IV - NGHI   
      THỨC VÀ LỄ GIÁO CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA   
      (Gihī   
      Pūjāsikkhāpadavidhī)
       Tỳ Kheo   
      DŨNG CHÍ   
       
      
      NGHI   
      THỨC VÀ LỄ GIÁO CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA  
       
      
      
      Trong gia đình, người   
      con phải chu toàn bổn phận, phải cư xử với mọi người   
      nhất là những bậc sinh thành, như cha mẹ, thế nào cho đúng   
      cách của một người con lễ giáo. Trong xã hội một người   
      công dân tốt phải hành xử sao cho vẹn toàn mọi bổn phận   
      trung quân ái quốc. Trong mọi lãnh vực chúng ta đều phải   
      theo đúng qui tắc, khuôn thước lễ giáo riêng, để hành theo   
      cho thành một người trọn vẹn. Xét về lãnh vực tôn giáo,   
      thì vấn đề lễ nghi đối với Phật tử chân chính rất   
      quan trọng, nếu người Phật tử biết tôn kính chư Tăng,   
      xử sự cho hợp lẽ đạo đúng nghi thức, lúc nào cũng vâng   
      lời và giữ đúng cương vị của mình thì mục đích cao thượng   
      mới đoạt thành. Mặt khác vui thích trong việc học đạo, làm   
      phước và dẫn dắt mọi người để có cùng chung một lý tưởng,   
      có thế trí tuệ ta mới phát sinh và mới có thế giữ vững   
      mức quân bình giữa cuộc sống tinh thần và vật chất hiện   
      tại. 
      Nói về nghi thức trong các   
      buổi lễ dành riêng cho tín đồ, ta nhận thấy hầu hết các   
      tôn giáo nhỏ lớn đều có. Nhưng khác hẳn các tôn giáo   
      ấy, đạo Phật có những nghi lễ thường thức rất giản   
      dị, bởi theo kim chỉ nam của đạo thì càng giản dị càng   
      tốt. Ðạo Phật không quan trọng hóa tha lực mà tin tưởng   
      ở tự lực, chỉ có tự lực mới tìm ra chơn lý. Sở dĩ có   
      một số nghi thức giản dị là vì để đáp ứng cho tinh   
      thần vị tha của người Phật tử, mà không ngoài chính tín   
      và bất vụ lợi. Chúng tôi xin tuần tự trình bày một cách   
      khiêm tốn những phần nghi thức và lễ giáo sau đây   
      
      I. PHẦN NGHI THỨC 
      
      NGHI LỄ QUY 
      Y 
      
      Lễ quy y theo Phật giáo   
      là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập   
      thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể   
      tổ chức tại gia, chùa chiền và bất cứ ngày giờ nào không   
      nhất định, lúc nào chúng ta muốn nương theo Tam Bảo, vui thích   
      và trong sạch để được trở thành một người Phật tử chơn   
      chánh. Trước hết chúng ta cung thỉnh một vị sư hay chư Tăng   
      đến dưới chân Phật đài, xin thọ phép quy y Phật, Pháp, Tăng.   
      Khi đối diện chư Tăng người quy y phải đọc bài quy y:   
      "Bạch hóa chư Ðại Ðức Tăng tôi là người thiểu trí   
      lầm lạc...", kế đó vị sư hướng dẫn người quy y học   
      theo câu lễ Phật, rồi tuần tự đọc lời nguyện quy y Tam   
      Bảo "Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Phật...".   
      Sau khi đã thọ phép quy y xong rồi, vị sư đại diện cho Tăng   
      Bảo sẽ hướng dẫn người quy y tụng theo lời thệ nguyện   
      thọ trì ngũ giới.   
      Cuối cùng vị sư giảng   
      giải sự lợi ích của sự nghiêm trì giới luật cũng như   
      khuyến khích Phật tử nên duy trì cho được trong sạch, vì   
      khi đã quy y thọ giới rồi là chúng ta đã trở nên một người   
      Thiện nam hoặc Tín nữ tức là con hoặc đệ tử Phật, thì   
      giới luật phải chấp nhận và nghiêm trì suốt đời, khi đã   
      giảng về sự lợi ích của giới luật xong, vị sư tụng bài   
      kinh phúc chúc cho tân đệ tử được dồi dào sức khỏe, tu   
      hành tinh tấn. Sau đó Phật tử đọc lên bài hồi hướng phước   
      báu phát sinh do lòng trong sạch của mình đến chúng sanh.   
      Nói đến một người   
      Phật tử đúng nghĩa trong Phật giáo, là người phải được   
      quy y và thọ giới trước Phật đài có chư Tăng chơn chánh   
      chứng minh. Vì đạo Phật quan niệm giới luật đóng vai một   
      vai trò rất quan trọng, cũng như lời răn dạy của cha mẹ   
      trong gia đình vậy. Trong Phật giáo, ngoài những giới luật mà   
      chư Tăng phải nghiêm trì, Ðức Phật còn lưu ý đến hàng   
      tại gia cư sĩ, cần có giới luật để duy trì và nhớ rằng   
      mình đã quy y Tam Bảo nên tuyệt đối thi hành giới cấm, khi   
      có sự sân hận, lòng muốn giết hại chúng sanh, thì giới   
      luật là giáo điều ngăn trở không cho chúng ta vi phạm, được   
      vậy tam quy mới bảo đảm và duy trì.   
      
      NGHI THỨC   
      LỄ BÁI TAM BẢO   
      
      Lễ bái Tam Bảo là một   
      nghi thức công phu sáng chiều ở tại chùa chiền, tư gia và   
      những nơi công cộng trong các buổi lễ Phật giáo. Dưới chân   
      Phật tổ hay trên lễ đài phải được trang hoàng theo nghi   
      thức Phật giáo chơn truyền, nghĩa là ta chỉ tôn thờ duy   
      nhất một tượng Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Những vật cúng dường   
      được bày trước tượng ảnh Phật tổ là hương, đèn và bông   
      hoa, ngoài ra chúng ta không nên dâng những vật thực để cúng   
      dường. 
      Trở lại vấn đề lễ   
      bái, trước hết chúng ta đảnh lễ 3 lần, rồi bắt đầu   
      tụng những bài kinh được phổ thông áp dụng như sau:   
      
        - Bài kinh dâng hoa cúng   
        Phật (Phạn, nghĩa).   
        - Lễ Phật (đọc 3 lần).   
        - Lễ bái Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng   
        (Phạn, nghĩa).   
        - Rải tâm từ bi   
        - Hồi hướng phước báu đến tất cả chúng sanh.  
       
      Trên đây là nghi thức   
      giản tiện nhất được phổ thông áp dụng khắp thế giới   
      theo Phật giáo Nam Tông và rất đúng theo chánh pháp.   
      
      NGHI LỄ   
      THỌ NGŨ GIỚI, BÁT QUAN TRAI GIỚI   
      
      Nghi thức thọ giới   
      của người cư sĩ chia làm hai phần:   
      a) Nghi thức được chưng   
      bày cho người Phật tử xin thọ trì ngũ giới, sự trang hoàng   
      và lễ vật rất giản dị, Phật tử khi thọ giới có vài điều   
      kiện nhu:   
      
        - Hết lòng thành kính   
        Tam Bảo.   
        - Tùy khả năng, mua sắm chút ít hương, hoa đến chùa cúng   
        dường Ðức Phật.   
        - Thành kính cung thỉnh chư Tăng đến trước Phật đài.   
       
      Ngũ giới người Phật   
      tử có thể thọ bất cứ lúc nào cũng được. Song theo thói   
      thường thì lễ thọ ngũ giới được bắt đầu vào trước   
      mọi cuộc lễ, những cuộc lễ ấy như: lễ cầu an, cầu siêu,   
      trai Tăng, thuyết pháp v.v... Bởi theo Phật giáo người Phật   
      tử trước khi làm việc gì phải nghĩ tới giới hạnh của mình,   
      vì vậy mà người Phật tử xin thọ trì giới hạnh cho trong   
      sạch khi bắt tay vào việc, để hòa điệu với thời gian công   
      tác phước thiện.   
      Người thọ giới cũng có   
      thể cung thỉnh chư Tăng về tư gia hành lễ. Phật tử khi   
      thọ trì ngũ giới nên đọc bài cung thỉnh chư Tăng truyền   
      giới: "Bạch hóa Chư Ðại Ðức Tăng, chúng con xin thọ   
      trì Tam quy và Ngũ giới....".   
      Ðiều cần yếu là họ phải thật tâm thệ nguyện trước   
      Tam Bảo có chư Tăng chứng minh, dù bất cứ hoàn cảnh nào,   
      hay gặp những biến cố tai hại đến đâu cũng nguyện một   
      lòng trung thành với lời nguyện.   
      b) Nghi thức thọ trì Bát   
      quan trai giới cũng tương tự như trên, Bát quan trai giới có   
      hai lối thọ trì:   
      
        - Phật tử nguyện   
        thọ trì Bát quan trai kỳ một tháng 8 ngày.   
        - Nguyện thọ bát quan trường, tức suốt đời gìn giữ Bát   
        quan trai hay còn gọi là trường trai.   
       
      Ðến ngày giới người   
      Phật tử khi thọ trì phải đọc bài xin thọ Bát quan trai   
      giới: "Bạch hóa chư Ðại Ðức Tăng, chúng con xin thọ trì Tam   
      quy và Bát quan trai giới...." Có điều bất cứ nghi lễ nào,   
      không chỉ lễ thọ giới, bao giờ cũng dành nơi danh dự cao ráo   
      cho chư Tăng an tọa, vì chư Tăng là một trong ngôi Tam Bảo,   
      chúng ta cần phải tôn kính.   
      
      NGHI THỨC   
      THỜ PHƯỢNG TẠI GIA   
      
      Ngày xưa người Việt   
      Nam ta tin tưởng rằng hình tượng Phật mà họ thờ phượng   
      đều có quyền năng ban bố phước lành, hành phạt con người.   
      Vì thế ông cha ta không dám cho thờ phượng hình ảnh Phật   
      tại tư gia, cho rằng nhà thế tục thường có bệnh hoạn, ô   
      uế, e có tội với đấng thiêng liêng.   
      Nhưng ngày nay khi Phật   
      tử học hỏi giáo lý cao siêu của nhà Phật được chu đáo   
      và sâu rộng, nên ta đã hiểu rõ thế nào là tội phước. Riêng   
      sự thờ phū ợng tại gia không có gì là trở ngại cả. Hình   
      tượng chỉ là những vật vô tri vô giác, không có gì gọi là   
      linh thiêng đáng sợ. Song, có sợ chăng là ở chổ kim ngôn quí   
      báu của Ngài được tôn kính đúng đắn hay không. Ta là   
      Phật tử con của Phật, tại tư gia có tôn thờ hình ảnh Ngài   
      là để những khi trong gia đình có chuyện gì, hay lo sợ, ngước   
      lên bàn thờ, ta nhìn thấy gương mặt từ bi của Ðức Phật   
      thì sự lo đó cũng bớt đi phần nào, cũng như những lúc ta   
      cảm thấy có gì hơi lỗi đạo, nói năng cộc cằn, chửi   
      rủa nhau hay đánh đập, âm mưu hãm hại kẻ khác là điều   
      không xứng đáng đối với người con Phật. Hằng ngày khi ra   
      vào ta nhìn thấy gương mặt từ bi vô lượng của Chí Tôn,   
      ta cũng cảm thấy biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, ta   
      sẽ không dám hành động những điều sai trái với lương tâm.   
      Cách thờ phượng thì ta   
      nên thiết lập bàn thờ Phật ngay giữa nhà, nơi danh dự và   
      trịnh trọng nhất, nơi ấy cũng phải cao ráo hơn các bàn   
      thờ tổ tiên. Trên bàn thờ chỉ được tôn thờ một vị Thích   
      Ca mà thôi, trước là một lư hương, bên cạnh là một bình   
      hoa, cùng hai chưn đèn nến là đủ. Nên lưu ý theo truyền   
      thống Phật giáo Nguyên Thủy không chấp nhận dùng chuông mõ,   
      vì vậy không cần thiết phải sắm những vật không hợp   
      lệ này.   
      
