Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» An Lạc Tập [安樂集] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

An Lạc Tập [安樂集] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

An Lạc Tập

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Thích Hồng Nhơn

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

An Lạc Tập
Nội dung toàn bộ An Lạc Tập gồm có 12 chương đều dẫn kinh luận chứng minh khuyên người khởi lòng tin cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc.
Chương Một
1. Nguyên do lập giáo

Nói về thời gian và căn cơ thích hợp cho người tu Tịnh Độ. Bất cứ một việc làm gì, nếu hợp với thời cơ thì sẽ dễ dàng, người tu nếu giáo lý phù hợp với thời cơ sẽ dễ tu và dễ ngộ hơn. Trái lại sẽ khó tu và khó ngộ nhập. Nên trong Chánh Pháp Niệm Kinh nói: "Khi hành giả nhất tâm cầu đạo cần phải quán sát thời cơ và phương tiện, nếu không đúng thời và không có phương tiện phù hợp thì mất tất cả lợi ích". Vì sao vậy? Vì lấy cây ướt để mồi lửa, lửa không thể cháy vì không đúng thời. Nếu đập cây khô để tìm nước, không thể có nước được, người không biết dùng đúng thời cơ là người không có trí tuệ.
Trong Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh nói: "Phật có lời di chúc: Sau khi ta diệt độ chừng khoảng 500 năm thứ nhất các đệ tử của ta học huệ được kiên cố; khoảng 500 năm thứ hai sau, người học định được kiên cố; khoảng 500 năm thứ ba sau, nghe nhiều, đọc tụng kiên cố; khoảng 500 năm thứ tư, tạo lập tháp tượng, tu phước, sám hối được kiên cố; khoảng 500 năm thứ năm, thế pháp che ngăn, phần nhiều chú trọng đến việc tranh cãi, các việc lành nhỏ được kiên cố. Cũng trong Đại Thập Nguyệt Tạng nói: "Chư Phật ra đời có 4 phương pháp độ chúng sanh: 1- Chính miệng các Ngài nói ra 12 bộ kinh là dùng pháp thí để độ sanh. 2- Chư Phật có vô lượng tướng hảo, ánh sáng, tất cả chúng sanh chỉ cần để tâm quán sát đều được lợi ích, đây là dùng thân nghiệp để độ sanh. 3- Có vô lượng đức dụng, thần thông, đạo lực, các thứ biến hóa, là dùng sức thần thông để độ chúng sanh. 4- Chư Phật Như Lai có vô lượng danh hiệu, hoặc danh hiệu chung, hoặc danh hiệu riêng, có chúng sanh nào trói tâm xưng niệm, đều có thể trừ các chướng và được lợi ích, đều được sanh trước Phật là dùng danh hiệu độ chúng sanh. Tính đến bây giờ, chúng sanh đã cách Phật hơn 2.000 năm, chính là lúc sám hối, tu phước, là lúc cần xưng danh hiệu Phật. Nếu người nào một lòng xưng danh hiệu Phật A Di Đà là có thể trừ được 80 ức kiếp tội trọng sanh tử. Một niệm còn được như thế huống chi hành giả thường niệm, thường sám hối. Như thế, từ ngày Phật thị tịch đến 2 ngàn năm, giai đoạn đầu người tu lấy tu Định tu Huệ làm Chánh học, sau 2 ngàn năm, cách Phật đã xa, nên lấy việc Trì Danh làm Chánh tu, Chánh học. Vì sao? Vì sự thực do chúng sanh cách Phật đã xa, căn cơ và chỗ hiểu đều cạn cợt và ám độn. Vì thế, Bà Vi Đề Hy là một đại sĩ vì thương chúng sanh trong thời mạt pháp ngũ trược, luân hồi nhiều kiếp chịu nhiều thống khổ, nên mượn duyên khổ để mở ra con đường cầu xin, để Phật dủi lòng từ khuyên về Cực Lạc. Nếu muốn ở cõi này đoạn hoặc chứng chơn, tiến lên Phật quả, thật khó bước lên, chỉ có pháp môn Tịnh Độ có thể dùng cách "đạp gai lấy gai mà lể" để thẳng vào. Nếu muốn hiểu rõ, trong kinh nói đến rất nhiều, lời thực chỉ rành, giúp ích tu tập. Nếu muốn dứt vòng sanh tử, lưu chuyển không cùng, cần phải một lòng xưng dương Phật Vô Lượng Thọ.
2. Căn cứ vào các Kinh Đại Thừa về quy tắc nói và nghe
Kinh Đại Tập nói: "Đối người thuyết pháp, phải tưởng là y vương, tưởng người cứu khổ. Pháp nói ra phải tưởng là Cam lồ, tưởng là Đề hồ. Người phe pháp tưởng được tăng trưởng thắng giải, tưởng được lành bệnh. Nếu nói và nghe đều có tưởng như thế, người nói và người nghe đều có thể nối thạnh dòng Phật, thường sanh trước mặt Phật.
Đại Trí Độ Luận nói: Người nghe phải xem như mình đang khát được uống, một lòng thâm nhập vào nghĩa và lời, nghe pháp tâm mạnh mẻ vui mừng, những người như thế cần vì người đó mà nói pháp. Có 2 hạng người được phước vô lượng vô biên. 1- Người ưa nói pháp. 2- Người ưa nghe pháp. Vì thế A Nan bạch Phật: Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên vì sao được gọi là trí huệ thần thông thứ nhất và đệ tử thù thắng của Phật: Phật bảo A Nan vì 2 người này khi tu nhơn, vì nhơn duyên nói pháp mà đi xa ngàn dặm không nài khó nhọc, vì thế ngày nay có quả báo vô cùng thù thắng.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: Nếu người không có cội gốc lành, không được nghe kinh này, người thanh tịnh, giữ giới mới được nghe chánh pháp. Người từng thấy Thế Tôn mới có thể tin việc này, phụng sự ức Như Lai, ưa nghe dạy như thế.
Vô Lượng Thanh Tịnh Giải Kinh: Người thiện nam kẻ thiện nữ nghe nói pháp môn Tịnh Độ sanh lòng vui mừng, lông trong thân đều dựng đứng, như được nhổ ra, nên biết người đó đời trước đã tu đạo Phật. Nếu có người nào nghe mở pháp môn Tịnh Độ đều không sanh lòng tin thì biết người này mới vừa 3 đường dữ đến, báo nạn chưa hết do đó nên không có lòng tin tưởng. Ta nói người này không thể được giải thoát. Nên Kinh Vô Lượng Thọ nói: người kiêu mạn, che ngăn, giải đải khó tin được pháp này.
3. Căn cứ vào Đại Thừa Kinh Giáo để biết chúng sanh phát tâm lâu mau, cúng dường nhiều ít.
Kinh Niết Bàn nói: Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp: Nếu có chúng sanh ở trong Nửa hằng hà sa Phật mà phát tâm Bồ Đề, về sau này ở trong đời ác nghe kinh điển Đại Thừa mà không bài báng. Nếu có chúng sanh nào ở trong Một hằng hà sa Phật phát tâm Bồ Đề, về sau mới có thể ở trong đời ác nghe kinh, mới không khởi lòng bài báng, sanh lòng vui ưa. Nếu có chúng sanh nào ở trong Hai hằng sa Phật phát tâm Bồ Đề, về sau mới ở trong đời ác không chê pháp môn Tịnh Độ này, hiểu rõ tin ưa, thọ trì đọc tụng. Nếu có người ở trong Ba hằng hà sa Phật phát tâm Bồ Đề, sau đó mới ở trong đời ác không chê phương pháp này, biên chép kinh điển, tuy vì người nói chưa hiểu thâm nghĩa. Vì sao thế? Cần phải so lường vì hiển bày ngày hôm nay ở dưới tòa nghe kinh, từng đã phát tâm cúng dường nhiều vị Phật. Lại hiển bày oai lực của kinh Đại Thừa không thể nghĩ bàn. Vì thế trong kinh nói: nếu có chúng sanh nghe kinh điển này trải qua ức trăm ngàn kiếp không bị đọa ác đạo. Vì sao? Chỗ kinh điển ấy lưu bố, nên biết đất ấy là kim cương, các người trong ấy đều cũng là kim cương. Nên biết, nghe kinh sanh lòng tin được lợi ích không thể nghĩ bàn.
4. Luận Tôn chỉ các Tôn chẳng đồng
Nếu y cứ vào kinh Niết Bàn lấy Phật tánh làm tôn, y cứ vào kinh Duy Ma lấy bất khả tư nghì giải thoát làm tôn, nghe kinh Bát Nhã lấy không huệ làm tôn, nghe vào Đại Tập Kinh lấy Đà la ni làm tôn, Quán kinh này lấy Quán Phật Tam muội làm tôn, nếu luận về cảnh sở quán là y cứ vào y báo và chánh báo, căn cứ vào các quán đều có giải rõ. Kinh Quán Phật Tam muội nói: Phật bảo phụ vương: Chư Phật ra đời đem lại cho chúng sanh 3 thứ lợi ích. 1- Miệng nói ra 12 bộ kinh là lợi ích về pháp thí có thể trừ vô minh ám chướng cho chúng sanh, mở mắt trí huệ, sanh ở trước Phật, mau được Vô thượng Bồ đề. 2- Chư Phật Như Lai có thân tướng ánh sáng trang nghiêm, vô lượng diệu hảo, nếu có chúng sanh nào xưng niệm, quán sát, hoặc tổng tướng hoặc biệt tướng. Không quên Phật thân hiện tại, quá khứ đều có thể trừ diệt tội tứ trọng và ngũ nghịch của chúng sanh, vĩnh viễn thoát khỏi tam đồ, tùy ý mong muốn thường sanh về Tịnh Độ cho đến thành Phật. 3- Khuyên thực hành niệm Phật tam muội. Đức Phật khuyên phụ vương thực hành niệm Phật Tam muội. Vua Tịnh Phạn bạch Phật: Các phương pháp tu như: Quả Đức Phật Địa, Chơn Như Thật Tướng, Đệ Nhất Nghĩa Không, vì sao không dạy đệ tử thực hành. Phật bảo: Này phụ vương! Quả Đức Phật Địa có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, không phải là cảnh giới thực hành của người phàm, vì thế nên khuyên phụ vương thực hành niệm Phật Tam muội. Phụ vương bạch Phật: Công năng niệm Phật trạng thái nó như thế nào? Phật bảo: Này Phụ vương! Trong rừng y lan chu vi 40 do tuần, khi ngưu đầu chiên đàn chưa xuất hiện, cả vùng ấy hôi hám không có mùi thơm, nếu người ăn nhằm hoa quả của cây y lan thì phát cuồng mà chết. Khi ngưu đầu chiên đàn xuất hiện, mùi hương xông khắp mạnh mẻ có thể cải biến cả rừng y lan này đều có mùi thơm ngào ngạt, mọi người gặp đó đều sanh lòng hi hữu ít có. Phật bảo: Này phụ vương! Tất cả chúng sanh ở trong sanh tử có lòng niệm Phật, lại cũng như thế, chỉ cần nhớ niệm không dừng, chắc được sanh trước Phật. Một khi đã được vãng sanh, liền có thể cải biến tất cả các điều ác thành đại từ bi, như cây chiên đàn kia biến đổi rừng y lan. Rừng y lan thí dụ như trong thân chúng sanh có 3 độc, 3 chướng, vô biên tội trọng. Nói chiên đàn thí dụ như tâm chúng sanh niệm Phật. Nếu chúng sanh niệm Phật không gián đoạn, đạo nghiệp chắc được thành tựu.
