Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Chương Bốn
Chương này nhằm trình bày cho thấy các Đại Đức kiệt xuất ở bên giáo tông đều quy hướng Tịnh độ, Đồng thời giới thiệu đa số các kinh điển Đại thừa đều lấy Niệm Phật Tam Muội làm cốt yếu và cho thấy Niệm Phật có nhiều lợi ích. 1. Các Đại Đức ở giáo tông đều qui hướng Tịnh Độ:
Bản hoài của Đức Phật là muốn độ khắp tất cả chúng sanh, vì thế ngoài giáo môn chuyên tự lực đoạn hoặc chứng chơn ra, Ngài còn nói pháp môn tự lực cọng tha lực, chỉ nương vào Nguyện lực mà thoát luân hồi. Vì thế, các Tổ sư các tông, sau khi kế nghiệp tư thừa, lại hoằng dương Tịnh Độ, như Tổ Mã Minh, Long Thọ là tổ Thiền Tông mà cùng nguyện vãng sanh, khuyên người tu Tịnh độ, Tổ Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, chứng tam muội Pháp Hoa mà hằng tu Diệu Quán. Tổ Thiên Thân, tổ Duy Thức Tông mà làm kệ phát nguyện vãng sanh, y kinh Vô Lượng Thọ khuyên người vãng sanh Cực Lạc. Riêng bên Giáo tông có sáu Pháp sư được coi là nanh vuốt của giáo tông gồm có Đại Thừa Pháp sư thông suốt ba tạng kinh điển là Pháp Sư Lưu Chi; một vị Pháp sư đạo cao đức trọng, dứt hẳn lợi danh là Pháp Sư Huệ Lũng; một Đại Đức giảng kinh xuất chúng, mỗi lần giảng kinh cảm thánh chúng đến nghe là Pháp Sư Đạo Tràng; một Đại Đức hòa quang cùng khắp, hai nước mến mộ là Pháp Sư Đàm Loan; một Đại Đức thiền quán cao tột là Thiền Sư Đại Hải; một đại giới luật tinh nghiêm cả nước đều ca ngợi, triều đình cảm phục, đó là Luật sư Thông Tuệ. Sáu vị Đại Đức này đều là những tấm gương thần bao trùm Nhị đế, là giềng mối của chánh pháp đương thời, chí khí và hạnh nguyện tuyệt luân xưa nay ít thấy, các Ngài quảng bá đại thừa nhưng luôn luôn quy hương Lạc Bang, xem Tịnh Độ là yếu môn vô thượng.
Hỏi: Chư Đại Đức xem Tịnh Độ là yếu môn vô thượng, không biết Chư Đại Đức khi lâm chung đều có linh nghiệm chăng?
Đáp: Có linh nghiệm đầy đủ không sai. Như Pháp Sư Đàm Loan hằng ngày thường tu Tịnh Độ. Có một ngày nọ có một học giả thế tục đến hỏi Pháp sư rằng: "Cõi Phật trong 10 phương đều là Tịnh Độ, Pháp sư cần gì chuyên chú hướng Tây, đâu chẳng phải khởi ra thiên kiến? Pháp sư đáp: Tôi là phàm phu, trí huệ cạn cợt, chưa vào vị thập địa, niệm lực cần phải huân tập, giống như lấy cỏ dẫn trâu, thường phải buộc tâm vào một chỗ, đâu được buông thỏng không có chỗ về. Pháp sư giải quyết tất cả vấn nạn, đến gặp Pháp sư người chưa sanh chánh tín làm cho sanh tin chắc, đã có lòng tin khuyên hồi hướng về Cực Lạc. Khi Pháp sư sắp lâm chung, cả chùa kẻ đạo người tục đều thấy tràng phang, hoa trời đầy chùa, mùi hương lạ và âm nhạc tiếp rước về Tây Phương. Các Đại Đức kể trên khi mạng chung đều có thụy ứng vãng sanh có chép đủ trong Thánh Hiền Lục. 2. Các Kinh lấy niệm Phật Tam Muội làm Tông.
Kinh Hoa Thủ Phật bảo Bồ Tát Kiên Ý rằng: "Tam Muội có hai thứ là Nhất Tướng Tam Muội và Chúng Tướng Tam Muội.
Thế nào là Nhất Tướng Tam Muội? Có một Bồ Tát ở thế giới kia, có đức Phật hiện tại thuyết pháp, Bồ tát ấy giữ lấy tướng hảo của Phật tưởng như ở trước mắt, hoặc lúc đức Phật ngồi ở đạo tràng, hoặc lúc đức Phật chuyển luân, đại chúng vi nhiễu. Giữ tướng như thế, thu nhiếp các căn, tâm không chạy loạn, chuyên niệm một vị Phật, không bỏ nhân duyên đó. Các Bồ tát ở trong tướng Như Lai và tướng thế giới hiểu rõ vô tướng, thường quán như thế, thực hành như thế, không rời duyên này, lúc ấy tượng Phật liền hiện ra trước mắt mà vì đó nói pháp. Bồ tát lúc bấy giờ sanh ra lòng cung kỉnh rất sâu xa, nghe nhận pháp này hoặc sâu hoặc cạn lần thêm tôn trọng. Bồ tát ở trong Tam muội này, nghe nói các pháp đều có thể tướng hoại, nghe rồi gìn giữ, từ tam muội dậy, có thể vì bốn chúng diễn nói pháp này. Phật bảo: Này Kiên Ý! Đó gọi là Bồ tát vào Nhất Tướng Tam Muội.
Kinh Văn Thù Bát Nhã nói về Nhất Hạnh Tam Muội: "Lúc bấy giờ Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn vì sao gọi là Nhất hạnh Tam muội? Phật dạy: Người tu Nhất hạnh Tam muội, hoặc thiện nam tử, thiện nữ nhơn nên ở chỗ yên tĩnh vắng vẻ, bỏ các ý tán loạn, tùy theo hướng chỗ ở của Phật, ngồi ngay hướng về, không giữ tướng mạo, buộc tâm vào một vị Phật, chuyên xưng danh hiệu, niệm không thôi dứt, chính trong niệm này có thể thấy chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì sao? Vì niệm đức Phật này công đức vô lượng vô biên cùng với công đức vô lượng Chư Phật không hai không khác. Đây gọi là Bồ Tát Nhất Hạnh Tam Muội.
Kinh Niết Bàn Đức Phật dạy: "Nếu người chí tâm tu niệm Phật Tam Muội thì Chư Phật trong 10 phương thường thấy người ấy, như ở trước mặt, vì thế, Phật bảo: Này Bồ Tát Ca Diếp! Nếu có thiện nam tử và thiện nữ nhơn thường hay một lòng chuyên nhớ Phật, người ấy hoặc ở núi rừng hoặc ở tụ lạc, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc ngồi hoặc nằm, chư Phật Thế Tôn thường thấy người ấy như ở trước mắt, thường cùng người này ở chung và thọ thí.
Quán Kinh dạy: "Người tu muôn hạnh hồi hướng đều được vãng sanh, vì môn niệm Phật là đường cốt yếu. Vì sao? xét về thánh giáo thì hành giả có hai thứ lợi ích trước và sau. Nếu muốn phát sanh việc thiện mà khởi hạnh thì bao gồm các độ, nếu muốn diệt ác tiêu tai chướng, thời trị hết các họa hại, nên phần sau của Quán Kinh nói: "Chúng sanh niệm Phật, chư Phật nhiếp thủ chẳng bỏ, khi dương số đã hết, liền được vãng sanh, gọi là thứ lợi ích trước tiên. Nói được lợi ích sau cùng là y cứ trong Kinh Quán Âm Thọ Ký nói: "Phật A Di Đà trụ thế rất lâu hằng tỉ kiếp, tuy có diệt độ, nhưng sau khi Niết bàn, có hai đại Bồ tát Quan Âm và Thế Chí trụ trì cõi An Lạc, tiếp dẫn chúng sanh 10 phương. Đức Phật A Di Đà tuy đã diệt độ cũng đồng như thời gian trụ thế! Nên tất cả chúng sanh cõi kia đều có thể thấy Phật. Vì vậy, người nào một lòng chuyên niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc, thì người ấy thường thấy Phật A Di Đà hiện tại chẳng diệt độ. Đây là sự lợi ích về sau. Người tu các hạnh khác hồi hướng đều có thể được vãng sanh và đức Thế Tôn diệt độ vẫn còn thấy mặt đó là những đặc điểm lợi ích to lớn, dám khuyên mọi người suy nghĩ kỹ!"
Kinh Bát Nhã nói: "Lúc ấy có Bồ Tát Bạt Đà Hòa đang ở quốc độ mình, nghe nói Phật A Di Đà, thường nhớ niệm, do sự nhớ niệm đó mà thấy được Phật A Di Đà. Khi đã thấy Phật rồi, Bồ Tát liền thưa với Phật A Di Đà rằng: Xin Đức Thế Tôn chỉ cho con nên tu theo pháp nào để được sanh về nước kia? Lúc ấy, đức Phật A Di Đà dạy: Này Bồ Tát! Nếu muốn sanh về nước ta, thường xưng niệm danh hiệu của ta, liên tục không dứt, liền được sanh về quốc độ của ta, hoặc thường niệm 32 tướng thân Phật được đầy đủ, ánh sáng rực rỡ, đoan chánh không thể so sánh cũng được vãng sanh.