      LỄ SÁM   
      HỐI LỆ   
      
      Theo nghi thức Phật giáo   
      Nam Tông thì mỗi tháng có hai kỳ Sám hối, đó là ngày 14 và   
      30, nếu tháng thiếu thì 14 và 29. Ðây là một trong các phương   
      pháp Sám hối, nó có tác dụng nhắc nhở cho chư Phật tử   
      biết rõ điều nào là tội lỗi, điều nào nên tránh, điều   
      nào nên làm, và như thế nào để gìn giữ thân khẩu ý cho   
      trong sạch.   
      Lệ đọc lên bài Sám hối vào những 
      ngày nhất đinh như đã ghi ngày 14, 29 hay 30, thì chỉ có ở Phật giáo 
      Nguyên Thủy Việt Nam mà thôi, chứ các nước Nam tông khác thì không có lễ 
      này. Phật tử thay vào đó những ngày giới Bát quan, những ngày bát giới rất 
      quan trọng đối với các hàng tín đồ Phật giáo thế giới. Phật tử vào những 
      ngày ấy thường mang vật thực đến chùa, làm lễ trai Tăng và sống suốt thời 
      gian nghiêm trì bát giới 24 tiếng đồng hồ tại chùa.   
      Như vậy, nghi lễ sám   
      hối ta có sai chơn truyền chánh pháp hay không? Xin thưa là hoàn   
      toàn không sai, có lẽ quí Ngài truyền giáo nghĩ rằng trong   
      những ngày trên là ngày sám hối và làm lễ Phát lồ của chư   
      Tăng có trong kinh Luật. Thế thì thiết tưởng ngày sám hối,   
      để Phật tử tại gia có dịp chính mình thốt lên bằng   
      khẩu trước Phật đài lời sám hối tội lỗi. Cũng nhờ cơ   
      hội như thế để Phật tử tập họp đến chùa nghe kinh thính   
      pháp hầu sớm lãnh hội được chơn lý.   
      Còn vấn đề sám hối có   
      hết tội hay không là còn tùy ở sự ăn năn hối lỗi của   
      đương sự. Nếu chúng ta hối hận và làm lành trở lại thì   
      đó cũng là một phương pháp giúp ta không tái phạm nữa.   
      Nghi thức lễ sám hối   
      thì chẳng có chi rườm rà cả, trong những ngày kể trên, sau   
      khi lễ Phật quí Phật tử chỉ cần đọc bài sám hối và   
      nguyện từ nay sẽ không dể duôi để bị tái phạm những điều   
      tội lỗi (nếu có).   
      
      NGHI LỄ   
      THUYẾT PHÁP   
      
      Theo Phật giáo thì sự   
      hoằng pháp độ sanh là một vấn đề tối cần cho nền đạo   
      giáo. Có sự thuyết pháp giảng đạo thì quảng đại quần   
      chúng mới được hấp thụ giáo lý từ bi vô lượng của nhà   
      Phật. Nên các Giáo hội Phật giáo đã và đang đặt vấn đề   
      phổ biến giáo lý được phổ cập khắp nơi, khuyến khích   
      mọi người Phật tử ý thức việc thuyết pháp giảng đạo   
      là một trong những điều trọng yếu để phổ biến và sự   
      hiểu được phước báu của việc truyền bá Phật pháp.   
      Nên muốn được thông   
      hiểu dồi dào trí tuệ, người Phật tử trước hết cần   
      phải có sự tôn kính Pháp Bảo. Khi tổ chức thuyết pháp ta   
      cần trang hoàng nơi pháp tọa được cao ráo, sau đó tuần   
      tự những nghi thức chúng ta phải thực hiện như:   
      
        - Khi thỉnh Pháp sư an   
        tọa, Phật tử đảnh lễ 3 lần.   
        - Ðọc bài xin thọ trì tam quy ngũ giới hay Bát quan trai   
        giới. 
        - Khi Pháp sư đã truyền giới xong, chư Phật tử đọc bài   
        cung thỉnh Pháp sư.   
        - Khi Pháp sư thuyết pháp xong Phật tử đọc sám hối   
        Phật, Pháp, Tăng, vì e thân, khẩu, ý, bất tịnh trong khi   
        nghe pháp.   
        - Kế đến Pháp sư phúc chúc, sau khi xong chư Phật tử hồi   
        hướng phước báu đến các bậc ân nhân và tất cả chúng   
        sanh. 
       
      Trên đây là nghi thức   
      rất giản dị, song người Phật tử cũng cần phải thông   
      hiểu. Chúng tôi hy vọng rằng dù sao cũng giúp ích quý vị   
      một vài ý niệm về nghi lễ truyền đạo theo nhà Phật.   
      
      NGHI LỄ 
      NHIỄU PHẬT 
      
      "Nhiễu Phật"   
      tiếng Sanskrit gọi là Pradaksina, trong quyển kinh Mahāvessantarajātaka   
      hay Mahājātaka (Chương Jūjaka), Pradaksina hay   
      nhiễu vòng, là sự tỏ lòng cung kính hay thương yêu, đi   
      nhiễu chung quanh người hay vật ba vòng. Xưa kia có vị Bà La   
      Môn tên là Jūjaka là người rất thương vợ, để chứng tỏ sự yêu thương 
      đó, trước khi ông rời khỏi nhà, ông đã đi nhiễu ngôi nhà   
      ba lần rồi mới ra đi, trong chuyến đi đến Bồ tát   
      Vessantara để xin hai đứa con của vị Bồ tát là Krisna   
      Pājālā đem về làm tôi tớ phụng sự bà vợ (Jū jaka   
      VI. 521 - 4).   
      Do tích của vị Bà La Môn   
      thời Ðức Thế Tôn còn tại tiền, là một mẫu chuyện điển   
      hình cho sự tôn kính người hay vật đáng tôn kính thời xưa,   
      cho nên về sau Phật tử Ấn Ðộ và các nước Phật giáo trên   
      thế giới thấy việc làm có ý nghĩa nên chấp nhận và phổ   
      biến. 
      Ngày nay chư Tăng và   
      Phật tử bốn phương nhiễu Phật đi ba vòng ngôi chánh điện,   
      điển hình như: Lễ dâng y Ca sa, lễ xuất gia, thiện nam tín   
      nữ thường đội y, bát, tứ vật dụng đi nhiễu chung quanh   
      chánh điện để tỏ lòng tôn kính Ðức Phật, Pháp Bảo và   
      chư Tăng, trước khi đem vào chánh điện cúng dường, vậy chúng   
      ta nên hiểu rõ nghi lễ nhiễu Phật chỉ là môt phong tục   
      của người Ấn Ðộ thời xưa chứ không phải theo kinh   
      luật. 
      
      LỄ AN VỊ 
      PHẬT 
      
      An vị Phật là một nghi   
      thức do các hàng tín đồ xưa tổ chức là một nghi lễ rất   
      rườm rà, lắm khi sai lệch tôn chỉ từ bi và giáo lý chơn   
      truyền của Ðạo Phật, điển hình như: làm lễ khai nhãn,   
      hay truyền oai lực từ tượng Phật cũ sang tượng Phật mới   
      v.v... đây là những việc làm không cần thiết và không liên   
      quan đến việc thực hành theo giáo lý của Ðức Phật.   
      Tại sao chúng ta thờ   
      phū ợng và lễ bái Ðức Phật, trong khi Ngài không có mặt để   
      thọ lãnh sự lễ bái đó, mà chỉ là một hình tượng vô   
      tri vô giác. Ðứng trước pho tượng Phật người Phật tử   
      chỉ hồi nhớ lại những đặc tánh của Ngài, chúng ta phải   
      tri ân vì Ngài đã khám phá chơn lý và vạch ra con đường   
      giải thoát cho chúng sanh. Do đó không có việc xem tượng   
      Phật là một thần linh cần phải truyền oai lực.   
      Vậy người Phật tử   
      muốn làm lễ an vị Phật, chỉ cần thỉnh tượng Phật về   
      tư gia, tịnh xá, niệm Phật đường hay chùa chiền, an vị   
      một nơi trang nghiêm và thỉnh chư Tăng chứng minh lòng thành   
      của mình đối với Tam Bảo bằng thân, khẩu, ý, cúng dường   
      đến chư Tăng sau khi các vị tụng kinh như: Lễ bái Tam Bảo,   
      Phật cảm thắng ma vương... Ðó là một cách an vị Phật   
      rất giản dị và đúng theo nghi thức Phật giáo.   
      
      LỄ DÂNG CÚNG   
      TÀI SẢN CHÙA, ÐẤT, VẬT DỤNG   
      
      Cũng như các cuộc lễ dâng   
      cúng như y phục, vật thực, chỗ ngụ và thuốc ngừa bệnh,   
      chư Tăng cũng có quyền thọ nhận tài sản của chư Phật   
      tử như: Ðất đai, chùa chiền, cốc liêu v.v...   
      Người Phật tử vì tin   
      rằng Tăng là phước điền của nhân loại, thì với lòng   
      trong sạch khi họ có bất cứ vật dụng nào mà chư Tăng   
      thọ dụng được, và có lợi ích cho Tăng già, thì họ sẵn   
      sàng cúng dường. Vì đó cũng là một cách dứt bỏ lòng   
      bỏn xẻn dâng cúng tài sản đến chư Tăng. Người Phật tử   
      tin rằng khi dứt bỏ tài sản mà mình quí mến thì sẽ giúp   
      cho tâm dứt được lòng keo kiệt mắc dính với tài sản.   
      Mặt khác sẽ được phước báu do công lao của họ tạo nên,   
      hầu gặt hái được phước lành, hồi hướng đến thân nhân   
      quyến thuộc đã quá vãng cũng như còn tại tiền được   
      những phần phước cao quí.   
      Nhưng tài sản dâng cúng   
      như cốc, liêu đến chư Tăng cũng phải làm đúng theo luật   
      lệ nhà Phật, nghĩa là: phải đúng thước tấc bề ngang,   
      bề dọc như luật dã quy định. Khi dâng cúng người Phật   
      tử phải đến trước Phật đài và phải có chư Tăng chứng   
      minh người Phật tử đọc lên bài dâng cúng và hài tên trước   
      chư Tăng những vật mình hiến dâng cho Tam Bảo bằng Pāli   
      hay nghĩa.   
      
      LỄ THỌ ÐẦU   
      ÐÀ 
      
      Tiếng "Ðầu Ðà"   
      âm từ Phạn ngữ Dhutaṅga nghĩa là: Chi pháp của người   
      dứt phiền não. Có 13 pháp đầu đà dành cho các vị Tỳ Khưu   
      tinh tấn hành đạo:   
      
        1- Mặc y xấu.   
        2- Mặc Tam y.   
        3- Thường xuyên đi khất thực.   
        4- Ði khất thực từng nhà.   
        5- Khi thọ thực chỉ ngồi dùng một chỗ.   
        6- Thọ thực trong bát.   
        7- Không dùng vật thực mình đã từ khước không nhận.   
        8- Trú ngụ trong rừng.   
        9- Trú ngụ gần dưới cội cây.   
        10- Ngụ nơi đồng trống.   
        11- Ngụ nơi mộ địa.   
        12- Ngụ nơi Tăng đã cho phép ở đầu tiên.   
        13- Ngăn oai nghi nằm.   
       
      Ðầu Ðà là phương pháp   
      hành đạo dành cho chư Tỳ Khưu Tăng, là một lối tu tích   
      cực, mục đích giúp cho thiền định có hiệu lực nhiều.   
      Bởi càng thu thúc trong giới hạnh và đề mục thiền định,   
      con người càng định tâm được dễ dàng. Nhưng về sau các   
      hàng cư sĩ khi hành thiền định cũng đem một phần trong phương   
      pháp đầu đà ấy ra áp dụng. Như thọ đầu đà ngăn oai   
      nghi nằm, vì Phật tử tại gia cũng gặt hái được nhiều   
      kết quả trong pháp thiền quán, nên nay đã được phổ thông   
      áp dụng cho mọi giới Phật tử. Nhất là áp dụng vào hai ngày   
      Ðại lễ kỷ niệm là rằm tháng Giêng và rằm tháng Tư...   
      Trong những ngày ấy Phật tử thường tổ chức một đêm không   
      ngủ không nằm, chỉ đi đứng và ngồi để kệ kinh, luận   
      đạo, tham thiền hầu suy xét công đức sâu dày của Ðức   
      Phật. Ðây cũng là phương pháp cúng dường Phật một cách   
      cao thượng và trau dồi cho thân tâm trở nên thanh tịnh.   
      