Có người hỏi: Nếu tính công của tất cả chúng sanh niệm Phật cũng có thể tạm được, vì sao sức của 1 người niệm mà có thể đoạn trừ hết tất cả chướng như chiên đàn có thể cải biến rừng y lan 40 do tuần thơm tho được? Nếu căn cứ vào các kinh điển Đại thừa thì niệm Phật Tam muội công năng không thể nghĩ bàn được. Kinh Hoa Nghiêm nói: Nếu có người dùng gân sư tử làm dây đàn, âm thanh khi khảy lên một tiếng, tất cả các dây đàn thẳng đều bị đứt đoạn, nếu người phát tâm Bồ đề thực hành niệm Phật tam muội, tất cả phiền não, tất cả chướng nạn đều đoạn diệt. Cũng như có người đem sữa của các thứ trâu, dê, lừa, ngựa để vào trong 1 cái bồn, nếu nhỏ 1 giọt sữa sư tử vào các sữa đều bị biến thành nước. Như người phát tâm Bồ đề thực hành niệm Phật tam muội, tất cả ác ma, các chướng vượt qua không có vướng nạn. Như có người cầm thuốc che mình, dạo đi các chỗ, tất cả mọi người đều không thấy, nếu người phát tâm Bồ đề tu niệm Phật Tam muội, tất cả ác thần, tất cả oán tặc không thể thấy người ấy, người ấy tùy ý đi lại đều không bị tai họa, vì sao vậy? Vì niệm Phật tam muội là vua của các tam muội vậy.
5. Lược giải nghĩa Ba Thân và Ba Độ
Hỏi: Hiện tại Phật A Di Đà là thân gì và cõi nước Cực Lạc là cõi gì?
Đáp: Hiện tại Phật A Di Đà là báo thân Phật, cõi Cực Lạc trân bảo trang nghiêm là báo độ. Tuy vậy, ngày xưa tương truyền đều nói Phật A Di Đà là hóa thân, cõi Cực Lạc cũng là hóa độ. Đây là một điều lầm lớn! Nếu nói cõi uế là chỗ ở của hóa thân và tịnh độ cũng là chỗ ở của hóa thân, như vậy báo thân của Như Lai ở vào cõi nào. Ở đây xin y theo Kinh Đại Thừa Đồng Tánh để phân định rõ báo thân và hóa thân, cõi tịnh và cõi uế rõ ràng. Kinh nói: "Trong cõi Tịnh người thành Phật là Báo thân, cõi uế người thành Phật đều là hóa thân". Lại nói: "Các Đức Như Lai như: A Di Đà Như Lai, Liên Hoa Khai Phu Tinh Vương Như Lai, Long Chư Vương Như Lai, Bửu Đức Như Lai, Các Ngài ở trong cõi thanh tịnh thị hiện đắc đạo, tất cả các vị như thế đều là báo thân Phật. Vì sao các Đức Như Lai gọi là hóa thân? Như hiện tại Như Lai Dũng Bộ, Như Lai Ma Khủng Bố, tất cả các Đức Như Lai này ở trong đời trược hiện tướng thành Phật, sẽ thành Phật hoặc từ cung trời Đâu Xuất giáng trần trụ thời chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp, các hóa sự như thế đều là hóa thân Phật. Còn Pháp thân của Như Lai là không sắc, không hình, không hiện, không trước, không thể thấy, không thể nói năng, không chỗ trụ, không sanh, không diệt gọi là chơn Pháp Thân."
Hỏi: Báo thân của Như Lai là thường trụ vì sao trong Kinh Quan Âm Thọ Ký nói: Sau khi Phật A Di Đà nhập Niết Bàn, Bồ Tát Quán Thế Âm được bổ xứ làm Phật kế tiếp?
Đáp: Đây là tướng thị hiện hay tiềm ẩn chẳng phải là diệt độ. Kinh Đại Thừa Đồng Tánh nói: "Sau khi Phật A Di Đà nhập Niết bàn lại có những chúng sanh căn lành sâu dày vẫn thấy Phật như cũ." Điều đó chứng minh rằng Phật không mất. Trong luận Bửu Tánh nói: "Báo thân có 5 thứ tướng là thuyết pháp, có thể thấy, các nghiệp chẳng dứt, tiềm ẩn và thị hiện không thật thể". Điều đó có thể chứng minh khi Đại sư Trí Giả hoát nhiên đại ngộ thấy Phật còn đang thuyết pháp ở Linh Thứu Pháp hội vẫn chưa tan.
Hỏi: Báo thân và Báo độ của Phật Thích Ca ở phương nào?
Đáp: Kinh Niết Bàn nói: "Ở về phương Tây cách 42 hằng hà sa cõi Phật có thế giới tên là Vô Thắng, cõi ấy chỗ trang nghiêm cũng như thế giới Cực Lạc. Ta ở cõi kia xuất hiện nơi đời vì muốn hóa độ chúng sanh, nên phân thân đến cõi Ta Bà này, chẳng phải ta ra khỏi cõi ấy. Tất cả Như Lai lại cũng như vậy."
Hỏi: Kinh Cổ Âm nói: "Phật A Di Đà có cha mẹ" điều đó chứng tỏ rằng chẳng phải báo Phật và báo độ?
Đáp: Ông chỉ nghe tên mà không tìm ý chỉ của Kinh, đặt ra điều nghi này thật là lầm lẫn, một sợi lông mà chạy xa ngàn dặm! Phật A Di Đà cũng đủ ba thân, xuất hiện ở cõi Cực Lạc là báo thân. Kinh nói có cha mẹ là nói cha mẹ của hóa thân thị hiện trong hóa độ. Cũng như Đức Thích Ca Mâu Ni thành tựu báo thân ở cõi Tịnh Độ Vô Thắng, ứng hiện đến cõi Ta bà này có cha mẹ thành vị Hóa Phật. Đức Phật A Di Đà lại cũng như thế. Như Kinh Cổ Âm Thinh nói: "Lúc bấy giờ Phật A Di Đà cùng chúng Thanh văn ở trong nước hiệu Thanh Thái, chỗ ở của vua Thánh. Thành ấy rộng đến 10 ngàn do tuần. Cha Phật A Di Đà là chuyển luân thánh vương. Vua tên Nguyệt Thượng. Mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, Ma Vương tên Vô Thắng, con Phật tên Nguyệt Minh, Đề Bà Đạt Đa tên Tịch Ý, đệ tử hầu hạ tên Vô Cấu Xứng." Tất cả điều dẫn ở trên đều là tướng của hóa thân. Nếu là Tịnh độ thì đâu có luân vương và nữ nhơn ở trong ấy. Trong văn nghĩa kinh đã nói rõ ràng, đâu cần phải phân biệt. Chỉ vì ông không khéo hiểu làm cho mê theo danh tự mà sanh chấp đấy thôi.
Hỏi: Nếu nói Báo thân có ẩn mất, thôi dứt thì Tịnh Độ cũng có thành hoại, việc ấy thế nào?
Đáp: Câu hỏi này cũng đã có nhiều người hỏi, ở đây xin dẫn kinh chứng minh, để từ đó chúng ta hiểu rõ. Như thân Phật thường trụ mà chúng sanh thấy Phật có vào Niết bàn, Tịnh độ cũng vậy, thể không có thành hoại tùy theo chỗ thấy của chúng sanh mà có thành hoại. Hoa Nghiêm Kinh nói: "Như người thấy Đạo Sư , nhiều thứ sắc vô lượng, tùy theo tâm hạnh chúng sanh, thấy cõi Phật cũng vậy". Tịnh Độ Luận nói: "Một chất chẳng thành được, tịnh, uế có khuyết đầy, khác chất không thành được, gốc xấu thì cành tối, không chất chẳng thành được, duyên khởi có muôn hình". Nên biết, nếu căn cứ vào pháp tánh Tịnh Độ thì không luận trong hay đục. Nếu căn cứ vì lòng đại bi hiện ra báo độ và hóa độ, thì có tịnh có uế vậy. Cần nên biết, cõi Phật đối với căn cơ cảm ứng chẳng đồng, có ba thứ sai biệt: 1- Từ chơn còn để lại báo (kết quả) nên gọi là báo độ cũng như ánh sáng mặt nhật chiếu bốn châu thiên hạ. Pháp thân như mặt nhật, báo và hóa như ánh sáng. 2- Từ chỗ không mà bỗng nhiên có thì gọi là hóa. Như Tứ Phần Luật nói: "Như Lai Đỉnh Quang hóa thành Đề Bà và thành Bạt Đề gần nhau qua lại thân thiết, thời gian sau hóa lửa thiêu cháy sạch làm cho các chúng sanh thấy việc vô thường đều sanh lòng nhàm chán, quay về đạo Phật". Trong Kinh nói: "Hoặc hiện kiếp hỏa, trời đất đều tiêu tan, chúng sanh tưởng trời đất hằng còn, thấy điều ấy làm cho biết được lý vô thường. Hoặc vì cứu nghèo đói, lập ra kho vô tận, tùy duyên mở rộng đạo, làm chúng sanh phát khởi tâm Bồ đề." 3- Ẩn cõi Uế hiển bày cõi Tịnh: Như trong kinh Duy Ma, Phật dùng ngón chân bấm xuống đất, ba ngàn cõi nước đều thành Tịnh Độ. Quốc độ của Phật Vô Lượng Thọ ở đây là từ Chơn để lại báo độ. Vì sao được biết? Căn cứ vào Kinh Quán Âm Thọ Ký nói: "Đời vị lai Bồ Tát Quán Âm thành Phật, thế chỗ của Phật A Di Đà". Do đó mà chúng ta biết cõi Cực Lạc là báo độ.
6. Cõi Cực Lạc phàm thánh đồng ở.
Nước Phật Vô Lượng Thọ này là báo độ do thành tựu Phật nguyện bao gồm cả bậc thượng và hạ. Bậc hạ những người hạ thiện phàm phu cũng được vãng sanh. Bậc thượng các bậc Địa Thượng Bồ Tát như Thiên Thân, Long Thọ cũng nguyện sanh về. Nếu trong Đại A Di Đà Kinh, Bồ Tát Di Lặc hỏi Phật: "Không biết cõi này có bao nhiêu Bồ Tát bất thối sanh về cõi ấy?" Phật dạy: "Thế giới Ta Bà này có sáu mươi bảy ức Bồ Tát bất thối đều được vãng sanh, nếu muốn nói rộng các phương đều như vậy."
Hỏi: Tịnh Độ Phật A Di Đà bao gồm thượng và hạ không biết bậc thượng tu vô tướng mới được sanh, còn phàm phu theo hữu tướng tu thì thế nào?
