|    | 
      
      III - CẦU AN VÀ  
      CẦU SIÊU 
      
      KINH CẦU AN 
      
      BÀI THỈNH TỲ KHƯU T ĂNG  
      TỤNG KINH CẦU AN  
      (PARITTABHĀSANĀYĀCAṄGĀTHĀ)
      
      
        Vipattippaṭibāhāyā 
        sabbasampatisiddhiyā 
        sabbadukkhavināsāya 
        parittaṃ brū tha maṅgalaṃ ,  
        Vipattippaṭibāhāya 
        sabbasampattisiddhiyā 
        sabbabhayavināsāya 
        parittaṃ brū tha maṅgalaṃ  
        Vipattippaṭibāhāya 
        sabbasampattisiddhiyā 
        sabbaroga-vināsāya 
        parittaṃ brū tha maṅgalaṃ .  
       
      
      Nghĩa: 
      Cầu xin các Ngài tụng  
      kinh cầu an, để ngăn ngừa, tránh khỏi các điều rủi ro tai  
      hại, cho đặng thành tựu những hạnh phúc, khiến cho tất  
      cả sự khổ não, kinh sợ và bịnh hoạn đều tiêu tan.  
      (lạy) 
      
      BÀI THỈNH PHÁP SƯ -  
      DHAMMA DASANĀYĀCANAGĀTHĀ  
      
      
        Brahmā ca lokā dhipatī  
        sahampatī 
        katañjalī andhivaraṃ ayācatha  
        santīdha sattāpparajakkhajātikā  
        desetu dhammaṃ anukampimaṃ pajaṃ  
        Saddhammabheriṃ vinayañca  
        kāyaṃ 
        suttañca bandhaṃ abhi-dhammacammaṃ  
        ākotayanto catusacca-daṇḍaṃ  
        pabbodha neyye parisāya majjhe.  
        Evaṃ sahampatī brahmā  
        bhagavantaṃ ayācatha  
        tuṇhībhāvena taṃ buddho  
        kāruññenādhivāsaya 
        tanhā vuṭṭhāya pādena  
        migadāyaṃ tato gato  
        pañca-vakyādayo neyye  
        amaṃ pāyesi dhammato  
        Tato pabhū ti sambuddho  
        anū nā dhammadesanaṃ  
        māghavāssāni desesi  
        sattānaṃ atthasiddhakaṃ  
        tena sādhu ayyo bhante  
        desetu dhammadesanaṃ  
        sabbāyidha parisāya  
        anukampampi kātave.  
       
      
      Nghĩa: 
      
      THỈNH PHÁP SƯ  
      
      
        Thuở Phật mới đạt  
        thành quả vị.  
        Có Xá ham bát tí Phạm thiên  
        Cả trong thế giới các miền,  
        Thanh cao quán chúng cần chuyên đạo mầu.  
        Hiện trước Phật đê đầu đảnh lễ,  
        Bạch xin Ngài tế thế độ nhơn.  
        Chúng sanh trong khắp cõi trần;  
        Tối mê điên đảo không phân tội tình.  
        Cầu Phật Tổ cao minh ái truất,  
        Hiển oai linh tỉnh thức dắt dīu,  
        Hoằng khai đạo pháp cao siêu,  
        Tu hành theo đặng kết nhiều thiện duyên  
        Thế Tôn được mãn viên đạo quí,  
        Tôi hết lòng hoan hỉ tán dương.  
        Nhưng vì hoàn cảnh đáng thương,  
        Không đành bỏ mặc, lạc đường làm thinh.  
        Chúng sanh vốn đa tình lắm bậc,  
        Không thông đâu chơn thật giả tà.  
        Vô thường khổ não chấp ta,  
        Ngày nay sơ ngộ thiết tha nhờ Ngài.  
        Xin mở lượng cao dày răn dạy,  
        Chuyển pháp luân diễn giải diệu ngôn.  
        Chúng sanh nghe đặng pháp môn,  
        Thoát vòng khổ não dập dồn bấy lâu.  
        Giải thoát những nguồn sầu câu thúc,  
        Diệt tham lam ái dục bao vòng.  
        Tối tăm sẽ được sáng trong,  
        Phát sanh trí tuệ hiểu thông tinh tường.  
        Thông thấu lẽ vô thường vắn dỏi.  
        Ba tướng trong ba cõi mỏng manh.  
        Vô minh duyên của các Hành,  
        Cội căn dắt dẫn chúng sanh luân hồi.  
        Biển trần khổ nổi trôi chìm đắm,  
        Bị ngũ ma vày, nắm chuyển di,  
        Vậy nên cầu đấng Từ Bi,  
        Tạo thuyền Bát nhã trải đi vớt người.  
        Ðưa qua chốn tốt tươi yên tịnh,  
        Bờ Niết Bàn chẳng dính trần ai;  
        Như đèn rọi suốt trong ngoài,  
        Chiếu tia sáng khắp các loài hân hoan.  
        Pháp ví trống khải hoàn rầm rộ,  
        Luật ví như đại cổ hoằng dương.  
        Kinh như dây buộc trên rường.  
        Luận như mặt trống vẹt đường vô minh  
        Tứ diệu đế đó hình dùi trống,  
        Gióng khua tan giấc mộng trần gian.  
        Chúng sanh tất cả bốn hàng,  
        Như sen trong nước minh quang luống chờ.  
        Trời lố mọc đặng nhờ ánh sáng,  
        Trổ hoa lành rải tản mùi hương.  
        Pháp mầu ánh sáng phi thường,  
        Chiếu khắp ba cõi rõ đường an vui.  
        * 
        Phạm Thiên vẫn ngậm ngùi khẩn khoản.  
        Phật nhận lời nhưng chẳn dĩ hơi.  
        Quyết lòng mở đạo dạy đời,  
        Nhắm vườn Lộc Giả ngài dời chơn sang.  
        Thuyết pháp độ các hàng đệ tử,  
        Có năm Thầy thỉnh dự pháp từ  
        Ðó là nhóm Kiều Trần Như,  
        Ðược nếm hương vị Hữu dư Niết Bàn.  
        Rồi từ đó mở mang giáo pháp,  
        Bốn mươi lăm hạ giáp vẹn toàn.  
        Một lòng chẳng thối không mòn.  
        Những điều lợi ích hằng còn lâu năm.  
        Cả tam giới thừa ân phổ cập,  
        Ðám mưa lành rưới khắp thế gian.  
        Bởi nhân cớ, tích rõ ràng,  
        Thỉnh Ngài thuyết pháp noi đàng từ bi.  
        Chúng sanh ngồi khắp chốn ni,  
        Tối mê cầu được trí tri vẹn toàn. 
        
        (lạy) 
         
        
        PATIDĀNAGĀTHĀ (KINH  
        HỒI HƯỚNG SAU KHI NGHE PHÁP)  
        
        
          Yā devatā santi  
          vihāravāsinī 
          Thū pe ghare bodhighare tahiṃ tahiṃ.  
          Tā dhammadānena bhavantu pū jitā.  
          Sotthiṃ karontedha vihāramaṇdale.  
          Therā ca majjhā navakā  
          ca bhikkhavo,  
          Sārāmikā, dānapatī upāsakā  
          Gāmā ca desā nigāmā ca issarā,  
          Sappānaphū tā sukhitā bhavantute  
          Jalābujā ye pica  
          aṇḍasambhavā 
          Sansedajātā athavopapātikā;  
          Niyyānikaṃ dhammāvaraṃ paticcate  
          Sabbe pi dukkhassa karontu sankhayaṃ .  
          Thātu ciraṃ sataṃ  
          dhammo. 
          Dhammaddharā ca puggalā.  
          Saṅgho hotu samaggo va  
          Atthāya ca hitāya ca.  
          Amhe rakkhatu saddhammo  
          Sabbe pi dhammacārino.  
          Vuḍḍhiṃ sampāpuneyyāma  
          Dhammāriyappavedite  .
      
      Nghĩa: 
      
        Ngưỡng cầu các đấng  
        chư Thiên.  
        Trong vòng tịnh xá ngự yên hằng ngày.  
        Ngự nơi đền tháp xưa nay,  
        Những nơi biệt thất nơi cây Bồ đề.  
        Chúng tôi xin hội họp về,  
        Sẽ dùng pháp thí tiện bề cúng dâng.  
        Rồi xin hộ độ chư Tăng,  
        Cửa từ ẩn náo phước hằng hà xa.  
        Tỳ Khưu chẳng luận trẻ già,  
        Cao hạ, trung hạ hoặc là mới tu.  
        Thiện nam tín nữ, công phu,  
        Ðều là thí chủ đồng phù trợ nhân.  
        Những người trong khắp thôn lân.  
        Kiều cư châu quận được phần an khương.  
        Chúng sanh bốn loại không lường  
        Noãn, thai, thấp, hóa khi nương pháp lành.  
        Giải thoát pháp bảo nên hành,  
        Ðặng mà dứt khổ truyền quanh đọa đày.  
        Cầu cho hưng thạnh lâu dài,  
        Pháp thiện trí thức các Ngài mở mang.  
        Bậc tu xin được bình an,  
        Cầu cho Tăng chúng các hàng hòa nhau;  
        Lại thêm phẩm hạnh thanh cao,  
        Những quả lợi ích kết mau kịp thì.  
        Cầu xin pháp bảo hộ trì,  
        Cho người tu đã quy y Phật rồi.  
        Xin cho cả thảy chúng tôi,  
        Tấn hóa trong pháp Phật roi giáo truyền.  
       