      PHƯƠNG PHÁP   
      THỌ ÐẦU ÐÀ   
      
      Khi đức Thế Tôn còn   
      tại tiền, chư Tăng phải đến trực tiếp thọ Ðầu đà   
      với Ðức Phật. Ðến khi đức Thế Tôn viên tịch, nghi thức   
      thọ trì Ðầu đà được các đại Thinh Văn phụ trách, khi   
      chư đại Thinh Văn không còn, lễ thọ Ðầu đà do các bậc A   
      La Hán, A Na Hàm, Tư Ðà Hàm, Tu Ðà Huờn truyền giáo. Sau đó   
      lễ thọ Ðầu đà do chư phàm Tăng giáo truyền đến những   
      Phật tử nguyện thọ, Phật tử cũng có thể tự phát   
      nguyện trước Phật đài.   
      Ðầu đà có ba bậc,   
      lời nguyện thọ trì như sau:   
      
        - Bậc hạ: Tôi xin   
        nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc hạ, ngăn oai nghi nằm   
        (có thể dựa vào giường, ghế v.v...).   
        - Bậc trung: Tôi xin   
        nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc trung, ngăn oai nghi nằm   
        (được phép dựa).   
        - Bậc thượng: Tôi xin   
        nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc thượng, ngăn oai nghi   
        nằm (ngồi không dựa).   
       
      Ba phép này hành giả không   
      được phép nằm trước khi mặt trời mọc, ngược lại gọi   
      là đã phá phép Ðầu đà mà mình đã nguyện thọ trì.   
      
      LỄ DÂNG Y   
      (KAṬHINA) 
      
      Lễ này được tổ   
      chức một năm chỉ có một lần từ ngày 16-9 đến 15-10 âm   
      lịch. Nếu có thí chủ phát tâm trong sạch, muốn tổ chức   
      lễ dâng y đến chư Tăng ở chùa nào, thì phải đến bạch   
      với vị trụ trì ấy biết. Thí chủ trở về lo sắm y và các   
      lễ vật phụ tùng như: mùng, mền, chiếu, gối và thuốc   
      ngừa bệnh v.v... Một buổi lễ trai Tăng và bữa cơm thân   
      mật của chư Phật tử tùy theo khả năng của thí chủ, còn   
      nếu gia cảnh túng thiếu thì thí chủ có thể mua một ít   
      vải về làm lễ dâng y cũng được. Với tâm trong sạch vui   
      thích thì phước báu cũng bằng nhau, ngoài ra chúng ta cũng có   
      thể rủ bạn bè tổ chức lễ dâng y, thì phước báu càng tăng   
      thêm. Ðến ngày lễ thí chủ đem lễ vật đến chùa rồi   
      chia ra mọi người mỗi phần đội đi nhiễu Phật ba vòng. Cách   
      nhiễu Phật thì thường thường ta cho người đội Ðại y đi   
      trước, kế bình bát, đến y vai trái sau đến lễ vật phụ   
      tùng, nếu không còn vật chi chúng ta có thể cầm nhang, hoa   
      xếp thành hàng đi nhiễu Phật ba vòng chung quanh chánh điện,   
      giữ tâm vui thích với phước báu mà mình đang làm, và vừa   
      đi vừa đọc bài kệ dâng y Ca-sa (Bài kệ đã được phỏng   
      theo Phật ngôn và phổ biến rộng rãi trong giới Phật tử   
      Nam Tông). Sau đó đem y và các vật phụ tùng vào chánh điện,   
      thỉnh chư Tăng và xin thọ tam quy, ngũ giới, xong rồi đọc bài   
      dâng y như sau:   
      
      "Mayaṃ bhante imaṃ   
      kaṭhina dussaṃ sapparikkhāraṃ bhikkhu saṅghassa dema amhākaṃ   
      dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi..., Tatiyampi...."   
      
      Nghĩa:  "Bạch hóa chư   
      Ðại đức Tăng chúng con xin thành kính dâng y Kathina này đến   
      chư Ðại đức, cầu xin chư Ðại đức nhận lãnh cho chúng tôi   
      được sự tấn hóa, sự lợi ích và sự bình an lâu dài.   
      Lần thứ nhì, ... Lần thứ ba, ...".   
      Sau khi dâng cúng đúng   
      luật lệ xong, chư Tăng hành lễ Tăng sự đứng theo luật, trước   
      Phật đài nơi có kiết giới để thọ dụng y Ca-sa. Ðây là   
      một cách cúng dường đúng theo luật tạng, thí chủ sẽ hưởng   
      được nhiều phước báu.   
      
      LỄ THÀNH HÔN   
      
      Hôn lễ theo Phật giáo,   
      thông thường trước ngày chánh lễ, Phật tử cung thỉnh chư   
      Tăng về tư gia trai Tăng, hoặc có thể đến chùa để cử hành   
      hôn lễ.   
      Hôn lễ khởi đầu   
      Phật tử lễ bái Tam Bảo, xin thọ trì Tam quy, ngũ giới, kế   
      đó chư Tăng tụng kinh phúc chúc, nhất là Hạnh Phúc kinh, sau   
      đó vị Pháp sư thuyết Pháp đại ý nêu lên gương sống lý   
      tưởng trong gia đình, nhiệm vụ chồng đối với vợ và vợ   
      đối với chồng theo kinh điển nhà Phật.   
      Sự cử hành hôn lễ   
      tại chùa có rất nhiều sự lợi ích là: Ðôi tân hôn được   
      chiêm ngưỡng dung nhan của Ðức Phật, cung thỉnh chư Tăng đến   
      quy y, trì giới, để thực hành phận sự của người tại   
      gia cư sĩ đúng đắn. Khi có sự buồn phiền trong gia đình   
      hay muốn làm tội, nhớ ngày thành hôn tại nơi tôn nghiêm và   
      những lời dạy của chư Tăng dưới Phật đài, mà không dám   
      vi phạm điều tội lỗi.   
      
      LỄ MA CHAY 
      
      Mỗi khi trong gia đình có   
      người lâm chung, tang quyến cung thỉnh chư Tăng quang lâm đến   
      tư gia hoặc đến nghĩa địa để làm lễ cầu siêu độ.   
      Thoạt tiên chư Tăng tụng kinh lễ bái Tam Bảo, thiện tín xin   
      thọ trì ngũ giới, kế đó tang quyến mang vải trắng đến   
      đắp lên nhục thân người quá váng để chư Tăng tụng kinh   
      cầu siêu, và nhận lãnh vật dụng ấy.   
      Sau đó chư Tăng tụng   
      kinh thích hợp với hoàn cảnh đại ý như:   
      
        "Tất cả các vật   
        hữu lậu đều là vô thường.   
        Sanh lên và diệt hoại, đó là bản chất của tất cả.   
        Sanh ra kiếp chúng sanh rồi, nối tiếp hành trình.   
        Thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, là hạnh phúc tối thượng   
        "... 
       
      Sau khi tụng kinh xong,   
      vị Pháp sư thuyết pháp, ngụ ý nhấn mạnh đến tánh cách vô   
      thường của vạn hữu. Tất cả chúng sanh, người lúc thiếu   
      thời, người trưởng thành, cũng như lúc tuổi hạc đã cao   
      tất cả đều phải chết, chúng sanh đều có sự chết là điểm   
      cuối cùng.   
      Cuối cùng Phật tử   
      hồi hướng phước báu đến người quá vãng như:   
      
        "Xin hồi hướng công   
        đức này đến thân quyến tôi.   
        Ước mong các bậc ân nhân được thọ hưởng".   
       
      
      LỄ GIỖ 
      TỔ 
      
      Giỗ tổ là phong tục   
      tế lễ ông bà trong những ngày kỵ cơm. Hằng năm cứ đến   
      ngày giỗ ông bà cha mẹ đã quá vãng, thì con cái trong gia đình   
      tổ chức ngày lễ giỗ. Theo tục lệ người Việt Nam, cứ đến   
      ngày ấy là con cháu đến nhà một người chỉ định trông   
      nom phần hương khói để làm mâm cao cỗ đầy, đem lên bàn   
      thờ và cùng nhau cúng vái.   
      Nhưng đối với Phật giáo   
      thì Ðức Phật dạy Phật tử nên làm phước cúng dường đến   
      chư Tăng, nhờ tạo được phước lành ấy, rồi hồi hướng   
      đến ông bà cha mẹ, như vậy người quá váng có thể thọ   
      nhận phần phước ấy. Nếu họ bị sa đọa thì sẽ được   
      vơi bớt phần đau khổ ở cảnh địa ngục, bằng họ được   
      sanh vào cõi an vui thì nhờ phần phước ấy họ sẽ được tăng   
      thêm phần phúc huệ. Nhưng người Phật tử nên lưu ý sự   
      hồi hướng phước báu đến người quá cố, không phải   
      dợi đến ngày kỵ cơm, mà bất cứ ngày nào chúng ta tạo   
      được phước lành, cũng có thể hồi hướng đến người   
      ở bên kia thế giới. Vì Ðức Phật không cho sự tế lễ   
      theo phong tục là có lợi, làm như thế người quá vãng   
      chẳng được biết, nghe những điều ấy, việc làm đó   
      chẳng qua là chúng ta tụ họp để tổ chức một buổi tiệc   
      vui trong gia quyến. Ấy là không nói đến những buổi tiệc có   
      sát sanh làm cỗ, rượu chè say sưa, đó là việc chẳng   
      những vô ích đến người quá cố còn tạo thêm nhiều tội   
      lỗi. 
      
      LỄ CẦU SIÊU   
      ÐỘ 
      
      Buổi lễ tổ chức có   
      thể thỉnh chư Tăng đến tư gia để tụng kinh cầu siêu cho   
      những người quá vãng, không giới hạn thời gian. Buổi lễ   
      cũng có thể tổ chức vào lúc Tang lễ đang tiến hành, khi   
      quan tài của người quá vãng đang còn quàng tại tư gia,   
      Niệm Phật đường hay chùa chiền.   
      Ta nên lưu ý trong những   
      buổi lễ cầu siêu, chư Tăng sẽ tụng niệm những gì để   
      cầu siêu cho người quá cố. Ở điểm này chúng ta nên hiểu   
      rằng chư Tăng chỉ tụng những bài kinh như: năm điều quán   
      tưởng, vô thường khổ não vô ngã v.v... mục đích tụng   
      những bài kinh vừa kể là dành cho những người còn sống   
      nghe để quán tưởng đời là vô thường, khổ não, vô ngã,   
      chứ không phải tụng để cầu siêu cho người quá cố, người   
      quá cố có thể siêu độ hay không là do chính họ tạo từ   
      khi họ còn sinh tiền. Còn buổi lễ tạo phước lành để   
      hồi hướng đến người quá cố, nhờ phần phước của tang   
      quyến, có thể giúp người quá vãng được vơi phần nào   
      khổ sở dưới địa ngục hay sẽ tăng thêm phần phước ở   
      nhàn cảnh mà thôi.   
      
      LỄ CẦU AN   
      LÀNH 
      
      Theo kinh Paritta (Paritta:   
      nghĩa là bảo vệ, hộ trì.) gồm những bài kinh sưu tầm   
      trong Tam tạng Pāli, là những bài kinh tụng để cầu   
      cho người bệnh hay người gặp những nghịch cảnh. Ðây là   
      những bài kinh đã được Ðức Phật tán thành cho các hàng Tăng   
      chúng tụng niệm trong những dịp trên. (Dict. Pali Proper   
      Names. G.P. Mallasekera, Vol. Ī trang 157.)   
      Thông thường buổi lễ   
      được tổ chức tại tư gia hay chùa chiền. Phần nghi thức,   
      trước hết Phật tử làm lễ Tam Bảo, xong quay trở lại đối   
      diện chư Tăng đảnh lễ và xin thọ tam quy ngũ giới hay Bát   
      quan trai giới (nếu là ngày giới). Ðoạn thỉnh chư Tăng   
      tụng kinh Paritta hay cầu an. Buổi lễ diễn ra trong một   
      giờ đồng hồ hay ít hơn, có thể tổ chức vào buổi chiều   
      hay những giờ khác nếu thấy thuận tiện. Nếu buổi lễ   
      tổ chức vào những buổi chiều thì Phật tử cúng dường   
      những món giải lao như café, nước mía, mật ong v.v...   
      Người Phật tử tin   
      rằng chư Tăng là các bậc nghiêm trì giới đức trong sạch,   
      đáng cho người lễ bái cúng dường. Khi thỉnh chư Tăng đến   
      tụng kinh cầu an và dâng tứ vật dụng đến chư Tăng, nhờ   
      phước báu của lòng trong sạch đó, thí chủ xin cầu nguyện   
      cho người bệnh hoạn hay cho những điều lo sợ trong gia đình   
      đuợc tiêu tan và được an vui hạnh phúc.   
      