Đáp: Phàm phu trí cạn phần nhiều y theo tướng mà cầu chắc được vãng sanh, tuy vậy vì thiện tướng sức yếu nên chỉ sanh về cõi có tướng. Chỉ thấy báo thân và hóa thân Phật. Cho nên trong Kinh Quán Phật Tam Muội, phẩm Bổn Hạnh Bồ Tát nói: "Văn Thù Sư Lợi bạch với Phật rằng: Con nhớ vô lượng kiếp về thời quá khứ lúc còn là phàm phu, cõi ấy có một Đức Phật tên Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai, khi Phật ấy ra đời như bây giờ không khác, đức Phật kia cũng thân cao một trượng sáu thân màu vàng tía, nói pháp Ba Thừa như đức Thích Ca bây giờ. Lúc ấy, cõi nước kia có một Đại Trưởng giả tên Nhất Thiết Trí. Trưởng giả có một người con tên Giới Hộ. Lúc người con còn ở trong thai mẹ, bà mẹ kính tin Tam bảo, nên dự cho người con thọ Tam qui y. Đứa con sanh ra được 8 tuổi, cha mẹ thỉnh Phật về nhà cúng dường. Đồng tử gặp Phật liền làm lễ, lòng rất cung kính, mắt chẳng tạm rời. Nhờ được gặp Phật nhớ Phật, nên trừ được tội trọng sanh tử trăm vạn ức na do tha kiếp, từ đó về sau thường sanh Tịnh độ, nên được gặp chư Phật trăm ức na do tha hằng hà sa vị. Các Đức Thế Tôn này cũng dùng tướng hảo độ thoát chúng sanh. Khi ấy Đồng tử hết lòng hầu hạ, không có khuyết điểm, lễ bái cúng dường, chấp tay quán Phật, vì sức nhơn duyên này lại được gặp trăm muôn A Tăng Kỳ Phật. Các Đức Phật kia cũng dùng sắc thân tướng hảo hóa độ chúng sanh, từ đó về sau được trăm ngàn ức niệm Phật tam muội, lại được A Tăng Kỳ Đà La Ni. Đã được việc này rồi chư Phật hiện ra trước mặt nói pháp vô tướng, chỉ trong giây lát được Thủ Lăng Nghiêm Tam muội. Lúc ấy, Đồng tử kia chỉ thọ Tam Qui và lễ Phật, quán chắc thân Phật, tâm không mệt mỏi, do nhơn duyên đó, gặp vô số Phật, hà huống hộ niệm, đầy đủ tư duy quán sắc thân Phật. Đồng tử lúc ấy đâu phải người nào lạ, chính là thân tôi đây. Lúc ấy, Đức Thế Tôn khen Văn Thù rằng: Lành thay, lành thay, ông vì lễ Phật mà được gặp vô số Phật, huống chi đời sau các đệ tử ta, siêng năng quán Phật và niệm Phật. Phật bảo A Nan: Ông hãy nhớ lời Văn Thù Sư Lợi, phổ biến trong đại chúng, và chúng sanh đời vị lai, người nào hay lễ Phật, niệm Phật, quán Phật, phải biết người này cùng Văn Thù Sư Lợi công đức không khác. Khi bỏ thân này ở đời khác Văn Thù và các Bồ Tát vì người ấy mà làm Hòa Thượng".
Đoạn văn trên chứng minh rằng Tịnh Độ gồm chung cả tướng độ, chắc vãng sanh không còn gì phải nghi.
Nếu biết vô tướng ly niệm làm thể mà duyên trong ấy cầu vãng sanh thì phần nhiều được thượng phẩm. Vì thế, Vãng Sanh Luận của ngài Thiên Thân dạy: "Nếu có thể quán 29 thứ trang nghiêm thanh tịnh liền vào nhất cú. Nhất pháp cú gọi là thanh tịnh cú; thanh tịnh cú là pháp thân thanh tịnh vô vi. Vì sao phải nói rõ về từ tướng mà vào? Bồ tát có hai thứ pháp thân. 1- Pháp tánh pháp thân. 2- Phương tiện pháp thân. Do Pháp tánh pháp thân nên sanh phương tiện pháp thân. Do Phương tiện pháp thân nên hiển bày ra Pháp tánh pháp thân. Hai thứ Pháp này tuy nói là khác nhưng không thể phân chia, tuy là một mà không đồng. Cho nên từ tướng tông mà vào, nếu không biết tướng rộng và hẹp thì không thể vào Pháp thân vô vi tự lợi và lợi tha được. Vô vi Pháp thân tức là Pháp tánh thân vậy. Pháp tánh tịch diệt nên Pháp thân không có tướng. Pháp thân không tướng mà có tướng, nên tướng hảo trang nghiêm tức là Pháp thân vậy. Pháp thân vô tri mà có tri nên Nhất Thiết Chủng Trí là trí huệ chơn thật. Tuy nói có chung có riêng đều là thật tướng. Vì biết thật tướng là biết được tướng hư vọng của chúng sanh trong ba cõi. Vì biết chúng sanh trong ba cõi hư vọng là khởi lòng từ bi chơn thật, vì biết lòng từ bi chơn thật là khởi lòng qui y chơn thật". Hôm nay hành giả không hỏi tại gia xuất gia chỉ cần biết sanh và vô sanh không rời hai đế lý phần nhiều được sanh vào thượng phẩm.
7. Tịnh Độ Phật A Di Đà ở trong hay ngoài ba cõi?
Hỏi: Cõi An Lạc ở trong ba cõi thuộc về cõi nào?
Đáp: Cõi Tịnh Độ thắng diệu, thể nó ra khỏi thế gian. Ba cõi này là nhà tối của hàng sanh tử phàm phu, tuy có khổ vui sai khác, xét chung tất cả đều ở trong vòng hữu lậu, luân chuyển xuống lên không có bờ mé, sanh tử lộn xộn chịu đựng không cùng, bốn thứ điên đảo vây quanh, từ nhơn đến quả, dối trá chứa nhóm thật là đáng chán, nên Tịnh Độ không thuộc ba cõi. Trí Độ Luận nói: "Quả báo ở Tịnh không có tham dục nên không phải Dục giới. Ở dưới đất nên không phải Sắc giới, có hình sắc nên không phải Vô Sắc giới. Tuy nói ở trên đất nhưng cõi ấy thù thắng tuyệt vời". Vãng Sanh Luận nói: "Quán tướng thế giới kia, vượt trội hơn ba cõi, cứu kính như hư không, rộng lớn không có bờ mé. Đại A Di Đà Kinh nói: "Diệu độ rộng lớn vượt hạn lượng, tự nhiên bảy báu hợp lại thành, do bổn nguyện Phật trang nghiêm tốt, cúi xin Thanh Tịnh nhiếp thọ cho, thế giới sáng chói, đẹp đẽ tuyệt, điều hòa an vui, không có bốn mùa, tư lợi lợi tha đều viên mãn, nương về Cực Lạc tối trang nghiêm.
Chương Hai
Chương này nhằm vào 3 chủ điểm là phát tâm Bồ đề, phá dị kiến, tà chấp và vấn đáp để giải nghi tình.
1. Phát tâm Bồ Đề:
Là phát khởi tâm hướng về mục tiêu cao cả nhất, đó là quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, người tu hành có mục tiêu chắc chắn không phí uổng công sức.
Công dụng phát khởi tâm Bồ đề trong Đại Kinh nói: "Phàm muốn vãng sanh Tịnh Độ cần phải lấy việc phát khởi tâm Bồ đề làm gốc. Vì sao? Vì Bồ đề là tên của quả vị Phật đạo Vô Thượng, chính là muốn phát khởi tâm làm Phật, tâm này rộng lớn trùm khắp pháp giới, tâm này cứu cánh rộng lớn như hư không, tâm này dài rộng khắp đời vị lai, tâm này thể vốn đầy đủ xa lìa hai chướng. Nếu có thể phát khởi tâm này thì đoạn lìa dòng sanh tử từ vô thỉ, có các công đức hướng về Bồ đề đều có thể tiến đến quả Phật, không thể hư mất, ví như hái hoa ngũ tịnh dù gió cả ngày cũng không héo, ở nguồn nước sông linh thủy dù bị hạn cả đời cũng không khô cạn.
Danh thể của Bồ đề gồm có 3 thứ:
a- Pháp thân Bồ đề là nói về chơn như thật tướng, đệ nhất nghĩa không, tự tánh thanh tịnh, thể không ô nhiễm, lý ngoài thiên nhơn, không nhờ tu mà thành gọi là Pháp thân, bản thể đạo Phật gọi là Bồ Đề.
b- Báo thân Bồ đề là tu đủ muôn hạnh có thể cảm cái quả báo thành Phật, vì quả có ra là để đáp nhơn gọi là báo thân, viên thông vô ngại gọi là Bồ đề.
c- Hóa thân Bồ đề là từ báo thân khởi dụng biến hóa để độ hết muôn căn cơ nên gọi là hóa thân, lợi vật viên thông gọi là Bồ đề.
Hiển bày chỗ Phát tâm Bồ Đề có khác nhau, vì hành giả tu nhân Bồ Đề phải đủ ba thứ:
a- Cốt yếu phải biết rõ cái có và không, từ xưa đến nay tự tánh vốn thanh tịnh.
b- Duyên tu vạn hạnh và tám muôn bốn ngàn các môn Ba La Mật.
c- Lấy đại từ bi làm gốc thường tiếp dẫn độ người làm hoài bảo.
Ba món này có thể tương ưng với đại Bồ đề nên gọi Phát tâm Bồ Đề. Trong Tịnh Độ Luận nói: "Nay nói Phát tâm Bồ Đề là tâm nguyện làm Phật, tâm nguyện làm Phật là tâm độ chúng sanh, tâm độ chúng sanh là nhiếp thủ chúng sanh nào có tâm muốn sanh về cõi Phật." Nay đã nguyện sanh về Tịnh Độ nên trước phải Phát tâm Bồ Đề.
Hỏi: Nếu tu đủ muôn hạnh có thể cảm quả Bồ đề được thành Phật, vì sao trong Kinh Chư Pháp Vô Hành nói: "Nếu người cầu Bồ đề tức không có Bồ đề, người ấy xa cách Bồ đề như trời đất."?
Đáp: Chánh thể của Bồ đề lý cầu vô tướng, nay đem tướng mà cầu thì không phải là lý thật nên nói xa cách. Nên trong kinh nói: "Bồ đề không thể dùng tâm mà được, không thể dùng thân mà được." Nay nói hành giả tuy biết tu hành qua sự cầu mà hiểu rõ lý thể không cầu nên không phá hoại giả danh, nên tu đủ vạn hạnh có thể cảm ứng được. Đại Trí Độ Luận nói: "Nếu người chấp có Bát Nhã thì bị trói buộc, nếu không chấp có Bát Nhã cũng bị trói buộc. Nếu người thấy Bát Nhã là giải thoát, hoặc không thấy Bát Nhã cũng là giải thoát." Nên Bồ tát Long Thọ nói: "Trong ấy không lìa bốn câu là bị trói buộc, lìa bốn câu thì được giải thoát.". Nay cầu Bồ đề chỉ nên tu như thế thì làm mà không làm, không làm mà làm là không trái với đạo lý nhị đế. Căn cứ vào Vãng Sanh Luận nói: "Phàm muốn phát tâm hợp với Vô thượng Bồ đề có 2 nghĩa: Trước phải lìa ba thứ trái nhau với Bồ đề và phải biết ba thứ thuận với Bồ đề.
Vì sao phải xa lìa 3 thứ trái với Bồ đề? Hành giả y theo trí huệ, không cầu vui cho mình, xa lìa tâm tham đắm của tự thân. Hành giả y theo Từ Bi, nhổ tất cả khổ cho chúng sanh, xa lìa những điều làm tâm chúng sanh không an và hành giả y theo phương tiện, tâm thương xót tất cả chúng sanh, xa lìa tâm ưa thích cung kính cúng dường cho tự thân. Đây gọi là 3 thứ trái với Bồ đề tâm.
Thế nào là thuận với Bồ đề? Bồ tát xa lìa ba thứ trái với Bồ đề vừa kể trên liền được 3 thứ thuận với Bồ đề. Thế nào là 3 thứ?
a- Tâm vô nhiễm thanh tịnh là không tự mình tìm cầu các thứ vui riêng. Bồ đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh, nếu vì tự thân tìm cầu các thứ vui là trái với Bồ đề, cho nên tâm không nhiễm, thanh tịnh là thuận với Bồ đề.
b- Tâm an thanh tịnh vì nhổ tất cả khổ chúng sanh, Bồ đề là chỗ thanh tịnh an ổn tất cả chúng sanh. Nếu không có lòng nhổ tất cả chúng sanh lìa khổ sanh tử, là trái với Bồ đề, cho nên nhổ tất cả khổ chúng sanh là thuận với Bồ Đề.
c- Tâm vui thanh tịnh là muốn làm cho chúng sanh được Đại Bồ đề, nhiếp thủ chúng sanh sanh về quốc độ Cực Lạc. Bồ đề là chỗ cứu kính thường lạc, nếu không làm cho tất cả chúng sanh được cứu kính thường lạc là trái với Bồ đề. Thường lạc cứu kính này, nương vào chỗ nào mà được, cần y vào Đại Nghĩa môn, Đại Nghĩa môn là nói về quốc độ an lạc kia, nên làm cho một lòng chuyên chú, nguyện sanh về nước kia, làm cho được sớm được Vô thượng Bồ đề.
