Hai ngày đã qua đi tại tu viện Sera Mey. Sáng nay tôi tọa thiền và hành 
		trì trong sự an bình nhẹ nhàng. Niềm an vui trong đời sống tu viện và 
		nếp sống xa mọi thị phi trong hai ngày vừa qua đã mang lại cho tôi một 
		sự an ổn rất tĩnh lặng của tâm. Thực là một điều kỳ diệu khi tâm cảm 
		thấy an ổn và được che chở, khi trong lòng thấy rõ những pháp môn và sự 
		hộ trì không đứt đoạn mà chư tổ và chư bổn sư trong dòng truyền thừa ban 
		cho mình, liên tục từ thời Phật Thích ca đản sanh cho đến bây giờ. Vì 
		mình nằm trong dòng liên tục đó, nên tâm rất an bình và sung sướng trong 
		sự hành trì mỗi ngày. Sự quán tưởng sùng kính không thể thiếu sót vào 
		bốn lễ quán đảnh của đức Bổn Sư Kim Cang Trì, đức Phật Bổn sơ của dòng 
		Kim Cang thừa làm cho buổi thiền quán trở thành niềm thích thú say mê vì 
		thấy rõ ràng là ngài ban cho mình một sự hộ trì không gián đoạn… 
		Hôm nay, tôi tham dự với phái đoàn đi thăm tu viện Zongkar Choede, là 
		một tu viện nhỏ gần Sera Mey, và cũng nhân cơ hội đi thăm Hạ Mật Viện 
		(Gyumed).
[18] Năm 2002, tôi đã có dịp đi thăm 
		Zongkar Choede và tham quan những pháp khí cổ của chùa như là tượng Phật 
		thiên thủ thiên nhãn, tượng Phật Tara biết nói, tượng Phật Tara đứng, 
		các dấu chân của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ năm... Những pháp khí này 
		đều được giữ gìn kỹ lưỡng và chỉ mở ra cho các phái đoàn hành hương đến 
		tham bái. 
		Chuyến đi cũng khá dài. Trên đường đi, tôi nhắm mắt thiền quán. Các vị 
		phụ nữ trong phái đoàn trêu ghẹo tôi, hỏi là sao anh ngủ hoài thế. Tôi 
		cười nói rằng tôi không ngủ, và có nghe biết quý vị, nhưng tôi thường đi 
		vào trong một tình trạng định trong sự chú tâm, lúc đó tâm rất là an 
		bình sung sướng, trong lòng thấy rất là an lạc. Những lúc nhắm mắt như 
		thế, tôi như đi vào một vùng sâu thẳm của của tiềm thức và rất an bình 
		sung sướng. Tôi có thể ở trong trạng thái an lạc của thiền định đó rất 
		lâu. Tuy không chú tâm vào chuyện quý vị nói hay vào những chuyện xung 
		quanh mình nhưng tôi vẫn nghe và biết mọi sự. 
		Các vị đó lại càng trêu tôi, nói là thiền ngủ hả anh. Tôi cười nói: Ấy, 
		quý vị cũng biết là một trong Sáu pháp du già của tổ Naropa là pháp môn 
		Thùy Miên Du Già, bất cứ ai đã từng thọ lễ quán đảnh Tối thượng Du Già 
		đều phải hành trì. Và để tôi kể lại hầu chuyện quý vị về chuyện của Tổ 
		Tịch Thiên (Shantideva) như sau:
		Lúc còn ở trong tu viện Nalanda, Tổ thường bị tăng chúng chê cười là 
		suốt ngày chỉ ngủ, ăn và đi nhà cầu. Một hôm tăng chúng muốn mang Tổ ra 
		làm trò cười và mong là sau đó, Tổ vì bị chê cười mà phải tự bỏ ra đi 
		khỏi tu viện. Tăng chúng viện cớ mời Tổ lên tòa thuyết pháp. Tổ nhận 
		lời, và không hề biết là họ đã xây một pháp tòa cao khổng lồ, nhưng 
		không có bậc thang nào để cho Tổ bước lên. Hôm đó, họ mời một tăng đoàn 
		đông đảo đến tham dự và định bụng sẽ làm một trận cười lớn. Khi Tổ đến 
		nơi hội trường và thấy tình cảnh như vậy, Tổ đột nhiên vươn cánh tay, 
		biến thành dài cho đến khi chạm vào tòa ngồi và biến tòa trở thành kích 
		thước nhỏ lại bình thường. Tổ lên ngồi trên đó thuyết giảng và hỏi: Quý 
		vị muốn nghe một bài giảng bình thường, trước đó đã từng nghe qua, hay 
		là muốn nghe một bài giảng phi thường, trước đó chưa từng nghe bao giờ? 