      ÐỂ BÁT CHƯ   
      TĂNG 
      
      Theo Luật tạng, vị Tỳ   
      Khưu xuất gia phải thệ nguyện trước Phật đài có chư Tăng   
      chứng minh, là sẽ sống suốt đời bằng những món ăn đi trì   
      bình, khất thực, tức là phải sống với Tam y bình bát, đó   
      là tài sản duy nhất của các vị Tỳ Khưu. Chư Tăng là các   
      bậc thừa hành theo giáo pháp từ bi của đức Thế Tôn. Về   
      phần người Phật tử khi muốn bảo tồn Tam Bảo, thì công   
      việc giúp ích cho chư Tăng duy trì ngôi Tam Bảo là bổn phận   
      thiêng liêng, do đó khi chư Tăng đến nhà để trì bình, chúng   
      ta hoan hỉ cúng dường những vật thực đến các Ngài. Nhưng   
      điều cần ghi nhớ là những vật thực dâng cúng đó phải   
      được nấu chín. Nếu trong nhà có dù một vá cơm hay đĩa   
      muối với lòng trong sạch cũng có thể dâng cúng đến chư Tăng.   
      Sự cúng dường như thế người Phật tử sẽ có nhiều phước   
      báu, vì Tăng và giới luật còn thì Phật Pháp mới trường   
      tồn hưng thịnh.   
      Nghi lễ cúng dường để   
      bát, muốn được nhiều phước báu thì người Phật tử   
      phải mau mắn, khi chư Tăng đến, tự mình phải đem những   
      vật thực sẵn có đến trước vị Sư, sau khi đã bỏ giày dép,   
      xá chào và cung kính ta từ từ để vật thực vào bát một cách   
      nhẹ nhàng. Khi để bát xong người Phật tử lui ra và xá chào.   
      Ðó là cách để bát cúng dường đến chư Tăng đúng đắn.   
       -ooOoo- 
      
      II. PHẦN LỄ GIÁO   
      
      KHI NGƯỜI   
      PHẬT TỬ PHỤC SỨC   
      
      Nói đến cách phục   
      sức là chúng ta liên tưởng ngay sự ăn mặc hay trang điểm   
      cho hợp thời trang. Ta nhận thấy, mỗi quốc gia đều có bộ   
      quốc phục riêng để dành khi ra đường hoặc vào những   
      dịp hội hè đình đám hay những ngày lễ mang tính cách tôn   
      giáo, cổ truyền của dân tộc. Tuy nhiên, ngoài bộ quốc   
      phục, chúng ta còn thấy rất nhiều loại y phục khác theo   
      thời trang đã lan tràn khắp trong xã hội trên thế giới.   
      Loại y phục này càng ngày càng trở nên thông dụng trong   
      mọi tầng lớp dân chúng, khiến cho những ngày Quốc lễ hay   
      Tôn giáo lễ cũng được mang ra sử dụng, điều này thật   
      tai hại nếu chúng ta không ý thức được hoàn cảnh để tùy   
      nghi phục sức.   
      Ðối với những nơi   
      phồn hoa đô hội hay những cuộc vui chơi thì sự ăn mặc không   
      nhất thiết, miễn sao thích hợp tánh ý mọi người thì thôi.   
      Còn ở nơi trang nghiêm thờ phū ợng của các tôn giáo thì   
      phải khác. Ðối với Phật giáo, sự phục sức rất quan   
      trọng, vì dù sao bộ y phục gọn gàng và kín đáo cũng là   
      một thể thức để phô bày cá tính và tư cách của mình.   
      Mặt khác, với bộ y phục chỉnh tề tuy nó là lối phục   
      sức cho thân xác bên ngoài, nhưng cũng ảnh hưởng rất   
      nhiều đến tinh thần trừu tượng bên trong.   
      Tóm lại, người Phật   
      tử muốn cho mục đích tu hành được trong sạch và trang nghiêm   
      cần phải dè dặt mọi hành vi, cử chỉ kể cả lối trang   
      sức cũng nên thận trọng. Cách ăn mặc tốt nhất trong   
      những ngày lễ tôn giáo là nên mặc Quốc phục. Bởi vì sự   
      đua đòi là điều có thể khiến cho ta khó tập trung tư tưởng   
      về với qui luật của tôn giáo cũng như gây trở ngại cho bước   
      đường tu và giải thoát nữa.   
      
      KHI NGƯỜI   
      PHẬT TỬ ÐẾN CHÙA   
      
      Sự tôn sùng ngôi Tam   
      Bảo là bổn phận thiêng liêng của người Phật tử. Khi chư   
      Phật tử đến chùa thì phải tỏ lòng tôn kính Ðức Phật,   
      Pháp Bảo và chư Tăng tuần tự như sau: trước tiên khi đến   
      chùa ta phải cởi giày dép, khăn, nón rồi vào chánh điện để   
      dâng hương cúng Phật. Sau đó tùy theo công việc riêng tư   
      của mỗi người có thể làm bất cứ công quả nào như quét   
      tước, lau chùi, hay lo những công việc khác như hộ độ chư   
      Tăng hoặc những công việc cần thiết cho nhà chùa. Chúng ta   
      cũng có thể tìm chư Ðại đức Tăng để học đạo; trong   
      suốt thời gian có mặt tại chùa thì tâm hồn người Phật   
      tử phải hướng thượng, lời nói nhã nhặn, đối với chư   
      Tăng cũng như người liên hệ.   
      Vậy, mỗi người Phật   
      tử khi đến chùa, cần phải học hỏi những gì mà chư Tăng   
      chỉ bảo, hầu tô điểm thêm nghi thức đứng đắn và tạo   
      cho mình được nhiều phước báu trong ngày vị lai.   
      
      LỐI XƯNG HÔ   
      CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ ÐỐI VỚI CHƯ TĂNG   
      
      Người Phật tử cũng có   
      lối xưng hô đối với chư Tăng, cũng như trong gia đình con cái   
      gọi các bậc sinh thành hay cách xưng hô với người thân kẻ   
      sơ. Trong Phật giáo người Phật tử cũng có các bậc Thầy   
      Tổ mà mình đã thọ quy giới, hay các vị Tăng, ni; trên phương   
      diện xưng hô người Phật tử gọi các Ngài bằng Ðại Ðức,   
      Sư, Thầy, Ni sư v.v... Bởi vì luật lệ đối với Tôn giáo   
      nhất là Phật giáo chúng ta, về tôn ty trật tự như người   
      nhỏ kẻ lớn rất quan trọng và dân chủ thật sự đối   
      với thế hệ hiện tại.   
      Ví dụ: Một nhà vua khi   
      xuất gia đầu Phật phải đảnh lễ hoặc xem một vị thứ dân   
      xuất gia trước mình dù một giây phút và lối xưng hô cũng   
      phải thưa gởi đối với bậc cao hạ hơn. Cũng vậy, Phật   
      tử khi tiếp xúc với nhà sư thì cũng phải xưng hô với   
      tất cả lòng thành kính. Chẳng hạn như khi đối diện với   
      quý Sư ta chắp tay vái chào xưng hô con và nói những câu như   
      "Thưa Sư" hay "Bạch Sư" con xin đảnh lễ   
      v.v... 
      Người Phật tử muốn   
      cho tôn giáo mình có một lối lễ giáo thanh nhã thì chúng ta   
      là những người Phật tử cần phải chính mình thực hành   
      theo cách xưng hô trình bày trên, và dạy dỗ cho con cái sớm   
      biết lối xưng hô đối với nhà sư, đó là một việc rất   
      tốt và lợi lạc.   
      
      KHI NGƯỜI   
      PHẬT TỬ ÐỐI DIỆN VỚI CHƯ TĂNG TRÊN ÐƯỜNG ÐI HAY NƠI   
      ÐÔ HỘI   
      
      Trong Phật Giáo có câu   
      "Trọng Phật thì phải kính Tăng", qua câu nói trên ta   
      thấy rằng sự kính trọng Tăng là một viêc rất đúng đắn.   
      Vì chư Tăng là các bậc đã dứt bỏ tất cả vương vấn   
      của đời thế tục, để đi theo con đường mà trước đây   
      đức Thế Tôn đã đi và tìm ra chân lý. Do đó sự kính   
      trọng chư Tăng đối với người Phật tử cần phải có. Nhưng   
      sự kính trọng chư Tăng bằng cách nào? Ðối diện với các   
      Ngài tại chùa và lúc gặp ở giữa đường hay nơi đô hội,   
      phải vái chào làm sao? Ðó là những vấn đề đôi khi chúng   
      ta không nghĩ đến, song nó cũng không kém phần quan trọng.   
      Trong khi đến chùa, chúng ta phải đảnh lễ như ta cung kính   
      đức Phật, sau đó ta hỏi thăm chư Tăng những việc gì cần   
      thiết, về giáo lý nếu có thắc mắc, ta cũng có thể xin chư   
      Tăng giải đáp những gì mình muốn biết. Nhưng khi gặp chư   
      Tăng ở giữa đường hay những nơi đô hội ta chỉ chắp tay   
      vái chào, thay vì quỳ xuống đảnh lễ. Vì làm như thế ta có   
      thể gây cho những người chung quanh cảm thấy chướng mắt,   
      dù hành động ấy vẫn được xem là sự tôn kính chư Tăng   
      hiệp theo lẽ đạo.   
      
      KHI NGƯỜI   
      TÍN ÐỒ CUNG THỈNH CHƯ TĂNG VỀ TƯ GIA   
      
      Giới luật đối với chư   
      Tăng là việc tối cần. Vì trong kinh cũng có câu: "Giới   
      luật còn, thì Phật Pháp mới còn". Bởi vậy, chư Tăng   
      triệt để theo dõi từ hành vi, cử chỉ của mình từng sát   
      na. Còn người Phật tử khi giao thiệp cũng phải dè dặt e   
      phạm đến giới luật hay phẩm giá của nhà tu. Chẳng hạn   
      khi thiện nam tín nữ cung thỉnh chư Tăng đi đến tư gia,   
      một cách thành thật và tôn kính thì chư Tăng mới được phép   
      đến tư gia ấy. Vì vậy để bảo tồn giới luật và tinh   
      hoa tươi đẹp ấy của nhà Phật, Phật tử phải hết lòng   
      thành kính đối đãi với chư Tăng khi đến tư gia của mình,   
      bằng cách ta không nên ngồi nơi cao quý và dành chỗ thấp kém   
      cho chư Tăng, không nên dùng những món ăn quý và dâng cho chư   
      Tăng những món ăn không ngon, kém giá trị. Nếu sự việc có   
      xảy ra chư Tăng không bao giờ tỏ thái độ, vẫn điềm nhiên;   
      nhưng lần thứ nhì, có sự cung thỉnh chư Tăng sẽ không đến   
      dự, mặc dù theo giới luật các Ngài không có quyền đòi   
      hởi, phải xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Song vì   
      phạm hạnh hay Tăng tướng của tôn giáo bị xúc phạm, nên   
      luật bắt buộc chư Tăng phải xử sự như thế.   
      
      KHI NGƯỜI   
      PHẬT TỬ CÚNG DƯỜNG TỨ VẬT DỤNG ÐẾN CHƯ TĂNG   
      
      Sự dâng cúng vật dụng   
      đến chư Tăng là cách tạo nên nhiều phước báu của người   
      Phật tử. Vì chư Tăng là những vị xuất gia, thì sự hộ độ   
      của chúng ta đến các Ngài cũng là điều cần thiết. Hằng   
      ngày ta dâng tứ vật dụng đến chư Tăng. Nói đến tứ vật   
      dụng người Phật tử phải hiểu ngay là những món cần dùng   
      cho tu sĩ Phật giáo như:   
      
        - Y phục: Tam y và   
        những đồ phụ tùng.   
        - Vật thực: Các món ăn nhà Sư có thể dùng từ sớm mai   
        cho đến giờ Ngọ   
        - Chỗ ngụ: Cốc, liêu, mền, chiếu, gối v.v...   
        - Thuốc ngừa bệnh: Sữa nước mía, mật ong, các thứ   
        thuốc trừ bệnh.   
       