2. Phá dị kiến tà chấp:
Nói đến Đại thừa thường vượt hẳn kiến thức phàm phu Nhị thừa, tuyệt cả đối đãi, vào thẳng lý trung đạo, mỗi câu mỗi lời đều có những thâm ý đặc thù. Vì vậy nên có nhiều người sanh ra tà chấp. Do đó chương này nêu những điểm then chốt dùng kinh chứng minh phá hết tình nghi. Nghi đã tan thì Tin sẽ tự nhiên đến.
a.- Phá về sự vọng chấp vô tướng của Đại thừa.
Hỏi: Hoặc có người nói Đại thừa vốn vô tướng, đừng niệm kia đây. Nếu nguyện sanh Tịnh Độ chính là thủ tướng, tăng thêm sự ràng buộc hữu lậu thì cầu để làm gì?
Đáp: Sự suy lường như thế là sai lầm vì tất cả Chư Phật nói pháp cốt yếu đủ hai thứ duyên. Thứ nhất là y thật lý của Pháp tánh. Thứ hai là thuận theo chơn đế và tục đế. Câu hỏi ở trên theo Đại thừa vô niệm chỉ y vào pháp tánh lại chê vô duyên cầu là không thuận với hai đế lý. Nếu có cái chấp này thì rơi vào cái không đoạn diệt. Cho nên Kinh Vô Thượng Y nói: "Phật bảo A Nan! Tất cả chúng sanh nếu khởi chấp ngã to như núi Tu Di, ta cũng không sợ. Vì sao? Vì người này tuy chưa được thoát ly, nhưng thường không phá hoại lý nhơn quả nên quả báo không mất. Nếu khởi chấp không nhỏ như hạt cải, ta cũng không cho. Vì sao? Vì cái chấp ấy là phá mất nhơn quả, nhiều kiếp bị đọa vào ác đạo, trong đời vị lai chỗ được sanh ra, chắc trái lời dạy của ta." Vì thế, nay khuyên các hành giả, lý tuy vô sanh mà đạo lý Nhị đế cần phải duyên, cần tất cả đều được vãng sanh. Vì thế, Kinh Duy Ma Cật nói: "Tuy quán quốc độ Chư Phật cùng chúng sanh vốn không mà thường tu Tịnh Độ, giáo hóa quần sanh. Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân, đó là hạnh Bồ Tát, tuy hành vô khởi mà khởi nhất thiết thiện hạnh, Bồ tát nầy thực hành đúng những đều chứng chơn thật."
Hỏi: Ở thế gian có người thực hành Đại thừa vô tướng, không chấp kia đây toàn không gìn giữ giới tướng, việc ấy thế nào?
Đáp: Người chấp như thế bị hại rất lớn. Vì sao? Như Kinh Đại Phương Đẳng nói: "Phật vì Ưu Bà Tắc chế giới. Không được đến nhà quả phụ, nữ nhơn, không được đến nhà bán rượu, nhà nhuộm đồ, nhà ép dầu, nhà thuộc da, các chỗ như thế đều không được qua lại. Đức A Nan bạch Phật. Vì sao chế giới này? Phật bảo: A Nan! Hành giả có 2 hạng người, là người ở ngoài đời và người xuất gia, ta không chế những việc trên riêng cho người ở thế gian. Ta nay chế ra vì tất cả chúng sanh đều là con của ta, Phật là cha mẹ của tất cả chúng sanh, chế những điều ngăn cấm là muốn tất cả sớm ra khỏi thế gian được vào Niết bàn.
b- Giải rõ Bồ Tát có ái kiến đại bi:
Hỏi: Y theo Đại thừa thánh giáo, Bồ tát đối với các chúng sanh, nếu khởi ái kiến Đại Bi, liền phải xã ly, nay khuyên chúng sanh cùng sanh Tịnh độ. Đâu chẳng phải ái nhiễm thủ tướng làm sao khỏi trầm lụy được?
Đáp: Hành pháp của Bồ tát công dụng có hai thứ là chứng Không huệ Bát nhã và đầy đủ lòng đại bi. Thế nào là chứng Không huệ Bát nhã? Vì tu năng lực Không huệ Bát nhã, tuy vào sáu nẽo sanh tử vẫn không bị trần nhiễm làm hệ lụy. Thế nào là đầy đủ lòng đại bi? Bồ tát vì lòng đại bi nhớ thương chúng sanh nên không trụ Niết bàn. Bồ tát tuy ở hai đế lý, thường hay xã có và không một cách mầu nhiệm, đi vào con đường trung đạo của lấy và bỏ, không trái với giáo lý của đạo Phật. Cho nên Kinh Duy Ma nói: "Ví như có người ở chỗ đất trống tạo lập cung điện sẽ tùy theo ý không có trở ngại, nếu cất trên hư không trọn không thể thành tựu. Bồ tát cũng như vậy, vì muốn thành tựu chúng sanh nên nguyện về cõi Phật. Cõi Phật không phải trên hư không.
c- Phá ngoài tâm không pháp.
Hỏi: Hoặc có người nói Tịnh cảnh sở quán là từ nội tâm, tịnh độ dung thông, tâm tịnh là phải, ngoài tâm không pháp, đâu cầu về Tây phương làm gì?
Đáp: Nói về Pháp tánh Tịnh độ, lý lẽ rỗng thông, không có thiên lệch hay hạn cuộc. Đây là trạng thái sanh của vô sanh. Chỉ có bậc thượng sĩ mới có thể vào. Cho nên Kinh Vô Tự Bảo Phiệt nói: "Này thiện nam tử! Lại có một pháp là chỗ giác ngộ của Phật. Có thể nói các pháp không lui không tới, không nhơn không duyên, không sanh không diệt, không nghĩ không chẳng nghĩ, không tăng không giảm. Phật bảo La Hầu La rằng: Ông nay nên phải thọ trì những lời ta vừa nói nghĩa chánh pháp chăng? Lúc ấy ở mười phương có chín ức Bồ Tát liền bạch Phật rằng: Chúng con đều có thể trì pháp môn ấy, sẽ vì chúng sanh lưu thông chẳng dứt. Đức Thế Tôn dạy: Những thiện nam tử này là những người gánh vác đạo Bồ Đề, người ấy liền được vô ngại biện tài, được đến thế giới thanh tịnh của chư Phật. Khi mạng chung liền được thấy Phật A Di Đà và các Thánh chúng ở trước mặt người ấy, được vãng sanh về thế giới Cực Lạc." Nếu những người biết mình bậc trung và hạ chưa có khả năng phá tướng, cần phải y theo nhơn duyên tin Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tuy đến cõi kia ở vào cõi có tướng. Như thế, nếu nhiếp duyên theo gốc là ngoài tâm không có pháp, nếu chia hai đế ý nghĩa rõ ràng, người tu Tịnh Độ không ngại gì tâm này ngoài pháp.
Hỏi: Nói sanh của vô sanh chỉ có bậc Thượng sĩ có thể vào, bậc trung hạ không kham nỗi, nếu giáo pháp phán định như vậy thì kinh điển nào nói ra?
Đáp: Y theo luận Trí Độ nói: "Hàng Bồ tát mới phát ý, căn cơ và sự hiểu biết rất mềm yếu, tuy nói phát tâm, phần nhiều nguyện sanh về Tịnh Độ." Ý ở đây giải rõ như đứa trẻ sơ sanh nếu không gần cha mẹ nuôi dưỡng chắc bị nạn rơi hầm, lọt giếng, chết cháy, rắn cắn, hoặc thiếu sửa mà chết, cần phải nhờ cha mẹ nuôi dưỡng mới có thể khôn lớn, mới có thể thừa kế nghiệp nhà. Bồ tát cũng vậy, nếu phát Bồ đề tâm rồi, phần nhiều nguyện sanh về Tịnh Độ, gần gũi chư Phật, tăng trưởng pháp thân mới có thể tiếp nối gia nghiệp của Bồ tát. Các Bồ tát trong 10 phương vì muốn đem lợi ích cho chúng sanh nên phần nhiều nguyện sanh về Cực Lạc. Trong Luận cũng nói: "Ví như chim non, lông cánh chưa đủ, không thể bay xa, trước phải nương rừng chuyền cây, lông cánh đã đủ, sức khỏe đã dồi dào, mới có thể bỏ rừng bay dạo trong không." Bồ tát mới phát ý cũng thế, trước phải nương theo nguyện lực cầu sanh trước Phật, Pháp thân đã to lớn, tùy theo chỗ cảm của chúng sanh mà đem cho nhiều lợi ích. A Nan bạch Phật rằng: Vô tướng Ba La Mật này nói ở chỗ nào? Phật bảo: Pháp môn này nói trong thời gian nói A Tỳ Bạt Trí. Vì sao? Vì lúc ấy có một vị Bồ tát mới phát ý nghe Pháp Vô tướng Ba La Mật này, sáu căn liền thanh tịnh, phiền não đều tan mất." Vì vậy người đã đến cõi Tịnh độ Cực lạc rồi, tất cả mọi việc đều xong hết, lần tiến đến Phật quả, đâu cần tranh biện lý cạn sâu làm gì!
d- Phá ý niệm nguyện sanh uế độ, không nguyện sanh tịnh độ.
Hỏi: Có người nói nguyện sanh về cõi uế giáo hóa chúng sanh, không nguyện vãng sanh tịnh độ, việc ấy như thế nào xin vui lòng giải thích?
Đáp: Các người này chấp như những người trước. Vì sao? Vì nếu thân mình ở vào vị bất thối rồi, dù dạy những chúng sanh tạp ác, dù ở chỗ uế nhiễm cũng không nhiễm, gặp ác không thay đỗi, như con vịt vào nước, nước không thể làm ướt được. Những người như thế có thể ở cõi uế để cứu khổ chúng sanh. Nếu là hạng phàm phu, chỉ e tự mình đi còn chưa vững, gặp khổ thì thay đổi, muốn cứu người khác nhưng không biết bơi, nhảy xuống ướt người thì cả hai đều bị chết chìm, như bắt con gà bỏ vào nước làm sao khỏi ướt. Cho nên trong Luận Trí Độ có nói: "Nếu kẻ phàm phu vừa mới phát tâm liền nguyện ở cõi uế cứu tế chúng sanh, Phật không cho, vì sao vậy? Trong Thích Luận Bồ Tát Long Thọ nói: "Ví như tảng băng to 40 dặm, như có một người dùng một bó củi đốt, lúc ấy giống như có ít hơi ấm, nếu trải qua một đêm đến sáng dù có nhiều bó củi cũng biến thành băng." Phàm phu phát tâm cứu khổ cũng như bó củi đốt trên tảng băng to kia không khác gì. Vì phàm phu ở cảnh giới tham sân, nghịch thuận rất nhiều, tự mình khởi phiền não rồi tự đọa vào ác đạo.
e- Phá nếu sanh tịnh độ phần nhiều tham vui.
Hỏi: Có người cho rằng ở cõi Cực lạc chỉ có điều vui, nếu ưa chấp vui, thì trở ngại việc tu, đâu cần nguyện vãng sanh làm gì?
