| 
       KARAṆĪYA METTĀ SUTTAṂ  
      - TỪ BI KINH  
      
      
        1) Karaṇīya  
        matthakusalena 
        Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca  
        Sakko ujū  ca suhujū  ca  
        Suvaco c'assa mudu anatimāni.  
        2) Santussako ca subharo ca 
        Appakicco ca sallahukavutti 
        Santindriyo ca nippako ca 
        Appagabbho kulesu ananugiddho. 
        3) Na ca khuddaṃ samācare  
        kīñci 
        Yena viññū  pare upavadeyyuṃ  
        Sukhino vā khemino hontu  
        Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.  
        4) Ye keci pāṇaphū tatthi  
        Tasā vā thāvarā vā anavasesā  
        Dīghā vā ye mahantā vā  
        Majjhimā rassakānukathưlā  
        5) Diṭṭhā vā yeva  
        addiṭṭhā 
        Ye ca dưre vasanti avidū re  
        Bhū tā vā sambhavesi vā  
        Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.  
        6) Na paro paraṃ  
        nikubbetha 
        Nātimāññetha katthacinaṃ kiñci  
        Byārosanā patighasaññā  
        Nāñña maññassa dukkha miccheyya.  
        7) Mātā yathā niyaṃ  
        puttaṃ 
        Āyusā ekaputtatamanurakkhe  
        Evampi sabbaphū tesu  
        Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ .  
        8) Mettañca sabba  
        lokasmiṃ 
        Mānasaṃ bhāvaye aparimānaṃ  
        Uddhaṃ ādho ca tiriyañca  
        Asambādham averam asapattaṃ .  
        9) Tiṭṭhaṃ caram nisinno  
        vā 
        Sayāno vā yāvat'assa vigatamiddho  
        Etaṃ satiṃ addhiṭṭheyya  
        Brahmametaṃ vihāraṃ idha māhu.  
        
        10) Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā  
        Dassanena sampanno  
        Kămesu vineyya gedhaṃ  
        Nahijātu gabbhaseyyaṃ puna reti'ti.  
         
      
      Phiên dịch ra Việt  
      ngữ: 
      1 - Người khôn lanh  
      hằng tìm lợi ích cho mình và muốn đạt tới chỗ yên lặng  
      (là Niết Bàn). Là người chánh trực, hoàn toàn chánh trực,  
      nhu thuận, hiền lương và khiêm tốn.  
      2 - Biết kiên tâm, thủ  
      phận thanh bần, ít phận sự, thu thúc lục căn, thận trọng,  
      không liều lĩnh, không mê luyến gia đình.  
      3 - Không làm điều  
      quấy nhỏ nhen nào mà các bậc trí tuệ hằng phê bình chỉ  
      trích. Hằng mong muốn cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc  
      an vui và đầy đủ tinh thần tráng kiện.  
      4 - Hằng mong muốn cho  
      tất cả chúng sinh, không dư sót, bất luận yếu mạnh, dài  
      vắn, trung bình, béo gầy, nhỏ lớn.  
      5 - Hữu hình hoặc vô hình,  
      ở xa hoặc ở gần, đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra, đều có  
      một tinh thần hoan lạc.  
      6 - Chẳng hề lừa dối  
      kẻ khác, chẳng khinh miệt người nào, bất cứ nơi đâu.  
      Trong cơn phẫn nộ hoặc buồn phiền, chẳng hề toan tính  
      hại kẻ khác.  
      7 - Luôn luôn có lòng bác  
      ái rộng lớn bao la đối với tất cả chúng sinh, chẳng khác  
      nào một bà mẹ bảo tồn đứa con duy nhất dám hy sinh thân  
      mạng vì con.  
      8 - Hằng rải tư tưởng  
      lành vô biên cùng khắp thế giới, bên trên, bên dưới,  
      khoảng giữa, không chướng ngại, không thù oán không ác  
      cảm. 
      9 - Trong khi tỉnh thức,  
      lúc đi đứng nằm ngồi, hằng chuyên trì niệm niệm. Phương  
      ngôn cho đó là một hạnh kiểm cao cả thế gian.  
      10 - Không tà kiến, có  
      giới đức, đắc tuệ nhãn, đoạn tuyệt tình dục. Theo Chân  
      Lý, người như thế không còn thọ sanh vào bào thai nữa.  
      
      TỪ BI KINH 
      
      (Phỏng dịch xuôi vần  
      theo bài giảng của Ðại đức Narada.)  
      
        1. Người khôn có đủ  
        đức tài,  
        Hằng tìm lợi ích tương lai cho mình.  
        Dọn lòng an tịnh thanh bình  
        Tiến vào Cực lạc Vô sinh Niết Bàn  
        Giữ lòng chánh trực đoan trang,  
        Nhu hòa lương thiện chẳng màng khoe khoang,  
        2. Thanh bần thủ phận  
        an nhàn,  
        Không ham thế sự tịnh an cõi lòng.  
        Lục căn chế ngự nghiêm phòng,  
        Không cho liều lĩnh luyến mong dục trần.  
        3. Không làm nhơ bẩn  
        tinh thần,  
        Tránh lời chê trách thánh nhân phê bình,  
        Mong cầu tất cả chúng sinh,  
        Dồi dào hạnh phúc hòa bình sinh nhai.  
        4. Cầu cho ba giới  
        bốn loài,  
        Chúng sanh yếu mạnh, vắn dài bình trung.  
        Béo gầy nhỏ lớn không cùng,  
        Hữu hình, vô tướng muôn trùng gần xa.  
        5. Chưa sanh hoặc đã  
        sanh ra  
        Thảy đều cộng hưởng hà sa phước lành.  
        6. Nguyện không lừa  
        gạt, dối manh,  
        Khinh người, miệt chúng, hư danh trang hiền.  
        Dầu cho thân thuộc, xóm giềng,  
        Người dưng kẻ lạ các miền xa xăm.  
        Trong cơn phẫn nộ giận thầm,  
        Cũng không lo nghĩ mưu thâm hại người.  
        7. Như lòng từ mẫu  
        thanh tươi,  
        Trăm cay ngàn đắng vui cười vì con.  
        Dầu cho một mất một còn,  
        Bảo tồn con trẻ vuông tròn ăn chơi.  
        Tình thương ghi tạc đời đời,  
        Từ bi rộng lớn bầu trời thênh thang.  
        Học đòi từ mẫu gương vàng,  
        Mở lòng thương xót bủa tràn gần xa.  
        Chúng sanh trong cõi Sa bà,  
        Thoát vòng khổ não, vượt ra luân hồi.  
        8. Hằng ngày rải  
        khắp các nơi,  
        Bốn phương tám hướng gầm trời bao la.  
        Tấm lòng bác ái vị tha,  
        Gội nhuần tư tưởng đậm đà tình thương.  
        Lòng từ trong sạch như gương,  
        Không pha ác cảm không vương tư thù.  
        9. Cố tâm niệm niệm  
        công phu,  
        Khi đi, khi đứng, chuyên tu tham thiền.  
        Nằm ngồi mặc niệm thường xuyên,  
        Sưu tầm đạo quả, gieo duyên Niết Bàn  
        Ðó là phương pháp thế gian,  
        Ðó là hạnh kiểm đưa đàng Vô sanh.  
        Thánh nhân ca tụng tán thành,  
        Xuôi dòng thánh vức, lữ hành Nhập lưu (Tu Ðà Hườn).  
        10. Vượt lên đến  
        mức thắng ưu,  
        Khai thông tuệ nhãn, tầm sưu đỉnh đầu.  
        A Hàm đạo tuệ gươm mầu,  
        Ðoạn tuyệt tà kiến, xả câu dục tình.  
        Bất lai cảnh giới hữu hình,  
        Phạm thiên tạm ngự, nghiêm minh Niết Bàn.  
       