      Trong bốn món vật   
      dụng, có thực phẩm là chúng ta dâng cúng đến chư Tăng từ   
      bình minh vừa ló dạng cho đến 12 giờ trưa, còn ba món vật   
      dụng còn lại người Phật tử có thể dâng cúng bất cứ lúc   
      nào, nhưng điều đặc biệt chúng ta cần nhớ là:   
      a) Nếu là vật thực như   
      trái cây có hạt nhỏ như: trái ổi, cam, lựu, ớt v.v... Khi cúng   
      dường chúng ta cần phải làm cho đúng luật chế định   
      tiếng Phạn gọi là  Kappiya.  
      Ví dụ: Một dĩa trái cây   
      vừa kể, trước khi dâng đến tay nhà sư ta chỉ cần cắt   
      một trái để lên trên rồi dâng cả dĩa trái cây ấy, như   
      thế được gọi là hợp lệ, nhà sư có dùng mà không sợ   
      phạm tội giết hạt giống.   
      b) Tất cả các món vật   
      dụng nhẹ, một người có thể bưng hoặc cầm được thì dâng   
      đến gần nhà sư lối một hắc, một gang đưa tận tay chư sư.   
      Còn những món vật dụng nặng nề hay không thể cầm được   
      như cốc, liêu, giường, tủ v.v... chúng ta dâng chư Tăng   
      bằng khẩu, nghĩa là đem những món ấy đến chùa và bạch   
      với chư Tăng rằng: "Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, chúng   
      con xin dâng những món (hài tên) này đến chư Tăng xin các ngài   
      hoan hỷ thọ lãnh, cho chúng con được sự lợi ích. "   
      Lưu ý: Người Phật tử   
      khi dâng cúng vật dụng phải là những vật dụng phát sinh   
      hiệp theo lẽ đạo, được vậy thì phước báu mới được   
      dồi dào, Bồ đề tâm mới phát triển.   
      
      KHI NGƯỜI   
      PHẬT TỬ TỔ CHỨC LỄ   
      
      Bất cứ cuộc lễ nào   
      thuộc Phật giáo, điển hình như dâng y, chúc thọ, trai Tăng,   
      cầu siêu, cầu an v.v... Người Phật tử đều có thể tổ   
      chức, muốn tổ chức những buổi lễ nói trên, trước hết   
      chúng ta đến chùa bạch với vị trụ trì hoặc một vị tăng   
      trưởng để xin được tổ chức.   
      
      Thí dụ như lễ trai Tăng chẳng hạn: Công việc đầu tiên là   
      lễ bái Tam Bảo, kế đó xin thọ tam quy và ngũ giới (có   
      thể đọc Phạn ngữ hay nghĩa cũng được), sau khi thọ giới   
      xong thí chủ đọc bài kinh dâng cúng rồi bắt đầu đem   
      những món cần thiết mà thí chủ đã chuẩn bị, xin dâng cúng   
      đến chư Tăng. Tiếp theo chư Tăng tụng kinh phúc chúc, lúc chư   
      Tăng tụng kinh thì thí chủ phải thành tâm chắp tay tỏ lòng   
      thành kính và chăm chú nghe kinh. Chư Tăng phúc chúc xong rồi   
      thí chủ nên hồi hướng phước báu đến thân bằng quyến   
      thuộc và sau đó đến tất cả chúng sanh.  
       
      
      Tóm lại, buổi lễ trên   
      là buổi lễ thường xuyên được Phật tử lưu ý, nhưng khi   
      bố thí tâm phải trong sạch, những vật dâng cúng đều   
      hiệp theo lẽ đạo thì phước báu mới được tròn đủ.   
      
      KHI NGƯỜI   
      PHẬT TỬ THÍNH PHÁP   
      
      Pháp bảo là ngôi quý báu   
      thứ hai trong Tam Bảo. Chúng ta là tín đồ hay cư sĩ bao giờ   
      cũng phải tỏ lòng tôn kính, vì Pháp bảo là kim ngôn cao thượng   
      của đức Thích Ca Mâu Ni. Sự tôn kính đối với Pháp bảo có   
      nhiều cách và trường hợp khác nhau. Sự tôn kính qua lời nói   
      như chúng ta không bao giờ xem thường, hay phỉ báng Pháp bảo   
      bằng cách chê bai làm hạ giá trị của Phật ngôn. Sự thính   
      Pháp, bố thí Pháp có rất nhiều phước báu, là trí tuệ chơn   
      chánh phát sanh, nên hằng ngày chúng ta đến chùa nghe pháp   
      hoặc đóng góp ít nhiều công của để in kinh, phổ biến.   
      Chúng ta cũng có thể   
      thuyết pháp hay giảng đạo, phiên dịch kinh điển nhà Phật,   
      mục đích giúp ích cho mọi người thông hiểu giáo lý từ bi   
      vô lượng của đức Phật. Khi thính Pháp thì chúng ta cũng   
      phải tỏ lòng thành kính chăm chú nghe, suy luận những lời   
      Phật ngôn mà Pháp sư trùng tuyên lại. Không nên nói chuyện   
      làm ồn hoặc tỏ vẻ khinh thường Pháp thí hoặc có thể   
      bất bình hay sân hận vì bài Pháp có ý xây dựng chung.   
      Nói tóm lại, khi thính   
      pháp người Phật tử phải tỏ thái độ sùng kính Pháp   
      bảo, ngồi nghiêm trang hai tay chắp lại ngay ngắn, tâm hồn   
      tập trung theo dõi lời giảng dạy, hãy xuy xét, đắn đo điều   
      hay lẽ phải hầu ghi nhớ để áp dụng trong đời sống thường   
      nhật của chúng ta.   
      
      KHI NGƯỜI   
      PHẬT TỬ TẠO PHƯỚC BÁU   
      
      Chúng ta là người Phật   
      tử, đối tượng thiêng liêng của chúng ta là Tam Bảo. Ðặc   
      biệt trong ngôi Tam Bảo, ngôi thứ ba tức Tăng bảo có một   
      giá trị liên hệ mật thiết với chúng ta. Ðức Phật gọi Tăng   
      bảo là phúc điền của chúng sanh, tức là ruộng phước, nơi   
      mà chúng sanh đem những hạt giống lành gieo trồng trên   
      những thửa ruộng ấy và sẽ gặt hái hoa quả ở ngày vị   
      lai. Nhưng chúng ta cần phải sáng suốt, tìm những thửa   
      ruộng màu mỡ trước khi gieo trồng hạt giống lành ấy. Nghĩa   
      là phải tìm những vị tu hành đúng theo chơn truyền chánh pháp   
      và nghiêm trì giới luật trong sạch mà bố thí cúng dường.   
      Khi bố thí tâm phải trong sạch, ta cúng dường với ý niệm   
      dứt lòng tham lam. Ðược vậy ta sẽ tạo được phước báu   
      cao quí. Những người không hiểu biết giáo lý hành động   
      theo ý muốn riêng tư, họ bố thí để cầu danh, trục lợi thì   
      chắc chắn kết quả sẽ không được cao đẹp, mà lắm khi còn   
      có tội hay tốn công mất của vô bổ nữa là khác.   
      Vậy, khi bố thí ta cũng   
      nên ý thức trách nhiệm để xứng đáng là một người   
      Phật tử ngoan đạo.   
      
      PHẬT TỬ 
      KHI NGHE KINH 
      
      Trong các nghi lễ Phật   
      giáo, tụng niệm cũng là một nghi thức của chư Tăng như:   
      Tụng kinh cầu siêu, cần an, kinh chúc thọ cho các bậc ân nhân,   
      kinh chúc an lành cho nhà vua v.v...   
      Theo Phật giáo Nguyên   
      Thủy thì bất cứ các nghi thức tụng niệm nào nói trên đều   
      được một người hay một nhóm đông Phật tử tổ chức và   
      cung thỉnh chư Ðại đức đến tham dự. Trước hết Phật   
      tử cần phải trang hoàng nơi hành lễ cho trang nghiêm, nơi chư   
      Tăng an tọa phải cao ráo hơn tín đồ. Sau khi hoàn tất các   
      việc trên, chúng ta làm lễ thọ trì Tam quy ngũ giới, rồi   
      thỉnh chư Tăng tụng kinh. Khi chư Tăng đang tụng kinh Chư   
      Phật tử phải chắp tay tỏ lòng tôn kính, chăm chú nghe, cũng   
      như giữ gìn sự yên lặng. Ðó là cử chỉ tỏ cho mọi người   
      thấy sự sùng kính Pháp bảo và nội tâm mình cũng giữ được   
      đức tánh trang nghiêm không xao lãng.   
      Chư Tăng hết lòng tụng   
      niệm, Chư Phật tử thành tâm ngưỡng mộ nghe theo, nhờ sự   
      hòa hợp một lòng tôn sùng Pháp Bảo đúng đắn như vậy, chúng   
      ta mới có thể chính mình hưởng được phước báu đầy đủ   
      và hồi hướng đến các bậc ân nhân có hiệu lực.   
      
      PHẬT TỬ TÂM   
      NIỆM TRONG NHỮNG NGÀY BÁT QUAN TRAI GIỚI.   
      
      Bát quan trai giới định   
      kỳ là một phương pháp xuất gia tạm cho các hàng tại gia cư   
      sĩ, những kỳ Bát quan 8 ngày trong tháng là ngày mùng 5, 8, 14,   
      15, 20, 23, 29 hay 30, trong những ngày giới các hàng cư sĩ phải   
      đích thân đến chùa, hoặc cũng có thể phát nguyện tại tư   
      gia dưới điện thờ Phật từ rạng đông, để sự thọ   
      giới được trọn vẹn phước báu.   
      Nếu chúng ta không bận   
      bịu cho cuộc sống hàng ngày, thì 24 tiếng đồng hồ ngày   
      giờ nên đến chùa xin nguyện thọ và trong suốt thời gian   
      nghiêm trì Giới Luật tại chùa, Phật Tử khép mình vào khuôn   
      khổ như đọc kinh, niệm Phật, chú tâm vào đề mục thiền   
      định, bốn oai nghi đi, đứng, nằm ngồi phải yên tịnh,   
      kiểm điểm những giới cấm và quán xét xem đã có phạm điều   
      nào trong 8 giới. Ðồng thời theo dõi từng sát na trước khi   
      hành động và ngăn cản không để phạm điều luật.   
      Ngoài việc trau giồi cho   
      thân, khẩu, ý được trong sạch và thanh tịnh, chúng ta cũng   
      có thể làm công quả trong chùa như: quét tước, lau chùi,   
      hộ độ chư Tăng tạo thêm phần phước thanh cao và gieo duyên   
      lành để trở nên người Phật tử đúng đắn, hầu làm gương   
      cho kẻ thế.   
      
      PHẬT TỬ TÂM   
      NIỆM HẰNG NGÀY   
      
      Khi đã nói là người   
      Phật Tử, thì bao giờ cũng phải ý thức trách nhiệm và   
      bổn phận của một người con Phật. Dù sống ở nơi phồn   
      hoa đô hội, những đền chùa, thánh tích, hoặc bất cứ   
      trong hoàn cảnh vui buồn nào, người Phật tử vẫn phải ghi   
      nhớ và biết mình là người con Phật, tất cả những hành   
      vi, cử chỉ đều phải được kiểm soát, tự phê phán khi mình   
      hành động sai, quấy để đúng với tư cách của người đã   
      thệ nguyện nương theo Tam Bảo. Hằng ngày ta nên tâm niệm,   
      trước hết chỉ có Tam Bảo là đấng Tối thượng đáng cho   
      ta nương theo, để lòng sùng kính được bảo tồn. Ta cần   
      phải luôn nhớ đến 5 điều giới cấm, kiểm điểm từng   
      giới một xem ta đã giữ gìn được trong sạch không.   
      Ngoài ra, ta còn phải   
      kiểm điểm từng động tác qua tam nghiệp hay thân, khẩu, ý   
      ta sẽ phạm chăng, nếu ta hành động như thế này hay thế   
      kia. Mặt khác, chúng ta phải nhận thức cuộc đời là vô thường,   
      khổ não và vô ngã và từng giây phút trong bốn oai nghi, tâm   
      đều phải khắn khít trong đề mục thiền định. Khi có tâm   
      niệm đúng đắn thì cuộc sống chúng ta không bị nhàm chán   
      và lo âu, nỗi khổ niềm vui đối với người Phật tử là   
      lẽ thường, không khiến cho chúng ta quá nông nổi khi có điều   
      bất trắc xảy đến hay không quên mình để vui quá độ.   
      