Luận Đại Trí Độ nói: "Có ba lý do giải thích vì sao hành giả phải niệm Phật.
a- Phật là đấng Pháp vương Vô thượng, Bồ Tát là Pháp thần (tôi), chỗ đáng tôn kính chỉ có Phật Thế Tôn nên phải thường niệm Phật.
b- Có các Bồ Tát tự nghĩ: Ta từ khoáng kiếp đến nay được nhờ đức Thế Tôn nuôi lớn Pháp thân, Trí thân, Đại Từ Bi thân. Tất cả thiền định, trí huệ, vô lượng hạnh nguyện nhờ Phật mà được thành tựu. Vì để báo đáp ân sâu, nên thường nguyện gần Phật, cũng như đại thần nhờ ân sủng của vua nên thường niệm đến người chủ.
c- Có các Bồ tát thường nghĩ rằng: Ta trong thời tu nhơn, gặp ác tri thức, bài báng Bát Nhã đọa vào đường dữ, trải qua vô lượng kiếp, tuy tu nhiều hạnh vẫn chưa ra khỏi, Nhờ Phật chỉ dạy dẹp hết các chướng, mới được giải thoát, có lợi ích như thế nên nguyện không rời Phật, luôn luôn niệm Phật.
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Thà ở trong vô lượng kiếp chịu khổ, cũng không dám rời khỏi Như Lai, không thấy được năng lực tự tại. Niệm Phật tam Muội chắc được thấy Phật, sau khi mạng chung sanh về trước Phật. Dám khuyên những người sắp lâm chung cần nên niệm Phật, cần chỉ vào tượng Phật bảo phải chí thành cung kính nguyện sanh. Lại có đoạn nói: Thiện Tài đồng tử cầu Thiện Tri Thức, đến chỗ Tỳ kheo Đức Vân bạch rằng: Bạch Đại sư làm sao tu Đạo Bồ Tát để viên mãn Hạnh Phổ Hiền. Lúc ấy Tỳ kheo Đức Vân dạy: "Ta ở trong bể Trí Huệ của Đức Thế Tôn chỉ thực hành và biết có một pháp gọi là Niệm Phật Tam Muội. Vì sao? Vì ở trong Tam Muội này có thể thấy được tất cả Chư Phật và các quyến thuộc trang nghiêm Tịnh Độ, có thể làm cho chúng sanh xa lìa điên đảo. Niệm Phật Tam Muội có công năng trong cảnh giới vi tế, thấy tất cả cảnh giới tự tại của Chư Phật, được nhiều kiếp không điên đảo. Niệm Phật Tam Muội có thể khởi tưởng tất cả các cõi Phật, không bị hoại diệt, được khắp thấy chư Phật, được ba đời không điên đảo. Khi ấy Tỳ kheo Đức Vân thưa với Thiện Tài rằng: Phật Pháp sâu như biển, rộng rãi không bờ mé, chỗ tôi được biết chỉ có niệm Phật Tam Muội này, ngoài ra các cảnh giới vi diệu khác, rất nhiều tôi chưa được biết."
Kinh Hải Long Vương nói: "Lúc ấy Hải Long Vương bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Đệ tử cầu sanh về Tịnh độ của Phật A Di Đà phải tu hạnh gì để được sanh về cõi ấy? Phật bảo: "Này Long Vương! Nếu muốn sanh về nước kia phải thực hành 8 pháp. Thế nào là 8 pháp: a- Thường niệm Chư Phật. b- Cúng dường Như Lai. c- Khen ngợi Thế Tôn. d- Tạo hình tượng Phật, tu các công đức. e- Hồi nguyện vãng sanh. f- Tâm không khiếp nhược. g- Một lòng tinh tấn. h- Cầu Chánh Huệ của Phật. Phật bảo: Này Long Vương! Tất cả chúng sanh có đủ 8 pháp này, thường không rời Phật.
Hỏi: Người không đủ 8 pháp được sanh trước Phật chẳng ly Phật chăng?
Đáp: Được sanh không nghi. Vì sao được biết? Chư Kinh Phật Thuyết Bảo Vân nói: "Đức Phật nói rõ mười hạnh được sanh Tịnh độ, người thực hành đầy đủ thường không rời Phật. Lúc ấy có Bồ Tát Trừ Cái Chướng bạch Phật rằng: Nếu có người không thực hành đủ 10 pháp có được sanh chăng? Phật đáp: Được sanh. Chỉ cần trong 10 hạnh làm một hạnh được đầy đủ không thiếu sót, thì 9 hạnh kia đều gọi thanh tịnh, đừng có khởi lòng nghi." Lại trong Kinh Đại Thọ, Khẩn Na La Vương nói: "Bồ Tát thực hành bốn pháp, thường được chẳng rời Phật. Vì sao gọi là 4 Pháp? a- Tự tu pháp lành và khuyên chúng sanh đều hết lòng nguyện vãng sanh để thấy Như Lai. b- Tự khuyên mình và khuyên người ưa nghe chánh pháp. c- Tự khuyên mình và khuyên người phát tâm Bồ đề. d- Chuyên chí thực hành niệm Phật tam muội. Thực hành 4 pháp này, tất cả các chỗ thường ở trước Phật, không rời chư Phật.
Kinh nói: "Bồ Tát hành pháp có ba mươi hai món tùy thân. Bố thí là món đại phú, nhẫn nhục là món đoan chánh, trì giới là món thánh thân, ngũ nghịch bất hiếu là món núi đao, cây kiếm, vạc than, phát Bồ Đề tâm là món thành Phật, thường niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ là món thấy Phật." Lược cử sáu món tùy thân các món khác không thuật hết, Kinh đã nói rõ ràng, hành giả nguyện sanh, vì sao lại không thường niệm Phật!
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: "Niệm tướng hảo Phật và đức hạnh Phật có thể làm cho các căn chẳng loạn động, lòng không mê hoặc, cùng với pháp hợp, được nghe là được trí huệ như bể cả, người trí ở trong tam muội này, nhiếp tâm chuyên niệm có thể thấy được ngàn ức các đức Như Lai, cũng gặp được vô lượng hằng hà sa chư Phật. 3- Giải đáp để hiển bày lợi ích tam muội.
Hỏi: Người thường tu niệm Phật tam muội thì không nên tu các tam muội khác có phải như thế không?
Đáp: Nói là thường niệm chớ không phải nói không nên tu các tam muội khác, mà chỉ nói thực hành Niệm Phật tam muội nhiều hơn mà thôi, nên nói là thường niệm. Không phải nói hoàn toàn không nên thực hành các tam muội khác.
Hỏi: Nếu khuyên thường tu niệm Phật tam muội, như vậy đối với tam muội khác có thể cao thấp khác nhau, xin cho biết rõ?
Đáp: Niệm Phật tam muội, tướng thù thắng không thể nghĩ bàn. Vì sao biết được?
Trong kinh điển Đại Thừa nói: "Tất cả tam muội đều gọi là tam muội, nhưng với Niệm Phật tam muội có chỗ khác nhau. Vì có Tam muội chỉ có công năng trừ tham mà không thể trừ sân si, hoặc có Tam muội có thể chỉ trừ sân mà không trừ si tham, hoặc có Tam muội chỉ có thể trừ si mà không thể trừ tham sân, hoặc có Tam muội chỉ có thể trừ hiện tại chướng mà không thể trừ tất cả các chướng thời quá khứ và vị lai. Nếu người thường tu Niệm Phật Tam muội tất cả các chướng hiện tại, quá khứ vị lai đều trừ sạch.
Hỏi: Niệm Phật tam muội có thể trừ chướng, được phước, không biết có thể làm lợi ích hành giả như diên niên lợi ích thọ được chăng?
Đáp: Chắc được. Vì sao biết được? Vì trong kinh Như Duy Vô Tam Muội nói: "Có hai anh em, người anh thì tin nhân quả tu hành, người em thì lòng không tin, nhưng có tài coi tướng số, khi anh ta nhìn mặt trong gương thấy tướng chết đã hiện, chỉ trong thời gian không qua khỏi bảy ngày. Lúc ấy may gặp một người trí bảo đến hỏi Phật. Phật đáp dương số đã tận bảy ngày sau ông sẽ chết. Nếu có thể một lòng niệm Phật giữ giới, có thể tăng thọ thoát khỏi mạng chết sớm. Người ấy nghe rồi y lời hệ niệm niệm Phật. Đến ngày thứ sáu có 2 con quỷ đến định dẫn đi, nhưng tiếng niệm Phật làm cản đường chúng, chúng trở về thưa với Diêm Vương, Diêm Vương đem bùa ra, trong bùa đã ghi chú, người này do trì giới niệm Phật được công đức sống lâu, sau khi mất sanh về cung trời Diệm Thiên thứ Ba.