		Tăng chúng trả lời là muốn nghe bài giảng phi thường, mong rằng Tổ sẽ bị 
		thất bại và phải xấu hổ mà bỏ tu viện ra đi.
		Tổ bèn bắt đầu giảng về “Nhập Bồ Tát Hạnh” và khi tăng chúng nghe, họ 
		đều ngạc nhiên cảm thấy bài giảng thật là kỳ diệu. Khi Tổ giảng đến 
		chương Trí tuệ và đọc đến câu: “...những gì hiện hữu và không hiện 
		hữu...” thì thân của Tổ bay lên lơ lửng trong không gian, trụ giữa đám 
		mây, không còn thấy được. Tổ tiếp tục giảng chương 10 và chương cuối của 
		“Nhập Bồ Tát Hạnh” trong trạng thái vô hình mà người thường không thể 
		thấy được đó, chỉ có những vị có trình độ chứng ngộ cao mới có thể nghe 
		được hai chương cuối và thấy được Tổ trong đám mây... 
		Tôi nói tiếp, quý vị cẩn thận nhé, nhiều khi thấy vậy mà không phải vậy, 
		cho nên “thấy vậy mà không thấy vậy mới là thấy vậy” đó... Và mọi người 
		đều cười vang! 
		Sau khi thăm tu viện Dzongkar Choede, được thầy viện trưởng của tu viện 
		cho xem những pháp khí cổ xưa quý báu của chùa, mọi người ai cũng hoan 
		hỷ và cúng dường thật nhiều. Chưa kể là còn được tu viện hậu đãi một bữa 
		ăn trưa rất ngon. 
		Trên đường đi trở về tu viện Sera Mey, trong khi tôi đang nhắm mắt trì 
		chú thì các chị đằng sau lại kêu réo và nói anh kể chuyện nghe nữa đi. 
		Tôi nói kể chuyện gì bây giờ, thì một chị hỏi là tại sao anh không chịu 
		đi hành hương với phái đoàn, anh có tướng khuôn mặt rất lạ, hai lông mày 
		phượng thật dài và cong vút, ai nhìn anh cũng phải sợ tướng mặt Quan 
		Công của anh, nếu chịu đi với phái đoàn thì đỡ lắm, vì kẻ gian trông 
		thấy là sợ mà không dám đụng vào. 
		Tôi cười nói là, tôi cũng đã từng nghiên cứu về tướng học trước khi từ 
		bỏ để theo đạo Phật, bây giờ quý vị muốn nói về tướng mạo, thì cho phép 
		tôi hỏi là quý vị có bao giờ nghe tướng “thập trọc nhất thanh” và “thập 
		thanh nhất trọc” chưa? Một chị trả lời, hình như là cái tướng trước tốt 
		hơn cái tướng sau. 
		Tôi cười nói, đúng rồi, “thập trọc nhất thanh” là quý tướng, còn “thập 
		thanh nhất trọc” là phá tướng. Mọi người hỏi tại sao vậy và tôi giải 
		thích là vì “thập trọc nhất thanh” nghĩa là mười phần tướng xấu mà ở 
		trong lại ẩn một quý tướng thì như đá ẩn ngọc quý, còn “thập thanh nhất 
		trọc” là mười phần tướng tốt đẹp, lại phô bên trong một cái tướng rất 
		xấu, cho nên gọi là phá tướng, vì chỉ một tướng xấu mà phá đi mất tất cả 
		các tướng đẹp. 
		Và tôi kể chuyện là ngày xưa vua Càn Long thường hay trốn ra khỏi cung 
		đình, cải trang để đi xem dân tình. Một hôm nhà vua cải trang thành dân 
		thường đi ra ngoài thành, thấy một ông thầy bói ngồi xem tướng, mọi 
		người bu lại đông đảo xin xem và khen hay. Vua cũng chen vào và chờ khi 
		thầy bói rảnh một chút để hỏi là ông xem tướng tôi ra sao? Thầy tướng 
		nhìn kỹ nhà vua xong nói rằng, tướng ông là tướng ăn mày. Nhà vua nghe 
		xong phá lên cười ha hả và quay đi. Ông thầy tướng gọi giật lại và bảo, 
		thưa ngài, tôi đã lầm, vì ban đầu xem tướng ngài thấy không có gì xuất 
		sắc, nhưng khi ngài cười ha hả và quay đi thì tôi mới nhận ra, ngài có 
		bộ hàm răng của rồng, long nha, cho nên đó là tướng “thập trọc nhất 
		thanh”, và tướng của ngài là tướng làm vua. 