      
      KHANDHAPARITTA GĀTHĀ  
      
      
        Virū pakkhehi me mettaṃ  
        mettaṃ erāpathehi me  
        chabyāputtehi me mettaṃ  
        mettaṃ kanhāgotamakehi ca  
        apādakehi me mettaṃ  
        mettaṃ dipādakehi me  
        catuppadehi me mettaṃ  
        mettaṃ bahuppadehi me  
        māmaṃ apādako hiṃsi  
        māmaṃ hiṃsi dipādako  
        māmaṃ catuppado hiṃsi  
        māmaṃ hiṃsi bahuppado.  
        Sabbe sattā sabbe pāṇā  
        sabbe bhū tā ca kevalā  
        sabbe bhadrāni passantu  
        mā kiñci pāpamāgamā.  
       
      Appamāṇo Buddho appamāṇo  
      Dhammo appamāṇo Saṅgho  
      pamāṇa vantāni siriṃsapāni ahivicchikā satabadī uṇṇānābhī  
      sarabū  mū sikā katā me rakkhā katā me parittā paṭikkamantu  
      phū tāni.  
      So haṃ namo Bhagavato namo  
      sattannaṃ Sammāambuddhānam'ti.  
      
      ANANTARIYA GĀTHA  
      
      
        Sīrasmiṃ me  
        Buddhaseṭṭho 
        Sāriputto ca dakkhiṇe  
        Vāma aṃ se Moggallāno  
        Purato piṭakattayaṃ .  
        Pacchime mama Aanando  
        Catuddisā khīnāsavā  
        Samantā lokapālā ca  
        Indadeva sabrahmakā  
        Etesaṃ anubhāvena  
        Sabbe bhayā upaddavā  
        Aneka antarāyāpi  
        Vinassantu asesato  . 
      
      
      DASADISĀBUDDHASUTTA (KINH  
      THẬP PHƯƠNG PHẬT)  
      
      
        1. Padumuttaro ca  
        purabbāyaṃ 
        2. Āganeyye ca Revato  
        3. Dakkhine Kassapo Buddho  
        4. Haratiye ca Sumaṅgalo  
        5. Pacchime Buddha Sikhī ca  
        6. Bāyabbe ca Medhaṅkaro  
        7. Uttare Sakyamunī ceva  
        8. Isāne Saranaṅkaro  
        9. Kakusandho paṭhaviyaṃ  
        10. Ākāse ca Dīpaṅkaro  
        11. Ete dasadisābuddhā  
        Rājadhammassa pū jitā  
        12. Natthi rogabhayaṃ  
        khemaṃ 
        Asokaṃ sampattidāyakaṃ  
        Dukkharogabhayaṃ natthi  
        Sabbā sattū  viddhaṃ sentu  
       
      
      KINH THẬP PHƯƠNG  
      PHẬT 
      
      
        1. Con xin đảnh lễ đức  
        Phật Thượng-Liên- Hoa ở hướng đông  
        2. Con xin đảnh lễ đức Phật Li-Bà-Ða ở hướng đông nam  
        3. Con đảnh lễ đức Phật Ca-Diếp ở hướng nam  
        4. Con xin đảnh lễ đức Phật Phước-Toàn-Ða ở hướng tây  
        nam 
        5. Con xin đảnh lễ đức Phật Tỳ-Khí ở hướng tây  
        6. Con xin đảnh lễ đức Phật Mỹ-Thắng-Ca ở hướng tây  
        bắc 
        7. Con xin đảnh lễ đức Phật Thích-Ca-Mâu- Ni ở hướng  
        bắc 
        8. Con xin đảnh lễ đức Phật Bảo-Trì-Ca ở hướng đông  
        bắc 
        9. Con xin đảnh lễ đức Phật Câu-Lưu-Tôn ở hướng dưới  
        10. Con xin đảnh lễ đức Phật Nhiên-Ðăng ở hướng trên  
        11. Ấy mười phương  
        Chư Phật  
        Cúng dường bậc Pháp Vương  
        12. An ổn, không bệnh  
        tai 
        Không sầu, hưởng bổng lộc  
        Chẳng khổ, bệnh, sợ hãi,  
        Mọi cừu địch ắt giải.  
       