      
      MĀTĀ PITU PANĀMA  
      GĀTHĀ 
      
      
        Yadājāto cayo vāhaṃ  
        Dukkhaṃ mātā pituhime  
        Anuphū ttaṃ navaṇṇituṃ  
        Hatthaṃ pagayha vandito  
        Dosaṃ khamathameyeva  
        Tumhe dethābhayampi ca  
        Rudhitassevametumhe 
        Sugitamuppagettha ve  
        Nipajjāpetha maṃ amhaṃ  
        Malamuttampi sakalaṃ  
        Hatthena te gahetvā va  
        Dhovitthāpi ca sabbaso  
        Tuṃhe anāgate kāle  
        Amma karuṇṇike have  
        Puttadhitutta mātā ta  
        Buddhāyeva bhaveyyā tha.  
       
      
      Nghĩa: 
      
      LỄ BÁI PHỤ MẪU KỆ  
      
      
        Kính thưa cha mẹ tường  
        tri 
        Nghĩ suy con sợ lỗi nghì ơn trên  
        Từ con hình thể có nên  
        Mẹ cha bảo dưỡng kề bên không rời  
        Nặng nề cực nhọc lắm ôi!  
        Chăm nom con trẻ kể thôi sao cùng  
        Con xin đảnh lễ cúc cung  
        Nghiêng mình phủ phục mong dung tội rày.  
        Khi con la khóc rày tai  
        Từ bi mẹ hát thương thay não nùng  
        Tân dịch, đại tiểu tiện cùng  
        Các vật uế trược ung dung lau chùi  
        Giặt rửa cha mẹ vẫn vui  
        Chẳng hề nhờm gớm những mùi thúi tha.  
        Từ bi thay! Lòng mẹ cha  
        Ơn tầy trời đất, khó mà đáp xong  
        Cầu cho cha mẹ thảy đồng  
        Ðắc thành Phật quả thoát vòng tai ba.  
       
      
      BÀI SÁM HỐI  
      
      (Tụng đêm 14 và 30 trong  
      mỗi tháng)  
      
        Cúi đầu lạy trước  
        Bửu Ðài.  
        Con xin sám hối từ rày ăn năn;  
        Xưa nay lỡ phạm điều răn  
        Do thân, khẩu, ý bị màn vô minh;  
        Gây ra nghiệp dữ cho mình,  
        Sát sanh hại vật chẳng tình xót thương  
        Giết ăn hoặc bán không lường.  
        Vì long tham lợi quên đường thiện nhân.  
        Oan oan tương báo cõi trần,  
        Trầm luân biển tối chịu phần khổ lao;  
        Xét ra nhơn, vật khác nào.  
        Hại nhơn, nhơn hại mắc vào trả vay;  
        Lại thêm trộm sản cướp tài,  
        Công người cực nhọc hằng ngày làm ra;  
        Lòng tham tính bảy, lo ba,  
        Mưu kia, kế nọ, lấy mà nuôi thân;  
        Hoặc nuôi quyến thuộc xa gần,  
        Làm cho người phải lắm lần than van;  
        Tà dâm tội nặng muôn ngàn,  
        Liệu toan chước sách làm đàng chẳng ngay;  
        Vợ con người phải lầm tay,  
        Mất trinh thất tiết phải tai tiếng đời;  
        Xấu cha hổ mẹ nhiều lời,  
        Xa lìa chồng vợ rã rời lứa đôi;  
        Vọng ngôn giả dối ngoài môi,  
        Chuyện không nói có, có rồi nói không;  
        Dụng lời đâm thọc hai lòng,  
        Phân chia quyến thuộc, vợ, chồng, anh, em;  
        Mắng nhiếc chưởi rủa pha gièm.  
        Xóm làng cô bác chị em không chừa;  
        Nói lời vô ích dây dưa.  
        Phí giờ quí báu hết trưa đến chiều;  
        Uống rượu sanh hại rất nhiều,  
        Ham ăn mê ngủ nói điều chẳng kiên;  
        Say sưa ngã gió đi xiên;  
        Nằm bờ té bụi như điên khác nào;  
        Loạn tâm cuồng trí mòn hao,  
        Nhiều người vì rượu biết bao hư nhà;  
        Xan tham những của người ta,  
        Mong sang đoạt được lòng tà mới ưng;  
        Nết sân nóng giận không chừng,  
        Toan làm hại chúng bâng khuâng trong lòng;  
        Si mê tin chạ chẳng phòng,  
        Nghe đâu theo đó không thông chánh tà;  
        Chẳng tin Phật Pháp cao xa  
        Thậm thâm vi diệu bao la trên đời;  
        Nếu con cố ý phạm lời,  
        Hoặc là vô ý lỗi thời điều răn;  
        Hoặc xúi kẻ khác bạo tàn,  
        Hoặc nghe thấy ác lòng hằng vui theo;  
        Phạm nhằm ngũ giới thập điều.  
        Vì nhân thân, khẩu, ý, nhiều lầm sai;  
        Lỗi từ kiếp trước lâu dài,  
        Ðến kiếp hiện tại miệt mài lắm phen;  
        Hoặc vì tà kiến đã quen,  
        Khinh khi Tam Bảo lòng bèn chẳng tin;  
        Cho rằng người chết hết sinh,  
        Phạm vào đoạn kiến tội tình nặng thay,  
        Hoặc phạm thường kiến tội dày,  
        Sống sao đến thác, sanh lai như thường;  
        Tội nhiều kể cũng không lường,  
        Vì con ngu dốt không tường phân minh;  
        Dễ duôi Tam Bảo, hại mình,  
        Bởi nhân không thấu vô minh nghiệp tà;  
        Cho nên Chơn Tánh mới là,  
        Tối tăm chẳng rõ sai ngoa thuở đầu;  
        Hóa nên khờ dại đã lâu,  
        Ðể cho hoàn cảnh mặc dầu kéo xoay;  
        Khác nào bèo bị gió quay,  
        Linh đinh giữa biển dật dờ bờ sông;  
        Xét con tội nặng chập chồng,  
        Kiếp xưa cho đến hiện trong kiếp này;  
        Con xin sám hối từ đây,  
        Nguyện cầu Tam Bảo đức dày độ cho;  
        Tội xưa chẳng hạn nhỏ to,  
        Con nguyền dứt cả chẳng cho thêm vào;  
        Tâm lành dốc chí nâng cao,  
        Cải tà qui chánh chú vào Phật ngôn;  
        Cho con khỏi chốn mê hồn,  
        Ðến nơi cõi Phật Thế Tôn gần kề;  
        Thoát vòng khổ não tối mê,  
        Hưởng miền Cực Lạc mọi bề thảnh thơi;  
        Ngày nay dứt bỏ việc đời,  
        Căn lành gieo giống chẳng rời công phu;  
        Mặc ai danh lợi bôn xu,  
        Con nguyền giữ hạnh người tu thoát trần;  
        Trước là độ lấy bổn thân,  
        Sau giúp quyến thuộc được phần tiêu diêu;  
        Sám hối tội lỗi đủ điều,  
        Duyên lành đều cũng ít nhiều kết xây;  
        Tôi xin hồi hướng quả này,  
        Thấu đến quyến thuộc nơi đây cho tường;  
        Cùng là thân thích tha phương,  
        Hoặc đã quá vãng hoặc thường hiện nay;  
        Chúng sanh ba giới bốn loài,  
        Vô tưởng hữu tưởng chẳng nài đâu đâu;  
        Nghe lời thành thật thỉnh cầu,  
        Xin mau tựu hội lãnh thâu quả này;  
        Bằng ai xa cách chưa hay,  
        Cầu xin Thiên chúng mách ngay với cùng;  
        Thảy đều thọ lãnh hưởng chung,  
        Dứt rồi tội lỗi thoát vòng nạn tai;  
        Nguyện nhiều Tăng chúng đức tài.  
        Ðạt thành Thánh quả hoằng khai đạo lành;  
        Nguyện cho Phật Pháp thạnh hành.  
        Năm ngàn năm chẵn phước lành thế gian.  
       
      (lạy) 
      
      KINH  
      TỤNG RẢI TÂM BÁC ÁI đến tất cả các hướng -  
      (Sabbadisāsu mettāpharanaṃ)  
      
      Sabbe puratthimāyā disāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng đông, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho  
      được sự yên vui.  
      
      Sabbe puratthimāyā  
      anudisāya sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng đông nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho  
      được sự yên vui.  
      
      Sabbe dakkhiṇāya disāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được  
      sự yên vui.  
      
      Sabbe dakkhiṇāya anudisāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng tây nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho  
      được sự yên vui.  
      
      Sabbe pacchimāya disāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng tây, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy được  
      yên vui.  
      
      Sabbe pacchimāya anudisāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng tây bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho  
      được sự yên vui.  
      
      Sabbe uttarāya disāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng bắc đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được  
      sự yên vui.  
      
      Sabbe uttarāya anudisāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng đông bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy  
      cho được sự yên vui.  
      
      Sabbe uparimāya disāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng trên, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được  
      sự yên vui.  
      
      Sabbe heṭṭhimāya disāya  
      sattā averā sukhī hontu.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh trong hướng dưới, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho  
      được sự yên vui.  
      