Đáp: Đã nói Tịnh độ không có các uế, nếu nói chấp vui là tham ái phiền não làm sao gọi là Tịnh. Cho nên Đại Kinh nói: "Người trời ở cõi kia, tới lui, qua lại, không có lưu luyến tình cảm." Trong 48 đại nguyện cũng nói: "Nhơn thiên trong mười phương đã đến nước tôi, nếu còn khởi tưởng niệm tham kể thân mạng, thì tôi không ở ngôi chánh giác." Trong Đại Kinh cũng nói: "Nhơn thiên cõi nước kia không có thích mến." Như vậy, người ở cõi Cực lạc đâu có lý gì lại chấp vui. Điều đó hoàn toàn không có.
f- Phá tư tưởng cho cầu sanh Tịnh độ là Tiểu thừa:
Hỏi: Có người cho rằng cầu sanh Tịnh độ là tiểu thừa có đúng không?
Đáp: Hoàn toàn sai lầm, vì trong giáo pháp Tiểu thừa, không nói và không tin sanh về Tịnh độ.
g- Giải rõ sanh về Đâu Suất, khuyên sanh Tịnh Độ:
Hỏi: Có người cho rằng nên sanh về Đâu Suất, không nguyện sanh về Tây Phương việc ấy thế nào?
Đáp: Đâu Suất nội viện của Đức Di Lặc cũng gọi là Tịnh Độ so với Cực lạc Tịnh độ có đôi chút tương tợ nhưng căn cứ vào thể thì khác nhau rất xa:
- Đức Thế Tôn Di Lặc vì Thiên chúng chuyển Pháp Luân Bất Thối, người nghe pháp sanh lòng tin là được lợi ích lớn, gọi là tin đồng hưởng vui, nhưng số người không tin cũng nhiều. Lại nữa, tuy sanh về Đâu Suất Tịnh độ nhưng vị là lui sụt, cho nên Kinh nói: "Ba cõi không yên cũng như nhà lửa."
- Vãng sanh Đâu Suất thọ mạng được bốn ngàn năm, sau khi mạng chung không khỏi đọa lạc.
- Trên cõi trời Đâu Suất tuy có nước chim cây rừng hòa âm thanh nhã, chỉ làm cho chư thiên sanh vui, thuận theo ngũ dục, không hợp thánh đạo. Nếu so sánh với cõi Tịnh độ Phật A Di Đà, một khi được sanh về, liền được vị không lui sụt và không cùng với người lui sụt ở chung. Quả vị cõi Cực Lạc là vô lậu ra khỏi ba cõi, không trở lại luân hồi. Luận về thọ mạng người cõi Cực lạc sống lâu bằng Phật, không thể tính đếm. Ở cõi kia cũng có nước, chim, cây, rừng đều có thể thuyết pháp làm người nghe liễu ngộ chứng vị vô sanh.
- Căn cứ vào Đại Kinh chỉ dùng một thứ âm nhạc để so sánh. Kinh khen ngợi âm nhạc cõi Cực Lạc như thế này: "Nếu đem so sánh âm nhạc đế vương ở đời với âm nhạc cõi trời lục dục, thì âm nhạc cõi trời lục dục hay hơn ức vạn bội, nếu đem âm nhạc cõi trời lục dục so với âm nhạc của bảo thọ ở cõi Cực Lạc phát ra so với âm nhạc cõi trời lục dục thì hay hơn ức vạn bội. Lại có pháp âm kỷ nhạc mầu nhiệm thanh nhã vượt tất cả âm nhạc ở mười phương, nên phải chí thành huân tập."
h- So sánh nguyện sanh các Tịnh độ và cực lạc Tịnh Độ: Hỏi: Có người cho rằng nguyện sanh 10 Phương Tịnh Độ hơn nguyẹn sanh về Tây Phương nghĩa ấy thế nào?
Đáp: Nghĩa ấy không đúng. Có 3 ý để giải thích.
- Cõi Phật 10 phương đều là Tịnh độ, nhưng cảnh rộng thì tâm tối, phân vân trước nhiều đường tẻ, cảnh hẹp thì ý chuyên. Nên Kinh nói: "Phổ Quảng Bồ Tát bạch Phật Thế Tôn: Cõi Phật 10 phương đều nghiêm tịnh, vì sao trong các Kinh riêng khen ngợi cõi Cực lạc của Phật A Di Đà, khuyên bảo vãng sanh? Phật bảo Phổ Quảng Bồ Tát: Tất cả chúng sanh trược loạn thì nhiều, chánh niệm thì ít, muốn làm cho chúng sanh chuyên chí một chỗ, nên khen ngợi cõi Cực Lạc kia là chỗ đặc biệt khác lạ, nếu người nào theo ý nguyện vãng sanh mà tu hành đều có kết quả.
- Tịnh độ trong 10 phương đều là Tịnh độ, nhưng chỗ cạn chỗ sâu khó hiểu. Cõi Tịnh độ Phật A Di Đà là cõi Tịnh độ do Đại nguyện hóa độ mới thành lập. Vì sao được biết? Y theo kinh Hoa Nghiêm nói: "Một kiếp ở thế giới Ta Bà bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc. Một kiếp ở thế giới Cực lạc bằng một ngày một đêm ở Ca Sa Tràng thế giới. Lại nữa, Đức Phật A Di Đà mới thành đạo đến nay hơn mười kiếp." Vì cõi Tịnh độ Cực Lạc mới trang nghiêm, tổng hợp những cái hay của các Tịnh độ khác nên chư Phật mới đặc biệt khuyên chúng sanh nguyện sanh về. Tịnh độ các phương đều không bằng cõi Cực Lạc, nên người có lòng tin đều nguyện vãng sanh về Cực Lạc.
- Cõi Phật A Di Đà là cõi Tịnh độ mới trang nghiêm, còn cõi Ta Bà là cõi uế cuối cùng. Vì sao biết được? Trong Chánh Pháp Niệm Kinh nói: "Từ đây về phía đông bắc có một thế giới gọi là Tư Ha đất ruộng chỉ toàn cát trắng, một năm chỉ có 3 lần mưa, mỗi lần mưa thấm ướt chừng 45 tấc. Cõi ấy chúng sanh chỉ ăn trái cây, lấy vỏ cây làm áo, cầu sống không được, cầu chết không xong. Lại có thế giới, có các loài hổ lang, cầm thú cho đến rắn rết đều có thể bay đi, gặp người là ăn thịt, không phân biệt thiện ác." Hai cõi này gọi là nơi ban đầu của cõi uế. Nhưng Ta Bà là y báo hiền thánh đồng ơ, điều đó cho thấy là uế độ thời cuối cùng. Cõi uế cuối cùng tiếp với cõi Tịnh mới trang nghiêm, hai cõi ấy liền nhau nên vãng sanh rất dễ. Vì sao không mau nguyện vãng sanh.
i- Khoa giản biệt thời ý.
Trong Quán Kinh Phật dạy: "Người sanh hạ phẩm, hiện tạo tội nặng, khi mạng lâm chung, gặp thiện tri thức, mười niệm thành tựu, liền được vãng sanh". Y theo Nhiếp Đại Thừa Luận cho rằng: "Lời ấy là biệt thời ý." Các nhà bình luận cho rằng: "Lâm chung 10 niệm chỉ là gieo nhơn vãng sanh, chưa được sanh liền. Vì sao? Vì trong Luận nói: "Như người dùng một đồng tiền muốn mua một vật có giá trị ngàn vàng, chẳng phải một ngày mà có được ngàn vàng. Nên biết mười niệm thành tựu vãng sanh chỉ được gieo nhơn, chưa được sanh liền, nên gọi là biệt thời ý. Cách giải đó chưa đúng. Vì sao? Phàm Bồ tát làm luận giải nghĩa kinh đều muốn giữ đúng ý Phật, khế hợp lòng Phật, nên có luận răn trái với kinh thật vô lý.
Nay giải về biệt thời ý là nói Phật thuyết pháp thông thường đều nói rõ trước nhơn sau quả, lý ấy rõ ràng, nay trong Quán Kinh này nói một đời tạo tội, khi lâm chung, mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, không luận quá khứ có nhơn hay không nhơn. Họ đâu biết rằng: Đức Thế Tôn tiếp dẫn những người hiện đang tạo ác, làm cho người sắp lâm chung bỏ ác về lành, nhờ niệm Phật mà được vãng sanh, đây là ẩn dấu nhơn đời trước. Đây là Đức Thế Tôn muốn ẩn cái trước, hiển bày cái sau, dấu nhơn nói quả gọi là phát biệt thời ý. Vì sao được biết vì dạy người mười niệm thành tựu đều có cái nhơn quá khứ, như Kinh Niết Bàn nói: "Nếu người trong quá khứ đã từng cúng dường nửa hằng hà sa chư Phật và đã từng phát tâm Bồ đề, nên ở trong đời dữ nghe nói kinh giáo Đại thừa, chỉ không chê bai, chưa làm công đức nào khác. Nếu người cúng dường một hằng hà sa chư Phật và đã từng phát tâm Bồ đề, sau này nghe kinh giáo Đại thừa, chẳng phải không chê mà còn sanh lòng ưa thích".
Qua kinh trên đủ nghiệm thấy rằng người niệm mười niệm mà thành tựu đều có cái nhơn quá khứ không sai. Nếu người ấy không có gieo nhơn quá khứ thì thiện tri thức còn khó gặp, hà huống gì mười niệm có thể thành tựu.
Trong luận nói: "Dùng một đồng vàng để mua vật có giá trị ngàn vàng, chẳng phải một ngày mà có được." Nếu y vào ý Phật, muốn làm cho chúng sanh chứa nhiều nhơn lành, cần phải nương theo niệm Phật vãng sanh. Nếu theo luận chủ nói về nhơn quá khứ, lý cũng không sai, nếu hiểu nghĩa này thì trên thuận ý Phật, dưới hợp ý luận. Do đó Kinh và Luận giúp nhau, làm con đường vãng sanh thông suốt đâu có gì đáng nghi.
k- Giải bỏ các nghi.
Hỏi: Tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay tạo đủ các nghiệp hữu lậu hệ thuộc ba cõi, vì sao không đoạn nghiệp hệ ba cõi, chỉ thời gian ngắn, niệm Phật A Di Đà liền được vãng sanh ra khỏi ba cõi, như vậy hệ nghiệp ba cõi phải làm sao thoát?
Đáp: Để giải thích rõ câu này chúng ta cần phải dùng đem pháp để phá và mượn thí dụ để hiển bày.
- Đem Pháp để phá: Chư Phật Như Lai có trí không thể nghĩ bàn, trí lớn Đại thừa, trí vô đẳng luân tối thượng thắng. Vì trí lực không thể nghĩ bàn nên có thể lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít, lấy xa làm gần, lấy gần làm xa, lấy nhẹ làm nặng, lấy nặng làm nhẹ. Có những trí như thế vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, sau đây xin mượn một số thí dụ để chứng minh:
- Ví như có 100 người lực lưỡng cùng đốn củi thời gian cả trăm năm, củi chứa cao ngàn gộp, chỉ cần châm một mồi lửa đốt trong vài ngày là cháy sạch, đâu có thể nói đống củi chứa trăm năm mà vài ngày không thể cháy hết sao?
- Như có người lái thuyền, trên thuyền có chở đồ nhờ có buồm căng, nước thuận nên một ngày vượt xa ngàn dặm. Đâu có thể nói anh chàng lái thuyền không thể đi ngàn dặm trong một ngày ư!