Kinh Thí Dụ nói: "Có một trưởng giả, không tin tội phước, lúc 50 tuổi, một đêm nằm mộng thấy có một con quỷ cầm tử phù đến muốn bắt đi, và hẹn 10 ngày sau đến bắt. Ông trưởng giả rất lo sợ đến nhờ thầy xem tướng giải mộng. Thầy tướng số cho biết đó là triệu chứng sát quỷ đến muốn làm hại, không gần 10 ngày sau, dương số ông đã tận. Ông trưởng giả rất lo sợ đến gặp Phật, Phật bảo: Nếu ông muốn hiện trạng ấy không còn, sống lâu thêm tuổi, từ đây về sau ông phải niệm Phật trì giới cúng dường Tam Bảo, có thể thoát khỏi ngày chết này. Ông trưởng giả y theo lời Phật dạy, chuyên tâm tin hướng niệm Phật. Sát quỷ đúng 10 ngày sau đến cửa, nghe tiếng niệm Phật và cách tu công đức của ông, nên bỏ đi không thể làm hại. Ông Trưởng giả nhờ công đức tu tập niệm Phật ấy mà sống lâu đến trăm tuổi, sau khi chết được vãng sanh về cõi trời.
Hỏi: Niệm Phật tam muội có thể đối trị các chướng, có thể thay đổi thế báo, còn đối với Xuất thế gian Vô thượng Bồ Đề thế nào?
Đáp: Chắc chắn được kết quả. Vì sao? Như Kinh Hoa Nghiêm phẩm Thập Địa nói: "Ban đầu từ Sơ địa cho đến Thập địa, trong mỗi địa đều có nói pháp gia hạnh vào địa. Khi địa đã mãn, công đức lợi ích vẫn không dừng lại. Các Bồ tát này tuy tu các hạnh đều không lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, dùng đồ nhạc thắng diệu cúng dường Tam Bảo." Qua đoạn văn này cho biết các Bồ tát ở địa thượng thường học niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng mới có thể thành tựu hạnh nguyện vô thượng, đầy đủ bể công đức. Huống chi các hàng Nhị thừa, phàm phu cầu sanh Tịnh độ mà không chịu học niệm Phật." Vì sao? vì Niệm Phật tam muội này có đủ tất cả các pháp như Tứ Nhiếp, Lục Độ, hạnh chung, hạnh riêng.
Hỏi: Bồ tát từ Sơ địa đến Thập địa cùng Phật đồng chứng lý chơn như gọi là sanh vào nhà Phật, tự mình hiện làm Phật, hóa độ chúng sanh, vì sao lại phải học niệm Phật tam muội nguyện thấy Phật?
Đáp: Luận về chơn như rất rộng lớn vô biên, đồng như hư không, lượng nó khó biết hết, ví như một ngôi nhà tối rộng lớn, nếu đốt một hoặc hai ngọn đèn, ánh sáng của nó tuy đến khắp nhưng chỉ sáng lờ mờ, dù đốt nhiều đèn cũng chỉ nói sáng lớn chứ đâu có thể so sánh với mặt nhật. Trí tuệ Bồ tát chứng được, tuy mỗi địa đều khá hơn chỉ có chừng mực, đâu có thể so sánh trí sáng của Phật như mặt nhật kia. Chương Năm
Chương này nhằm giải quyết ba tiểu điểm 1. Phân định việc tu chậm mau, 2. So sánh thiền và quán khuyên làm, 3. So sánh lậu và vô lậu và dẫn thánh giáo chứng minh. 1. Phân định việc tu đạo chậm mau.
Tất cả chúng sanh ai cũng chán khổ, tìm vui, sợ trói, cầu mở, nên ai cũng muốn mau chứng vô thượng Bồ Đề. Vì vậy, hành giả trước phải phát khởi tâm Bồ Đề, tâm này khó biết, khó khởi vì là quả cao cùng tột, dù có phát khởi được tâm này, y theo kinh phải tu mười thứ hạnh là tin, tấn, niệm, giới, định, huệ, xã, hộ Pháp, phát nguyện, hồi hướng rồi lần lên tiến đến quả vị Bồ Đề. Vì vậy, thân người thực hành phải tiếp nối chẳng dứt, trải qua một muôn kiếp mới chứng được vị chẳng thối. Ngày nay, kẻ phàm phu lòng tin và tâm tưởng nhẹ như sợi lông, cũng gọi là giả danh, cũng gọi là nhóm định, cũng gọi là ngoại phàm phu chưa ra khỏi nhà lửa. Vì sao? Căn cứ theo Bồ Tát Anh Lạc Kinh nói đủ hạnh vị của người tu từ Sơ Tín đến Đẳng Giác, Diệu Giác phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp nên gọi là con đường khó làm.
Lại nữa chỉ lấy trong một kiếp thọ thân mạng sống chết còn không thể đếm hết, huống là trong một muôn kiếp luống chịu khổ đau. Nếu người có thể tin theo kinh Phật, nguyện sanh Tịnh độ, tùy theo tuổi thọ có dài ngắn, chỉ một đời liền được đến kết quả, ở vị Bất Thối. So với người tu Thánh đạo phải tu một muôn kiếp bằng nhau. Vì sao các người con Phật không suy nghĩ kỹ, không chịu bỏ khó tìm dễ.
Trong Câu Xá Luận cũng nói về hạnh dễ làm và khó làm như sau: "Phương cách khó làm là phải tu hành trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp, trong mỗi kiếp đều có đủ tư lương Phước Trí, Lục Độ Ba La Mật. Tất cả các hạnh, mỗi mỗi hạnh nghiệp đều có trăm ngàn việc khó làm mới hoàn thành được một vị, nên gọi là cách khó làm. Nếu người nào riêng có phương tiện có thể giải thoát gọi là cách dễ làm." Pháp môn Tịnh độ khuyên người cầu sanh về Cực Lạc, tất cả hành nghiệp đều hồi hướng về cõi kia. Chỉ cần một lòng chuyên chú, thọ mạng đã dứt liền được vãng sanh về nước kia, được cứu kính thanh tịnh, đâu có thể nói đây không phải là pháp dễ làm ư!
Hỏi: Đã nói nguyện vãng sanh Tịnh Độ, thọ mạng vừa dứt liền được vãng sanh, điều ấy có kinh giáo nào làm bằng chứng?
Đáp: Xin dẫn 7 thứ Kinh Luận để xác minh điều đó.
Kinh Đại A Di Đà Phật dạy: "Này A Nan! Nếu có chúng sanh muốn được hiện đời thấy được Phật Vô Lượng Thọ, nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành các công đức, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sanh. Có bài tụng rằng:
“Nếu nghe đức hiệu A Di Đà
Hoan hỉ tán ngưỡng lòng nương về
Cho đến một niệm được lợi lớn
Là vì có được châu công đức.
Dù đầy đại thiên lửa cháy lớn
Cũng phải đi đến nghe Phật danh
Nghe A Di Đà chẳng lui sụt
Cho nên một lòng chí thành lễ".
Quán Kinh dạy: "Trong chín phẩm, phẩm nào hành giả lâm chung chánh niệm, liền được vãng sanh."
Luận Khởi Tín nói: "Dạy các chúng sanh khuyên quán chơn như thật tướng bình đẳng, cũng có Bồ Tát mới phát tâm, trong lòng mềm yếu, tự nói mình không thể thường gặp chư Phật trực tiếp cúng dường, trong lòng muốn lui sụt. Nên biết, đức Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hộ lòng tin, dạy phải chuyên lòng niệm Phật, nhờ nhơn duyên đó, theo nguyện vãng sanh, vì thường gặp Phật, nên xa lìa đường ác."
Kinh Cổ Âm Đà La Ni nói: "Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng: Ta sẽ vì các ông mà diễn nói thế giới An Lạc ở phương Tây, hiện nay có Phật hiệu A Di Đà, nếu Tứ chúng có thể thọ trì danh hiệu Phật kia, giữ chắc trong lòng, nhớ tưởng không quên, trong 10 ngày 10 đêm trừ bỏ tán loạn, siêng năng tu tập niệm Phật tam muội. Nếu có thể làm cho mỗi niệm tiếp nối không dứt, trong 10 ngày chắc được thấy đức Phật A Di Đà liền được vãng sanh."
Kinh Pháp Cổ nói: "Nếu người khi lâm chung, không thể niệm Phật, chỉ biết hướng kia có Phật ý muốn vãng sanh, cũng được vãng sanh.”
Kinh Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sanh nói: "Nếu có người đã lâm chung, hoặc chết đọa vào địa ngục. Quyến thuộc trong gia đình vì người mất mà niệm Phật, hoặc chuyển tụng cầu phước, người mất có thể ra khỏi địa ngục vãng sanh Tịnh độ. Huống chi người ấy hiện tại tự có thể tu niệm làm sao không được vãng sanh.