      PHẬT TỬ   
      ÐỐI VỚI CÁC NGHI LỄ THUỘC TẬP TỤC   
      
      Phật giáo là một tôn   
      giáo, giáo hóa chúng sanh theo con đường giải thoát của Ðức   
      Phật. Mục đích cứu cánh là Niết Bàn; người Phật tử   
      chỉ nương theo hai Pháp học và Pháp hành, để tự tạo cho mình   
      một hướng đi đến Chân Thiện Mỹ. Vì vậy những nghi   
      thức trong Phật giáo được trình bày rất giản dị, không bày   
      biện hay bịa đặt rườm rà, những sự chưng bày phuút tạp   
      ấy không mang lại lợi lộc gì cho sự giải thoát.   
      Trước muôn ngàn phong   
      tục tập quán của dân tộc, điển hình như ma chay, giỗ   
      tổ, thí vàng v.v... Người Phật tử phải ý thức việc làm   
      và cải cách như thế nào để những nghi lễ ấy hợp theo   
      lẽ đạo.   
      Ví dụ: Ngày giỗ tổ xưa   
      kia, ta mang vật thực lên giường thờ thắp hương đèn cúng   
      vái, khi nhang đã tàn, vật thực được mang xuống rồi gia đình   
      hội họp tất cả quây quần dự tiệc vui vầy. Thế là đã   
      xong một nghi lễ theo thế hệ xa xưa. Nhưng với người Phật   
      tử, chúng ta cho việc làm ấy xa chơn lý nhà Phật, và không   
      ích lợi cho người quá cố, nên thay vì tổ chức như trên,   
      người Phật tử cung thỉnh chư Tăng cúng dường vật thực   
      hay để bát rồi hồi hướng phước báu cho người quá vãng.   
      Riêng phong tục có tính   
      cách dị đoan, mê tín như cúng cô hồn, hay thí vàng là một   
      tục lệ chung được phổ biến các nơi, do các nhà lãnh đạo   
      mê tín ngày xưa bày ra, không ích lợi cho người quá vãng, cũng   
      như người tại tiền, và sai chân lý nhà Phật, Phật tử không   
      nên tham gia.   
      
      PHẬT TỬ 
      KHI THỆ NGUYỆN 
      
      Nói về sự thệ nguyện   
      trong Phật giáo thì dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc   
      khác trên thế giới, khi đến đền, chùa và những nơi thờ   
      phượng các thần linh, hay trong khi bố thí cúng dường đến   
      ai người ta thường phát nguyện. Lời nguyện cầu của mỗi   
      người tùy ở đức tin, sự hiểu biết và lòng hâm mộ của   
      riêng tôn giáo mình. Lời thệ nguyện của một số người mê   
      tín dị đoan thì họ thường xem các tượng Phật hay các   
      thần linh là những đấng tối cao có quyền năng có thể ban   
      ơn cho mình; họ nguyện cầu các đấng thiêng liêng ấy phò   
      hộ cho tai qua nạn khỏi, tài lộc phát sanh, thành công như ý....   
      Họ xem các vị thần linh ấy như là những thần tượng có   
      nhiều oai lực, thưởng phạt loài người, tin rằng với   
      những lễ vật mà họ thành kính hiến dâng, lòng ngưỡng   
      mộ tha thiết, van vái trước các hình tượng ấy thì các   
      vị sẽ ban ơn bố đức cho họ. Với những cử chỉ và lòng   
      tin sai lầm như vậy đã lưu truyền từ cổ chí kim, từ ông   
      cha ta cho đến chúng ta ngày nay, cứ tin tưởng và làm như   
      vậy. Rất hiếm có người hiểu rõ chơn lý từ bỏ các điều   
      sai ấy thậm chí còn phổ biến tư tưởng dị đoan mê tín không   
      căn cứ trong tôn giáo như Phật giáo để Phật tử hành động   
      theo. 
      Phật tử là người   
      hiểu rõ chơn lý ngày nay, đã ý thức được chánh tà, nên   
      tự mình từ bỏ mê tín dị đoan, Không tin tưởng các vị   
      thần linh, không lễ bái cúng dường, không cho rằng những   
      vị đó có thể ban bố phước lành. Song đứng trước Phật   
      đài, hay trong những khi làm việc lành người Phật tử có   
      thể có những lời nguyện như:   
      
        a) Dưới ánh hào quang   
        của đức Thế Tôn có Chư Tăng chứng giám lòng trong sạch   
        của con, hôm nay con xin cúng dường trì trai giữ giới,   
        phụng sự Tam Bảo và thực hiện pháp lành hợp theo lẽ đạo,   
        qua hành động ấy con xin nguyện được đạo quả viên thành   
        và Bồ đề tâm viên mãn.   
        b) Trước Phật đài có   
        chư Tăng chứng kiến, do lòng trong sạch cúng dường hợp   
        theo lẽ đạo, do nhờ oai lực phước báu ấy con xin nguyện   
        sớm diệt trừ được lòng tham lam, khi tái sanh kiếp nào   
        con hằng gặp chánh pháp, để sớm được giải thoát.   
        c) Dưới chân Phật   
        Tổ có chư Tăng chứng minh, phước báu phát sinh do lòng   
        trong sạch hành đạo hay cúng dường tài và pháp thí hợp   
        theo lẽ đạo con xin hồi hướng đến cửu huyền thất   
        tổ, Ông bà, cha mẹ, nội ngoại hai bên. Do phước báu ấy   
        con cầu xin các vị ấy thoát khỏi khổ cảnh hay phúc được   
        tăng bồi.   
       
      Người Phật tử có   
      thể nguyện một trong những lời thệ nguyện trên, hoặc   
      những lời phát nguyện tương tự nhưng không ẩn ý có tính   
      cách mê tín dị đoan. Vì những lời thề nguyện sai trái ấy   
      chẳng những không có hiệu quả mà còn có thể phạm tội là   
      đàng khác. Hoặc chúng ta không cần phải nguyện chi cả mà   
      chỉ cầu mong được thoát khỏi kiếp luân hồi.   
      
      BỔN PHẬN   
      ÐỐI VỚI CHA MẸ   
      
      Theo Phật Giáo đối   
      với cha mẹ cái ơn mà người con mang trong lòng không thể nào   
      lường được, dù cho con có phải vì cha mẹ hy sinh đến tánh   
      mạng đi nữa cũng chỉ có thể đáp lại phần nào trong muôn   
      một công ơn sanh thành dưỡng dục mà thôi. Vì vậy đức   
      Thế Tôn có dạy bổn phận làm con đối với cha mẹ có 5 pháp:   
      
        1. Nuôi dưỡng cha mẹ   
        (Bharaṇa). 
        2. Làm việc thay thế cha mẹ (Kiccakaraṇa).   
        3. Gìn giữ gia tộc được bền vững (Kulavaṃ saṭhapana).   
        4. Nết hạnh xứng đáng hưởng gia tài (Dayajjā   
        hapaṭipajjana). 
        5. Tạo phước hồi hướng khi cha mẹ đã quá vãng (Dakkhināṇuppadāna).   
       
      Cha mẹ là nguồn hạnh   
      phúc vô bờ bến của các con, vậy bổn phận làm con, chúng   
      ta hãy tôn trọng ý muốn của cha mẹ, trong lời nói, trong   
      việc làm, cách đi đứng, trong tác phong hằng ngày, phải   
      tạo cho cha mẹ đời sống an nhàn, làm việc giúp đỡ cha   
      mẹ hy sinh những thích thú riêng mình để làm vui lòng cha   
      mẹ. Giữ tiếng tốt cho gia đình, dù cha mẹ khuất bóng, luôn   
      luôn tôn trọng thanh danh gia tộc như vật thiêng liêng cao   
      cả. 
      Về mặt tinh thần, chúng   
      ta không phải chỉ lo cho cha mẹ được đầy đủ tiện nghi   
      vật chất là đủ, mà còn phải cố gắng tạo lập cho cha   
      mẹ một đời sống tinh thần an vui hạnh phúc; hướng dẫn   
      cha mẹ sống một cuộc đời đạo hạnh, bố thí, trì giới,   
      tham thiền. Khi cha mẹ quás vãng, các con làm điều thiện,   
      hồi hướng những quảr lành đó cho cha mẹ, vì khi cha mẹ   
      qua đời đôi khi thọ sanh vào khổ cảnh, hằng ngày mong chờ   
      thọ hưởng những phần phước cao quí của thân nhân quyến   
      thuộc để có thể được siêu thoát, những hành động đó   
      vẫn đem lại hạnh phúc cho người con hiếu thảo và cũng để   
      tỏ lòng tri ân cha mẹ, hầu nêu gương hiếu đạo cho con cháu   
      noi theo. Nếu người con có đầy đủ năm điều Phật dạy trên   
      sẽ tạo cho mình trở nên một người con hiếu để, được   
      mọi người kính vì và tạo cho mình một sự hạnh phúc cao   
      thượng hiệp theo lẽ đạo.   
      
      CHA MẸ ÐỐI   
      VỚI CON   
      
      Lòng thương lai láng   
      của cha mẹ tựa hồ như nước mưa từ không trung rơi   
      xuống, đem lại bao nhiêu hạnh phúc cho các con, không màng đến   
      sự biết ơn. Thật vậy người làm cha mẹ không bao giờ trông   
      dợi sự đền ơn trả thảo của con, một người cha lành,   
      một người mẹ cao quí bao giờ cũng dành để cho con tất   
      cả cái gì quí báu nhứt của mình, hy sinh tất cả và tìm   
      hạnh phúc an vui của chính mình trong sự an vui hạnh phúc   
      của con, dù giàu hay nghèo cha mẹ luôn luôn nghĩ đến vấn đề   
      giáo dục cho con, nếu phải tiêu xài bao nhiêu tiền của cũng   
      không tiếc. Niềm vui sướng nhứt đời của cha mẹ là thấy   
      con được nên người và sống đầy đủ trong sự yên lành   
      vui vẻ.   
      Một khi cha mẹ muốn   
      dắt dẫn con đi con đường thiện, cha mẹ phải làm gương,   
      sống cuộc đời hiền lương đạo đức, con cái sẽ xu hướng   
      theo hành động của cha mẹ và làm những việc của cha mẹ làm   
      không cần hiểu lý do. Rất khó gặp được đứa con cao thượng   
      khi cha mẹ hư hèn, cũng như cha mẹ đạo đức mà con cái hư   
      hỏng, đó cũng do nghiệp lực của tiền kiếp, nhưng cũng   
      ảnh hưởng một phần nào của cha mẹ mà thôi.   
      Vậy làm cha mẹ phải   
      thận trọng trau dồi thân, khẩu cho trong sạch để tránh   
      truyền nhiễm những tật xấu cho con về tinh thần và thể xác.   
      Theo Phật giáo sau khi sinh thành, lúc dưỡng dục cha mẹ còn có   
      năm đức độ đối với con:   
      
        1- Ngăn cấm không cho   
        con làm điều ác (Pāpā ṇivārenti).   
        2- Hướng dẫn con làm điều lành (Kalyāṇo nivesenti).   
        3- Cho con học hỏi nghề nghiệp (Sippaṃ sikkhāpenti).   
        4- Dựng vợ gả chồng cho con tùy gia phong (Paṭirupena   
        dārena saṃ yojenti).   
        5- Chia của cải cho con hợp thời (Samaye dāyajjaṃ a   
        niyyādenti). 
       