      
      MAHA JĀYAMANGALA GĀTHĀ  
      
      
        1. Mahākāruṇiko nātho  
        Hitāya sabba pāṇinaṃ  
        Pū retvā pāramī sabbā  
        Patto sambodhi muttamaṃ  
        Etena sacca vajjena  
        Hotu me jayamaṅgalaṃ .  
        2. Jayanto bodhiyā mū le  
        Sakyānaṃ nandivaddhano  
        Evaṃ mayhaṃ jayohotu  
        Jayassu jayamaṅgalaṃ  
        3.Sakkatvā buddha ratanaṃ  
        Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ  
        Hitaṃ deva manussānaṃ  
        Buddha tejena sotthinā  
        Nassantu' paddavā sabbe-  
        Dukkhāvū pasamentu me.  
        4. Sakkatvā dhamma  
        ratanaṃ -  
        Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ  
        Parilāhū pasamanaṃ -  
        Dhamma tejena sotthinā  
        Nassantu' paddavā sabbe-  
        Bhayāvū pasamentu me.  
        5. Sakkatvā saṅgha  
        ratanaṃ -  
        Osadhaṃ uttanaṃ varaṃ  
        Āhuṇeyyaṃ pāhuneyyaṃ -  
        Sangha tejena sotthinā  
        Nassantu' paddavā sabbe-  
        Rogāvū pasamentu me.  
        6. Yaṃ kiñci ratanaṃ  
        loke- 
        Vijjati vividhā puthū   
        Ratanaṃ buddha samaṃ natthi-  
        Tasmā sotthī bhavantu me.  
        7. Yaṃ kiñci ratanaṃ  
        loke- 
        Vijjati vividhā puthū   
        Ratanaṃ dhamma samaṃ natthi-  
        Tasmā sothī bhavantu me.  
        8. Yaṃ kiñci ratanaṃ  
        loke- 
        Vijjati vividhā puthū   
        Ratanaṃ saṅgha samaṃ natthi-  
        Tasmā sotthī bhavantu me.  
        9. Natthime saraṇaṃ  
        aññaṃ -  
        Buddho me saranaṃ varaṃ  
        Etena saccavajjena-  
        Hotu me jayamaṅgalaṃ .  
        10. Natthi me saranaṃ  
        aññaṃ -  
        Dhammo saranaṃ varaṃ  
        Etena saccavajjena-  
        Hotu me jāyamangalaṃ .  
        11. Natthi me saranaṃ  
        aññaṃ -  
        Saṅgho saranaṃ varaṃ  
        Etena saccavajjena-  
        Hotu me jayamaṅgalaṃ  
        12. Sabbītiyo vivajjantu-  
        Sabbarogo vinassatu  
        Mā me bhavatvantarāyo-  
        Sukhī dīghāyuko bhava.  
        13. Bhavatu sabbamangalaṃ  
        - 
        Rakkhantu sabbadevatā  
        Sabbabuddhānubhāvena- 
        Sadā sotthī bhavantu me.  
        14. Bhavatu sabbamangalaṃ  
        - 
        Rakkhantu sabbadevatā  
        Sabbadhammānubhāvena- 
        Sadā sotthī bhavantu me.  
        15. Bhavatu sabbamangalaṃ  
        - 
        Rakkhantu sabbadevatā  
        Sabba sanghānubhāvena-  
        Sadā sotthī bhavantu me.  
        16. Nakkhatta yakkha  
        phū tānaṃ  
        Pāpaggaha nivāranā  
        Parittassānubhāvena 
        Hantu mayhaṃ upaddave.  
        17. Devo vassatu kālena-  
        Sassa sampatti hotu ca  
        Phīto bhavatu loko ca-  
        Rājā bhavatu dhammiko.  
        18. Sabbe buddhā  
        balappattā 
        Paccekānañca yaṃ balaṃ  
        Arahantānañca tejena  
        Rakkhaṃ bandhāmi sabbaso.  
       
      
      NARASĪHA - GĀTHĀ  
      
      
        1. Cakka varaṅkita  
        rattasupādo 
        Lakkaṇamaṇdita āyatapaṇhi  
        Cāmarachatta viphū sitapādo  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
        2. Sakyakumāravaro  
        sukhumālo 
        Lakkhaṇavitthata puṇṇasarīro  
        Lokahitāya gato naravīro  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
        3.  
        Puṇṇasasaṅkanibho mukhavaṇṇo  
        Devanarāna piyo naranāgo  
        Mattagajinda vilāsitagāmi  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
        4. Khattiyasambhava  
        aggakulīno 
        Devamanussa namassitapādo  
        Sīlasamādhi patiṭṭhitacitto  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
        5. Aayatatuṅga  
        susaṇthita nāso  
        Gopamukho abhinīla sunetto  
        Indadhanū  abhinīla bhamưkho  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
        6. Vaṭṭa sumaṭṭa  
        susanthitagīvo 
        Sīhahanū  migarājasarīro  
        Kāñcana succhavi uttama vaṇṇo  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
        7. Suniddha sugambhira  
        mañjusu- ghoso  
        Hiṅgulabandhu surata sujivho  
        Vīsati - vīsati - seta sudanto  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
        8. Añjanavaṇṇa - sunīla  
        - sukeso  
        Kañcanapaṭṭa - visuddhalalāto  
        Osadhi paṇḍara suddhasuṇṇo  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
        9. Gacchati nīlapatheviya  
        cando 
        Tāragaṇā parivethitarū po  
        Sāvakamajjhagato samanindo  
        Esa hi tuyha pitā narasīho.  
       
      
      Nghĩa: 
      
      ANH HÙNG KỆ  
      
      Tức kệ Hùng sư nhân  
      (Narasīha gāthā) do công nương Da-du-đà-la chỉ dạy Thái tử  
      La-hầu-la về đức tướng (Lakkhana sutta) của Ðức Thế Tôn,  
      khi Ngài đang bộ hành qua các nẻo đường trong thành Ca tì la  
      vệ, với đoàn Thánh chúng.  
      
      
        1. Ðầu bàn chân son quí  
        nổi dấu in bánh xe thiêng,  
        Tha thướt gót dài thon trổ lắm văn chỉ diệu huyền,  
        Lòng bàn chân tô sẵn chổi phất tử với lọng tiên,  
        Ðó chính phụ hoàng con, Sư tử vương của Thánh hiền!  
        2. Dòng Sakya kiêu dũng,  
        tánh quân tử ưa tịnh yên,  
        Phong thái đại trượng phu, tướng tốt thân thảy hiện  
        tiền, 
        Thường ra tay anh tuấn, cứu thế chúng đủ thiện duyên.  
        Ðó chính phụ hoàng con, Sư tử vương của Thánh hiền!  
        3. Tròn đầy gương trăng  
        sáng, nhan sắc xinh rõ đẹp tươi,  
        Ai nấy cũng đều yêu chúa tượng chung giữa trời người,  
        Ngài dường voi giống quí, dáng đứng đi khéo tự nhiên,  
        Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của Thánh hiền!  
        4. Ngài dòng sang, tông  
        quí, cấp "Khatti" [*] của hoàng gia.  
        Nên khiến cả nhân thiên lễ dưới chân chẳng nệ hà,  
        Ngài thường xuyên tỉnh giác, tuệ tâm đủ giới, thiền  
        na, 
        Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!  
        
        [*] Khatti: Bắc Phạn là  
        Ksatri(Xá tri), Tàu âm là Sát đế lỵ tức chiến sĩ. Sakya:  
        Tàu âm là Thích Ca.  
        
        5. Dài và cao, thẳng đứng,  
        mũi khác chi mũi Hằng nga,  
        Mắt biếc tợ bò tơ, khuất dưới nheo mượt nõn nà,  
        Mày Ngài xanh xanh thẫm, thể cái mống tận trời xa,  
        Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!  
        6. Tròn đều, trơn,  
        mịn mát, cổ khoáng đạt, và hào hoa,  
        Thân với quai hàm vua, chúa sơn lâm khó sánh qua,  
        Vàng ròng tuy chất tốt, nước sang kém thua màu da,  
        Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!  
        7. Dịu trầm sâu, êm  
        ấm, tiếng thuyết ngân giống đồng chung,  
        Khi hé mở làn môi, lộ lưỡi son đượm ánh hồng,  
        Hàng đôi răng ngọc trắng, bốn chục cái đủ trọn nguyên,  
        Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!  
        8. Toàn màu xanh như  
        thuốc nhỏ mắt đau, tóc đậm đen!  
        Như bát mĩ vàng tây đánh bóng trơn trán phẳng liền!  
        Bạch hào [*] như sao sớm, rực rỡ chói lúc tàn đêm.  
        Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!  
        
        [*] Chòm lông trắng  
        giữa hai chân mày của Ðức Phật.  
        