Kinh Đại Pháp Cổ nói: "Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhơn nào thường hay buộc ý xưng niệm danh hiệu Chư Phật, thì mười phương chư Phật và tất cả Hiền Thánh thường thấy người này như luôn hiện trước mặt, nên biết người này tùy theo ý nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ trong 10 phương."
Kinh Đại Bi nói: "Vì sao gọi là đại bi? Nếu người chuyên niệm danh hiệu Phật không gián đoạn, người ấy mạng chung chắc sanh về cõi An Lạc. Nếu có thể lần lượt khuyên người cùng nhau niệm Phật, người ấy được gọi là người đại bi."
Kinh Niết Bàn nói: “Phật bảo này Đại Vương! Giả sử nhà vua cứ mỗi nửa tháng, mở tất cả kho lớn đem bố thí cho tất cả chúng sanh, chỗ được công đức đó không bằng có người xưng danh hiệu Phật một lời, công đức người này hơn người kia không thể so lường."
Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: "Này A Nan! Có người cúng dường y phục, ngọa cụ, y dược cho chúng sanh khắp cõi Diêm Phù Đề này, công đức người ấy có nhiều chăng? A Nan thưa: Bạch Thế Tôn rất nhiều không thể kể xiết. Phật bảo: Này A Nan! Nếu có chúng sanh tâm lành tiếp nối xưng danh hiệu Phật nhỏ bằng hạt sửa, công đức người ấy hơn kẻ bố thí kia không thể so lường."
Kinh Đại Phẩm nói: "Nếu người tâm tán loạn niệm Phật cũng được dứt khổ, phước đức không thể kể hết. Nếu người dâng hoa cúng Phật niệm Phật, cũng dứt hết khổ, phước đức không thể kể hết. Nên biết niệm Phật lợi ích rất lớn, không thể nghĩ bàn." 2. So sánh Thiền quán khuyên nguyện vãng sanh.
Cõi này là cảnh uế ác loạn tưởng nên tu thiền quán khó được, dù có tu được cũng chỉ có định về sự, vui nhiều thêm nhiễm. Nếu có thể dẹp được hoặc nghiệp thì quả báo được sanh về các cõi trời, tuổi thọ hết rồi phần nhiều lui sụt. Nên Trí Độ Luận nói: "Thiền đa văn trì giới, chưa được pháp vô lậu, tuy có được công đức, việc này chưa tin được, nếu muốn hướng Tây tu tập, cảnh tu sáng sạch, quán định dễ thành, trừ tội nhiều kiếp, chỗ định mau tới, rốt ráo thanh lương, như kinh đã nói."
Hỏi: Nếu Tây Phương cảnh giới thù thắng, có thể cảm được việc tu thiền, cõi này cảnh giới kém, không nên tu thiền định phải không?
Đáp: Nếu luận về cái nhơn tu định thì gồm cả cõi này và cõi kia. Nhưng cõi kia mọi người đều ở vị chẳng lui sụt và có sức Phật gia trì cho nên gọi là cảnh thù thắng. Còn cõi này có thể tu định, chỉ có sự cố gắng tu tập của chính mình, không nhờ ai giúp đở, khi nghiệp duyên đã tận, khó khỏi bị thối lui. Cần phải cẩn thận. 3. So sánh lậu và vô lậu.
Căn cứ vào 2 cảnh tịnh và uế để xét xem cảnh nào lậu và cảnh nào vô lậu. Cảnh giới cõi này chỉ có 3 đường gò nổng, núi khe, cát đất, gai gốc, nước lụt, hạn hán, gió cuốn, nước trôi, lôi điện nổ vang, cọp sói độc thú, giặc dữ, con ngỗ nghịch, hoang loạn phá tán, ba tai bại hoại. Nếu nói về chánh báo của cảnh này là ba độc, tám điên đảo. Lo buồn, hờn giận, nhiều bệnh, vắn số, đói khát, nóng nhiệt, thường bị quỷ ma theo đuổi làm hại, rất nhiều việc ô uế xấu xa, nên gọi là lậu, thật rất nhàm chán. Người vãng sanh về Cực Lạc được gọi là cảnh giới thù thắng. Đại Kinh nói: "Nhơn thiên trong mười phương được vãng sanh về cõi kia đều được lợi ích. Vì sao? Vì được sanh về nước kia, khi đi có sen vàng đở gót, ngồi có bảo tọa dựa thân, ra ngoài có Đế Thích dẫn đường, đi vào có Phạm Vương nối gót, tất cả thánh chúng cùng ta làm bạn, Phật A Di Đà là bổn sư, dưới cây trong rừng tới lui tùy thích, ao bát công đức mặc tình tắm gội, thân màu vàng ròng, sống lâu bằng Phật, học thời các môn tiến tới, dừng thời hai đế dung thông, mười phương qua lại dùng đại thần thông, ngồi yên tạm thời vào 3 môn giải thoát, dạo chơi trên đường Bát Chánh, chỗ đến là Đại Niết Bàn. Tất cả chúng sanh đã đến cõi kia đều có đủ lợi ích. Vì sao không quyết mau đến cõi kia? 4. Dẫn Kinh giáo.
Kinh Quán Phật Tam Muội nói: "Lúc ấy, có chư Phật mười phương mỗi vị kiết già yên ngồi trên đài hoa hiện trên hư không. Như Lai Thiện Đức thưa Đại Chúng rằng, tất cả nên biết, ta nhớ vô lượng đời quá khứ, có đức Phật tên Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai, Đức Như Lai kia ra đời nói pháp Tam Thừa cũng như ngày nay. Sau khi Đức Phật kia diệt độ, có một Tỳ kheo thâu 9 đệ tử, đến lễ bái Phật tháp. Lễ đến một tượng Phật thấy tướng hảo quang minh có thể quán. Quán rồi kỉnh lễ, mắt thấy rõ chắc, mỗi người nói một bài kệ để tán thán. Các vị này lần lượt mạng chung, khi mạng chung rồi sanh ra trước Phật từ đấy về sau hằng được gặp Phật vô lượng, ở chỗ chư Phật, rộng tu phạm hạnh, được Niệm Phật Tam Muội. Được Tam muội rồi chư Phật hiện tiền cùng thọ ký cho, ở khắp mười phương, tùy ý thành Phật. Phương Đông có Phật Thiện Đức chính là thân ta, còn chín phương khác vốn xưa là đệ tử của ta. Các Đức Thế Tôn ở mười phương do lễ tháp dùng kệ khen ngợi mà được thành Phật. Trong lúc ấy, mười đức Như Lai ở mười phương, phóng ánh sáng lớn, hiển thị sắc thân bạch hào tướng quan, mỗi vị đều đến ngồi bên Phật Thích Ca, bảo với A Nan rằng: "Ông nên biết Đức Thích Ca Văn Phật, đã nhiều đời tinh tấn, trăm ngàn kiếp khổ hạnh cầu Trí Huệ Phật mới được báo thân tốt đẹp này. Nay ta vì ông mà nói, ông đem lời này nói lại cho Tứ chúng đệ tử của Phật thời vị lai, giảng nói về quán tướng hảo Phật và niệm Phật tam muội. Sau khi nói lời ấy rồi, thập phương Phật đến vấn an Phật Thích Ca Văn rồi trở về nước mình." Chương Sáu
Chương này nhằm khai triển 2 chủ điểm là so sánh Tịnh Độ ở mười phương và luận về sự trụ và diệt của các kinh. 1. So sánh tịnh độ ở 10 phương.
Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh nói: "Cõi nước Chư Phật trong 10 phương đều rất nghiêm tịnh, tùy theo bản nguyện đều được vãng sanh, tuy vậy tất cả tịnh độ đều không bằng quốc độ Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ ở Phương Tây, vì Đức Phật A Di Đà cùng Quan Âm và Đại Thế Chí, khi mới phát tâm, từ cõi này mà đến cõi kia, vì thế các Ngài có đại duyên với chúng sanh cõi này. Vì thế, Đức Thích Ca Mâu Ni mỗi chỗ, mỗi thời đều khen ngợi chỉ về.
Kinh Đại A Di Đà nói: "Bồ tát Pháp Tạng trong lúc tu nhơn ở trước Phật Thế Tự Tại Vương, phát lời hoằng nguyện độ chúng sanh, xây dựng Tịnh độ, nhiếp thủ chúng sanh. Đức Phật Thế Tự Tại Vương vì Bồ tát hiện 210 ức cõi Tịnh độ, tất cả người trời thiện ác, quốc độ thô, tịnh đều hiện ra hết. Lúc ấy, Bồ tát Phát Tạng nguyện xây dựng cõi Cực lạc ở Tây phương tiếp dẫn chúng sanh và nay đã thành Phật ở đó.
Trong Quán Kinh: "Phu Nhơn Vi Đề Hy xin vãng sanh về Tịnh độ. Trong Quang đài của Đức Thế Tôn hiện tất cả Tịnh độ trong 10 phương. Phu nhơn Vi Đề Hy bạch Phật: Tuy các cõi này đều thanh tịnh và có ánh sáng, con nay muốn sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà." Qua những dẫn trên cho biết trong các cõi Tịnh độ, thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà là thù thắng hơn cả.