      Trên đây là năm điều   
      căn bản của cha mẹ đối với con nam, nữ với tất cả lòng   
      bao dung độ lượng. Ngược lại nếu thiếu năm điều căn   
      bản trên, kẻ làm cha mẹ không thể hiện đầy đủ bổn   
      phận của mình đối với con cái.   
      
      BỔN PHẬN   
      ÐỐI VỚI CHỒNG   
      
      Ðức tánh tự nhiên   
      thuộc về những gì gọi là mềm mại, yếu ớt hay nhu mì   
      v.v... thì thường thường tượng trưng cho nữ giới. Nên xưa   
      nay nữ giới được xem như đại diện cho thành phần vừa   
      kể. 
      Hôn nhân là cuộc sống   
      chân thành giữa người vợ và người chồng, nhưng nhiều người   
      đã làm cho đời sống gia đình trở thành một tội khổ, vì   
      thiếu hiểu biết, thiếu khoan hồng và thiếu kiên nhẫn.   
      Nếu chồng có một vài khuyết điểm vợ có thể sửa đổi   
      bằng cách êm ái, dịu dàng, nhắc nhở và chịu đựng. Ngoài   
      ra người vợ cũng phải biết đỡ đần những công việc để   
      không làm phiền đến chồng..., được vậy đời sống gia đình   
      mới hạnh phúc. Theo Phật giáo đức Phật có dạy người   
      vợ cần phải có năm đức tính sau đây:   
      1. Biết sắp đặt việc   
      nhà vén khéo (Susanvihitakammantā).   
      
        Như đã nói vợ là nhân   
        vật quan trọng trong gia đình. Bởi mỗi khi có người xa   
        gần thăm viếng gia đình, nhà cửa được khen bị che là vén   
        khéo hay vụng về cũng do người nội trợ.   
       
      2. Sự tiếp đãi và giúp   
      đỡ quyến thuộc chồng như của mình (Susangahitaparijanā).   
      
        Sự lo lắng, cung   
        phụng của người vợ, cũng như kính trên nhường dưới đối   
        với thân tộc của mình như thế nào thì người vợ kính   
        mến chồng cũng áp dụng đối với quyến thuộc nhà chồng   
        như của mình, đó là một đức tính tốt của người vợ   
        hiền trong gia đình.   
       
      3. Biết giữ của chồng   
      giao phó (Sambahañca anurakkhati)   
      
        Của cải chồng giao phó   
        cất giữ, không nên tùy tiện xài phung phí, cờ bạc, đút   
        lòn, cho riêng thân quyến mình. Bởi sự lén lút không thành   
        thật với nhau, hạnh phúc sẽ bị đổ vỡ, sợi dây thân   
        ái của đôi tâm hồn được bền chặt hay không đều do   
        sự khôn khéo của người vợ trên lãnh vực này.   
       
      4. Không tư tình (Anaticārinī).   
      
        Ðiều tà dục là một   
        trong năm giới cấm trong Phật giáo. Vì là nguyên nhân   
        khiến cho hạnh phúc gia đình tan nát và từ đó sẽ đưa   
        con người sa vào bốn con đường ác đạo.   
       
      5. Giỏi dắn, siêng năng   
      mọi việc trong gia đình (Dakkā ca hoti analasā sabbakiccesu).   
      
        Mọi việc trong gia đình   
        là bổn phận của người vợ, từ việc nhỏ đến việc to   
        đều phải chu toàn.   
       
      Trên đây là những Pháp   
      của vợ hiền đối với chồng, là những đức tánh không   
      thể khiếm khuyết được của bất cứ một người vợ lý tưởng   
      nào. Nếu họ muốn cho gia đình được bảo tồn hạnh phúc   
      thì phải học hỏi và áp dụng cho gia đình mình.   
      
      BỔN PHẬN   
      ÐỐI VỚI VỢ   
      
      Nói về một người   
      chồng đúng nghĩa trong gia đình phải có nhiều tư cách tốt   
      đối với người vợ, để xứng đáng cho vợ hiền kính   
      mến và thương yêu. Người chồng cũng không nên đối xử   
      với vợ như người làm trong nhà, mặc dù chính mình là người   
      "tạo nồi cơm" cho gia đình, phải giúp vợ tạo hòa   
      khí yên vui. Trong kinh Singālovāda-sutta, Ðức Phật có dạy rằng   
      đối với gia đình muốn được thành công như ý, người   
      chồng phải có năm pháp sau đây:   
      1- Thương mến và nói  
      lời dịu ngọt đối với vợ (Sammānañāya).  
      
        Phàm người chồng đứng  
        đắn, ở với nhau đến răng long tóc bạc con đàn cháu đủ  
        cũng luôn luôn có hành vi lịch sự đối với vợ hiền, dù  
        bất cứ ở hoàn cảnh nào.  
       
      2- Không khinh bỉ hà  
      hiếp vợ (Avimānañāya).  
      
        Người đàn ông không  
        bao giờ sử dụng quyền thế khinh bỉ hay đánh đập vợ, dù  
        có thiếu một trong những phận sự của người đàn bà đối  
        với gia đình: Tòng phụ, tòng phu, tòng tử.  
       
      3- Không tư tình khiến  
      vợ ghen tương sầu não (Anaticariyāya).  
      
        Chồng đứng đắn luôn  
        luôn một lòng thương vợ, không tư tình để hạnh phúc gia  
        đình tránh khỏi sự tan nát đổ vỡ.  
       
      4- Phải tin cậy và phó  
      thác cho vợ các công việc nội trợ (Issariyavossaggena).  
      
        Tâm lý người đời ai  
        cũng vậy, riêng đối với gia đình thì vợ chồng đều  
        phải có bổn phận đối với gia đình riêng của mình, khi  
        có bổn phận tức là họ phải có quyền hành. Mọi việc  
        trong ngoài có liên quan với gia đình, người chồng chẳng  
        những giao trọn quyền cho vợ và trực tiếp khuyến khích mà  
        phải bàn bạc trước khi quyết định một công việc gì.  
        Phải tin cậy vợ không để sự nghi kỵ nẩy nở khiến tình  
        thương yêu đầm ấm đối với vợ bị lợt lạt hay mai  
        một. 
       
      5- Sắm cho vợ những  
      vật trang điểm tùy sức (Alankārānupadānena).  
      
        Ở đời con người dù  
        thuộc lãnh vực nào của cải đều có giới hạn, nên nói  
        rằng tùy sức hay khả năng, là vì ý muốn dạy con người  
        phải thực hiện cho bằng được dù ít hay nhiều cũng  
        phải có cho những điều cần thiết, vì thiếu nó thì  
        hạnh phúc sẽ không thành đạt.  
       
      Trên đây là những pháp  
      mà bất cứ người đàn ông nào cũng phải học hỏi, cũng có  
      thể nói đó là năm đức tánh tốt của người chồng đối  
      với vợ. Ðó là đức tánh không thể thiếu được nếu ai  
      muốn gia đình đuợc dồi dào hạnh phúc hiệp theo lẽ đạo.  
      
      BỔN PHẬN  
      HỌC TRÒ ÐỐI VỚI THẦY  
      
      Ðể đáp lại đức độ  
      cao cả của một vị thầy đã dày công dạy dỗ dù văn hay võ,  
      đời hay đạo cũng là thầy. Nhưng theo Phật giáo thì Thầy  
      giáo dục đạo đức là vị thầy rất cao quí, vì thầy dạy  
      có tánh cách hướng dẫn học trò ra khỏi thế gian, không như  
      thầy giáo dạy chữ nghĩa hay võ nghệ vì còn luân chuyển  
      trong thế gian. Chúng ta hãy ghi nhớ dù một giờ hay một ngày  
      người giúp ta mở mang trí tuệ, học những điều hay cũng là  
      một vị thầy đáng cho ta kính trọng và biết ơn. Theo Phật  
      giáo học trò đối với thầy phải có đầy đủ năm điều  
      sau đây:  
      
        1- Ðứng dậy tiếp rước  
        khi thầy đến (Utthānena).  
        2- Hầu hạ thầy y như thì giờ được ấn định (Paccuppaṭṭhānena).  
        3- Nên vâng lời thầy dạy bảo (Sussusāya).  
        4- Hầu hạ giúp đỡ công việc lặt vặt cho thầy (Paricariyāya).  
        5- Phải kính trọng thầy trong giờ học (Sakkaccaṃ  
        sippuggahaṇena). 
       
      Qua năm điều vừa kể,  
      chúng ta cũng đã nhận rõ được vai trò của mình là những  
      đứa học trò phải làm gì để đối với thầy Tổ. Chúng  
      ta chỉ y cứ bấy nhiêu lời đã được thốt ra kim khẩu  
      của Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã lưu tâm, đã rải  
      lòng từ bi, tế độ chúng ta để trở nên những người  
      học trò tốt, đối với đức dộ khả kính của một vị  
      thầy. Chúng ta nên hết lòng học hỏi và thực hành để  
      vẹn toàn tài đức mai hậu.  
      
      BỔN PHẬN  
      THẦY ÐỐI VỚI HỌC TRÒ  
      
      Người đời ai cũng có  
      bổn phận. Ðối với gia đình cha mẹ có bổn phận lo cho con  
      nên người; đối với quốc gia thì một vị Vua phải có  
      bổn phận lo cho công dân an cư lạc nghiệp. Cũng vậy, đối  
      với học trò thì thầy phải làm sao cho vuông tròn, xứng đáng  
      là một vị Tổ sư.  
      Một vị thầy là người  
      phải hết lòng tận tâm, tận lực dắt dẫn học trò, có  
      bổn phận chỉ dạy và thương yêu chúng, giúp chúng mở mang  
      trí tuệ hầu trở nên một người con ngoan trong gia đình và  
      một công dân tốt cho quốc gia. Thầy có một trách nhiệm tương  
      đương như cha mẹ, nên cần đòi hởi có một đức tính cao  
      cả, một trách nhiệm và lòng vị tha như nhau. Theo Phật giáo  
      thầy đối với học trò có năm điều:  
      
        1- Dạy dỗ để chúng  
        trở nên người học trò tốt (Suvinītamaṃ vinenti).  
        2- Giảng dạy, huấn luyện chúng trở nên tài giỏi (Suggahitaṃ  
        gāhāpenti). 
        3- Cần mẫn, giảng dạy đầy đủ (Sabbasippesu  
        tamsamakkhāyinobhavanti). 
        4- Khen thưởng học trò trước bạn bè và những người có  
        chức phận (Mittāmaccesu pativedenti).  
        5- Có thiện ý bảo bọc học trò mọi phương diện (Disāsu  
        parittānaṃ karonti).  
       
      Vì vậy, nếu muốn trở  
      nên một vị thầy tốt đối với học trò thì trên đây là  
      năm yếu tố căn bản để giúp một vị thầy thành công.  
      Vậy ta nên suy sét và nhận định rõ ràng những điều ấy  
      để được kết quả như ý theo Phật ngôn.  
      
      BỔN PHẬN  
      CHỦ ÐỐI VỚI TÔI TỚ  
      
      Ðạo đức là nền  
      tảng của con người. Người có đạo đức đối với đời  
      hay đạo là những đóa hoa tươi thắm giúp cho con người nhìn  
      thấy an vui và hạnh phúc. Vì thế, là chủ có đầy đủ oai  
      quyền đối với tôi tớ, dù ta có hành hạ, chửi mắng, đày  
      đọa thế mấy kẻ tôi đòi cũng phải dằn lòng chịu đựng  
      vì biết thân phận mình. Vậy là chủ hơn bao giờ hết chúng  
      ta phải mở lòng rộng lượng đối với kẻ dưới tay, nên  
      thưởng phạt công minh, dù sao họ cũng là một con người, mà  
      là con người kém may mắn sống một cuộc sống vất vả, đi  
      làm hầu tìm kiếm đồng lương để nuôi nấng kiếp sống  
      tạm bợ này mà thôi, thì sự giúp đỡ hay thương yêu họ cũng  
      là một đức tánh thể hiện lòng từ bi, nhân ái của ta đối  
      với họ. Theo đạo Phật người chủ phải có năm điều đối  
      với tôi tớ:  
      
        1- Phân công tùy sức  
        lực người (Yathā-balam kammanta savidhānena).  
        2- Cung cấp thực phẩm và tiền công đúng mức (Bhattavettanānuppadānena).  
        3- Ân cần săn sóc tôi tớ khi có bệnh (Gilānuppaṭṭhanena).  
        4- Chia sớt món ngon vật lạ khi có (Acchariyānaṃ rasānaṃ  
        saṃ vibhāgena). 
        5- Nên cho dưỡng sức trong khi mệt nhọc (Samaye vossaggena).  
       