      Sabbe sattā averā hontu,  
      sukhitā hontu niddukkhā hontu abyāpajjhā hontu, anīghā hontu  
      dīghāyukā hontu, arogā hontu, sampattīhi samijjhaṇtu sukhī  
      attānaṃ pāriharantu, dukkhappattā ca niddukkhā, bhayappattā ca  
      nibbhayā, sokappattā ca nissokā hontu sabbepi pāṇiṇo.  
      Nguyện cho tất cả chúng  
      sanh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui, đừng  
      có khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng, hãy cho  
      được sống lâu, đừng có bệnh hoạn, hãy cho được thành  
      tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được sự yên vui. Tất  
      cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ, đến  
      sự kinh sợ rồi, xin đừng cho kinh sợ, đến sự thương  
      tiếc rồi, xin đừng cho thương tiếc.  
      (Khi có sự lo sợ hoặc  
      tối, trước giờ ngủ nên thường tụng bài này, để rải tâm  
      bác ái đến tất cả chúng sanh, ắt sẽ hết lo sợ, được  
      yên vui).  
      
      KINH HỒI HƯỚNG  
      
      
        Yaṃ kiñci kusalakammaṃ ,  
        kattabbaṃ kiriyaṃ mama,  
        kāyena vācāmanasā,  
        tidase sugataṃ kataṃ ,  
        ye sattā saññino atthi,  
        ye ca sattā asaññino,  
        kataṃ puññaphalaṃ mayhaṃ  
        sabbe bhāgī bhavantute,  
        ye taṃ kataṃ ,  
        suviditaṃ dinnaṃ puññaphalaṃ mayā,  
        ye ca tattha najānanti,  
        devā gantvā nivedayuṃ,  
        sabbe lokamhi ye sattā,  
        jīvantāhārahetukā, 
        manuññaṃ bhojanaṃ  
        sabbe labhantu mama cetasāti.  
       
      
      Nghĩa diễn ra Quốc Âm:  
      
        Phước căn tôi đã  
        tạo thành,  
        Do thân, khẩu, ý tu hành gieo nên.  
        Ðều là phước báu vững bền,  
        Có thể tiếp chúng độ lên thiên đàng.  
        Cung trời Ðạo Lợi thọ nhàn,  
        Chúng sanh hữu tưởng nhơn gian Ta bà.  
        Chư Thiên Phạm Thiên cùng là,  
        Bậc trời vô tưởng được mà hưởng an.  
        Phước tôi hồi hướng dâng ban,  
        Chúng sanh hay biết hoàn toàn lãnh thâu.  
        Bằng ai chưa rõ lời cầu,  
        Xin cùng Thiên chúng đến hầu mách ngay.  
        Có người làm phước được rày,  
        Lại đem hồi hướng hiện nay khắp cùng.  
        Chúng sanh hoan hỉ lãnh chung,  
        Hưởng được phước quí ung dung thanh nhàn.  
        Chúng sanh thế giới các hàng,  
        Bởi nhờ thọ thực sanh an mạng trường.  
        Xin thâu phước báu cúng dường,  
        Hóa thành thực phẩm mùi hương thỏa lòng. (lạy) 
       
      (Sau khi làm xong việc tài  
      thí hoặc pháp thí rồi cần phải đọc bài nguyện sau này để  
      dứt bỏ lòng ham muốn).  
      
      Idaṃ vata me dānaṃ  
      āsavakkhayāvahaṃ hotu ānagate.  
      
      Xin cho sự phước thí mà  
      tôi đã trong sạch làm đây, hãy là món duyên lành để dứt  
      khỏi những điều ô nhiễm ngủ ngầm nơi tâm, trong ngày vị  
      lai. 
      
      VÔ THƯỜNG - KHỔ NÃO  
      - VÔ NGÃ  
      
      Diễn ra Quốc âm:  
      