Hỏi: Vì sao người niệm Phật phải mặt hướng về Tây trong khi tọa thiền, lễ niệm, hoặc quán tưởng?
Đáp: Cõi Diêm Phù Đề thường nói: "Mặt nhật mọc gọi là sống, mặt trời lặn gọi là chết". Trong sanh tử thì giai đoạn tử là giai đoạn lo sợ và đau khổ nhất, cho nên Bồ tát Pháp Tạng nguyện thành Phật tại hướng Tây, vì lòng thương to lớn muốn tiếp dẫn chúng sanh. Khi ngồi quán, lễ niệm, mặt hướng về Tây là Phật A Di Đà nguyện tiếp dẫn không thôi nghỉ, hằng đưa tay tiếp dẫn chúng sanh về như mẹ đưa tay dắt con về quê, theo lễ nghi con phải hướng về mẹ. Nếu là bậc Thánh thì phương hướng không trở ngại, còn phàm phu thì thân tâm cùng hướng, nếu thân hướng phương khác, tâm muốn về Tây việc vãng sanh rất khó. Nên Luận Trí Độ nói: "Có một thầy Tỳ kheo lúc sinh tiền, tụng kinh A Di Đà và niệm Bát Nhã Ba La Mật, khi sắp lâm chung bảo đệ tử rằng: "Phật A Di Đà và Thánh Chúng hiện ra trước mặt ta, nói rồi chấp tay niệm Phật, chốc lát bỏ báo thân. Các đệ tử y pháp trà tỳ, khi lửa đã tắt, tất cả toàn thân cháy hết, chỉ còn lưỡi và cuốn lưỡi nguyên vẹn và tươi như lúc sống. Toàn thể đệ tử xây tháp cúng dường."
Bồ Tát Long Thọ trong Thích Luận nói: "Tụng Kinh A Di Đà nên lâm chung Phật rước, niệm Bát Nhã Ba La Mật nên lưỡi vẫn còn tươi". Qua đoạn văn trên chứng minh, nên biết tất cả hành nghiệp, chỉ hết lòng hồi hướng thì không có hạnh nào là chẳng được vãng sanh." 2. Sự trụ và diệt của các kinh.
Kinh từ kim khẩu Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra được chia làm 3 thời kỳ, năm trăm năm đầu từ khi Đức Phật thành Đạo gọi là thời kỳ Chánh Pháp, một ngàn năm kế tiếp theo đó gọi là thời Tượng Pháp, một muôn năm sau đó gọi là thời Mạt Pháp, sau thời kỳ đó các kinh lần bị diệt, Đức Như Lai thương xót chúng sanh bị thống khổ, đặc biệt lưu lại Đại Kinh này còn trụ ở đời 100 năm. Qua chứng minh trên cho biết cõi Tịnh độ kia tuy là hoàn toàn thanh tịnh nhưng thể chung cho các bậc thượng, hạ, người biết tướng là không tướng sanh về phẩm thượng, phàm phu ở nhà lửa một lòng niệm Phật vẫn được vãng sanh vào phẩm hạ. Chương Bảy
Chương này giải quyết vấn đề triền phược, giải thoát và dụng công tu có nặng nhẹ. 1. Vấn đề triền phược giải thoát.
Nếu người giữ tịnh tướng của Tây phương thì mau giải thoát, thuần nhận các điều vui, trí nhãn sáng tỏ, trái lại, người giữ uế tướng chỉ có vọng tưởng mê mờ, tai ách trói buộc thêm nhiều lo sợ.
Hỏi: Y theo kinh Đại Thừa đều nói vô tướng là đường cốt yếu cho việc xa lìa, chấp tướng trói buộc không khỏi lụy theo tình trần nay khuyên chúng sanh bỏ uế ưa tịnh là nghĩa thế nào?
Đáp: Nghĩa ấy chẳng định. Vì sao? Vì tướng có 2 thứ:
a- Đối với tướng dục cảnh của ngũ trần, mê vọng ái nhiễm, theo cảnh chấp trước, các tướng ấy gọi là tướng trói buộc.
b- Ưa thích công đức Phật, nguyện sanh về tịnh độ, tuy nói là tướng nhưng là tướng giải thoát. Vì sao biết được? Trong kinh Thập Địa nói: "Hàng Bồ tát Sơ địa, tự mình riêng quán hai đế, chăm lòng tác ý, trước y tướng mà cầu, rốt cuộc tướng trở thành vô tướng, vì lần lần tăng tâm thể Đại Bồ Đề. Đến mãn Thất địa, chung tâm và tướng tâm mới dứt, vào thẳng Bát địa không còn cầu ở tướng nữa, mới gọi là công dụng. Vì thế, Thất địa về trước ác tham chướng, dùng tướng thiện tham để trị, từ Bát địa sắp lên thiện tham là chướng thì không còn tham gì để trị." Đó là Bậc Thánh huống là người cầu sanh Tịnh Độ là ngoại phàm, chỗ tạo ra căn lành đều từ yêu thích công đức Phật mà sanh đâu gọi là triền phược.
Kinh Niết Bàn nói: "Tất cả chúng sanh có hai thứ ái là thiện ái và bất thiện ái. Cầu thiện ái pháp là việc cầu của các vị Bồ tát, cầu bất thiện ái chỉ có hàng phàm phu ngu dốt cầu đó."
Trong Tịnh Độ Luận nói: "Quán quốc độ Phật là vị thanh tịnh, nhiếp thọ chúng sanh là vị đại thừa, phát khởi hạnh nguyện vãng sanh là vị cõi Phật. Các vị Phật đạo có vô lượng như thế nên tuy chấp tướng không phải là sự trói buộc. Cõi Tịnh độ kia chỗ nói tướng chính là tướng vô lậu, là tướng của thật tướng vậy. 2. Dụng công tu có nặng nhẹ.
Nếu muốn phát tâm vãng sanh về Tây Phương, phải dùng thời giờ để lễ, quán, niệm, tùy theo cuộc sống có ngắn dài khi mạng chung thì ánh sáng, đài hoa đến nghinh tiếp về đến cõi kia, chứng vị Bất thối, nên Đại Kinh nói: "Nhơn thiên trong 10 phương sanh về nước tôi, nếu không rốt ráo được thành Phật, còn bị thối chuyển thì tôi không ở ngôi chánh giác." Ở cõi này hành giả phải dùng nhiều thì giờ tu đủ các hạnh của Bồ tát như thí, giới, nhẩn, tấn, định, huệ chưa mãn một muôn kiếp, thường không thoát khỏi nhà lửa, thường bị điên đảo mê lầm sa đọa, nên gọi dụng công rất nhiều mà được quả báo rất ít. Đại kinh cũng nói: "Sanh về nước ta là vượt ra khỏi năm ác thú cõi Ta bà.” Nay đem so sánh với cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà thì cõi Ta Bà năm đường đều gọi là ác thú. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thuần tạo nghiệp ác, bị quả báo ác nên gọi là ác thú. Nhơn, thiên cõi Ta bà hướng về tạp nghiệp cũng gọi là ác thú.
Nếu y theo cõi này tu, trước đoạn trừ kiến hoặc, lìa được nhơn tam đồ, diệt được quả tam đồ. Kế đó đoạn tư hoặc, lìa cái nhơn trời người, dứt được quả của trời người, cứ như thế mà lần lượt đoạn trừ không thể gọi đục ngang ra, như con mọt muốn ra khỏi cây phải đục lần lượt từ dưới lên chót mới ra khỏi. Nếu được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà thì năm đường đồng thời thoát khỏi nên gọi là đục ngang, như con mọt đục ngang ra khỏi vỏ tre là thoát. Người tu theo Thánh Đạo phải trải qua 52 vị, như con mọt phải đục 52 mắt tre mới ra ngoài, nên thời gian rất dài, gọi là 3 A Tăng Kỳ Kiếp. Nếu người tác ý hồi nguyện Tây Phương, nếu dài lắm trọn một đời, ngắn lắm chỉ cần 10 niệm liền được vãng sanh đến cõi kia rồi liền vào chánh định tụ, ở vị bất thối chuyển, so với người tu Thánh đạo công bằng một muôn kiếp. So sánh như thế để chúng ta thấy con đường tu nào chậm, mau, khó, dễ thật rõ ràng. Chương Tám
Chương này nhằm giải quyết ba chủ đề chính là căn cứ vào các kinh, khuyên bỏ đây ưa kia, năng lực độ khắp của Phật A Di Đà và giải thích ý vãng sanh. 1. Căn cứ vào các kinh khuyên bỏ đây ưa kia.