- Như có một người nghèo lượm được một vật của nhà vua, rồi đem vật ấy dâng cho vua, vua mừng được lại, trọng thưởng nhiều việc, chỉ trong khoảng khắc giàu có danh vọng, đâu có thể nói người học trò 10 năm đèn sách, chịu khổ còn không được danh vọng như thế, vội cho rằng việc giàu sang danh vọng không thể có và không bao giờ được vua ban ư!
- Có người đàn ông sức yếu, tự mình không thể leo lên lưng con lừa, nếu đi theo vị chuyển luân vương, bay trên hư không tự tại. Đâu có thể nói người sức yếu theo năng lực của chuyển luân mà không thể bay lên hư không ư!
- Có mười sợi dây thừng trói trăm người lại, trăm người này cố sức vẫy vùng đều vô ích. Có một cậu trẻ chỉ cầm kiếm chặt một nhát mười sợi dây bị đứt rời. Đâu có thể nói một đứa trẻ không có năng lực cắt đứt 10 sợi dây để cứu trăm người được ư!
Tất cả muôn pháp đều có tự lực tha lực, tự nhiếp tha nhiếp, ngàn mở muôn đóng, vô lượng vô biên. Ông đâu có thể dùng cái biết có trở ngại mà nghi các pháp vô ngại kia. Lại nữa, trong năm thứ không thể nghĩ bàn, Phật pháp là cái không thể nghĩ bàn cao nhất, ông coi hệ nghiệp ba cõi là nặng, nghi việc ít thời gian niệm Phật là nhẹ, không được vãng sanh về cõi Cực lạc, vào chánh định tụ là điều hoàn toàn không đúng.
Hỏi: Kinh Đại Thừa nói: "Nghiệp đạo như cái cân, chỗ nào nặng thì kéo về đó trước, vì sao chúng sanh từ trước đến nay hoặc trăm năm, hoặc mười năm cho đến chừng một ngày, không có việc ác nào mà không tạo. Vì sao nói khi lâm chung gặp thiện tri thức chỉ cần 10 niệm tương tục liền được vãng sanh, như vậy thì chỗ nào nặng thì kéo về đó trước làm sao tin được?
Đáp: Ông nói một đời tạo ác nghiệp là nặng và người hạ phẩm hạ sanh tạo thiện trong mười niệm là nhẹ. Ở đây tôi dùng ý nghĩa để giải thích chỗ nặng nhẹ. Thật ra chỗ nặng nhẹ đều căn cứ ở tâm ở duyên hoặc ở quyết định mà không phải thời gian dài ngắn nhiều ít. Vì sao gọi căn cứ ở tâm? Những người tạo tội kia chính họ đã y chỉ nội tâm hư vọng điên đảo mà sanh còn mười niệm này là y theo thiện tri thức, dùng phương tiện an ủi để nghe được Phát khởi thật tướng mà sanh, một thật một hư làm sao so sánh với nhau được. Vì sao? Ví như nhà tối ngàn năm, ánh sáng nếu chiếu đến liền sáng tỏ, đâu có thể nói bóng tối đã ngự trị đây ngàn năm mà không tan đi. Cho nên trong Kinh Di Nhật Ma Ni Bảo nói: "Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp! Chúng sanh tuy chìm đắm cả ngàn ức kiếp ở trong ái dục bị tội nghiệp che đầy, nếu nghe được Kinh Phật, một khi đã niệm thiện, tội liền tiêu hết." Vì thế, nên biết nặng nhẹ căn cứ vào tâm.
Vì sao gọi căn cứ vào duyên? Người kia khi tạo tội tự y chỉ vào vọng tưởng, y theo phiền não quả báo của chúng sanh mà sanh ra. Nay dùng 10 niệm này là y chỉ nơi vô thượng tín tâm, y theo danh hiệu công đức vô lượng thanh tịnh của Như Lai A Di Đà mà sanh ra. Ví như có người bị tên độc trúng xuyên gần thấu xương, nếu nghe tiếng trống thuốc diệt trừ độc, thì tên tự nhổ ra và độc tiêu trừ. Đâu có thể nói, vì tên độc kia cắm sâu và thuốc nhiều chất độc, nghe tiếng trống trừ độc mà tên không nhổ ra, độc không tiêu trừ. Nên gọi căn cứ vào duyên.
Vì sao gọi căn cứ vào quyết định? Người kia khi tạo tội là tự y chỉ tâm hữu lậu và tâm gián đoạn mà sanh. Người niệm 10 niệm này là y chỉ nơi tâm vô lậu và tâm không gián đoạn mà phát khởi, đó là sự quyết định rõ ràng. Trong Trí Độ Luận nói: "Tất cả chúng sanh trong lúc sắp lâm chung, đau nhức như gió đao đến lóc thịt, cái khổ của chết đến bức bách, lòng rất lo sợ, nên khi gặp thiện tri thức, tâm phát khởi tin tưởng mạnh mẽ, mỗi tâm tiếp nối mười niệm, tức là tăng thượng thiện căn liền được vãng sanh." Như có người bị vây khổn, phải đối địch phá vòng vây, đem hết sức bình sanh một mình một đao liều chết công phá liền được thoát vòng, người dùng mười niệm tăng thượng căn lành lại cũng như vậy. Cũng thế, nếu người khi lâm chung sanh một niệm tà kiến làm ác tâm tăng thượng, liền bị nghiệp phước ở tam giới vào thẳng ác đạo.
Hỏi: Đã nói cái thiện thập niệm lúc lâm chung làm nghiêng lệch ác nghiệp một đời được sanh về Tịnh độ, chưa biết mười niệm là bao nhiêu thời gian?
Đáp: Như Kinh nói: "Một trăm sanh diệt làm một sát na, sáu mươi sát na dùng làm một niệm." Đây là y Kinh luận để giải niệm. Hiện nay giải về niệm không chấp vào thời gian lâu mau. Chỉ nhớ niệm Phật A Di Đà hoặc tổng tướng hoặc biệt tướng, tùy theo chỗ duyên quán thẳng mười niệm không có tưởng niệm gián tạp khác gọi là mười niệm. Để dễ hiểu ta lấy câu niệm Hồng danh làm chuẩn, hành giả niệm Nam Mô A Di Đà Phật một hơi thở bất kể nhiều câu hay ít câu, cứ hết một hơi làm một niệm. Nói mười niệm tương tục là chỉ đánh số thực ra chỉ nhớ niệm không lo nghĩ, không duyên theo việc gì khác, làm cho nghiệp đạo thành tựu là đủ, cũng không cần ghi cho đủ số làm gì? Nếu người niệm đã lâu thì không cần ký số cũng được, nếu người mới làm ghi số cũng tốt vì y theo lời dạy của Phật.
Hỏi: Người muốn thực hành niệm Phật tam muội, không biết tướng tạng tĩnh niệm như thế nào?
Đáp: Như có người đang đi trên khoảng đất trống, chợt gặp một bọn oan gia theo đuổi, rút gươm lấy kiếm chạy đến định giết. Người này hốt hoảng chạy nhanh, thấy phía trước có một con sông lớn, tuy chưa đến bờ sông mà người ấy luôn luôn nghĩ ta phải làm sao qua sông, nếu để y phục lội qua, y phục sẽ nổi lên làm có người thấy, nếu cỗi y phục lội qua sẽ bị nguy hiểm vì gai đâm, cá cắn rất nguy hiểm. Lúc ấy, người bị rượt đuổi chỉ có nhất tâm tìm phương tiện để qua sông, không có tâm tưởng nào khác. Hành giả cũng thế, khi niệm Phật A Di Đà cũng như người kia chỉ có nhất niệm qua sông, mỗi niệm kế tiếp không có tưởng niệm hổn tạp nào xen vào. Lúc ấy hoặc niệm pháp thân Phật, hoặc niệm thần lực Phật, hoặc niệm trí huệ Phật, hoặc niệm tướng hảo Phật, hoặc niệm bổn nguyện Phật, hoặc niệm danh hiệu Phật, chỉ cần chuyên chú tương tục chẳng dứt, chắc sanh ở trước Phật. Nay xin khuyên các vị mới học, chưa có thể phá tướng, chỉ nên y theo tướng chuyên chú đều được vãng sanh chẳng còn gì để nghi.
Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Chúng sanh trong 10 phương, hết lòng tin ưa, muốn sanh về nước tôi, cho đến 10 niệm, nếu không được sanh thì tôi không ở ngôi Chánh Giác." Ngày nay có người ở đời nghe lời dạy này, suốt đời toàn không niệm Phật, nghĩ rằng sắp đến lâm chung mới tu hành niệm Phật việc ấy như thế nào?
Đáp: Việc ấy không đúng, Vì sao? Kinh dạy: "Mười niệm liên tục giống như không khó. Như hàng phàm phu tâm như ngựa hoang, thức như vượn chuyền, rong rủi sáu trần, chưa bao giờ dừng nghỉ. Vì vậy, mọi người phải nên phát lòng tin, tự mình khắc niệm, làm cho có thói quen thành tánh, thiện tâm kiên cố. Phật bảo: Này Đại Vương! Người chứa nghiệp lành, khi chết không có niệm ác, như cây trốc gốc, ngã theo phía đã nghiêng." Nếu khi sắp chết, gió đao đã đến, trăm khổ trói mình, nếu những tập khí trước không ở trong lòng thì làm sao có thể niệm cho được, vì thế lúc lâm chung cần có 5, 3 đồng chi dự bị hộ niệm, đến lúc mạng chung, nói lời pháp ngữ, xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện sanh về thế giới Cực lạc, mỗi tiếng tiếp nối liền thành mười niệm. Ví như lấy ấn bằng sáp ấn vào bùn, ấn hoại thì văn thành, mạng này khi đã dứt liền sanh về cõi nước An lạc, một khi đã vào chánh định tụ, lại còn lo gì nữa. Mọi người đã biết rõ việc lợi lớn như thế làm sao không dự bị niệm cho thuần thục, đợi đến lâm chung làm sao có đủ 10 niệm.
Hỏi: Trong Kinh Luận Đại Thừa thường nói, tất cả chúng sanh cứu kính là vô sanh, cũng như hư không, vì sao các Bồ Tát như Long Thọ, Thế Thân đều nguyện vãng sanh?
Đáp: Nói chúng sanh cứu kính vô sanh như hư không có 2 nghĩa
a- Hàng phàm phu chấp thật chúng sanh, thật sanh tử, nếu y cứ vào Bồ Tát vãng sanh cứu kính như hư không, như sừng thỏ.
b- Đây nói sanh là do nhân duyên sanh, mà nhân duyên sanh chỉ là tên giả, tên giả nói là sanh chính là vô sanh không trái với lý đạo, chẳng phải như phàm phu nói có thật chúng sanh, thật sanh tử.
Hỏi: Sanh là cội gốc của khổ lụy, nếu biết được lỗi lầm ấy bỏ sanh để cầu vô sanh mới mong có ngày giải thoát. Nay khuyên sanh về Tịnh độ là bỏ sanh để cầu sanh thì biết bao giờ cho hết?
Đáp: Ông thật không biết rằng cõi Tịnh độ kia là do bổn nguyện thanh tịnh của Như Lai A Di Đà tuy sanh mà vô sanh, không phải như chúng sanh trong ba cõi do ái nhiễm, hư vọng, chấp trước mà sanh. Vì sao? Vì pháp tánh thanh tịnh cứu kính vô sanh mà nói sanh là sanh theo tình chấp rồi.
Hỏi: Như trên đã nói sanh về Tịnh độ là sanh mà vô sanh là chỉ cho người bậc thượng, còn người bậc hạ nương theo 10 niệm vãng sanh đâu không chấp cho là thật sanh. Nếu nói thật sanh là bị rơi vào 2 chỗ nghi.
a- E không được sanh.
b- Cái tướng thiện này không thể làm nhơn của vô sanh. Không biết việc ấy thế nào?