        Biển trần khổ sóng  
        bồng lai láng,  
        Kiếp phù sanh đáng chán biết bao  
        Tấm thân chìm đắm dạt dào.  
        Mịt mờ chưa biết đời nào thoát ly,  
        Cõi giả tạm ích gì sự thế.  
        Uổng tâm tư tìm kế miên trường,  
        Trần hoàn vạn vật vô thường,  
        Khổ não, vô ngã đầy đường chông gai.  
        Do báo nghiệp lưu lai từ trước,  
        Các pháp hành, tạo được thân duyên,  
        Pháp hành kế tục nhau liền,  
        Diệt, sanh, sanh, diệt triền miên không ngừng.  
        Người hay thú đồng chung số phận,  
        Hễ có thân ngũ uẩn, không bền.  
        Chịu điều biến đổi đảo điên,  
        Sanh, già, đau, chết không yên lúc nào,  
        Thể vật chất không sao giữ nổi,  
        Sức vô thường phá mỗi sát na,  
        Xét cùng đâu phải thân ta.  
        Khó ngăn tóc bạc không cầm răng long.  
        Lửa ái dục đốt lòng từ phút,  
        Vấy ưu phiền, chẳng chút nào nguôi,  
        Dễ chi đặng tạm an vui,  
        Suy mòn vì nhuộm nặng mùi trần ai.  
        Chừng thân chết nảy hơi hôi hám,  
        Người, ai ai chẳng dám lại gần,  
        Gớm ghê, dầu bậc chí thân,  
        Ðều sợ xui, lụy, hương lân, cửa nhà.  
        Chọn một chốn rừng già hoang vắng,  
        Ðem thây thi, an táng cho xong,  
        Ðịa táng, hỏa táng chẳng đồng,  
        Tùy duyên, tùy lực, vẫn không quản gì.  
        Ðưa xác chết, người đi đông đúc,  
        Kẻ thân nhân uất ức, khóc than.  
        Hình hài ba khúc rã tan,  
        Thanh danh tiêu diệt họ hàng cách xa.  
        Khổ tử biệt thiết tha nung nấu,  
        Biệt gia tài, của báu, tình yêu,  
        Tấm thân ngũ uẩn đã tiêu,  
        Ðất, nước, gió, lửa, về nhiều căn nguyên.  
        Thân đã chẳng, thiên diên ngày tháng.  
        Buổi chia lìa ngao ngán đau thương.  
        Chúng sanh ba cõi vô thường,  
        Nên vun cội phước, tìm đường siêu sanh.  
        Lựa các thứ nhân lành gieo giống,  
        Quả kết trong kiếp sống về sau,  
        Mở lòng bố thí dồi dào,  
        Học kinh, trì giới, khá mau tu hành,  
        Kẻo rồi phải điêu linh, sa đọa,  
        Vào bốn đường ác đạo khó khăn  
        Vô cùng khốn khổ thân tâm,  
        Ðời đời kiếp kiếp trầm luân không về  
        Thân khẩu ý giữ gìn trong sạch,  
        Dẫn trên đường thanh bạch mà đi,  
        Dầu cho chuyển kiếp đến kỳ,  
        Cũng còn trông ngóng thoát ly khổ sầu,  
        Rán hối quá quay đầu hướng thiện,  
        Ác nghiệp trần đoạn tuyệt chớ gieo.  
        Tâm đừng xu hướng, vui theo,  
        Thiện duyên gầy dựng, trần lao dứt lần.  
        Các phương pháp, yên tâm tịnh trí,  
        Chúng sanh cần tìm kiếm học hành,  
        Cho lòng chán nản phát sanh,  
        Cội nguồn tội khổ hiểu rành sâu xa,  
        Pháp chán nản dạy ta suy xét,  
        Khổ cõi đời số cát sông Hằng,  
        Tám điều khổ não ghi bằng,  
        Ðây lần lượt giải, ngọn ngành như sau.  
        Cõi trần thế ra vào há dễ,  
        Luật tuần hoàn nào kể chi ai,  
        Thân ta chẳng lựa gái trai,  
        Cũng đều mắc phải đọa đày khổ sanh.  
        Khi nghiệp đến pháp hành cấu tạo.  
        Thác sanh vào lòng mẹ thành phôi,  
        Nguyên tố nhỏ nhít vô hồi,  
        Vốn là chất lỏng, giống dầu mà trong,  
        Giọt dầu ấy dính lông con thú,  
        Ta cầm lên rảy giũ bảy lần,  
        Chỉ còn chút ít dính gần,  
        Ðó nguyên chất khởi nên thân con người.  
        Bảy ngày đầu còn tươi trong vắt.  
        Rồi lan lần biến sắc đổi màu,  
        Ðến tuần thứ bảy về sau,  
        Biến thành một chất trông vào đáng ghê  
        Ðỏ dợt dợt, mỡ pha lẫn máu,  
        Bởi nguyên Hành cứ tạo thêm ra,  
        Lại đến bảy bữa thứ ba,  
        Hóa thành chất đặc, như là thịt dư,  
        Trong bụng mẹ an cư một chỗ,  
        Miếng thịt thừa tội lỗi xiết chi,  
        Tuy hình hườn kết thế ni  
        Nhưng mềm mại, như chì rã tan.  
        Tưởng tượng đến trăm ngàn ghê sợ.  
        Phôi bây giờ tương tợ trứng gà,  
        Phôi này còn yếu chưa già,  
        Tuần tự thay đổi, bảy ngày thứ tư.  
        Bảy ngày nữa từ từ biến hóa  
        Bắt đầu chia tất cả năm nhành,  
        Tuy hình chưa hẳn thật thành  
        Nhưng đã có dạng đầu, mình, chơn, tay.  
        Pháp hành đã tạo hoài không dứt.  
        Tuần thứ năm thất nhựt vừa qua,  
        Nhỏ to hình dáng đẩy đà  
        Ba lăm ngày ấy đã ra hình hài  
        Ngoài ba tháng thành thai cứng các  
        Thai loài người, nào khác thú đâu.  
        Cũng đều khổ não âu sầu,  
        Ở trong bụng mẹ co đầu, rút chơn,  
        Ngồi lổm hổm còn hơn ràng buộc  
        Trên đồ ăn vừa được tiêu tan,  
        Hai tay nắm lại đỡ cằm,  
        Mặt day lưng mẹ, tối tăm mịt mờ.  
        Quanh mình vấy chất dơ, hôi thối  
        Ðầu đội đồ, mẹ mới ăn vào,  
        Vừa dơ, vừa ngộp xiết bao  
        Nên hằng giẫy giụa thân nào đặng yên.  
        Nếu mẹ chẳng cử kiêng ăn uống,  
        Mặc đói no, nuốt bướng nhai càn,  
        Nóng, cay, nguội, lạnh, không màng,  
        Miển vừa khẩu dục ngó ngàng chi con,  
        Vật thực trúng da non của trẻ,  
        Nóng giật mình, lạnh sẽ phát run,  
        Ðau thương khổ não khôn cùng.  
        Như chim bị trận bão bùng mưa sa.  
        Lại giống khỉ trải qua mưa gió,  
        Nằm co ro, một xó rét run,  
        Kinh hoàng sợ sệt hết lòng,  
        Chẳng kham nỗi khổ, day tầm đôi bên.  
        Hoặc kiếm ở phía trên, hay dưới,  
        Hoặc là nơi mấy bụi gần đây  
        Chừng nào tìm được bộng cây,  
        Chui vào ẩn náu thân này mới an.  
        Ðủ mười tháng vẹn toàn thân thể.  
        Gần kỳ sanh lòng mẹ chẳng vui  
        Lo âu dạ luống bùi ngùi  
        Sợ sự tai hại trong hồi khai hoa,  
        Mãn toan tính đắn đo, cân nhắc,  
        Biển mênh mông chưa chắc đặng qua,  
        Quanh quẩn công chuyện trong nhà,  
        Dễ duôi nào dám đi xa bao giờ,  
        Kịp đến lúc ngồi chờ hoa nở,  
        Quyến thuộc vầy kẻ đỡ người nưng  
        Chịu điều đau khổ từng cơn,  
        Dầu kiên gan mấy, cũng sờn nỗi đau,  
        Người cả thảy, không sao tránh thoát,  
        Bỗng dường như, bão tạt vào thai  
        Hài nhi, như chớp, đã day,  
        Theo đường kinh huyết ra ngoài sản môn.  
        May được lúc lâm bồn yên tịnh.  
        Cả mẹ con khỏe mạnh vuông tròn,  
        Ấy nhờ hồng phúc nhà còn,  
        Chúng sanh kiếp trước gây nhiều thiện căn  
        Nếu phước báu không bằng tội ác,  
        Khi sanh ra chịu các khó khăn,  
        Dẫu còn sống sót nữa chăng?  
        Gật gờ dường phải đôi lần dứt hơi!  
        Vì nhân ác đến hồi trả quả,  
        Chúng sanh này, thảm họa chết non.  
        Chết ngộp, hoặc chết mỏi mòn,  
        Chết ngoài bụng mẹ, hoặc còn trong thai  
        Ngán ngẫm, kiếp sanh lai tất tưởi!  
        Từ thác sanh đến buổi lọt lòng,  
        Mạng căn nào biết chắc không.  
        Nhưng đều phải chịu trong vòng khổ lao  
        Suy nghĩ chán xôn xao tất dạ,  
        Xét khổ sanh buồn bã âu sầu,  
        Ðây là hết khổ đặng đâu,  
        Có thân còn phải lãnh thâu khổ già!  
        Sự khổ già thân ta hằng chịu,  
        Dầu gái trai tiều tụy như nhau.  
        Ðổi thay chẳng trước thì sau,  
        Suy mòn từ lúc tốn hao từ giờ!  
        Buổi niên thiếu ngây thơ, đầy đặn,  
        Sắc xinh tươi đủ vẹn mười phân  
        Dáng điệu đẹp đẽ tốt lành,  
        Dương dương đắc ý, tuổi xanh thường tình,  
        Ðộ trẻ trung vóc hình tráng kiện,  
        Hằng phô bày thể diện đáng yêu,  
        Thế gian ai cũng ưa chìu,  
        Gái trai đều có tự kiêu thuở này,  
        Mê muội tưởng đẹp hoài không giảm,  
        Quá lạc lầm quí mến thân ta,  
        Sắm đồ trang sức, xa hoa,  
        Ðiểm tô cho đặng, đẹp ra tuyệt trần.  
        Dụng kính, lược, dự phần chải gỡ,  
        Giồi phấn son, sặc sỡ thêm duyên,  
        Chẳng vừa sở tạo tự nhiên.  
        Lấp mùi hám trược, ướp liền nước thơm.  
        Công trang điểm, sớm hôm không dứt,  
        Dáng bên ngoài đến cực kỳ xinh,  
        Ðủ các tư cách gợi nhìn,  
        Thật ra nào khác như hình trái sung.  
        Xác ô uế, đều cùng nam nữ,  
        Túi đựng đầy những thứ đồ dơ,  
        Lại còn biến đổi dường mơ,  
        Chậm, mau, rồi cũng có ngày tiêu tan!  
        Hữu tình đến vội vàng tuổi hạc,  
        Mái tóc xanh trắng bạc như bông,  
        Dầu cho cạn trí hết lòng.  
        Cản ngăn nó cũng vẫn không nghe nào.  
        Tay chơn thảy mòn hao, gầy yếu,  
        Lần lần còn xương chịu lấy da,  
        Thôi thời tráng kiện đã qua,  
        Vô thường xô đuổi, tuổi già đến thay.  
        Mắt sáng suốt những ngày rực rỡ.  
        Chưa bao lâu đã trở nên lờ,  
        Trông xa các vật tờ mờ  
        Nhãn quan suy kém, có chờ cho đâu,  
        Ðồng thời phát khổ sầu tai điếc,  
        Lắng mà nghe chẳng thiệt tiếng tăm,  
        Nghe lầm, ắt nói lại lầm,  
        Nhĩ quan đã hẳn âm thầm hoại tiêu.  
        Cuộc biến đổi rất nhiều cơ sở,  
        Ðây trưng ra mấy cớ thật gần,  
        Như răng, phải rụng lần lần,  
        Ðó là triệu chứng tấm thân đã già.  
        Tham luyến sống, cũng là phải chết,  
        Thân hữu hình, chưa hết bao lâu,  
        Thế rằng: "Sanh tử quan đầu".  
        Ta nên lấy nó làm câu răn mình.  
        Cũng có kẻ quá tin sức khỏe.  
        Tâm trẻ con, thân thể đã già.  