Tất cả kinh điển Đại thừa đều khuyên bỏ đây ưa kia, đặc biệt nhất ở núi Kỳ Xà Quật, Phật vì phu nhân Vi Đề Hy mà nói Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, khuyên các hàng thượng thiện đến kẻ nghịch ác đều nguyện vãng sanh về Cực lạc. Bỏ cõi uế Ta Bà sanh về cõi Tịnh Độ. Kế đó, Phật nói Quán Vô Lượng Thọ Kinh và A Di Đà Kinh cũng đều khuyên bỏ cõi này sanh về cõi kia. Ở Hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Đại Bồ Tát phát 10 Đại nguyện, khuyên hải chúng Hoa Tạng vãng sanh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí trình phương pháp niệm Phật viên thông, khuyên mọi người cầu vãng sanh. Đồng thời có các kinh như Kinh Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sanh, Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng giác, Kinh Thập Vãng Sanh. Riêng các luận thì khuyên bỏ đây về kia rất nhiều như luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa, Luận Đại Thừa Khởi tín, Luận Vãng Sanh rất nhiều không thể kể xiết. Như thế, ý hướng bỏ cõi uế Ta Bà, cầu sanh về cõi tịnh Tây Phương là xu hướng lớn của kinh Luận Đại Thừa. 2. Năng lực độ khắp của Phật A Di Đà.
Các đức Như Lai đều có đầy đủ năng lực và diệu dụng độ sanh, nhưng tùy theo bản nguyện mà các Ngài có khi phát huy hoặc không phát huy năng lực độ sanh. Như ngày xưa trong Tỳ Xá Ly Quốc, nhân dân gặp năm thứ ác bịnh, đến cầu xin Phật ra tay cứu độ. Lúc ấy Đức Thích Ca Mâu Ni khởi vô lượng bi mẫn bảo các người bệnh rằng: "Ở Tây phương có Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Âm, Bồ Tát Thế Chí là bậc đại y vương. Vì vậy, các ông phải một lòng chấp tay cầu thấy Phật A Di Đà sẽ được cứu độ.” Lúc bấy giờ, Phật A Di Đà phóng ánh sáng lớn, Bồ tát Quan Âm và Thế Chí đồng đến. Nói đại thần chú, tất cả bệnh khổ đều tiêu trừ.
Thần lực các đức Như Lai đều bằng nhau không hơn kém, đức Thích Ca muốn hạ bớt khả năng của mình để hiển bày khả năng của Phật A Di Đà. Vì muốn cho tất cả mọi người đều cùng hướng về. Nên Pháp sư Đàm Loan có làm bài kệ khen tán:
Chúng Bồ tát Thanh văn cõi An lạc
Người trời trí huệ đều đổng triệt
Thân tướng trang nghiêm đẹp lạ thường
Thuận theo chúng sanh mà lập tên
Dung nhan đoan chánh không thể sanh
Thân tướng vi diệu khác trời người
Thân chất hư vô không cực thể
Nên con quy mạng về đảnh lễ.
Hỏi: Người nguyện sanh về Tịnh độ không biết có dụng ý gì?
Đáp: Chỉ muốn mau thành Phật đạo, công hạnh tự lợi lợi tha viên mãn, nhiếp thọ chánh pháp, khế hợp tánh bất nhị, chứng được Phật tánh, thấu rõ thật tướng, quán sát tự tâm bao gồm Tam đế, Kim Cang vô ngại, chứng Đại Niết Bàn. Dùng lòng Đại bi trở lại biển sanh tử độ thoát vô lượng chúng sanh không có hạn lượng.
Hỏi: Nguyện sanh Tịnh độ là muốn cứu độ chúng sanh, chỉ nên ở cõi này cứu khổ, vì sao nguyện sanh tịnh độ giống như bỏ chúng sanh ưa vui tịnh độ?
Đáp: Nghĩa ấy không đúng. Như Luận Trí Độ nói: "Như có 2 người con đều thấy cha mẹ rớt ở nguồn sâu, một người chạy thẳng đến dùng hết năng lực để cứu lên, vì không đủ sức nên tất cả đều chết chìm. Một người con khác chạy tìm một chiếc thuyền, chèo đến vớt lên, tất cả đều được khỏi nạn." Bồ tát cũng thế, khi chưa phát tâm, vẫn bị lưu chuyển trong sanh tử như chúng sanh không khác. Nhưng khi phát tâm Bồ đề rồi, trước nguyện vãng sanh Tịnh độ, chèo thuyền Đại bi, có vô ngại biện tài, vào bể sanh tử, cứu vớt chúng sanh.
Trong Luận Đại Trí Độ cùng nói: "Bồ tát sanh Tịnh độ đủ đại thần thông, biện tài vô ngại. Khi giáo hóa chúng sanh, còn không đủ khả năng làm họ tăng thiện diệt ác, tăng đạo tấn vị đúng với ý của Bồ tát, huống chi ở cõi uế nầy cứu tế chúng sanh sẽ không có lợi ích mong muốn. Giống như bắt gà bỏ vào nước đâu khỏi không bị ướt."
Đại Kinh có bài tán rằng:
Các vị Bồ tát cõi An Lạc
Tự do tuyên thuyết toàn trí huệ
Nghe rồi vạn vật quên ngã sở
Sạch tợ hoa sen chẳng nhiễm trần
Qua lại tới lui vận thuyền từ
Đem nhiều lợi ích thoát biển khổ.
Các Ngài chứng không dứt 2 tưởng
Đem đuốc trí huệ chiếu đêm dài,
Ba minh, sáu thông đều đã đủ
Bồ tát vạn hạnh quán tâm nhãn
Công Đức như thế thật vô biên
Cho nên con nay nguyền được về. Chương Chín
Chương này nhằm giải quyết hai chủ điểm là khổ và lạc tương đối; tuổi thọ dài ngắn. 1. Khổ và lạc đối nhau.
Xét về khổ và vui. Chúng ta thấy người ở cõi Ta Bà tuy có quả báo khổ và vui, nhưng thường khổ rất nhiều mà vui rất ít. Nặng như bị đọa vào ba đường, chịu đốt, chịu đau. Nhẹ như người trời thì đao binh, tật bệnh liên tục trói thân, vô số kiếp trước sau không bao giờ dứt. Dù có người ở cõi trời, việc vui qua nhanh như điện chớp như bóng bọt. vừa khởi liền diệt, nên gọi cõi Ta Bà này chỉ có khổ. Còn cõi Tịnh lạc của Phật A Di Đà, nước cây chim rừng thường diễn pháp âm, diễn bày ý đạo, đầy đủ rõ ràng, có thể làm hành giả ngộ nhập vào tri kiến Phật.
Trong Tịnh độ luận nói: "Người trời 10 phương sanh về nước kia, vị ngang với Tịnh Tâm Bồ Tát không khác. Bồ tát Tịnh Tâm chính là Bồ Tát Địa Thượng, vị đồng Đẳng giác, được nhẫn Tịnh diệt, vị bất thối chuyển. Trong 48 nguyện ở Đại Kinh nói: "Người sanh về nước tôi có năm điều đại lợi ích: 1- Nếu có nhơn thiên trong 10 phương sanh về nước tôi không được thân sắc vàng ròng thì tôi không ở ngôi chánh giác. 2- Nếu có nhơn thiên trong 10 phương sanh về nước tôi, mà hình sắc thân thể không đồng thì không ở ngôi chánh giác. 3- Nhơn thiên10 phương sanh về nước tôi, không được túc mệnh thông, nhẫn đến không biết được mọi việc trong trăm ngàn ức Na do tha kiếp thời tôi không ở ngôi chánh giác. 4- Nhơn thiên 10 phương sanh về nước tôi, không được thiên nhỉ thông, cho đến không nghe chư Phật thuyết pháp trăm nghìn ức na do tha nói và thông thạo lời đầy đủ thời tôi không ở ngôi chánh giác. 5- Nhơn thiên trong 10 phương sanh về nước tôi, không được tha tâm thông, cho đến không biết được tâm niệm chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha các cõi nước chư Phật thời tôi không ở ngôi chánh giác.
Sự đại an lạc lợi ích cõi Cực lạc không thể nói hết, người sanh về cõi ấy, được lợi ích không thể nghĩ bàn. Nên nói cõi Cực lạc chỉ có vui, có thiện, không khổ, không ác. 2. Tuổi thọ hai cõi có dài ngắn.
Luận về tuổi thọ ngắn dài. Cõi này thọ mạng dài lắm là một trăm năm. Thời gian trăm năm này phần nhiều chết non, ít người sống thọ, có người chưa được 50, có kẻ còn là đồng tử cũng bị mất mạng, chưa kể có kẻ chết ra khỏi bào thai. Vì sao vậy? Vì chúng sanh lúc tạo nhơn nhiều cách, nên thọ quả báo cũng nhiều cách, không đồng đều.
Kinh Niết Bàn dạy: "Khi tạo nghiệp đen tối, quả báo cũng đen tối, khi tạo nghiệp trắng trong, quả báo cũng trắng trong. Tất cả quả báo đều do tạo nghiệp tịnh hay uế."