        9. Dường vầng trăng  
        đi trước, soi mở lối giữa trời đêm,  
        Ðông đủ các vì sao nối gót theo bóng ngọc thiềm [*]  
        Kìa Sa môn Giáo chủ dẫn Tăng chúng bước nhẹ êm  
        Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!  
        
        [*] Con cóc ngọc, ám chỉ mặt trăng.  
        
        (Tỳ khưu Pháp Minh  
        dịch) 
       
      
      BUDDHAPĀDANĀMAKKĀRAGĀTHĀDVADASAPARITTA, 
      trích ở kinh tụng Paritta  
      12 bộ của Miên văn.  
      
      
        Vandāmi Buddhaṃ  
        bhavapāratiṇṇaṃ 
        Tiloka ketuṃ tibhaveka nāthaṃ  
        Yo lokaseṭṭho sakalaṃ kilesaṃ  
        Chetvāna bodhesi jānaṃ anantaṃ  
        Yaṃ Nammadāya nadiyā puline ca tīre,  
        Yaṃ Saccabandhagirike sumanā ca lagge,  
        Yaṃ tattha Yonakapure munino ca pādaṃ  
        Taṃ pādalañchanamāhaṃ sirasā- namāmi:  
        Suvaṇṇamālike; 
        Suvaṇṇapabbate; 
        Sumanakū ṭe;  
        Yonakapure; 
        Nammadāya nadiyā  
        Pañca pādavaraṃ ṭhānaṃ, ahaṃ vandāmi dū rato.  
       
      
      Nghĩa: 
      
      KỆ LỄ PHẬT - TÍCH  
      
      
        1. Thành tâm con đảnh  
        lễ Ðức Phật Tổ Gotama,  
        2. Cái-thế đại hùng anh, biển khổ đau, đã băng qua.  
        3. Còn nêu trong tam giới, chỗ quy-ngưỡng của quần sanh,  
        4. Phiền não đoạn trừ xong, giác ngộ tâm đến Vô - sanh.  
        5. Thành tâm con đảnh lễ những Thánh- tích Sakya,  
        6. Lưu dấu tại trần gian đủ năm noi Phật trải qua:  
        
        Một là trên bãi cát kế mé sông Nammāda;  
        Hai, ở tận đầu non Suvaṇṇa - mālika;  
        Ba là trên đảnh núi Suvaṇṇa Pabbata;  
        Bốn là trên thượng đảnh núi Sumana- konta;  
        Năm, ở trong thành đô hiệu Yonakapurī.  
         
        7. Thành tâm con đảnh lễ năm dấu chân Ðức Mâu - ni;  
        8. Châu báu khắp trần gian xét kỹ ra thật khôn bì.  
        (Tỳ khưu PHÁP MINH  
        dịch) 
       
      
      KHAGGAVISĀṆA SUTTA - TÊ  
      GIÁC KINH  
      
      
        1. Bỏ đao trượng xa lìa  
        vũ khí  
        Không còn gây khổ lụy quần sanh  
        Không con không bạn đồng hành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        2. Sống chung chạ ít gì  
        luyến ái?  
        Xưa ái tình, nay lại sầu tình,  
        Thấy rồi tội khổ tình si,  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        3. Gần bạn hữu, từ  
        bi phát khởi  
        Vì thương ai bỏ lợi chính mình  
        Thấy điều giao hợp mà kinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        4. Vợ con khỏi bao vây  
        bịn rịn  
        Như cây to tàn nhánh rợp xanh  
        Măng lên suông đuột chẳng cành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        5. Nay rừng nọ không  
        chi buộc trói  
        Muốn ăn đâu lui tới thích tình  
        Thanh nhàn thay, bậc cao minh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        6. Ðược mời thỉnh,  
        khi thì giữa bạn  
        Lúc vân du, lúc hoãn hành trình  
        Tự thân nào thấy an bình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        7. Nỗi khoái lạc đòi  
        khi họp bạn  
        Tình yêu con phương quảng dễ kinh  
        Ái ly là khổ cực hình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        8. Biết tri túc, rày đây  
        mai đó  
        Bốn phuơng xa, nào có bất bình  
        Ðối đầu hiểm họa chẳng kinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        9. Khó cầm cọng xuất  
        ly một bậc  
        Thí chủ ơi, lui bước gia đình  
        Nhân luân người đã trọn tình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        10. Lá đã rụng mong gì  
        mọc nữa?  
        Tắt lịm rồi hương lửa ba sinh  
        Hùng hào đoạn thế gian tình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        11. Nếu gặp bạn trí  
        tri cao kiến  
        Hãy đẹp lòng chí nguyện cộng sinh  
        Vượt bao hiểm họa đành hanh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        12. Chẳng gặp bạn trí  
        tri cao kiến  
        Ðể đẹp lòng chí nguyện cộng sinh  
        Vua từ ngôi, bỏ đế kinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        13. May gặp bậc trí  
        tri xứng đáng  
        Hơn hay bằng, kết bạn đồng hành  
        Bằng không cứ sống trọn lành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        14. Ðã thấy xuyến vàng  
        y rực rỡ  
        Khua động theo nhịp cổ tay xinh  
        Dễ gì hai chiếc lặng thinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        15. Có đôi bạn càng gây  
        vướng bận  
        Tiếng lại qua tranh luận bất bình  
        Thấy gương trước mắt mà kinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        16. Tánh hảo ngọt, thích  
        mùi dục lạc  
        Tâm động vì vô sắc, hữu hình  
        Ngủ trần tội khổ chẳng khinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        17. Như ung nhọt, cơ  
        nguy, bịnh tật  
        Ðòn xóc chờ ta, thật dễ kinh  
        Ngũ trần hiểm họa đành rành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        18. Nóng, lạnh, đói,  
        khát gì chẳng quản  
        Rắn, muỗi, mòng, mưa, nắng thình līnh  
        Vượt qua trên khắp lộ trình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        19. Như voi chúa, xả ly  
        đoàn tượng  
        Ẩn rừng sâu vui sướng thỏa tình  
        Thân vàng, sen báu lịch xinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        20. Không thuận cảnh  
        vui gì hợp mãi?  
        Cứ theo lời của Thái Dương huynh  
        Thoát ly tạm lánh gia đình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        21. Tuồng ảo hóa có  
        chi đâu lạ?  
        Lý đạt rồi Ðạo quả phát sinh  
        Việc vô minh đã liễu minh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        22. Chẳng tham quấy  
        dối khi thèm khát  
        Không dèm pha, sạch cát bùn sình  
        Nào mong thế nghiệp kinh dinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        23. Tự thân quyết xa lìa  
        bạn ác  
        Lý không thông khó đắc tâm bình  
        Dễ duôi, ai dại kết tình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        24. Bậc quảng kiến hành  
        trì pháp chánh  
        Thông lý huyền dứt mạnh nghi tình  
        Nếu không được kết bạn lành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        25. Thú trần tục vui  
        chi lợi dưỡng  
        Thôi mơ màng sắc tướng âm thinh  
        Ngữ ngôn thu thúc, chân thành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        26. Kìa phụ mẫu, thê  
        nhi thúc phọc  
        Nọ của tiền, lúa thóc vây quanh  
        Dục trần, giả biệt phân minh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        27. Bả dục lạc ham  
        chi bám níu?  
        Càng ham vui, càng chịu khổ hình  
        Lý chân, nhận thức đành rành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        28. Mười kiết sử trùng  
        vi bị xé  
        Lưới rách tung, cá lẹ thoát sinh  
        Xa nơi rừng lửa dục tình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        29. Mắt ngó xuống tư  
        duy từng bước  
        Giữ lục căn, khử trược lưu thanh  
        Lửa tình, tham ái không sanh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        30. Bỏ gia thế xuất  
        ly hành đạo  
        Ðắp cà sa, đầu cạo tóc xanh  
        Lá vàng nay đã lìa cành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        31. Khỏi nuôi ai, vô  
        vi, vô dục,  
        Ðối vị trần, tri túc trì bình  
        Tâm không luyến khách gia đình,  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        32. Năm pháp cái với tùy  
        phiền não  
        Ðã dứt rồi, tâm đáo đại hành  
        Diệt luôn sân hận ái tình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        33. Quay lưng lại bỏ  
        vui và khổ  
        Tiền hỉ ưu, đắc độ xả bình  
        "Chỉ" rồi tâm hảo tịnh thanh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        34. Tinh cần đạt tế  
        vi Chân đế  
        Giải thoát tâm, cùng giới tuệ minh  
        Hùng tài, đại lực viên thành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        35. Chốn cô tịch, kiên  
        trì thiền định  
        Tâm thường xuyên đeo dính Pháp minh  
        Luân hồi quán thấy cảm kinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        36. Chuyên cần nguyện  
        xả ly Ái dục  
        Mặc nhiên thường nghe học, nhớ rành  
        Rán hành đắc pháp Vô sanh,  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        37. Hùng sư há sợ chi  
        tiếng động?  
        Gió lòn qua lỗ trống lưới mành,  
        Ao bùn sen vẫn lịch thanh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        38. Nhờ nanh vuốt cực  
        kỳ dũng mãnh  
        Hùng sư làm chúa cảnh rừng xanh  
        Thảnh thơi vui thú độc hành  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        39. Từ, Xả, Hỉ và Bi  
        giải thoát  
        Niệm thường thường đồng loạt liên minh  
        Tâm bình, thế giới hòa bình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        40. Tham với Sân và Si  
        dứt tuyệt  
        Kiết sử tan vĩnh biệt Vô minh  
        Ðiềm nhiên chẳng sợ Tử sinh  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        41. Sum họp khó quyết  
        nghi Chơn giả  
        Lìa bạn bè, lợi ngã phân minh  
        Xả ly thế tục, phàm tình  
        Thà như tê giác một mình ra đi...  
        (Tỳ khưu PHÁP MINH  
        dịch) 
       