		Mọi người nghe xong thích thú lắm, nói anh kể nữa nghe đi và hãy coi 
		tướng cho chị em chúng tôi. Tôi cười, nói đó là ngày xưa, tôi nghiên cứu 
		tướng số, còn bây giờ theo đạo Phật, đâu còn coi tướng làm gì? Đức Phật 
		đã dạy: Muốn biết đời trước ra sao thì hãy nhìn đời nay mình chịu quả 
		gì, còn muốn biết đời sau ra sao, hãy nhìn mình đang tạo nhân gì đời 
		nay. Vậy quý vị còn đòi coi làm chi? 
		Thấy mọi người ỉu xìu, tôi tội nghiệp bèn nói thêm, thôi vậy tôi đố quý 
		vị: Tướng đàn bà kỵ nhất cái gì? Mọi người nhìn nhau, không ai trả lời 
		được. Tôi mới thủng thẳng nói, nữ nhân kỵ nhất là tướng “tỵ tước, quyền 
		cao, thanh thích nhĩ...”. Thấy mọi người ngơ ngác, tôi cười nói, “tỵ 
		tước” nghĩa là mũi mỏng như sống dao, “quyền cao” nghĩa là lưỡng quyền 
		nhô cao quá khổ, và “thanh thích nhĩ” nghĩa là tiếng nói cao the thé đâm 
		vào lỗ tai. Đó là tướng đàn bà khắc chồng khắc con... đàn ông nào đụng 
		vào thì tiêu cuộc đời. Mọi người nhao nhao hỏi, vậy chứ đi sửa mũi cho 
		cao lên thì sao? Tôi trả lời là, mắt mũi gò má miệng và các đường rãnh 
		trên mặt như là sông núi, nguồn mạch, tất cả phải hoà hợp và thông suốt, 
		nếu sửa và cắt đi thì chưa kể hình dạng bị thay đổi, phá các hòa hợp tự 
		nhiên mà còn làm cho các nguồn mạch đó bị tắc nghẽn, và theo tướng số 
		thì như vậy là phá tướng, ngay cả các sẹo khi bị thương tích cũng phá 
		tướng của mình. Nói đến đây, tôi cũng phải nhắc nhở là thôi, các thầy 
		thắc mắc mình làm gì mà ồn ào quá kìa! 
		(Trên xe buýt, vị trí của tôi là ngồi ở hàng ghế thứ hai, bên trong, 
		cạnh cửa sổ. Còn Geshe Norbu thì ngồi ghế ngoài để dễ điều khiển phái 
		đoàn. Do đó mà khi các vị phụ nữ ngồi sau hỏi gì, tôi phải hơi nhổm lên 
		để trả lời. Các thầy thấy chúng tôi ồn ào, nên cũng nhìn chúng tôi như 
		là hỏi, chuyện gì mà vui vẻ thế kia.) 
		Lúc đó, xe buýt đã gần về đến chùa và sau đó thì chúng tôi thủng thẳng 
		chia tay nhau, đi về phòng. Hai vị Geshe dặn dò mọi người là người trong 
		phái đoàn là phải tập hợp lúc 9 giờ đêm để lên đường đi hành hương theo 
		chương trình. Ngay đêm đó, phái đoàn sẽ đi về Bangalore để hôm sau đi 
		Kalkutta. Còn tôi thì không còn đi chung với phái đoàn nữa, và sáng sớm 
		hôm sau, ngày 16 tháng 2 cũng sẽ rời Sera Mey để theo thầy viện trưởng 
		đi Bangalore, và từ đó lấy vé xe lửa để đi về New Delhi và sau đó đi về 
		Dharamsala. 
		Tôi về phòng nghỉ ngơi sau một ngày thăm viếng, đi bộ mệt mỏi và sau đó 
		thiền quán như thường lệ trước khi vào giấc ngủ êm đềm trong bầu không 
		khí an lành của tự viện.