Kinh Tịnh Độ Bồ Tát nói: "Người sống trăm tuổi, đêm đen đã chiếm 50 năm. Lúc nhỏ 15 năm chưa biết thiện ác, tuổi từ 80 trở về sau, cuộc sống hư liệt, toàn chịu cái khổ già chết. Trừ các việc kể trên, đời sống con người thực sự có 15 năm. Trong 15 năm đó, nếu hàng vua chúa quan quyền thì bức bách mọi mặt không có ngày yên. Nếu là quân nhân thì bị đánh giặc xa, giữ ngoài biên ải, có người bị giam ở lao ngục. Nếu người ở nhà bình thường thì việc tốt xấu trói buộc, thường không được vừa ý. Như thế, suy nghĩ kỹ ra, một kiếp có bao nhiêu thời gian yên ổn, có thể tu thiện nghiệp được. Thật đáng buồn thay!".
Kinh trên cũng nói: Con người sống trong thế gian, mỗi ngày đêm có 8 ức, bốn ngàn muôn niệm. Một niệm khởi ác là nhận một thân ác, 10 niệm ác có 10 niệm thân ác sanh ra, trăm niệm ác có trăm thân ác sanh ra. Một đời một chúng sanh niệm một trăm năm ác, ác sẽ đầy khắp các quốc độ ở mười phương thọ ác thân. Ác pháp đã vậy, thiện pháp cũng như thế. Một niệm khởi thiện là thọ thân thiện, một trăm niệm thiện thọ 100 thiện thân. Nếu 1 đời làm thiện, cũng được thiện thân đồng ba ngàn quốc độ. Nếu được năm năm hoặc mười năm niệm Phật A Di Đà, hoặc đến nhiều năm, sau đó sanh về nước Cực lạc liền được Tịnh độ pháp thân, nhiều hằng hà sa không thể nghĩ bàn.
Trước đã nói quốc độ cõi uế, mạng căn ngắn ngủi báo thân chẳng dài lâu. Nếu người sanh về cõi Cực Lạc Phật A Di Đà thọ mạng lâu xa không thể nghĩ bàn, trải qua trăm ngàn kiếp đồng tuổi thọ với Phật A Di Đà.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Phật bảo này Xá Lợi Phất! Đức Phật kia vì sao gọi là A Di Đà? Này Xá Lợi Phất! Mười phương trời người vãng sanh về nước kia sống lâu ức trăm ngàn kiếp đồng tuổi với Phật Vô Lượng Thọ nên gọi là A Di Đà. Vì vạy, các ông nên thấy lợi ích lớn như thế, mau nguyện vãng sanh."
Kinh Thiện Vương Hoàng đế nói: "Có người học đạo muốn vãng sanh về quốc độ Phật A Di Đà, nhớ niệm một ngày đêm hoặc hai ngày đêm, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy ngày đêm, khi mạng chung có 8 vị Bồ tát đến tiếp dẫn người ấy về cõi Tây Phương của Phật A Di Đà." Có bài tụng rằng
Có một chúng sanh về An Lạc
Có đủ cả Ba mươi hai tướng
Trí huệ đầy đủ vào Diệu pháp
Diễn bày chánh pháp không chướng ngại
Tùy căn lợi độn nhẫn thành tựu
Ba nhẫn cho đến bất khả thuyết
Túc mạng, ngũ thông thường tự tại
Tiến đến thành Phật khỏi nẽo ác.
Những người ở cõi trược ác kia
Về đây thị hiện Đại Mâu Ni
Sanh cõi An lạc lợi ích lớn
Vì vạy một lòng nguyện vãng sanh. Chương Mười
Chương này chỉ bày cách hồi hướng.
Pháp môn Tịnh độ mười phương chư Phật đều khen ngợi và khuyên chúng sanh nên nguyện vãng sanh về. Chư Bồ tát trong 10 phương đều nguyện vãng sanh. Người trời muốn lợi ích lớn đều cầu sanh về. Nên Đại kinh có bài tụng:
Thần lực A Di Đà vô cực
Chư Phật mười phương đều khen ngợi
Chư Phật hằng sa ở phương Đông
Vô số Bồ Tát đều nguyện đến!
Đồng để cúng dường nước An Lạc
Bồ tát, Thinh văn cùng Đại Chúng.
Nghe nhận kinh pháp lời dạy bảo
Chín phương các nơi đều hồi hướng.
Hồi hướng có nghĩa từ đây hướng đến kia như người tu tịnh nghiệp ở Ta Bà một lòng vãng sanh gọi là hồi đây hướng kia. Người tu Tịnh độ làm các công đức, hoặc tu tịnh nghiệp chánh nhơn hoặc tu tán thiện, nếu có lòng hồi hướng đều được vãng sanh. Vì thế, chúng ta thấy có người trọn đời tụng kinh Kim Cang không có niệm Phật, nhưng khi lâm chung được Phật đến rước là do sự hồi hướng này. Bởi vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mọi người đều có tâm nguyện thành Phật, nhưng chỗ tu hành nếu căn cứ vào thánh giáo, nếu chưa đủ một muôn kiếp, tức qua một A Tăng Kỳ kiếp là chưa ra khỏi nhà lửa, thoát hẳn luân hồi. Đức Thế Tôn vì thương xót hàng chúng sanh đang trầm luân, chịu vô cùng khổ sở, nên chỉ bày pháp môn Tịnh độ, khuyên hồi hướng Tây Phương sẽ được lợi ích.
Công năng hồi hướng gồm có 6 thứ:
a. Đem các nghiệp thiện tu tập hồi hướng vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. Đã đến nước kia liền được 6 thần thông trên thành Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh.
b. Hồi nhơn hướng quả là từ lúc gây nhơn đều hướng về một kết quả, như người gây nhơn tịnh nghiệp cõi Ta bà hướng về quả vô thượng vãng sanh Cực lạc.
c. Hồi hạ hướng thượng: Từ địa vị phàm phu nguyện sanh Tịnh độ để viên mãn Phật quả.
d. Hồi trì hướng tốc. Không theo các pháp tu chậm mà thẳng hướng về cách tu mau, như con mọt muốn vượt ra khỏi thân tre, không phải chậm chạp đục thủng 52 mắt tre mới ra ngoài, chỉ cần dùng phương tiện đục ngang thân tre là ra ngoài rất nhanh. Năm mươi ba mắt tre chỉ cho cách tu thông thường phải qua 3 A tăng kỳ kiếp mới thoát khỏi tam giới, người Niệm Phật chỉ cần một đời được vãng sanh là nhất sanh bổ xứ cho đến thành Phật.
e. Hồi thí chúng sanh lòng từ hướng thiện. Người tu niệm Phật vãng sanh Tịnh độ không phải ham vui mà muốn thành Phật trở lại độ sanh.
g. Trở lại độ sanh: Hành giả về Cực lạc rồi trở lại Ta Bà phân thân độ tất cả chúng sanh. Đại Kinh nói: “Có chúng sanh nào được sanh về nước ta, tự nhiên thắng tấn vượt qua các địa cho đến thành Phật.” Đại Kinh có bài tụng:
Thanh văn Bồ tát cõi an lạc,
Ở trong cõi này không so sánh,
Thế Tôn vô ngại đại biện tài,
Lập nhiều phương tiện để độ sanh.
Chỉ về cõi kia được an ổn,
Bao nhiêu cảnh giới khó sánh bằng,
Đều do nguyện lực Pháp Tạng thành,
Hết lòng đảnh lễ Đại Từ Tôn. Chương Mười Một
Nhằm giải thích về thiện tri thức và luận khi lâm chung tốt xấu. 1- Khuyên nương nhờ thiện tri thức.
Kinh Pháp Cú nói: "Bửu Minh Bồ Tát bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Thiện Tri Thức. Phật dạy: "Thiện Tri Thức là những người có thể giảng dạy pháp mầu nhiệm. Nói pháp không, vô tướng, vô nguyện, các pháp bình đẳng, không nghiệp, không báo, không nhơn, không quả, cứu kính như như, trụ nơi thật tế. Tuy vậy ở chỗ cứu kính không đó, bỗng nhiên kiến lập tất cả các pháp, đó là thiện tri thức. Thiện tri thức này là cha mẹ nuôi dưõng thân Bồ đề của các ông. Thiện tri thức là con mắt huệ, có thể thấy tất cả thiện ác. Thiện tri thức là thuyền từ lớn chở các ông qua khỏi biển sanh tử. Thiện tri thức là sợi dây kéo các ông ra khỏi sanh tử. Đặc biệt Thiện tri thức chơn chánh cần khuyên chúng sanh cầu sanh Tịnh Độ. Vì sao? Vì ở trong nhà lửa này, vì gặp toàn nghịch cảnh nên phần nhiều bị lui sụt không thể thoát ly. Cho nên, ông Xá Lợi Phất ở cõi này phát tâm tu Bồ Tát hạnh trải quá 60 kiếp, nhưng gặp ác tri thức xin cặp mắt để hủy hoại chơi, liền bị thối chuyển. Nên biết ở nhà lửa tu Bồ tát đạo vô cùng khó khăn. Nên đa số thiện tri thức đều khuyên phát nguyện vãng sanh Tây phương. Một khi được vãng sanh thì 3 học tự nhiên thắng tấn, muôn hạnh đều đầy đủ. Nên Đại kinh nói: "Tịnh độ Phật A Di Đà không tạo ác dù nhỏ bằng sợi tơ." 2- Người sau khi chết.