      
      DASA KĀMAGUṆA - TỘI NGŨ  
      TRẦN 
      
      
        1. Ngũ trần như khúc xương  
        không, 
        Mà con chó đói cố công gậm lỳ.  
        2. Ngũ trần như thịt  
        tử thi,  
        Qua tranh nhau mổ kể gì thúi tha.  
        3. Ngũ trần như đuốc  
        rơm phà,  
        Cầm đi ngược gió ắt là phỏng tay.  
        4. Ngũ trần hầm lữa  
        đỏ gay,  
        Sa chân xuống đó hằng ngày khổ đau.  
        5. Ngũ trần tợ giấc  
        chiêm bao,  
        Thấy rồi liền mất dễ nào bền dai.  
        6. Ngũ trần như vật mượn  
        xài, 
        Xài xong phải trả giữ hoài được sao?  
        7. Ngũ trần như trái  
        chín cao,  
        Nại cây gãy nhánh vỡ đao thợ rừng.  
        8. Ngũ trần lao kiếm sáng  
        trưng, 
        Phạm nhầm ắt khổ mựa đừng dễ duôi.  
        9. Ngũ trần dao thớt  
        đủ đôi,  
        Người mê đắm bị bầm nhồi nát tan.  
        10. Ngũ trần đầu  
        rắn hổ mang,  
        Có hai túi nọc lại càng dễ kinh.  
        Ai tu nấy liệu giữ mình,  
        Mười điều tội khổ đinh ninh chớ sờn.  
        (Tỳ khưu PHÁP MINH  
        dịch.) 
       
      
      KỆ CỦA ÐẠI ÐỨC  
      SARIPUTTA 
      
      Ðây là bài kệ của Ðại  
      Ðức Sariputta (Xá-Lợi-Phất) đọc lên cổ xúy chúng ta,  
      bất cứ lúc nào, hoặc trong hoàn cảnh nào, cũng nên đặt  
      trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Tam Bảo.  
      
        "Hãy trương cao  
        ngọn cờ Chân lý!  
        Hãy hoằng dương Chánh Pháp cao minh  
        Những lúc bàn tay kinh khủng  
        Lạnh lùng siết chặt tim ta,  
        Ðừng tưởng nhớ đến Chư thiên, Thần thánh,  
        Vì như ta, họ cũng run sợ hãi hùng.  
         
        "Giữa rừng già hiu quạnh, trong bóng tối trậptrùng,  
        Khi ngọn đèn hy vọng lao chao muốn tắt;  
        Ðừng tưởng nhớ đến Chư thiên, Thần thánh;  
        Vì như ta, ánh sáng họ cũng tàn.  
         
        "Trong giờ phút lâm ly hấp hối,  
        Lời nghẹn giữa đôi môi, lệ trào như suối.  
        Ðừng tưởng đến Chư thiên, Thần thánh,  
        Vì như ta, họ cũng nhỏ lệ biệt ly.  
         
        "Hãy ngước mắt lên:  
        Nhìn ngọn cờ Tam Bảo!  
        Tưởng nhớ đến Ðức Thế Tôn, bậc chiến thắng oai hùng,  
        Ðến Chánh Pháp, ánh sáng huy hoàng vĩnh cửu,  
        Ðến Tăng Già,tập đoàn giới tịnh đức cao.  
        Hỡi đạo hữu!  
        Là chiến sĩ giữa quân thù "phiền não",  
        Mắt đừng lìa ngọn Tam Bảo uy kỳ,  
        Tâm đừng xa ân đức Phật - Pháp - Tăng,  
        Hãy dũng tiến trên con đường "Giải Thoát".  
       
