lửa lớn.
Nếu với Tỳ Kheo trì giới có đức lớn mà dùng việc nặng để khủng bố dùng tâm sân để nói, thì Tỳ Kheo quản sự nầy sẽ đọa trong địa ngục lưỡi dài rộng năm trăm do tuần bị trăm ngàn mũi đinh đóng vào phát lửa cháy đỏ.
Nếu thường được tài vật Tăng, quản sự Tỳ Kheo bỏn xẻn cất giấu, hoặc phi thời phát cho Tăng, hoặc làm khó dễ mà cho, hoặc làm khổ mà cho, hoặc cho ít hay chẳng cho, hoặc cho người nầy chẳng cho người kia. Do cớ nầy, Tỳ Kheo quản sự sẽ đọa uế ác Ngạ quỉ thường ăn phẩn cục, có lúc Ngạ quỉ khác đưa đồ ăn cho coi mà chẳng cho ăn phải thèm muốn khốn khổ. Bị khổ đói khát trong trăm ngàn năm thường chẳng được ăn. Nếu có được đồ ăn liền biến thành phẩn cứt hoặc thành mủ máu. Tại sao, vì nơi người trì giới đáng lễ kính, mà Tỳ Kheo quản sự ấy làm khó dễ khi đem Tăng vật phát cho.
Nầy Ðại Ca Diếp! Nếu Tỳ Kheo quản sự chuyên tự dùng lộn lạo hoặc vật thường trụ Tăng, hoặc vật tứ phương Tăng, hoặc vật Phật tháp thì mắc báo khổ lớn trong một kiếp hay hơn một kiếp. Tại sao, vì xâm phạm vật Tam bửu vậy.
Nếu Tỳ Kheo quán sự nghe tội như vậy biết tội như vậy mà cố sanh lòng sân nơi người trì giới, nay ta nói tội ấy chư Phật Thế Tôn chẳng cứu trị được. Vì thế nên Tỳ Kheo quản sự nghe tội phi pháp như vậy rồi phải nên khéo hộ thân khẩu ý nghiệp, tự hộ lấy mình và hộ cho người.
Nầy Ðại Ca Diếp! Tỳ Kheo quản sự thà ăn thịt thân mình chớ trọn chẳng nên tạp dùng vật Tam bửu để làm y bát ẩm thức”.
Bấy giờ Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thiệt chưa từng có, đức Như Lai dùng lòng từ bi mà nói pháp như vậy, vì người không tàm quí mà nói pháp không tàm quí, vì người có tàm quí mà nói pháp tàm quí”.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.219.123.84 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.