- Cõi này chúng sanh dương số tận đều phải theo hai nghiệp thiện ác dẫn đi thọ sanh, tiếp nối như vậy từ vô số kiếp đến nay chưa hề thoát khỏi.
- Nếu người sanh lòng tin quy hướng về Tịnh độ, dốc lòng niệm Phật, khi mạng chung Phật A Di Đà cùng Bồ Tát Quan Âm và Thánh Chúng, phóng quang nghênh tiếp, hành giả hoan hỉ chấp tay theo Phật, ngồi trên đài sen, giây lát đến cõi Cực lạc, hưởng vô lượng sự vui, cho đến thành Phật.
- Tất cả chúng sanh cõi này tạo nghiệp không đồng, có ba thứ thượng trung hạ nên phải đến Diêm Vương phán định.
- Nếu người có duyên tin Phật nguyện sanh tịnh độ, chỉ tu các công đức, hành nghiệp đều hồi hướng nguyện vãng sanh. Khi mạng sắp lâm chung Phật tự đến đón về lại cố hương.
Người sợ sanh tử nên suy gẫm lời khuyên này. Chương Mười Hai
Chương này nhằm khuyên vãng sanh.
Kinh Thập Vãng Sanh nói: "A Nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn tất cả chúng sanh phương pháp quán thân việc ấy thế nào? Xin Đức Thế Tôn vì con giảng nói. Phật bảo: Này A Nan! Nói về pháp quán thân là không quán Đông Tây Nam Bắc, không quán tứ vị thượng hạ, không quán hư không, không quán ngoại duyên, không quán nội duyên, không quán thân sắc, không quán sắc thinh, không quán sắc tượng, chỉ quán vô duyên (thật tướng) đó là pháp chánh quán chơn thân, trừ pháp quán thân này không có pháp nào khác mà được giải thoát. Phật lại bảo: A Nan! Người quán được thân (thật tướng) năng lực thiện tự nhiên khai phát chánh niệm tự nhiên giải thoát. Vì sao? Thí như có người tinh tấn trực tâm được giải thoát, những người như thế không cầu giải thoát mà giải thoát tự đến.
A Nan lại bạch Phật, bạch Thế Tôn, chúng sanh ở thế gian nếu có chánh niệm giải thoát, thì lẽ ra không đọa tam ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh phải không? Phật bảo: Này A Nan! Sở dĩ chúng sanh trong thế gian không được giải thoát là vì tất cả thực hiện của họ phần nhiều dối trá, không có chơn thật, không có chánh niệm, vì nhơn duyên đó mà phần nhiều vào địa ngục, số giải thoát rất ít. Như có người đối với cha mẹ, sư trưởng bên ngoài hiện vẽ hiếu thuận, trong lòng ôm những điều bất hiếu, ngoài hiện tinh tấn, trong ôm ấp điều dối trá chẳng thật, những người ác như thế, quả báo tuy chưa đến mà cách ba đường ác chẳng xa, không có chánh niệm, không thể giải thoát.
Này A Nan! ông nay lắng nghe, ta vì ông mà nói mười pháp vãng sanh, có thể giải thoát. Thế nào là 10 pháp?
1. Quán thân chánh niệm, lòng thường hoan hỉ đem các đồ ăn uống, y phục cúng dường Phật và Tăng, được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà.
2. Dùng tâm chánh niệm đem các thứ lương dược cúng dường bệnh Tỳ Kheo tăng và tất cả chúng sanh, được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà.
3. Dùng tâm chánh niệm không hại một sanh mạng, lòng từ bi đối với tất cả, được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà.
4. Dùng tâm chánh niệm, theo giới sư thọ giới, tịnh tu phạm hạnh, tâm thường hoan hỷ. Được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà.
5. Dùng tâm chánh niệm, hiếu thuận cha mẹ tôn thờ sư trưởng, không khởi lòng kiêu mạn, được sanh về cõi Phật A Di Đà.
6. Dùng tâm chánh niệm, cung kỉnh khi đến Tăng phòng, cung kỉnh khi vào tháp, chùa, lúc nghe pháp, hiểu đệ nhất nghĩa đế, được sanh về cõi Phật A Di Đà.
7. Dùng tâm chánh niệm, trong một ngày một đêm thọ trì bát quan trai giới, không phạm giới nào, được sanh về cõi Phật A Di Đà.
8. Dùng tâm chánh niệm, trong 1 tháng trai, ngày trai, xa lìa ngũ dục ân ái, thường đến học hỏi ở bậc thiện tri thức đạo xuất thế, được sanh về cõi Phật A Di Đà.
9. Dùng tâm chánh niệm, thường trì tịnh giới, siêng tu các pháp thiền định, tịnh ba nghiệp, được định không khoe khoang, nếu người tu hành như thế, được sanh về cõi Phật A Di Đà.
10. Dùng tâm chánh niệm, ở đạo Vô thượng không có lòng chê bai, tinh tấn trì tịnh giới, lại dạy cho người khác, cùng nhau lưu bố kinh điển này, dạy bảo vô lượng chúng sanh. Tất cả những người như thế được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà.
Lúc bấy giờ trong hội có Bồ Tát Sơn Hải Huệ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Cõi nước của Phật A Di Đà kia có những việc thù thắng diệu lạc gì mà tất cả chúng sanh đều nguyện vãng sanh về cõi kia? Phật bảo: Này Sơn Hải Huệ! Ông nên đứng dậy chấp tay, chánh thân hướng về Tây Phương, chánh niệm quán cõi nước và Phật A Di Đà, nguyện được thấy Phật A Di Đà. Lúc ấy tất cả Đại chúng cũng đều đứng dậy chấp tay, cùng quán Phật A Di Đà. Lúc ấy Phật A Di Đà hiện đại thần thông, phóng ánh sáng lớn, chiếu vào thân Bồ Tát Sơn Hải Huệ. Lúc ấy Bồ tát Sơn Hải Huệ cùng đại chúng liền thấy cõi nước của Phật A Di Đà, thấy rõ các việc hiện hảo trang nghiêm. Tất cả đều bằng 7 báu: núi bảy báu, quốc độ bảy báu, nước, chim, cây, rừng, thường nói pháp âm, cõi kia hằng ngày thường chuyển pháp luân. Cõi kia nhân dân không tập ngoại sự, chánh tập nội sự, miệng nói lời Phương Đẳng, tai nghe tiếng Phương đẳng, tâm hiểu nghĩa phương đăng.
Lúc ấy, Bồ Tát Sơn Hải Huệ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con đã thấy cõi Cực lạc có nhiều thắng diệu và lợi ích không thể nghĩ bàn. Con nay nguyện tất cả chúng sanh đều nên phát nguyện vãng sanh và chúng con cũng nguyện vãng sanh về cõi ấy. Phật thọ ký cho và nói: Chánh quán, chánh niệm, được chánh giải thoát, tất cả đều được sanh về cõi kia.
Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào có lòng tin chắc kinh này, ưa thích kinh này, dạy bảo chúng sanh cùng nói, cùng nghe đều được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. Nếu có những người như thế, từ ngày nay ta thường khiến 25 vị Đại Bồ tát hộ trì những người này, thường làm cho người này không có bệnh, không ưu não, nếu nhơn và phi nhơn không được tiện lợi đi đứng ngồi nằm, bất luận ngày đêm đều được an ổn.
Bồ tát Sơn Hải Huệ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Con nay lãnh thọ lời dạy không dám có chút nghi. Nhưng ở đời có nhiều chúng sanh bài báng kinh này, không tin kinh này như thế người ấy bị quả báo về sau thế nào? Phật dạy: Này Sơn Hải Huệ! Đời sau trong cõi Diêm Phù Đề nếu có hàng Tỳ kheo, Tỳ Kheo ni, hoặc xem, hoặc đọc tụng kinh này sanh lòng sân hận, ôm lòng chê bai. Do sự chê bai chánh pháp này, người ấy hiện thân bị các thứ bệnh nặng, các căn không đủ, đui điếc câm ngọng, ma quỷ dựa nhập, ngồi đứng không yên, cầu sống không được, cầu chết không được. Hoặc khi chết đọa vào địa ngục tám muôn kiếp chịu khổ não lớn. Trăm ngàn muôn kiếp chưa từng nghe được tên ăn uống, nhiều kiếp sau này sanh vào súc sanh làm thân trâu ngựa heo dê để người giết ăn thịt, chịu nhiều điều cực khổ. Dù được làm người, thường sanh vào chỗ hạ tiện, trăm ngàn muôn kiếp không được tự tại. Vĩnh viễn không được nghe danh tự Tam Bảo. Vì thế, người không trí và người không tin đừng nói kinh này!"
Kệ hồi hướng
Đức lưu thông tuyển tập.
Khắp thí cho tất cả,
Trước phát tâm Bồ đề,
Đồng hướng về Tịnh độ,
Đều cùng thành Phật Đạo.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.205.114 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.