      Chúng ta xét thấy năm pháp  
      vừa kể chứa đựng đầy tình thương của con người đối  
      với con người, là những câu Phật ngôn vô cùng quý giá  
      rất đáng cho chúng ta noi theo. Nếu con người ý thức được  
      lời cao cả ấy của đức Như Lai thì chúng ta đương nhiên có  
      một đức hạnh đáng khen vậy.  
      
      BỔN PHẬN  
      TÔI TỚ ÐỐI VỚI CHỦ  
      
      Làm người khó, chịu khó  
      để trở nên một con người trọn vẹn, nhất là làm tròn  
      bổn phận của mình đối với mọi người, mọi giới, để  
      được vuông tròn thì ít nhất ta cũng phải ý thức được  
      trách nhiệm của mình đối với phận sự mà mình gánh vác.  
      Nên bổn phận tôi tớ đối với chủ là một việc khó, vì  
      phải thực hiện đúng mức trách nhiệm của mình để khỏi  
      phụ lòng chủ và cũng để xứng đáng ở đồng lương mà mình  
      đã thọ hưởng và sự tin cậy ở những người chủ xứng  
      đáng. Theo giáo lý nhà Phật có dạy tôi tớ đối với chủ  
      có năm pháp:  
      
        1- Phải luôn thức  
        sớm làm việc trước chủ (Pubbaṭṭhāyino).  
        2- Phải luôn nghỉ sau chủ (Pachānipatino).  
        3- Chỉ lấy vật nào chủ đã cho (Dinnādāyino).  
        4- Nên chú ý cẩn thận và kỹ lưỡng khi làm việc (Sukatakammākārakā).  
        5- Nên nói những điều tốt của chủ (Kittivaṇṇharā).  
       
      Muốn thể hiện bổn  
      phận của một người tôi tớ cao đẹp, thiết nghĩ không gì  
      hơn ta hãy căn cứ theo lời Phật dạy trên. Bởi nếu là  
      một Phật tử chân chính thì bao giờ cũng phải lấy pháp  
      Phật để áp dụng cho đời sống hiện tại, sự thành công  
      tốt đẹp của một người Phật tử thì đối với kẻ tôi  
      tớ dù là Phật tử hay ngoại đạo cũng sẽ thành công ít  
      nhiều tùy đức tin của mỗi cá nhân.  
      Vậy thiết tưởng chúng  
      ta cũng nên lấy kim ngôn cao thượng của Chư Phật để làm  
      mẫu mực, và tin rằng sẽ được thành công không khó.  
      
      BỔN PHẬN  
      ÐỐI VỚI BẠN HỮU  
      
      Tục ngữ ta có câu:  
      "Học thầy không tày học bạn", thầy là người  
      dạy mình, lẽ tất nhiên học thầy rất nhiều, nhưng bạn là  
      người ở gần mình hơn, khi tâm sự, lúc vui đùa, bạn ảnh  
      hưởng tới mình rất nhiều, nếu bạn hay thì mình tiêm  
      nhiễm được cái hay của bạn, nếu bạn dở mình cũng bị lây  
      cái dở của bạn nên ta học bạn nhiều hơn học thầy. Nghĩa  
      bóng câu này nói tới ảnh hưởng của bè bạn đối với  
      nhau là mạnh, người ta có thể nhờ bạn mà tấn tới được.  
      Vậy, bạn bè rất hệ  
      trọng đối với đời sống con người, chúng ta nên giữ tình  
      bạn được bền chặt để khi hữu sự trên bước đường  
      đời không bị lẻ loi. Phật giáo có dạy rằng đối với  
      bạn bè bằng những pháp sau đây:  
      
        1- Cho tiền của đến  
        bạn (Dānena).  
        2- Nói lời tao nhã với bạn (Piyavajjena).  
        3- Tạo nên điều lợi ích cho bạn (Atthacariyāya)  
        4- giữ tâm tính bình đẳng đối với bạn (Samānattatāya)  
        5- Không có ý dối để giấu giếm chuyện riêng với bạn (Avisaṃ  
        vādanatāya) 
       
      Thiết tưởng không phép  
      lạ nào hơn lời vàng ngọc của Ðức Chí Tôn. Ngài là thầy  
      chẳng những của nhân loại mà của cả chư Thiên nữa.  
      Vậy, nếu chúng ta căn cứ theo Phật ngôn để áp dụng cho đời  
      sống thường nhật thì tưởng không có gì quí báu cho bằng.  
      Nên để sự duy trì tình bạn được tốt đẹp, chúng tôi  
      khuyên mọi người nên thành tâm y theo lời được miêu tả  
      trên. 
      
      BỔN PHẬN  
      ÐỐI VỚI CHÚNG SANH  
      
      Chúng ta là người Phật  
      tử ai cũng biết rõ tôn chỉ từ bi của đức Thích Tôn. Lòng  
      từ bi bác ái của nhà Phật không hẹp hòi như của kẻ phàm  
      phu, là một tinh thần rộng bao la chẳng những riêng đối  
      với gia đình, với giống nòi, với quốc gia, với nhân loại  
      mà đối cả với toàn thể chúng sanh không giới hạn. Vị  
      Phật Tổ ra đời trước đây 25 thế kỷ, Ngài trước tiên cũng  
      vì nhận thấy sự khốn khổ triền miên của chúng sanh; nên  
      Ngài hy sinh cuộc đời vương giả, nhung lụa để đổi lấy  
      màn trời chiếu đất, còn da bọc xương, để mưu cầu hạnh  
      phúc cho muôn loài vạn vật chứ nào phải của riêng Ngài,  
      của Hoàng tộc hay của Trung Ấn Ðộ. Chúng sanh vì không  
      hiểu được sự vô thường biến đổi của vạn vật, khổ  
      não, vô ngã của thể chất và tâm hồn, vì là phàm tình  
      chỉ biết mê say trụy lạc với cảnh phù du mà lầm tưởng  
      rằng vĩnh cửu.  
      Sanh ra ở đời con người  
      đã phải chịu thọ hưởng những cảnh khổ của sự sanh, già,  
      đau chết. Chúng ta có cùng một kiếp sống tạm bợ, thì sao  
      chúng ta không thương yêu nhau?  
      Ðối với Phật giáo, chúng  
      sanh là những con người, những con vật có thức tánh, song  
      sở dĩ khác nhau ở giàu, nghèo hay người, thú lớn, nhỏ là  
      vì nghiệp lực của mỗi chúng sanh đã tạo tác mà thôi. Vì  
      vậy, đức Thế Tôn nhắn nhủ chúng ta hãy thể hiện lòng  
      từ bi của người con Phật, chẳng những riêng cho cá nhân  
      hay nhóm người, mà đối với chúng sanh vô hạn định, có như  
      thế sự an vui tuyệt đối mới đến với ta. Trên đây là  
      một vài nét đại cương về bổn phận của người Phật  
      tử đối với chúng sanh, Phật tử chúng ta đã, đang và sẽ  
      mãi mãi duy trì đức tính từ bi. Chúng ta áp dụng cho ta, cho  
      mọi người không phân biệt thân sơ hay màu da chủng tộc, thú  
      hay người; đó là đức tính đại từ bi của chư Phật Tổ  
      và Phật tử khắp năm châu.  
      
      PHẬT TỬ  
      VỚI PHÁP LỤC HÒA  
      
      Phật giáo dạy người  
      Phật tử phải đối đãi với nhau bằng pháp Lục Hòa. Từ  
      việc nhỏ đến việc lớn, đạo cũng như đời đều phải có  
      sự hòa hợp mới thành tựu. Trong gia đình có sự hòa hợp  
      thì sẽ có hạnh phúc; một quốc gia có sự hòa hợp sẽ được  
      thịnh vượng; nhân loại có sự hòa hợp thì sẽ có hòa bình  
      an lạc.  
      Lục Hòa có sáu pháp, cư  
      xử với nhau cho thuận hòa, sự hòa thuận của đạo Phật là  
      để đoạt được mục đích giải thoát; sau đây là sáu pháp  
      Lục Hòa:  
      1- Thân hòa: Cùng ở  
      chung hòa hợp một nơi (Mettaṃ kāyakammaṃ).  
      
        Con người nếu biết hòa  
        hợp thì dù không cùng huyết thống, nhưng khi đã sống  
        chung, có chung một ý tưởng, một mục đích cao cả, dù ở  
        chung bao nhiêu và bao lâu cũng có thể hòa thuận được.  
       
      2- Khẩu hòa: Lời nói ôn  
      hòa không tranh cãi (Mettaṃ vacīkammaṃ).  
      
        Chúng ta chỉ có thân hòa  
        nhã với nhau chưa đủ, mà cần phải có cả khẩu hòa  
        nữa. Khẩu luôn luôn nói lời dịu dàng, hòa nhã, không  
        tranh cãi. Người có khẩu hòa gặp việc gì đem ra bàn cãi  
        cho ra lẽ, thì cũng dùng lời nói ôn hòa nhã nhặn để bàn  
        luận. 
       
      3- Ý hòa: Ý kiến hay tán  
      thành  (Mettaṃ manokammaṃ).  
      
        Người Phật tử phải  
        luôn luôn có tâm tánh hòa hiệp vui vẻ không thù hiềm ganh  
        tỵ, bên trong tâm tính không còn thắc mắc, ganh ghét chất  
        chứa. Muốn có ý hòa thì phải có tâm hỷ xả bỏ những  
        điều buồn phiền, tư tưởng chơn chánh thì tâm mới hòa  
        hợp. 
       
      4- Lợi Hòa: Lợi lộc  
      hợp pháp nên chia nhau thọ hưởng (Lābhā dhammikā).  
      
        Khi có được sự lợi  
        lộc chơn chánh phát sanh ta nên sống hòa hợp, nghĩa là cân  
        phân đồng đều và chia xẻ cho nhau thọ hưởng, không thiên  
        vị, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu.  
       
      5- Giới hòa: Ðồng y  
      giới luật tu hành (Sīlasāmaññagato).  
      
        Giới luật là phần  
        hệ trọng đối với người tu Phật cũng như trong xã hội,  
        các đoàn thể, các nhà trường hay gia đình, đều cần  
        phải có kỷ luật. Nếu một người hay một đoàn viên không  
        giữ kỷ luật thì đoàn thể, gia đình hoặc nhà trường đó  
        sẽ gặp nhiều trở ngại và sẽ bị tan rã. Mặt khác  
        giới hòa cũng có ý muốn ám chỉ tùy một luật lệ nào  
        của một tôn giáo.  
        Theo Phật giáo người  
        Phật tử tại gia phải có Ngũ giới, Bát quan trai giới. Ðối  
        với Tăng sĩ: Sa di có Thập giới, Tỳ Khưu Tăng: 227 giới,  
        Tỳ Khưu Ni: 311 giới. Mọi giới tu hành đều phải biết  
        bổn phận của mình gọi là Giới hòa.  
       
      6- Kiến Hòa: Kiến thức  
      chân chánh (Diṭṭhisāmaññagato).  
      
        Phật tử nên chỉ  
        dạy cho nhau cùng hiểu biết kinh luật nhà Phật; người  
        hiểu biết trước có bổn phận chỉ vẽ cho người sau cùng  
        lãnh hội. Ðiều này rất hệ trọng, vì sự hiểu biết  
        cần phải hiểu rõ chắc chắn chánh tà. Nếu sự hiểu  
        biết sai lầm, truyền giáo lại không đúng chánh pháp sẽ  
        trở thành tà vạy. Ngược lại sự hiểu biết chơn chánh  
        sẽ giúp cho ta những người liên hệ được an vui hạnh phúc  
        và phát sanh trí tuệ.  
       
      Vậy, người Phật tử  
      chúng ta áp dụng y theo pháp Lục Hòa mà đức Thế Tôn đã giáo  
      hóa, sẽ sống an vui và hợp theo lẽ đạo.  
      
      -ooOoo- 
       Ðầu  
      trang | 01 | 02  
      | 03 | 04 | 05  
      | 06 | Mục lục  |