      
      MORAPARITTA 
      
      
        Udetayañcakkhumā  
        (Apetayañcak-khumā) ekarājā  
        harissavaṇṇo paṭhavippabhāso  
        taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ  
        Tayajja guttā viharemu  
        divasaṃ (rattiṃ)  
        ye brahmaṇā vedagu sabbadhamme  
        te me namo te camaṃ palāyantu  
        namatthu Buddhānaṃ namatthu bodhiyā  
        namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā  
        imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā. (vāsamakappayīti)  
       
      
      Nghĩa: 
      
      KHỔNG TƯỚC KINH  
      
      
        Mặt trời ánh sáng như  
        vàng 
        Chiếu trong thế giới khắp tràn bốn châu  
        Tự do soi cả đâu đâu  
        Là tròng con mắt hoàn cầu sanh linh  
        Cho nên tôi mới nghiêng mình  
        Cúi đầu cung kỉnh tỏ trình Ân cao  
        Các Ngài luân chuyển cùng nhau  
        Thay phiên trị nhật vị nào ngày nay  
        Chúng tôi ở dưới quyền nầy  
        Xin nhờ ủng hộ ngày rày an vui  
        Làm cho ác độc phai phui  
        Cho dù oan trái mưu thù cũng hư  
        Thiền tăng đạo sĩ các Sư  
        Tu hành đắc pháp hoặc cư xa gần  
        Từ bi soi đến kẽ cần  
        Biết nay tôi kỉnh tự thân yêu cầu  
        Nương nhờ quyền lực phép mầu  
        Ðặng cho tránh khỏi nạn sầu ngày nay  
        Phạm thiên, Thiên chúng các Ngài  
        Thọ tôi kỉnh lạy hiện nay xin tường  
        Bảo tồn khỏi sự bất lương  
        Trọn ngày cho được tránh đường họa tai  
        Cúi đầu lạy cả Như Lai  
        Các hàng Bồ tát chư Ngài Thánh Tăng  
        Với cùng Pháp Bảo siêu thăng  
        Ngày nay nhớ tụng để ngăn các điều.  
        (Tỳ khưu SANTAKICCO  
        dịch) 
       
      
      PHỤC NGUYỆN 
      
      
        Phước lành tôi đã  
        tạo ra  
        Các đời quá khứ hay là đời nay  
        Nghiệp chưa cho quả phước nào  
        Nguyện thành Pháp Ðộ để vào thiện căn  
        Sau nầy dù tạo mấy lần  
        Từ đây cho đến siêu thăng Niết Bàn  
        Hể làm chuyện tốt sẵn sàng  
        Mỗi điều hạnh phúc thành đoàn Nhân Duyên  
        Giúp cho phiền não sớm yên  
        Trợ mau giải thoát kế liền kiếp sau  
        Nếu trể chẳng gặp Phật nào  
        Nhằm kỳ Ðộc Giác làm sao cũng thành.  
       
      
      THẬP NGUYỆN 
      
      
        Nguyện cầu Tam - Bảo  
        từ hằng độ,  
        Nguyện thoát ba tai nước, lửa, binh,  
        Nguyện thảy chúng sanh khỏi oan kết,  
        Nguyện cho nhân loại ráng tu hành  
        Nguyện gìn tam học Giới - Ðịnh - Tuệ  
        Nguyện đoạn Tham - Sân - Si độc sanh  
        Nguyện giải căn nhân Sanh Tử khổ  
        Nguyện diệt tâm tham háo lợi danh  
        Nguyện tu tinh tấn không giải đảy  
        Nguyện sao đạo quả sớm viên thành.  
       
      
      BÀI CẦU CHƯ THIÊN  
      
      
        Chí thành miệng vái tâm  
        cầu 
        Chư Thiên lớn nhỏ bất câu bậc nào  
        Bốn tầng Sắc Giới rộng cao  
        Xin nghe hiểu biết hiện vào trợ duyên  
        Ðặng tâm sáng kiến phát liền  
        Biết nơi đáng sắp bày tuyên vừa người  
        Dầu ai cản sái luận dư  
        Chuyển lòng tinh tấn ngăn trừ sự lui  
        Chư Thiên Dục Giới hưởng vui  
        Vừa nghe cầu khẩn, tạm ngừng xét qua  
        Từ trời Tha Hóa cao xa  
        Ðến cung Ðạo Lợi bao la năm tầng  
        Giàu lòng bác ái thọ xưng  
        Thảy đều bố cáo chuyển luân sắp bày  
        Vị nào hoan hỷ cầu đây  
        Ra ân trợ giúp chẳng chầy mau xong;  
        Hiện nay tôi rất hết lòng  
        Mong cho Thiên Tướng oai phong Bốn Ngài  
        Thường luôn an lạc vui thay  
        Tránh xa khổ não hằng ngày tiến lên  
        Ðặng ngôi Nguyên Soái vững bền  
        Lòng từ ủng hộ các nền Giáo chân  
        Chẳng nài khó nhọc ra ân  
        Chúng tôi hữu sự có nhân nên cầu  
        Vì e công chuyện trể lâu  
        Làm cho nhiều kẻ hao sầu thân tâm  
        Nhờ Ngài xuống lịnh quyền thâm  
        Chư Thiên lòng tốt quang lâm giúp thành  
        Rất là ân trọng cao thanh  
        Chúng tôi hồi hướng phước lành kính dâng.  
        Chư Thiên lớn nhỏ các tầng  
        Tùy hỷ công đức đồng mừng trợ chuyên.  
        (Tỳ khưu SANTAKICCO  
        dịch) 
       
      
      (DỨT PHẦN CẦU AN) 
      
       -ooOoo- 
      KINH CẦU  
      SIÊU
      
      SAMVEJANĪYA GĀTHĀ -  
      KỆ ÐỘNG TÂM  
      
      
        Nagāmadhammo nigamassa  
        dhammo 
        nacāpiyaṃ ekakulassa dhammo  
        sabbassa lokassa sade vakassa  
        eseva dhammo yadidaṃ aniccatā.  
       
      
      Nghĩa: 
      Pháp nào có tên gọi là  
      Vô Thường, là pháp có trạng thái thay đổi không thường,  
      pháp ấy chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong  
      một xứ, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong  
      một xóm, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong  
      một gia tộc đâu, pháp ấy để chung cho nhân loại, súc sanh,  
      luôn đến Chư Thiên, Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.  
      
      
        Nagāmadhammo nigamassa  
        dhammo 
        nacāpiyaṃ ekakulassa dhammo  
        sabbassa lokassa sadevakassa  
        eseva dhammo yadidaṃ dukkhatā.  
       
      
      Nghĩa: 
      Pháp nào có tên gọi là  
      Khổ Não, là pháp có trạng thái đau đớn buồn rầu, pháp  
      ấy chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một  
      xứ, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một xóm,  
      chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một gia  
      tộc đâu, pháp ấy để chung cho nhân loại, súc sanh, luôn đến  
      chư Thiên, Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.  
      
      
        Nagāmadhammo nigamassa  
        dhammo 
        nacāpiyaṃ ekakulassa dhammo  
        sabbassa lokassa sadevakassa  
        eseva dhammo yadidaṃ anattatā.  
       
      
      Nghĩa: 
      Pháp nào có tên gọi là  
      Vô Ngã, là pháp có trạng thái không phải là của ta, pháp  
      ấy chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một  
      xứ, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một xóm,  
      chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một gia  
      tộc đâu, Pháp ấy để chung cho nhơn loại, súc sanh, luôn đến  
      chư Thiên, Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.  
      
      
        Aciram vatayaṃ kāyo  
        paṭhaviṃ adhisessati  
        chuddho apetaviññano  
        niraṭṭhaṃ va kaliṅgaraṃ    
      (ba lần)
      
      Nghĩa: 
      - Thân này chẳng tồn  
      tại bao lâu đâu, khi tâm thức lìa bỏ rồi, thì nằm để trên  
      mặt đất, như đống tro tàn, tìm sự lợi ích chẳng có.  
      
      
        Aayu usmā ca viññāṇaṃ  
        yadā kāyaṃ jahantimaṃ  
        apaviṭṭho tadā seti  
        niraṭṭhaṃ va kaliṅgaraṃ    
      (ba lần)
      
      Nghĩa: 
      - Tuổi thọ, chất lửa,  
      hoặc tâm thức, khi lìa bỏ thân này trong giờ nào rồi, (thân  
      này không nên hoàn để trong nhà) (người đời) họ đem  
      liệng bỏ nằm (trên mặt đất) trong giờ ấy, như đống tro  
      tàn tìm sự lợi ích chẳng có.  
      
      
        Sabbe sattā marissanti  
        maranaṇtaṃ hi jīvitaṃ  
        yathākammaṃ gamissanti  
        puñña-pāpaphalū pagā  
        nirayaṃ pāpakammantā  
        puññakammā ca sugatiṃ  
        tasmā kareyya kalyāṇaṃ  
        nicayaṃ saṃ -parāyikaṃ  
        puññāni paralokasmiṃ  
        patiṭṭhā honti pāṇinaṃ .  
       
      
      Nghĩa: 
      - Tất cả chúng sanh  
      chỉ sẵn dành để chịu chết đều nhau cả, vì sanh mạng  
      (của tất cả chúng sanh) chỉ có sự chết là nơi cuối cùng.  
      Tất cả chúng sanh, đều  
      phải chịu quả phước cùng quả tội, vừa theo cái nghiệp;  
      của mình đã tạo rồi (đi thọ sanh trong kiếp sau, chúng sanh  
      nào làm việc dữ, phải chịu khổ trong cõi địa ngục. Chúng  
      sanh nào, làm việc lành, được thọ vui trong cõi thiên đàng.  
      Cho nên (người đời) cần phải hối hả, làm việc phước  
      đức, mà các bậc trí tuệ hằng thân thiết, cho đặng làm  
      của để dành, dính theo trong đời vị lai (vì) các việc phước  
      đức là nơi nương nhờ của tất cả chúng sanh trong ngày  
      vị lai.  
      
      PATICCA SAMUPĀDA  
      
      
        Avijjā paccayā  
        saṅkhārā 
        sankhārapaccayā viññānaṃ  
        viññānapaccayā nāma-rū paṃ  
        nāmarū papaccayā saḷāyatanaṃ  
        saḷāyatanapaccayā phasso  
        phassapaccayā vedanā  
        vedanāpaccayātanhā 
        tanhāpaccayā upādānaṃ  
        upādānapaccayābhavo 
        bhavapaccayā jāti  
        jātipaccayā jarāmaranaṃ  
        Sokaparidevadukkha  
        domanassupāyāsā sambhavanti.  
        Evame tassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.  
        Avijjāya tveva asesa  
        virāganirodhā saṅkhāranirodho.  
        Sankhāranirodhā viññānanirodho.  
        Viññānanirodhā nāmarū panirodho.  
        Nāmarū panirodhā saḷāyatananirodho.  
        Saḷāyatananirodhā phassanirodho.  
        Phassanirodhā vedanānirodho.  
        Vedanānirodhā taṅhānirodho.  
        Tanhānirodhā upādānanirodho  
        Upādānanirodhā bhavanirodho.  
        Bhavanirodhā jātinirodho.  
        Jātinirodhā jarāmaranaṃ .  
        
        Sokaparidevadukkha domanassupă-yāsā  
        nirujjhanti. 
        Evame tassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti.  
         
      
      Nghĩa: 
      
        Các Pháp Hành phát  
        khởi vì duyên vô minh.  
        Thức phát khởi vì duyên hành,  
        Danh sắc phát khởi vì duyên thức.  
        Lục nhập phát khởi vì duyên danh sắc.  
        Tiếp xúc phát khởi vì duyên lục nhập.  
        Thọ phát khởi vì duyên tiếp xúc.  
        Ái phát khởi vì duyên thọ.  
        Thủ phát khởi vì duyên ái.  
        Hữu phát khởi vì duyên thủ.  
        Sanh phát khởi vì duyên hữu.  
        Lão tử phát khởi vì duyên sanh.  
        Uất ức sanh tử biệt ly khổ, trái ý, bực bội, hằng phát  
        khởi (cũng vì duyên sanh).  
        Tánh cách phát khởi  
        những thống khổ ấy, lý do như thế.  
        Hẳn thật, tánh cách diệt hành, vì diệt tận vô minh do  
        theo thánh đạo.  
        Tánh cách diệt thức vì  
        diệt hành.  
        Tánh cách diệt danh sắc vì diệt thức.  
        Tánh cách vì diệt lục nhập vì diệt danh sắc.  
        Tánh cách diệt tiếp xúc vì diệt lục nhập.  
        Tánh cách diệt thọ vì diệt tiếp xúc.  
        Tánh cách diệt ái vì diệt thọ.  
        Tánh cách diệt thủ vì diệt ái.  
        Tánh cách diệt hữu vì diệt thủ.  
        Tánh cách diệt sanh vì diệt hữu.  
        Lão tử diệt, vì tánh cách diệt sanh.  
        Sự uất ức, sự sanh  
        tử biệt ly khổ, sự trái ý, và sự bực bội trong tâm, cũng  
        đều diệt, vì tánh cách sự diệt sanh.  
        Tánh cách diệt những thống khổ ấy, lý do như thế.  
       
      
      Aniccā vata saṅkhārā  
      uppāda vayadhammino upajjitvā nirujjhanti tesaṃ .  
      Vū  pasamo sukho. (ba lần)  
      
      Nghĩa: 
      - Các Pháp Hữu Vi thật  
      không bền vững, nó có tánh sanh diệt là thường, vì nhơn  
      sanh rồi diệt, diệt rồi sanh (nên thường hay có sự khổ não)  
      chỉ có Niết Bàn là Pháp tịch diệt, dứt cả Pháp Hữu Vi  
      ấy được, mới có sự an vui tuyệt đối. (ba lần)  
      
      CHÚC NGƯỜI MỚI QUY Y  
      
      
        Ngưỡng cầu Ðức  
        Phật ban ơn  
        Ðộ người chánh kiến tầm chơn đạo thiền  
        Ngưỡng cầu Ðức Pháp vô biên  
        Ðộ người hữu chí cần chuyên đạo hành.  
        Ngưỡng cầu hai bậc Tăng lành  
        Ðộ người mộ đạo tâm thành quy y  
        Cầu xin Thiên chúng hộ trì  
        Giúp người giới luật luôn khi giữ tròn  
        Chúc cho bạn mới lòng son  
        Tu hành tinh tấn dạ mong Niết bàn  
        Thiện nam Tín nữ lưỡng ban  
        Xin cùng đồng đạo bạn vàng nhận thâu  
        Phước lành đào tạo bấy lâu  
        Ðồng xin hồi hướng nguyện cầu quả cao  
        Ðạo mầu gắng chí giồi trau  
        Thoát đường tội lỗi trần lao dứt lần  
        Tìm người trí thức xa gần  
        Gặp người đạo đức ân cần hỏi han  
        Ngày đêm tụ tập đoan trang  
        Công phu hành đạo tìm đường siêu sinh  
        Dọn thân khẩu ý trọn lành  
        Kịp thời thoát tục thực hành đạo cao  
        Tìm đường Bát chánh lần vào  
        Siêu phàm nhập Thánh tiêu dao Niết Bàn.  
       
      
      CỜ PHẬT GIÁO  
      
      
        Cờ Phật giáo nêu cao  
        thanh bạch  
        Xanh vàng đỏ trắng gạch biểu dương  
        Sau chót còn thêm một đường  
        Năm sắc hiệp lại hiện trương sáu màu  
        Sáu màu ấy bởi đâu mà có  
        Do theo kinh tỏ rõ còn ghi  
        Tiền kiếp Thích Ca Mưu Ni  
        Hồi còn Bồ tát đương khi thực hành  
        Ba la mật tâm thành đại thí  
        Là hào quang rất quý của Ngài  
        Sáu màu kế tiếp sau đây  
        Sắc xanh móc mắt cho rày Bàn môn  
        Sắc vàng ấy kính tôn lóc thịt  
        Cho thợ rèn Ðế Thích hiện ra  
        Mạ vàng vào cốt Phật Ðà  
        Vì lòng thành kính dám mà hy sinh  
        Sắc đỏ ấy vì tình mẫu tử  
        Móc gan ra do tự tay Ngài  
        Thuốc hòa cứu mẹ rất hay  
        Do loài rắn độc trể chầy đặng đâu  
        Lòng hiếu thảo ai hầu dám sánh  
        Ðức Ðại bi hình ảnh còn đây  
        Sắc trắng Bạch tượng cho rày  
        Nên cha hành phạt đày Ngài tha phương  
        Cùng non vợ lên đàng xa lánh  
        Vào con cao tuyết lãnh tu hành  
        Vợ thời hái trái non xanh  
        Còn Ngài bao quản  
        nhọc nhằn khổ thân  
        Sắc gạch giống màu chơn chim Phụng  
        Thịt cho chằng sử dụng đập ăn  
        Vui lòng cứu sống mẫu thân  
        Ðành cam bỏ mạng nghĩa danh trọn gìn  
        Màu dợn sóng hiệp toan sáng rỡ  
        Bởi xưa kia kiếp Thỏ cũng vì  
        Thấy người đói khổ lâm nguy  
        Bố thí xác thịt cũng vì Bàn môn  
        Ðức Ðế Thích lắm cơn khích dụ  
        Ba la mật tròn đủ hầu Ngài  
        Thợ rèn kẻ khó cả hai  
        Do Ngài Ðế Thích đại tài hiện ra  
        Trong Tam giới đều hòa ca tụng  
        Khắp năm châu cung phụng kính thờ  
        Quốc tế nhìn nhận lá cờ  
        Tung hô Phật giáo đến giờ sùng hưng.  
       
      
      HỒI HƯỚNG PHƯỚC ÐẾN  
      CHƯ THIÊN  
      
      
        Aakāsaṭṭhā ca  
        bhummaṭṭhā 
        Devānāgā mahiddhikā  
        Puññaṃ no anumodantu  
        Ciraṃ rakkhantu  
        1. Sāsanaṃ  
        2. Raṭṭhake  
        3. Ñātayo  
        4. Pānino  
        5. No sadā.  
       
      Chư Thiên ngự trên hư  
      không 
      Ðịa cầu thượng ngự rõ thông mọi điều  
      Long vương thần lực có nhiều  
      Ðồng xin hoan hỷ phước đều chúng tôi  
      Hộ trì Phật giáo Tăng bồi  
      Các bậc Thầy tổ an vui lâu dài  
      Quyến thuộc tránh khỏi nạn tai  
      Chúng sanh được hưởng phước dài bền lâu  
      Chúng tôi vui thú đạo mầu  
      Tu hành tinh tấn ngõ hầu siêu sinh. (lạy) 
      
      
      NĂM  
      ÐIỀU  
      QUÁN TƯỞNG  
      
      
        Thế Tôn lời dạy tỏ  
        tường 
        Năm điều quán tưởng phải thường xét ra  
        Ta đây phải có sự già  
        Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn  
        Ta đây bịnh tật phải mang  
        Thế nào tránh thoát đặng an mạnh lành  
        Ta đây sự chết sẵn dành  
        Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ  
        Ta đây phải chịu phân ly  
        Nhơn vật quý mến ta đi biệt mà  
        Ta đi với nghiệp của ta  
        Dầu cho tốt xấu tạo ra tự mình  
        Theo ta như bóng theo hình  
        Ta thọ quả báo phân minh kết thành.  
       
      
      KỆ TỤNG KHI NHIỄU 
      PHẬT 
      
      
        Ca sa oai đức chi bằng  
        Sắc vàng thanh bạch của hàng Sa Môn  
        Noi gương từ phụ Thế Tôn  
        Hoằng khai giáo pháp tám muôn bốn ngàn  
        Ngày nay Thiện tín các hàng  
        Ca sa đại lễ nghiêm trang cử hành  
        Dâng y với tấm lòng thành  
        Ba vòng nhiễu Phật đồng thanh nguyện cầu  
        Chư Tăng hoan hỷ lãnh thâu  
        Căn lành gieo giống để hầu mai sau  
        Nguyện mau thoát khỏi trần lao  
        Tu hành tinh tấn tiêu dao đạo mầu  
        Chúc cho Phật pháp bền lâu  
        Thấm nhuần trăm họ năm châu thạnh hành  
        Chúc cho cả thảy chúng sanh,  
        Hồi đầu hướng thiện tâm thành quy y  
        Noi theo gương đấng Từ bi,  
        Xuất gia hành đạo mang y ngồi kề  
        Tu tâm dưỡng tánh mọi bề,  
        Tham sân đoạn tuyệt Bồ đề đến nơi.  
       
      
      -ooOoo- 
       Ðầu  
      trang | 01 | 02  
      | 03 | 04 | 05 |  
      06 | Mục lục  |