        Có ai kêu thử, ÔNG, BÀ.  
        Dầu không oán giận, cũng là không vui  
        Nghe tiếng gọi ngậm ngùi không dĩ,  
        Trái lại kêu bằng CHỊ hay ANH,  
        Tưởng mình đương độ xuân xanh,  
        Vui mừng thỏa mãn, làm lành thêm lên,  
        Hạng người thế không nên ái truất,  
        Người chẳng thông kinh luật khuyên răn,  
        Hạng này hay có làm xằng  
        Ai thân cận lắm, ắt hằng nhơ lây,  
        Nghĩ chín chắn thân này ắt hoại.  
        Ðã nhớp nhơ mà lại không bền,  
        Khổ, Già, đeo đuổi một bên,  
        Khổ Ðau, liên tiếp cho thêm não nề,  
        Ôi! Thảm khốc, nhắc về Bịnh khổ,  
        Một cơn đau phát lộ đến ta,  
        Do nhiều bịnh chứng hà sa,  
        Toàn thân rũ riệt thiết tha lắm hồi.  
        Bệnh suyễn, mệt, nói thôi không xiết,  
        Bịnh ho, lao, bịnh kiết, ung thư,  
        Ghẻ chốc, tê, bại cốt hư,  
        Ðàn ông cũng phải chịu như đàn bà,  
        Bịnh cùi, lác, thúi da, lầy lụa.  
        Những lang ben ăn túa châu thân,  
        Nhức đầu, xổ mũi, rút gân,  
        Phù thủng sưng khắp tay chân, mặt mày,  
        Lưng gối mỏi, thiên thời, gió rét,  
        Bịnh đau răng, mũi ngẹt, trái ban,  
        Sưng phổi, cạn mật, héo gan,  
        Những bệnh hư thận nhiệt hàn cũng lo,  
        Cử đôi bịnh, nghiệm cho ra lẽ,  
        Dầu bịnh cơ nặng nhẹ khác nhau,  
        Nhưng mà đã phải vương đau,  
        Khổ thân chẳng biết tả sao cho cùng,  
        Ðời hay nói: "Ðau chân hả miệng",  
        Ngoài thuốc thang còn chuyện dị đoan  
        Nhờ thầy bố trận, lập đàn,  
        Ông này, bà nọ cầu an đêm ngày,  
        Sợ có sự nạn tai dồn dập,  
        Cầu hỏi cho đặng gặp cơ duyên,  
        Hết lòng khấn vái chư Thiên,  
        Hộ căn bịnh ấy, giảm thuyên từ rày,  
        Vong cha mẹ trên mây, ngoài gió,  
        Hoặc ông bà, mà có hiển linh,  
        Xin về độ bịnh mạnh lành.  
        Sửa sang tế vật, lòng thành dâng cho  
        Bởi lầm lạc chẳng lo kinh kệ.  
        Mãi chuyên cần, tế lễ cầu xin.  
        Bịnh do nghiệp chướng của mình,  
        Há vì cúng quảy bịnh tình thoát sao,  
        Thân đã có, nguồn đau phải có,  
        Mãi tối tăm chẳng rõ hiệp tan,  
        Chúng sanh trong cõi thế gian,  
        Nặng nhẹ đều phải vương mang bịnh trần  
        Chỉ tránh khỏi có phần LA HÁN,  
        Cảnh NIẾT BÀN dứt nạn khổ đau,  
        Còn trong ba cõi trần lao.  
        Những sự chết, sống ốm đau là thường  
        Thấy bịnh hoạn cảm thương thân thế,  
        Cũng toan lo, tìm kế giải sầu,  
        Khổ đau càng thấm càng lâu,  
        Rồi đến khổ CHẾT bắt đầu dấn theo.  
        Khi khổ CHẾT đã gieo mầm dữ,  
        Thân chúng sanh mất sự thăng bằng,  
        Trẻ già đều phải hãi hùng,  
        Nhưng gần đến chết thì lòng hay quên,  
        Cơn hấp hối, run lên không dứt,  
        Khắp thân mình, thịt giựt, gân thun,  
        Tay chơn chuyển động vẫy vùng,  
        Ruột, gan, dao cắt vô cùng đớn đau,  
        Ngày tận số, lâu, mau đã tới,  
        Cái THỨC THẦN lìa với xác dơ,  
        Rồi thân ba khúc nằm trơ,  
        Toàn thây lạnh buốt, cứng rờ như cây,  
        Quyến thuộc vẫn trông thây than tiếc,  
        Người chết rồi còn có biết chi,  
        Thân kia đã gọi thây thi.  
        Con người ấy gọi là đi qua đời.  
        Khi đã chết không nhờ của cải,  
        Cùng vợ chồng, con cái, mẹ cha,  
        Anh em, quyến thuộc, gần xa,  
        Khó trông dīu dắt, cõi ma, một mình,  
        Thậm chí đến, đồng trinh cắc bạc,  
        Ðể trong môi, người thác theo lề,  
        Cũng không đem được dựa kề,  
        Cõi trần để lại, ra về HỒN không!  
        Quỹ VÔ THƯỜNG, vô song quyền thế  
        Giết chúng sanh bất kể gái trai,  
        Giết người chẳng lựa cho hay,  
        Dầu CHƯ THIÊN cũng bị tay vày vò,  
        Ðời sanh sống làm cho tiêu diệt,  
        Sát sanh linh chẳng biết xót than!  
        Chỉ trừ một cõi NIẾT BÀN  
        VÔ THƯỜNG chẳng dám lộn hàng đến đây,  
        Bởi chưng ở cảnh này tịch tịnh,  
        Ðầy yên vui chẳng dính bụi trần,  
        Phước báu to lớn muôn phần,  
        Chẳng hư, chẳng hoại là thân vàng ròng,  
        Tưởng chết sống, sanh lòng phiền não,  
        Muốn khỏi thì rán tạo phước duyên,  
        Cố công TRÌ GIỚI, THAM THIỀN,  
        Ðặng có kết quả, về miền AN VUI  
        Chớ hờ hững dễ duôi sự ác,  
        Ðừng để cho lầm lạc càng tăng,  
        Tỉnh liền, vun tưới thiện căn,  
        Nghiệp theo chẳng kịp, khi thăng NIẾT BÀN  
        Nếu lần lựa, muộn màng sanh hại,  
        Cũng đừng nên ỷ lại vào ai,  
        Bút thô (Buddho) một tiếng Tăng bày,  
        Trong cơn hấp hối, niệm sai, lạc đường.  
        Ta nên nhớ VÔ THƯỜNG, KHỔ NÃO,  
        Ðừng đợi cho nghiệp báo đến nơi.  
        Ðọa đày vừa lúc tắt hơi,  
        Bốn đường ác đạo đời đời khó ra,  
        Sự khổ chết, nguyên là nghiệp dữ,  
        Luật luân hồi, tử tử, sanh sanh.  
        Còn khổ quả báo sẵn dành,  
        Chính ta gây kết đã thành từ lâu,  
        Vô minh đã gieo sâu nhân ác,  
        Nhân đến hồi kết các quả sầu,  
        Do câu "THIỆN ÁC ÐÁO ÐẦU"  
        Về sau phải chịu, vui rầu chẳng sai.  
        Vì lầm lạc giữ hoài tâm ác,  
        Cõi trần này giết thác sanh linh.  
        Mà không một chút niệm tình,  
        Cứ làm việc dữ, tự mình không lo,  
        Vật có chủ, không cho cũng cắp,  
        Vợ con người, mê hoặc tà dâm  
        Tính toan mưu kế âm thầm  
        Chẳng kiên luât pháp, tối tăm làm liều,  
        Nói dối cũng một điều rất dữ,  
        Lòng phát ra miệng cứ nói đùa  
        Có người uống rượu say sưa,  
        Dầu ai thức tỉnh, không chừa thói quen.  
        Cõi hiện tại, nhúm nhen, ngũ nghiệp  
        Tánh xấu xa chẳng kịp đổi thay,  
        Chết rồi phải bị đọa đày,  
        Xuống nơi ÐỊA NGỤC chịu hoài nạn tai,  
        Các tội ác không sai một bước,  
        Bóng theo hình, cái trước, cái sau,  
        Nhân nào quả nấy, liền nhau  
        Mình gây mình chịu, ai vào giúp ta,  
        Bị quỷ sứ hành hà đánh đập,  
        Kéo lôi bừa, bầm dập, chẳng thương,  
        Lửa phiền thiêu đốt thịt xương.  
        Chết sống, sống chết luôn luôn không ngừng.  
        Sự khổ cực bởi thân ác báo,  
        Gái hay trai, đã tạo phải mang,  
        Cảnh này ác quả đã tan,  
        Sanh làm NGẠ QUỈ nhẹ nhàng đôi phân.  
        Giống ngạ quỉ toàn thân ghê tởm,  
        Ðói khát khao, hôm sớm nhe nanh,  
        Ăn ròng máu mủ hôi tanh.  
        Hết kiếp ngạ quỉ tái sanh lên đời.  
        Loài súc vật trên bờ dưới nước.  
        Lớn nhỏ, vì từ trước dễ duôi,  
        Ðành cam số phận hẩm hiu,  
        Làm những vật thực để nuôi mạng người,  
        Bắt giết hại mấy mươi chẳng tiếc,  
        Tàn sát cho đáng nghiệp hồi xưa,  
        Hành hình thảm khốc mới vừa,  
        Ðó là QUẢ BÁO có chừa chi ai,  
        Cũng có kẻ đầu thai THẦN QUỈ  
        A TU LA, NGẠ QUỈ khác chi,  
        Cũng đều đói khát nhiều khi,  
        Chịu chẳng biết mấy TĂNG KỲ [*] kiếp lâu  
        Kiếp quá khứ rất giàu tội khổ,  
        Tội khổ này chẳng bỏ sót ai,  
        Chúng sanh khắp hết bốn loài,  
        Thấp hóa, không hạn. Noản thai chẳng trừ,  
        Nhận ác đã gieo từ vô thỉ,  
        Quả xấu xa trực chỉ gieo mình,  
        Làm cho tất cả chúng sanh,  
        Mỗi kiếp phải chịu khổ hình như trên.  
        Cõi giả tạm dường tên thắm thoát,  
        Kiếp này qua, kiếp khác đến thay,  
        Rồi trong những kiếp vị lai.  
        Cũng là khổ não bao vây liền sát,  
        Khiến chúng sanh lầm lạc thêm hoài.  
        Vì chưa thoát khỏi trần ai.  
        Nên những nghiệp dữ không ngày nào xa.  
        Ðây ta thử xét qua hiện tại.  
        Chẳng khổ nào sánh lại khổ ăn,  
        Vì nhân đói khát, khó khăn,  
        Muốn cho no đủ, nên hằng phải lo,  
        Nghèo sạch đất, giàu to cũng thế.  
        Nhọc ưu tư, nào kể ngày đêm.  
        Có rồi lại muốn có thêm,  
        Bằng người chưa có cũng tìm cho ra,  
        Nếu biếng nhác ở nhà thong thả,  
        Ăn không lo, lỡ cả núi sông,  
        Mối ăn nặng cánh bên lòng.  
        Mãn nuôi mạng sống, dày công liệu lường,  
        Già chí trẻ vẫn thường lam lụng,  
        Làm kiếm ăn phải dụng tấm thân,  
        Xác thịt lẫn với tinh thần,  
        Khó khăn cũng chịu, nhọc nhằn cũng cam,  
        Bịnh đói khát hằng ngày vất vả,  
        Thuốc dầu hay, chẳng đã tật này,  
        Không được ăn uống, ốm gầy,  
        Càng lâu ắt phải bỏ thây cõi trần,  
        Ăn hay gấp mấy lần diệu dược,  
        Có ăn rồi, bịnh được giảm thuyên,  
        Chúng sanh dầu biếng cũng siêng,  
        Không sao tránh khỏi phải quyền sanh nhai.  
        Có kẻ rán cấy cày, đào, cuốc,  
        Luống chuyên cần, rẫy bái ruộng nương,  
        Kẻ thì làm mướn, bán buôn.  
        Biết bao khổ cực, luôn luôn một đời.  
        Người giàu có, thảnh thơi đôi chút.  
        Bởi từ xưa quả phúc vo tròn.  
        Cõi trần, hái trái ngọt ngon  
        Khỏe thân, nhưng cũng vẫn còn khổ tâm  
        Những khổ não đã lần lượt giải  
        Vắn tắt đây, đại khái tám điều  
        Chúng ta lấy đó làm nêu,  
        Gái trai cũng phải chịu điều khổ lao  
        Biết rõ khổ, ta mau thức tỉnh  
        Rán tu hành, Giới Ðịnh làm căn.  
        Mong cầu giải thoát trói trăn  
        Trần khổ xa tách nhẹ thăng Niết Bàn.  
       
      
      [*] Nói cho đủ là A Tăng  
      Kỳ, nghĩa là vô số.)  
      
      MAṄGAGALASUTTARAMBHO. 
      
      
      
        Ye santā santacittā  
        tisaraṇasaraṇā ettha lokantare vā  
        bhummā bhummā ca devā guṇagaṇagahaṇa-byāvatā sabbakālaṃ .  
        Ete āyantu devā  
        varaka-nakamaye merurāje vasanto  
        santo santo sahetuṃ muni-varavacanaṃ sotumaggaṃ samaggaṃ ,  
        sabbesu cakkavāḷesu  
        yakkhā devā ca brahmuno  
        yaṃ amhehikataṃ puññaṃ  
        sabba sampattisadhakaṃ .  
        Sabbe taṃ  
        anumoditvā 
        samaggā sāsane ratā  
        pamādarahitā hontu  
        ārakkhāsu visesato.  
        Sāsanassa ca lokassa  
        vuḍḍhī bhavatu sabbadā  
        sāsanaṃ pi ca lokañca  
        devā rakkhantu sabbadā.  
        Saddhiṃ hontu sukhī  
        sabbe 
        parivārehi attano  
        anīghā sumanā hontu  
        saha sabbehi ñātibhī.  
        Yañca dvādasa  
        vassāni 
        cintayiṃsu sadevakā  
        cirassaṃ cintayantā pi  
        neva jāniṃsu maṅgalaṃ  
        cakkavāḷasahassesu 
        dasasu yena tattakaṃ  
        kālaṃ kolāhalaṃ jātaṃ  
        yāva brahmanivesanā.  
        Yaṃ lokanātho  
        desesi 
        sabbapāpavinā sanaṃ  
        yaṃ sutvā sabbadukkhehi  
        muñcantā saṇkhiyā narā  
        evamā digunū petaṃ  
        maṇgalantaṃ bhaṇāmahe.  
       
      
      TỤNG BỐ CÁO HẠNH PHÚC  
      KINH 
      
      Xin thỉnh tất cả chư  
      Thiên ngự trong hư không thế giới, hoặc ngoài hư không thế  
      giới này, là bậc đã có lòng an tịnh và đã quy y Tam Bảo,  
      là bậc năng chuyên cần việc hạnh phúc.  
      Xin thỉnh tất cả chư  
      Thiên, ngự trên Tu Di sơn vương, tinh anh bằng vàng ròng cao thượng.  
      Xin thỉnh tất cả chư  
      Thiên là bậc hiền triết (Sappurisa) đồng cư hội nơi đây,  
      đặng nghe lời vàng của đức Thích Ca Mưu Ni, là pháp vô lượng  
      làm cho phát sanh điều hoan lạc.  
      Sự phước báu mà chúng  
      tôi đã làm, có thể độ thành tựu các thứ quả, cầu xin  
      Dạ Xoa, Chư thiên và Phạm thiên, trong cả thế giới Ta Bà đều  
      hoan hỉ thọ lãnh phước ấy.  
      Tất cả Dạ xoa, Chư thiên  
      cùng Phạm thiên khi đã thọ lãnh phước ấy, xin đồng tâm  
      hoan hỉ trong Phật pháp. Xin dứt lòng dễ duôi và tùy phương  
      tiện quí báu để hộ trì Phật pháp.  
      Cầu xin Phật pháp hằng  
      được thạnh đạt và chúng sanh hằng được tấn hóa.  
      Cầu xin tất cả chư Thiên  
      hộ trì Phật pháp và tiếp độ chúng sanh.  
      Cầu xin cho tất cả chúng  
      sanh đều được yên vui, được vô khổ cụ, là người có  
      thiện tâm luôn cả thân bằng cùng quyến thuộc.  
      Tất cả nhơn loại cùng  
      chư Thiên trong mười ngàn thế giới Ta Bà, hằng mong cầu và  
      cố gắng tìm xét trong mười hai năm, những điều hạnh phúc  
      vẫn chưa tìm thấy, xôn xao thấu đến cõi trời Phạm thiên  
      trong khi ấy.  
      Ðức Phật có giảng  
      giải những sự hạnh phúc làm cho các tội lỗi đều phải  
      tiêu diệt, chúng sanh nhiều không xiết kể, đã nghe và đã  
      được dứt khỏi các sự thống khổ.  
      
      MAṄGALA SUTTA 
      
      Evam me sutaṃ . 
      Ekaṃ samayaṃ bhagavā  
      sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho  
      aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā  
      kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami  
      upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.  
      Ekamantaṃ ṭhitā kho sā  
      devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.  
      Bahū  devā manussā ca  
      maṅgalāni acintayuṃ ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ  
      brū himaṅgalamuttamaṃ :  
      1- Asevanā ca bālānaṃ  
      paṇḍitānañca sevanā pū jā ca pū janīyānaṃ etaṃ  
      maṅgalamuttamaṃ .  
      2- Paṭirū padesavāso ca  
      pubbe ca katapuññatā attasammāpaṇīdhi ca etaṃ  
      maṅgalamuttamaṃ .  
      3- Bāhusaccañca sippañca  
      vinayo ca susikkhito subhāsitā ca yāvācā etaṃ maṅgalamuttamaṃ  
      . 
      4- Mātāpitu upaṭṭhānaṃ  
      puttadārassa saṅgaho anākulā ca kammantā etaṃ  
      maṅgalamuttamaṃ .  
      5- Dānañca dhammacariyā ca  
      ñātakā-nañca saṅgaho anāvajjāni kammāni etaṃ  
      maṅgalamuttamaṃ .  
      6- Aaratī viratī pāpā  
      majjapānā ca saññamo appamādo ca dhammesu etaṃ  
      maṅgalamuttamaṃ .  
      7- Gāravo ca nivāto  
      santuṭṭhī ca katañ-ñutā kālena dhammassavanaṃ etaṃ  
      maṅgalamuttamaṃ .  
      8- Khantī ca sovacassatā  
      samanānañca dassanaṃ kālena dhammasākacchā etaṃ  
      maṅgalamuttamaṃ .  
      9- Tapo ca brahmacariyañca  
      ariyasaccāna dassanaṃ nibbānasacchikiriyā ca etaṃ  
      maṅgalamuttamaṃ .  
      10- Phuṭṭhassa lokadhammehi 
      cittaṃ yassanakampati asokaṃ virajaṃ khemaṃ etaṃ 
      maṅgalamuttamaṃ . 
      Etādisāni katvāna  
      sabbatthamaparājitā sabbattha sotthiṃ gacchanti tantesaṃ  
      maṅgalamuttamanti. 
      
      HẠNH PHÚC KINH  
      
      Ta (là A nan Ðà) có nghe  
      như vầy:  
      Một thuở nọ Ðức  
      Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô  
      Ðộc, gần thành Xá Vệ (Sāvatthī)  
      Khi ấy, có vị Trời  
      chiếu hào quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ Viên sáng  
      ngời rực rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ  
      đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng.  
      Khi đã đứng yên, vị  
      Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:  
      Tất cả chư Thiên cùng  
      nhơn loại, đều cầu xin được những hạnh phúc và cố tìm  
      xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài  
      mở lòng bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng.  
      Ðức Thế Tôn tùy lời  
      hỏi mà giảng rằng:  
      
        1) 
        Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ;  
        Hai: tư cách thân cận các bậc trí tuệ;  
        Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường.  
        Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        2) 
        Một: tư cách ở trong nước nên ở.  
        Hai: tư cách của người đã làm được việc lành đểdành  
        khi trước.  
        Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh.  
        Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        3) 
        Một:nết hạnh của người được nghe nhiều, học rộng,  
        Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại  
        gia, 
        Ba: điều học mà người đã thọ trì được chính chắn,  
        Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật,  
        Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        4) 
        Một: nết hạnh phụng sự Mẹ.  
        Hai: nết hạnh phụng sự Cha,  
        Ba: sự tiếp độ vợ con,  
        Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ.  
        Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        5) 
        Một: nết hạnh bố thí.  
        Hai: nết hạnh ở theo Phật pháp.  
        Ba: sự tiếp độ quyến thuộc,  
        Bốn: những nghề vô tội,  
        Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng,  
         
        6) 
        Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi,  
        Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu  
        Ba: sự không dể duôi Phật pháp.  
        Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        7) 
        Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính,  
        Hai: nết hạnh khiêm nhường,  
        Ba: tri túc đến của đã có,  
        Bốn: nết hạnh biết ơn người,  
        Năm: nết hạnh tùy thời nghe pháp,  
        Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        8) 
        Một: sự nhịn nhục,  
        Hai: nết hạnh người dễ dạy,  
        Ba: nết hạnh được thấy các bậc Sa môn,  
        Bốn: nết hạnh biện luận về Phật pháp,  
        Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        9) 
        Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác,  
        Hai: nết hạnh hành theo pháp cao thượng,  
        Ba: nết hạnh thấy các pháp diệu đế,  
        Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết Bàn.  
        Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        10) 
        Một: tâm không xao động vì pháp thế gian,  
        Hai: không có sự uất ức,  
        Ba: dứt khỏi tình dục,  
        Bốn: lòng tự tại,  
        Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.  
         
        Tất cả chư Thiên và nhân loại, nếu được thật hành  
        theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá  
        trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư  
        Thiên này! Các người nên tin rằng cả ba mươi tám điều  
        hạnh phúc ấy là hạnh phúc cao thượng.  
       
      
      RATANASUTTĀRAMBHO 
      
      Paṇidhānato paṭṭhāya  
      tathāgatassa dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyo  
      pañca mahāpariccāge tisso cariyā pacchimabbhave gabbhāvakantiṃ  
      jātiṃ abhinikkhamanaṃ padhānacariyaṃ bodhipallaṅke  
      māravijayaṃ sab- baññutaññāṇappativedhaṃ nava lokuttaradhammeti  
      sabbe pime Buddhaguṇe āvajjitvā vesāliyā tīsu pākārantaresu  
      tiyāmarattiṃ parittaṃ karonto āyasmā ānandatthero viya  
      kāruññacittaṃ upaṭ-ṭhapetvā  
      
        Koṭisatasahassesu 
        cakkavāơesu devatā  
        yassānam-patigganhanti 
        yañca Vesāliyaṃ pure  
        rogāmanussadubbhikkha 
        sambhū taṃ tividhaṃ bhayaṃ  
        khippamantaradhāpesi 
        parittan tam bhaṇāmahe.  
       
      
      TỤNG BỐ CÁO KINH TAM  
      BẢO 
      
      Chúng ta nên đem lòng  
      từ thiện, đối với tất cả chúng sanh như đại đức A Nan  
      Ða, đã suy tưởng đều đủ các công đức của Phật, từ  
      khi mới phát nguyện thành bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác là:  
      
        - Tu 10 pháp Pāramī  
        - 10 pháp Upapāramī,  
        - 10 pháp Paramatthapāramī.  
        - Năm pháp đại thí.  
        - Ba pháp hành.  
        - Tư cách giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót.  
        - Tư cách ra đời,  
        - Tư cách xuất gia,  
        - Tư cách tu khổ hạnh,  
        - Tư cách cảm thắng Ma vương,  
        - Tư cách chứng quả Chánh Biến Tri trên Bồ đoàn.  
        - Chín pháp Thánh,  
       
      Suy tưởng xong rồi, Ðại  
      đức A Nan Ða tụng kinh Pāritta cả đêm, trọn đủ ba  
      canh tại trong ba vòng thành Vesālī. Tất cả chư thiên  
      trong mười muôn triệu thế giới Ta bà, đều được thọ lãnh  
      oai lực kinh Pāritta. Kinh Pāritta đã làm cho ba điều  
      kinh sợ phát sanh, là bệnh tật, phi nhơn và sự đói khát  
      trong thành Vesālī được mau tiêu diệt.  
      Chư Thiên này, nay chúng  
      tôi tụng kinh Pāritta ấy.  
      
      RATANASUTTA 
      
      
        1. Yānīdha phū tāni  
        samāgatāni 
        Bhummāni vāyāni va antalikkhe.  
        Sabbe va phū tā sumanā bhavantu  
        Atho' pi sakkaccasunantu - bhāsitaṃ .  
        2. Tasmā hi phū tā  
        nisāmetha sabbe  
        Mettaṃ karotha mānusiyā pājāya  
        Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ.  
        Tasmā hi ne rakkhatha appamattā.  
        3. Yaṃ kiñci vittaṃ idha  
        vā huraṃ vā  
        Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ  
        Nano samaṃ atthi tathāgatena.  
        Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ  
        etena saccena suvatthi hotu.  
        4. Khayaṃ virāgaṃ  
        amataṃ pāṇītaṃ  
        Yadajjagā sakyamunī sāmāhito  
        Na tena dhammena samatthikiñci.  
        Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthi hotu.  
        5. Yam buddhaseṭṭho  
        parivaṇṇayī suciṃ  
        samādhimānantarikaññamāhu. 
        Samādhinā tena samo na vijjati.  
        Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ  
        etena saccena suvatthi hontu.  
        6. Ye puggalā  
        aṭṭhasataṃ pasatthā  
        Cattāri etāni yugāni honti  
        Te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā.  
        Etesu dinnāni mahapphalāni.  
        Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthi hotu.  
        7. Ye suppayuttā manasā  
        daḷhena 
        Nikkāmino gotamasāsanamhi  
        Te pattipattā amataṃ vigayha  
        Laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā.  
        Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthi hotu.  
        8. Yathindakhīlo  
        paṭhaviṃsito siyā  
        Catū bhi vātebhi asampakampiyo.  
        Tathū pamaṃ sappurisaṃ vadāmi  
        Yo ariyasaccāni avecca passati.  
        Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthi hotu.  
        9. Ye ariyasaccāni  
        vibhāvayanti 
        Gambhīrapaññena sudesitāni  
        Kiñcāpite honti bhusappamattā  
        Na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti.  
        Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthi hontu.  
        10. Sahāvassa  
        dassanasampadāya 
        Tayassu dhammā jahitā bhavanti  
        Sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañ ca  
        Sīlabbataṃ vāpi yadatthikiñci.  
        Catū hapāyehi ca vippamutto  
        Cha cābhitṭhānāni abhabbo kātuṃ.  
        Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthihotu.  
        11. Kiñcāpi so kammaṃ  
        karoti pāpakaṃ  
        Kāyena vācā yudacetasāvā  
        Abhabbo so tassa paṭicchadāya.  
        Abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā.  
        Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccea suvatthi hotu.  
        12. Vanappagumbe yathā  
        phussitagge 
        Gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe.  
        Tathū panaṃ dhammavaraṃ adesayi  
        Nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya.  
        Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthi hotu.  
        13. Varo varaññū  varado  
        varāharo 
        Anuttaro dhammavaraṃ adesayi.  
        Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthi hotu.  
        14. Khīṇaṃ purāṇaṃ  
        navaṃ natthi sambhavaṃ .  
        Virattacittāyatike bhavasmiṃ  
        Te khīṇabījā aviruơhichandā.  
        Nibbanti dhīrā yathā yampadīpo.  
        Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ  
        Etena saccena suvatthi hotu.  
        15. Yānīdha phū tāni  
        samāgatāni 
        Bhummāni vā yāni va antalikkhe  
        Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ  
        Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.  
        16. Yānīdha bhū tāni  
        samāgātāni 
        Bhummāni vā yāni va antalikkhe  
        Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ  
        Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.  
        17. Yānīdha phū tāni  
        samāgatāni 
        Bhummāni vāyāni va antalikkhe  
        Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ  
        Saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.  
       
      
      KINH TAM BẢO 
      
      1. Hạng Phú Tá (Bhuta)  
      là Chư Thiên, ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là  
      Chư Thiên ngự trên hư không thế giới, mà đến hội họp nơi  
      đây. 
      Cầu xin tất cả Chư Phú  
      Tá ấy, mở lòng từ thiện, và đem lòng thành kính, mà nghe  
      Phật ngôn.  
      2. Tất cả Chư Phú Tá  
      được nghe Kinh Ba Rít Tá rồi, nên mở lòng bác ái, đối  
      với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng  
      đem của bố thí, đêm ngày không dứt.  
      3. Vì đó, các Ngài  
      chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy. Tài  
      sản trong thế gian này, hoặc trong thế giới khác hoặc trân  
      châu quý trọng trên thiên thượng. Cả tài sản và trân châu  
      ấy, cũng chẳng sánh bằng Ðức Như Lai.  
      Ðức Phật này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      4. Ðức Giáo chủ Sakya  
      Muni là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền  
      não, dứt khỏi tình dục, là pháp bất diệt, là pháp cao thượng.  
      Chẳng có vật chi sánh bằng pháp ấy.  
      Ðức Pháp này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      5. Ðức Phật cao thượng  
      hằng khen ngợi pháp Thiền định (Samãdhi) là pháp trong  
      sạch. 
      Các bậc Trí Tuệ, đã  
      giảng giải về Pháp Chánh định, là pháp sanh quả theo thứ  
      tự, Thiền định khác, chẳng thể sánh bằng.  
      Ðức Pháp này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      6. Những hạng tu hành có  
      8 bậc, mà các Thiện trí thức (Sappurisa) đã ngợi khen,  
      các bậc ấy, đều là Thinh Văn, đệ tử của Ðức Su Ga Tô  
      các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí của người tin lý nhân  
      quả đem đến dâng cúng.  
      Những sự bố thí đến  
      các bậc Ðắc-khí-nây-dá-búc-gá-la (Dakkhineyyapuggalā) là  
      việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc.  
      Ðức Tăng này như trân  
      châu quí báu cao thượng.  
      Tôi xin thành thật cầu  
      được phát sanh thạnh lợi.  
      7. Các bậc Thánh nhơn,  
      trong giáo pháp của đức Chánh Biến Tri hiệu GOTAMA, đã hành  
      theo lễ chánh rồi có lòng bền chắc chẳng còn ái dục.  
      Các bậc Thánh nhơn ấy,  
      đã chứng quả A La Hán, đã nhập Niết Bàn, đã tắt lửa  
      phiền não, và đã hưởng đạo quả rồi.  
      Ðức Tăng này như trân  
      châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      8. Cột cừ đã đóng  
      cứng dưới đất, dầu gió bốn phương cũng không lay động  
      thế nào.  
      Người hay suy xét, thấy  
      các pháp diệu đế Như Lai gọi người ấy là bậc thiện trí  
      thức, hạng không tham nhiễm các pháp thế gian. Ví như cột  
      cừ kia vậy.  
      Ðức Tăng này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      9. Các bậc Thánh nhơn,  
      thấy rõ các pháp diệu đế mà đức Như Lai, có trí tuệ  
      thậm thâm đã giảng dạy đứng đắn. Các bậc Thánh nhơn  
      ấy, dầu có dễ duôi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ  
      8, là chẳng luân hồi, quá 7 kiếp.  
      Ðức Tăng này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      10. Bậc được chứng Ðạo  
      quả Tu Ðà Hườn, thì đã dứt khỏi ba phép chướng ngại thường  
      có là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.  
      Bậc Tu Ðà Hườn, đã  
      thoát khỏi cả bốn đường dữ không còn phạm 6 điều ác,  
      là năm tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại đạo.  
      Ðức Tăng này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      11. Nếu bậc Tu Ðà Hườn,  
      vô tâm phạm điều tội lỗi, do thân, khẩu ý, các Ngài cũng  
      chẳng giấu giếm.  
      Nết hạnh của bậc đã  
      thấy đạo Niết Bàn, bậc không có thể giấu kín nghiệp  
      dữ, mà đức Phật đã giảng dạy rồi.  
      Ðức Tăng này như trân  
      châu quý báu cao thượng, Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      12. Pháp cao thượng mà  
      đức Chánh Biến Trí đã giảng giải, là Pháp có thể tiếp  
      dẫn chúng sanh đến Niết Bàn, cho được sự lợi ích cao thượng.  
      Pháp ấy, ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa  
      hạ. 
      Ðức Phật này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      13. Ðức Chánh Biến Tri  
      là bậc cao thượng, Ngài suốt thông pháp cao thượng, Ngài thí  
      pháp cao thượng, Ngài đem đến pháp cao thượng.  
      Ngài là bậc vô thượng,  
      đã diễn thuyết các pháp cao thượng.  
      Ðức Phật này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      14. Nghiệp cũ của các  
      bậc Thánh Nhơn, đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng  
      phát sanh.  
      Các bậc Thánh nhơn nào  
      đã chán nản trong việc thọ sanh, là bậc có trí tuệ, thường  
      được viên tịch, cũng như ngọn đèn tắt vậy.  
      Ðức Tăng này như trân  
      châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát  
      sanh thạnh lợi.  
      15. Hạng Phú Tá nào là  
      chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư  
      Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng  
      cùng chúng tôi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo chủ, đã  
      được chứng quả giống nhau, mà chư Thiên cùng nhân loại,  
      thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.  
      16. Hạng Phú Tá nào là  
      chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư  
      Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng  
      cùng chúng tôi làm lễ các Pháp, đã có giống nhau, mà chư  
      Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được  
      phát sanh thạnh lợi.  
      17. Hạng Phú Tá nào là  
      chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư  
      Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng  
      cùng chúng tôi làm lễ chư Tăng, đã có giống nhau, mà chư  
      Thiên cùng nhân loại thường hay cúng dường, cầu xin đuợc  
      phát sanh thạnh lợi.  
      
      BUDDHAJAYAMANGALAGĀTHĀ -  
      KINH TÁM KỆ NGÔN  
      
      1.- Bāhuṃ sahassa  
      mabhinimmitasāvu-dhantaṃ grīmekhalaṃ uditaghorasa-senamāraṃ  
      dānādidhammavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te  
      jaya-maṅgalāni. 
      2.- Mārātireka  
      mabhiyujjhita sabbarattiṃ gherampanāḷavaka-makkhamathad-dhayakkhaṃ  
      khantīsudantavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te  
      jaya-maṅgalāni. 
      3.- Nāḷāgiriṃ gajavaraṃ  
      atimatta-phū taṃ dāvaggicakkamasanīva sudāruṇantaṃ mettaṃ  
      busekavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatute  
      jayamaṅgalāni. 
      4.- Ukkhittakhaggamatihattha  
      sudā-runantaṃ dhāvantiyo janapathaṅgulimāla-vantaṃ  
      iddhīhisaṅkhatamano jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya  
      maṅgalāni. 
      5.- Katvāna kaṭṭhamudaraṃ  
      iva gab-bhiniyā ciñcāya duṭṭha vacanaṃ jana-kāyamajjhesantena  
      somavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te  
      jaya-maṅgalāni. 
      6.- Saccaṃ vihāya  
      matisaccaka vā-daketuṃ vādābhiropitamanaṃ atiandha-phū taṃ  
      paññāpadī-pajalito jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te  
      jayamaṅgalāni. 
      7.- Nandopananda bhujagaṃ  
      vibud-dhaṃ mahiddhiṃ puttena therabhujagena damāpayanto  
      iddhū padesa-vidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te  
      jaya-maṅgalāni. 
      8.- Duggāhadiṭṭhibhujagena  
      sudaṭṭhahatthaṃ brahmaṃ visuddhi-jutimiddhi Bakābhidhānaṃ  
      ñāṇāgadena vidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te  
      jaya-maṅgalāni. 
      Etāpi buddha jayamaṇgala  
      aṭṭhagāthā yo vācano dinadine sarate matandī hitvā nanekavividhāni  
      cupaddavāni mokkhaṃ sukhaṃ adhigameyyā naro sapañño.  
      
      VỀ SỰ CẢM THẮNG VÀ  
      SỰ LÀNH CỦA ÐỨC PHẬT  
      
      1 - Ðức Phật cao thượng  
      hơn các bậc trí tuệ, ngài đã cảm thắng Ma Vương, Ma Vương  
      biến ngàn cánh tay đều cầm khí giới; cỡi voi Gri-mê-khá-lá  
      đủ cả binh ma, tiếng hét la vang rền. Nhờ Phép Thập độ,  
      nhất là Phép Bố thí mà đức Phật cảm thắng được Ma Vương.  
      Do nhờ Phật lực này,  
      xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.  
      2 - Ðức Phật đã cảm  
      thắng được Dạ Xoa A-la-quá-cá rất cang ngạnh, không lòng  
      nhẫn nhục, khoe tài trọn đêm cùng đức Phật. Dạ Xoa rất  
      hung ác, cảm dõng hơn Ma Vương đã bị Ðức Chánh Biến Tri dùng  
      Phép Nhẫn nhục thâu phục rồi.  
      Do nhờ Phật lực này,  
      xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.  
      3 - Ðức Phật đã cảm  
      thắng voi Na-la-gi-ri đến cơn hung ác, dữ tợn như lửa  
      rừng, như sấm sét, nhờ rải lòng Từ bi mà Ðức Chánh  
      Biến Tri đã cảm thắng được voi ấy.  
      Do nhờ Phật lực này,  
      xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.  
      4 - Ðức Phật dùng Phép  
      Thần thông cảm thắng Ăn-gú-lí-má-lá, kẻ cướp sát nhân,  
      cắt ngón tay người xỏ làm tràng hoa, kẻ quá hung bạo, nhưng  
      rất tinh nhuệ, cầm gươm rượt Ðức Chánh Biến Tri xa ba do  
      tuần. 
      Do nhờ Phật lực này  
      xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.  
      5 - Ðức Phật đã khử  
      trừ lời dữ của nàng Chinh Cha, nàng dùng cây tròn giống  
      dạng dứa bé trong thai, giả làm phụ nữ mang thai. Nhờ dùng  
      Phép Chánh định mà đức Chánh Biến Tri cảm thắng nàng  
      giữa chốn đông người.  
      Do nhờ Phật lực này,  
      xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.  
      6 - Ðức Phật sáng  
      suốt nhờ ngọn đèn tuệ, Ngài đã cảm thắng kẻ ngoại đạo  
      Sách-chá-cá là kẻ không ngay thật, chỉ ưa thích sự nâng  
      cao lời nói mình như người dựng cột phū ớng, kẻ rất si mê,  
      chẳng khác người mù.  
      Do nhờ Phật lực này,  
      xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.  
      7 - Ðức Phật dạy Ðại  
      đức Mục Kiền Liên biến làm Long Vương để thâu phục  
      rồng chúa Nan-đô-bá-nanh-đa, là rồng tà kiến có nhiều  
      thần thông. Nhờ dạy Ðại đức Mục Kiền Liên mà Ðức Chánh  
      Biến Tri thâu phục được rồng chúa ấy.  
      Do nhờ Phật lực này,  
      xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.  
      8 - Ðức Phật đã cảm  
      thắng Ðại-Phạm-Thiên Bá-ká tự cho mình là cao thượng vì  
      đức trong sạch, có thần thông và chấp hẳn tà kiến. Nhờ  
      Giác tuệ mà Ðức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được Ðại  
      Phạm Thiên ấy.  
      Do nhờ Phật lực này,  
      xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.  
      Những người có trí  
      tuệ, không biếng nhác thường ngày hằng tụng hoặc niệm tám  
      kệ ngôn tán dương oai lực của Ðức Chánh Biến Tri thì sẽ  
      tránh khỏi vô số nạn tai và sẽ chứng quả Niết Bàn là nơi  
      yên vui độc nhất.  
      
      -ooOoo- 
       Ðầu  
      trang | 01 | 02  
      | 03 | 04 | 05 |  
      06 | Mục lục  |