Đáp: Giải thích câu hỏi này có 3 cách:
a- Ví như hạt châu Ma Ni trong lóng sạch đặt ở nước dơ, nhờ oai lực của châu làm cho nước đục thành trong. Chúng sanh tuy có vô lượng tội dơ sanh tử, nếu được nghe danh hiệu bảo châu thanh tịnh rốt ráo vô sanh của Như Lai A Di Đà, bỏ vào tâm trược, trong mỗi niệm, tội diệt tâm tịnh, liền được vãng sanh.
b- Như châu Ma Ni trong sạch đem vải đen đỏ gói lại, nhúng vào trong nước, nước liền có màu vàng hoặc đen, tuỳ theo vải gói. Cõi Phật thanh tịnh kia có danh hiệu vô thượng bảo châu là Như Lai A Di Đà, dùng vô lượng công đức trang nghiêm vãi bao bọc đặt vào chỗ vãng sanh, trong tâm thủy thì đâu không thể chuyển trí sanh thành trí vô sanh sao?
c- Cũng như trên băng nhóm lửa đốt, lửa nhiều thì băng tan, băng tan thì lửa tắt. Người hạ phẩm vãng sanh kia, tuy không biết pháp tánh vô sanh, chỉ dùng năng lực xưng danh hiệu Phật, tác ý vãng sanh, nguyện sanh cõi kia, đã đến cõi vô sanh rồi, thì cái lửa chấp còn sanh kia tự nhiên bị diệt.
Hỏi: Y theo thân mà nói vãng sanh?
Đáp: Ở trong thân giả danh làm người tu các pháp môn, niệm trước và niệm sau tạo nhơn thành người có thân giả danh ở uế độ không nói chắc là một, không nói chắc là khác, tâm trước tâm sau, đều cũng như vậy. Vì sao? Nếu quyết định một thì không nhơn quả, nếu quyết định khác thì không có tánh liên tục. Vì nghĩa nó như thế nên ngang dọc tuy khác, trước sau đồng một hạnh vậy.
Hỏi: Nếu người xưng niệm Phật danh hiệu có thể trừ các chướng nếu như vậy thì như người dùng ngón tay chỉ mặt nguyệt, thì ngón tay ấy có thể phá được đêm tối sao?
Đáp: Các pháp đều có sự sai khác không thể cho là một thứ. Vì sao? Có cái tên tức là pháp (như ấn vua) có cái tên khác với pháp. Vì sao nói tên là pháp? Như danh hiệu Chư Phật Bồ Tát, tiếng đọc câu chú, những câu chữ trong kinh điển. Như người đọc thần chú, như người bị chó cắn, người trì, miệng niệm chú, tay cầm xương cọp quơ ngang vết thương liền hết, khi không có mang xương cọp theo, lấy tay sờ vào, miệng nói cọp đến bịnh cũng lành, có người bị đau chân chuyển gân, người trì chú lấy móng hoặc thước gỗ chạm vào bệnh liền lành, hoặc không có móng hoặc cây, lấy tay sờ vào miệng nói cây móng, bệnh cũng lành. Người bệnh qua lời nói đến tên, mà tự thân có công hiệu. Như người học gồng chỉ cần niệm chú là dao chém không đứt. Vì sao vậy? Vì tên được nói ra là Pháp. Vì sao có tên khác với Pháp? Như người lấy ngón tay chỉ mặt trăng, hai tên khác nhau và không có hiệu lực gì?
Hỏi: Người niệm Phật thì trừ được vô minh và được vãng sanh, vì sao có người niệm Phật mà vô minh vẫn tồn tại, không đạt sở nguyện là ý làm sao?
Đáp: Do hành giả không đúng như thật tu hành nên không thể tương ứng. Vì sao? Nói không biết Như Lại là thật tướng thân hay phàm thân nên có 3 điều không tương ưng. a- Lòng tin không chắc, lúc mất lúc còn.
b- Lòng tin không nhất, làm việc gì không quyết định.
c- Lòng tin không liên tục để cho các niệm khác xen vào. Niệm Phật cần phải thu nhiếp thân tâm. Mỗi niệm được liên tục, không có niệm khác là tâm được nhất, tâm đã nhất thì lòng tin sâu chắc. Đủ ba thứ tâm này nếu không được vãng sanh thật không có lý đó.

Chương Ba
Chương này nhăm giải quyết những chủ đề sau đây. 1- Nói rõ con đường khó làm và dễ làm. 2- Nói về thời kiếp có lớn nhỏ chẳng đồng. 3- Nói về từ vô thỉ chúng sanh tạo nghiệp khổ thọ luân hồi. 4- Dẫn lời Phật dạy khuyên tin cầu vãng sanh.

1. Nói rõ con đường khó làm và dễ làm.
Tất cả chúng sanh đang ở trong nhà lửa, tưởng tới thật rất lo sợ. Vì thế, bậc Đại Thánh dùng 3 xe để quyến dụ ra khỏi nhà lửa. Xe dê và xe nai chở người ít, tạm gọi là chưa đạt đến kết quả cứu kính, Phật quở là tà chấp, làm chướng ngại cầu quả vô thượng Bồ Đề, dù muốn hướng về vẫn còn cách xa. Nếu chỉ thẳng xe trâu trắng chỉ sợ hiện ở địa vị lui sụt, đường đến còn xa, tự đức của mình chưa vững khó có thể thẳng tiến. Vì thế, Bồ Tát Long Thọ nói: "Bồ Tát muốn cầu vị không lui sụt có hai con đường là đường dễ đi và đường khó đi.
Thế nào là con đường khó đi? Con đường khó đi là hành giả ở trong đời dữ năm trược, lúc không có Phật muốn cầu vị chẳng lui sụt thật khó. Cái khó này có rất nhiều, lược thuật năm điều cốt yếu:
a- Ngoại đạo đầy dẫy làm loạn Pháp tu của Bồ Tát.
b- Hàng Thanh văn chuyên tự lợi làm chướng ngại lòng đại từ bi.
c- Người ác ngang nhiên phá hoại đức tốt của người khác.
d- Những hàng trời, người làm điên đảo thiện quả, phá phạm hạnh người.
e- Chỉ có tự sức mình, không có tha lực giúp.
Các việc như thế, chạm mặt có liền, ví như người đi trên bộ, mỗi bước đi nặng nhọc gian nan nên nói con đường khó đi.
Thế nào là con đường dễ đi? Người tin lời Phật dạy, nguyện vãng sanh về cõi Cực lạc, phát khởi lòng tin, làm các công đức, tu các hành nghiệp, nhờ năng lực đại nguyện của Phật, liền được vãng sanh. Nhờ vào năng lực Phật trụ trì, liền vào Đại thừa chánh định tu, đó là vị không lui sụt. Như người đi đường thủy, trên thuyền yên vui mau đến, nên gọi là đường dễ đi.
Hỏi: Quả Bồ Đề là một, nhơn tu cũng không hai, vì sao người tu nhơn này hướng về Phật quả lại gọi là khó làm, còn người vãng sanh tịnh độ gọi là điều dễ làm?
Đáp: Các Kinh Đại Thừa đều có phân định rõ ràng. Tất cả phương pháp thực hành đều có tự lực và tha lực hoặc tự nhiếp, tha nhiếp. Vì sao gọi là tự lực? Ví như có người sợ sinh tử, phát tâm xuất gia, phát khởi được thần thông, dạo chơi khắp bốn châu thiên hạ gọi là tự lực. Vì sao gọi là tha lực? Ví như có người yếu đuối, sức trói gà không chặt, nếu theo vị chuyển luân thánh vương, liền được bay lên hư không dạo chơi bốn châu thiên hạ, đều nhờ uy lực của Chuyển Luân Thánh Vương, gọi là tha lực. Chúng sanh cũng vậy, trong lúc khởi tâm, lập hạnh, nguyện sanh tịnh độ, đây gọi là tự lực. Khi người ấy sắp lâm chung Phật A Di Đà phóng quang tay cầm đài vàng tiếp dẫn người ấy liền được vãng sanh gọi là tha lực. Nên Kinh Đại A Di Đà nói: "Hàng nhơn thiên ở mười phương, muốn sanh về nước tôi, niệm danh hiệu tôi nhẫn đến 10 niệm mà tôi không tiếp dẫn người ấy về cõi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh Giác." Như thế, người được vãng sanh kể trên đều nhờ vào đại nguyện lực của Như Lai A Di Đà làm tăng thượng duyên nên được vãng sanh. Hành giả tu Tịnh độ có tự lực chuyên niệm, lại có tha lực giúp đở. Nếu ỷ mình có đôi tay cứng, tự lội qua sông không cầu thuyền bè thì dễ dàng bị ở trong nhà lửa.

2. Nói rõ thời kiếp có lớn nhỏ chẳng đồng.
Nói về thời kiếp thì tùy theo nghiệp lực của chúng sanh mà có lớn nhỏ. Như một kiếp người so với con thiêu thân thì bằng ba vạn sáu ngàn kiếp. Trong Trí Độ luận nói: Kiếp có 3 thứ là tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp. Một kiếp ở Trường Thọ thiên rất lâu có thể đem thí dụ như sau: như có một cái thành 40 dậm vuông chứa đầy hột cải, cứ 3 năm (tính theo năm cõi Ta Bà) thì bỏ ra một hột cải đến khi thành không còn hột cải nào thì gọi 1 Tiểu kiếp. Có thành vuông 80 dậm chứa đầy hột cải, cứ 3 năm lấy một hột bỏ ra, đến khi thành không còn hạt cải nào thì gọi là Trung kiếp. Có thành 120 dậm vuông chứa đầy hạt cải, cứ 3 năm bỏ ra một hạt, khi hết không còn hạt nào trong thành thì gọi là Đại Kiếp.
Như có một khối đá vuông tám mươi dặm, có một vị Trường Thọ Thiên dùng thiên y nhẹ chừng ba thù, cứ 3 năm phất qua khối đá một lần đến khi khối đá mòn hết gọi là Trung kiếp. Khối đá nhỏ 40 dặm và lớn 120 dặm thiên y cũng phất như trùng kiếp ở trên. Vì vậy, thời kiếp không thể nào thuật hết.

3. Nói về từ vô thỉ chúng sanh tạo nghiệp khổ thọ luân hồi.
Trong Trí Độ luận nói: "Người đời từ vô thỉ kiếp đến nay luân hồi vô cùng, thọ thân vô số, ngay ở trong kiếp người hoặc ở gia đình họ Vương chết sanh vào nhà họ Trương, nhà họ Trương chết sanh vào nhà họ Lý, cứ như thế xoay quanh khắp cõi Diêm phù, hoặc sanh khác nhà hoặc sanh cùng nhà, hoặc ở Nam Diêm Phù Đề chết sanh về Tây Câu Da Ni, ba châu kia cũng lần lượt sanh đến sanh đi vô cùng. Rồi cõi người sanh về cõi trời Tứ Thiên Vương cũng như vậy. Hoặc Tứ thiên Vương thiên chết sanh về Đao Lợi thiên. Đao Lợi thiên chết sanh về các Tứ thiên Vương khác. Sắc giới có 18 lớp cõi trời, vô sắc giới có 4 lớp cõi trời, cứ ở đây chết sanh ở kia, tất cả lần lượt như vậy cả, có khi sắc giới chết sanh về A Tỳ địa ngục. A Tỳ địa ngục chết sanh về các địa ngục nhẹ hơn, hoặc địa ngục chết sanh lên ngạ quỷ, ngạ quỷ chết sanh làm súc sanh, trong súc sanh chết sanh lên trời người. Cứ như thế mà luân chuyển trong sáu nẽo chịu khổ, vui, quả báo vô cùng. Thai sanh đã vậy, loài noãn, thấp, hóa sanh kia cũng vậy."
Kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Bồ Tát hóa sanh dạy các Thiên chúng rằng:
“Con người trải qua mấy ngàn kiếp,
Mê vui buông lung chẳng tu đạo,
Không biết phước xưa nay đã hết,
Rơi vào ba đường chịu khổ đau."
Kinh Niết Bàn cũng nói: "Thân do khổ chứa nhóm, tất cả đều không sạch, chứa nhóm đầy u thối, thật chẳng nghĩa lý chi, cho đến cả thân trời, đều cũng như thế cả. Vì vậy, muốn thoát khỏi thân ô trọc cần phải tu hạnh chẳng buông lung. Vì sao? Vì buông lung là gốc của các thứ ác, không buông lung là nguồn cội của việc lành, như làm tan bóng tối, ánh sáng mặt trời mặt trăng là sáng hơn hết; pháp chẳng buông lung là cao nhất của các pháp lành. Cũng như núi Tu Di là cao nhất hơn các núi khác, pháp chẳng buông lung lại cũng như thế, ở trong các pháp lành là cao nhất, vì sao? Vì các ác pháp do phóng dật mà sanh, tất cả pháp lành đều do không buông lung mà sanh ra.
Hỏi: Nói từ vô thỉ kiếp đến nay, sáu nẻo luân hồi không có ngăn mé, không biết trong một kiếp phải thọ bao nhiêu thân?
Đáp: Kinh Niết Bàn nói: "Lấy cỏ cây trong Tam thiên Đại Thiên thế giới, trồng cho lên cao rồi đếm từng cây đó là con số nhận thân từ cha mẹ của một kiếp, còn không đủ". Có thể nói trẻ con, uống sửa mẹ nhiều hơn uống bốn bể gọi là một kiếp. Trong một kiếp thân cốt như núi Tỳ Phú La. Như thế, từ lâu xa đến nay chịu sanh tử làm thân phàm phu không thể kể xiết, thật đáng thương thay!
Hỏi: Từ khoáng đại kiếp thọ thân vô số, có kinh văn nào để chứng minh?
Đáp: Đều do kinh văn của Phật dạy. Kinh Pháp Hoa nói: Ở trong Đại Kiếp rất lâu xa thuở quá khứ không thể nói hết, có một Đức Phật ra đời hiệu là Như Lai Đại Thông Trí Thắng, có 16 vị vương tử, đều lên pháp tòa giáo hóa chúng sanh. Mỗi vị vương tử đều giáo hóa được sáu trăm muôn ức Na do tha hằng hà sa chúng sanh. Đức Phật ấy diệt độ đến nay rất lâu xa không thể dùng số đếm mà biết được. Như có người lấy Đại địa trong tam thiên Đại thiên thế giới mài hết làm mực, rồi người này trải qua một ngàn quốc độ lấy mực chấm một chấm to như chừng hạt bụi, cứ như thế lần lượt chấm hết mực trái đất tam thiên đó. Người này trải qua các quốc độ hoặc có điểm vi trần hoặc không điểm chỗ hết sạch địa chủng làm mực vi trần đó, tính một vi trần là một kiếp thì Đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng diệt độ đến nay còn hơn số mực vi trần đó. Tất cả chúng sanh thời nay đều là những người từng thọ giáo pháp của 16 vị vương tử kia. Cho nên kinh nói: Vì nhân duyên đó mà nói ra thời Pháp Hoa Niết Bàn. Trong 16 vị vương tử giáo hóa khắp 10 phương, vị thứ 16 là Đức Thích Ca Mâu Ni ngày nay, còn chúng sanh được 16 vị giáo hóa chính là chúng sanh đang nghe pháp ngày nay.
Hỏi: Trên nói chúng sanh lưu chuyển nhiều kiếp mà ở trong ba cõi nhỏ hẹp làm sao chứa được nhiều thân?
Đáp: Tuy nói lưu chuyển, nhưng ở trong ba đường dữ thọ thân rất nhiều như kinh nói: "Ở trong hư không lượng chứa từng ô vuông từ đất đến trời sắc cứu kính, ở trong khoảng ấy đối với chúng sanh tức có nhiều tam thiên đại thiên thế giới của thân trời người. Nên biết thân ác đạo nhiều. Vì sao? Vì ác pháp dễ khởi, lòng lành khó sanh. Thời nay chỉ thấy chúng sanh hiện tại nếu được giàu có chỉ chạy theo việc buông lung phá giới, chư thiên thì phần nhiều chạy theo những thú vui ngũ dục. Nên trong kinh nói: "Tất cả chúng sanh thường lưu chuyển, thường lấy ba đường dữ làm nhà, cõi trời, người tạm đến rồi đi, nên chỉ gọi là khách. Trong luận Đại Trang nghiêm, khuyên tất cả chúng sanh thường tu họ niệm hiện tiền có bài kệ:
Tuổi trẻ không bệnh hoạn
Giải đãi không tinh tấn,
Tham tạo các nghiệp vụ,
Chẳng tu Thí, Giới, Thiền.
Đến khi thần chết đến,
Hối hận vội tu Thiện,
Người trí nên quán sát
Dứt trừ tưởng ngũ dục.
Tinh cần gắng tu tâm,
Rốt cuộc khỏi hối hận,
Tâm ý đã chuyên chú,
Không có niệm lầm lẫn.
Người trí cần dụng tâm,
Lâm chung ý chẳng mất,
Không tập lòng chánh niệm
Lâm chung chắc tán loạn.
Tâm nếu bị tán loạn,
Như dùng roi luyện ngựa,
Khi chúng chạy lung tung,
Làm sao đi cho được."
Hỏi: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, từ kiếp lâu xa đến nay lẽ ra đã gặp Phật rất nhiều, nguyên do gì đến nay vẫn bị luân hồi sanh tử, không ra khỏi nhà lửa?
Đáp: Y cứ vào Đại Thừa Thánh giáo có hai pháp thù thắng để ra khỏi nhà lửa đó là tu theo Thánh Đạo và tu theo vãng sanh Tịnh độ. Người tu Thánh đạo thời nay khó chứng, vì chúng ta cách Phật đã xa, mà Thánh lý thì tinh vi khó thể hội nhập, nên trong kinh Đại Tập Nguyệt Tạng, Phật nói: "Trong thời mạt pháp, ức ức chúng sanh khởi hạnh tu Thánh đạo, chưa có một người được Đạo." Thời nay đúng là thời mạt, năm trược hoành hành chỉ có pháp môn tịnh độ là có thể thành công, vì thế, Đại kinh nói: "Nếu có chúng sanh dù một đời tạo ác, đến lúc lâm chung, mười niệm liên tục, xưng danh tự tôi, nếu không được sanh về nước tôi, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác".
Tất cả chúng sanh phần nhiều không biết tự lượng sức mình, y cứ theo kinh điển đại thừa nói chơn như thật tướng, đệ nhất nghĩa không, chưa từng để ý. Nếu luận tiểu thừa người tu theo tứ quả đoạn trừ kiến hoặc, tư hoặc, không luận kẻ đạo người tục mấy ai đã được dự phần. Dù được quả báo người trời đều nhờ ngũ giới, thập thiện chiêu cảm, người giữ được còn rất ít. Nếu nói về khởi ác tạo tội thì khác nào đốt củi khô mà thêm gió lớn. Chính vì thế, Chư Phật vì lòng Đại Bi, khuyên tu Tịnh độ, dù có một đời tạo ác, chỉ cần dốc ý chuyên tinh, thường hay niệm Phật, tất cả các chướng đều tiêu diệt, chắc được vãng sanh. Vì sao không suy nghĩ kỹ tìm cách thoát thân.
4. Dẫn kinh Phật khuyên tin cầu sanh Tịnh Độ.
Kinh Quán Phật Tam Muội nói: "Lúc bấy giờ trong hội có Bồ Tát Tài Thủ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! con nhớ thuở quá khứ vô lượng kiếp về trước có đức Phật xuất thế cũng gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Phật kia sau khi diệt độ có một vương tử tên là Kim Tràng kiêu mạn tà kiến, không tin chánh pháp. Có vị tri thức là Tỳ Kheo Định Tự Tại bảo vương tử rằng: Trong đời có tượng Phật rất xinh đẹp dễ mến, Ngài có thể vào tháp quán hình tượng Phật. Lúc ấy vị vương tử kia nghe theo lời thiện hữu vào tháp quán Phật, thấy Phật tướng tốt bèn thưa với Tỳ Kheo rằng: Tượng Phật đoan nghiêm như thế huống là thân thật. Tỳ kheo bảo: Nay Ngài thấy Phật tượng không thể lễ bái, nên xưng Nam Mô Phật, rồi trở về cung hệ niệm, nhớ tượng trong tháp, vương tử về làm theo, giữa đêm hôm ấy thấy Phật tượng, trong lòng rất vui mừng, xa lìa tà kiến, quy y Tam Bảo. Khi mạng chung, nhờ nhân duyên vào tháp xưng tán công đức Phật, liền được gặp 9 trăm ức na do tha Phật. Đối với chư Phật thường siêng năng tinh tấn, thường được sức Niệm Phật Tam Muội, nên chư Phật hiện tiền đều thọ ký cho. Từ đó đến nay trải qua trăm muôn A Tăng kỳ kiếp không bị đọa vào đường dữ, cho đến ngày nay được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Vị vương tử thuở ấy không ai xa la, chính là tôi ngày hôm nay.
Lúc bấy giờ trong hội có chư Đại Bồ Tát ở mười phương, số nhiều vô lượng, đều nói rõ bổn duyên của mình, đều y theo Niệm Phật mà được Niệm Phật Tam Muội. Phật bảo: Này A Nan! Quán Phật Tam Muội này là thuốc chửa lành bệnh cho tất cả chúng sanh phạm tội, là giáp hộ giới cho người bị phá giới, là Đạo sư dẫn đường cho người lạc đường, là cặp mắt sáng cho người mù, là trí huệ cho kẻ ngu si, là đèn sáng cho đêm tối, là tướng dũng mãnh trừ giặc phiền não, là chỗ dạo chơi của chư Phật Thế Tôn, là chỗ sanh ra Đại Định Thủ Lăng Nghiêm và các Đại Tam Muội. Phật lại bảo này A Nan! Ông phải khéo giữ gìn, đừng cho quên mất. Chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều nói niệm Phật Tam Muội như thế. Ta cùng mười phương chư Phật và nghìn Phật ở tiền kiếp, lúc mới phát tâm đều nhờ năng lực Niệm Phật Tam Muội này mà được Nhất Thiết Chủng Trí.
Trong kinh Mục Liên sở vấn, Phật bảo Mục Liên: "Như muốn dòng sông chảy về bể, có cây, cỏ nổi trên mặt, trước chẳng ngó sau, sau chẳng ngó trước, đều về bể cả. Những người thế gian cũng vậy, tuy có người giàu sang, kẻ bần cùng, tất cả không ai khỏi sanh, già, bệnh, chết. Chỉ vì họ không tin kinh Phật, đời sau làm người, không chỗ y cứ, không được sanh vào quốc độ chư Phật. Nên ta nói vô lượng cõi Phật dễ đến, dễ làm, mà người không chịu tu hành vãng sanh, lại phụng thờ 95 thứ tà đạo, Ta nói người ấy là người không mắt, gọi là người không tai, kinh dạy rõ ràng, vì sao không bỏ cái khó, làm theo cái dễ."

« Kinh này có tổng cộng 2 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.24.176 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập