1.
		Ba bị suyễn mãn tính. Má cũng thường hay nói là từ nhỏ ba chỉ có mỗi 
		việc là đi học thôi, không làm gì động tới móng tay cả, vì bà nội cưng 
		ba lắm. Công việc thư ký, thông dịch cũng nhẹ nhàng thích hợp với ba. Ba 
		chưa từng lao động nặng. Bây giờ lại thêm mắc chứng bịnh suyễn nên sức 
		khỏe ba không được tốt. So với bạn bè cùng tuổi thì ba yếu hơn nhiều.
		Thế nhưng...
		Một lần nọ, khi đang làm ở công sở, chợt có người đến báo tin rằng anh N 
		bị bí đái, Ba tức tốc ba giò bốn cẳng chạy về nhà. Không cần hỏi han, ba 
		xốc anh N lên lưng, cõng đi phăng phăng từ trên lầu xuống rồi đến thẳng 
		nhà thương. Cả nhà lo sợ. Hình như lo cho anh N thì ít mà sợ cho sức 
		khỏe của ba thì nhiều (vì lúc đó anh N cũng đã lớn rồi). Ồ không, hồi 
		hộp cho cả hai chứ! 
		Ba đi đi lại lại trước phòng cấp cứu mà quên cả việc mình đang hổn hển. 
		Tới khi được bác sĩ cho hay là anh N ổn rồi thì ba mới thở phào nhẹ 
		nhõm. Hú hồn hú vía. Trái tim ba cũng đang loạn nhịp tứ tung. 
		2. 
		Ba dừng xe trước cửa rào. Phía sau yên là một bao gạo to tướng. Nghe 
		tiếng ba, tôi bước ra tức thì. Ba kêu tôi phụ khiêng bao gạo vô. Tôi nói 
		khỏi, để tôi vác một mình được rồi. Ba nhìn tôi (chắc hơi do dự).
		Thiệt lẹ, tôi bốc bao gạo lên đem thẳng ra nhà sau, đổ vào khạp. Ba đi 
		đằng sau, cười tươi tắn. 
		Trưa, ba đem cơm ra tiệm cho má. Vừa bước vô cửa, ba nói liền: “Thằng H 
		(tên tôi) nó mạnh lắm bà à! Bữa nay, tôi mua gạo về nó ôm bao gạo đem vô 
		nhà một mình gọn khô hà.” Má tôi cười nói tỉnh bơ: “Ừ, thì nó lớn rồi 
		chứ bộ!” (Tuy nói vậy nhưng với tình cha tình mẹ thì chẳng có đứa con 
		nào là lớn cả đâu!) 
		3. 
		Đối với người dân miền Tây thì vùng Thất sơn “năm non bảy núi” được coi 
		là vùng “Thánh địa linh thiêng”. Dân mần ăn buôn bán thường tới đó cúng 
		lễ cầu xin phò hộ cho được mua may bán đắt (hổng biết có được không? Thì 
		cứ tin vậy!).
		Má tôi thì cả đời bận bịu với cửa hàng thuốc tây ở chợ nên suốt năm chỉ 
		rỗi rảnh có ba ngày Tết để đi chùa, còn bình thường thì chuyện lễ hội 
		đình đám cúng kiếng gì đó đều giao khoán hết cho ba. Má chỉ ở phía sau 
		hưởng ứng, ủng hộ cho việc đi đứng phải trái của ba thôi. Nên mấy năm 
		liền, vừa nghỉ hè là tôi lại được ba dắt đi núi chơi. Tôi thích leo núi 
		Cấm nhất. Núi cao vút, rừng cây rậm rạp, mát mẻ và thoát tục. Còn khu 
		vực núi Sam, miễu Bà Chúa Xứ ồn ào, phức tạp, tôi chỉ dạo thoáng qua.
		Nói về leo núi thì tất nhiên là tôi khỏe hơn ba nhiều. Vậy mà ba cứ nhắc 
		chừng chừng, sợ tôi trượt chân, tuột dốc.
		Tôi đi đâu thì phải đi với ba. Đó là sự nhất trí đồng tình của cả ba và 
		má. Tôi chưa từng được đi chơi xa một mình. 
		À! Có một lần tôi được phép đi du lịch mình ên.
[19] 
		Nói mình ên là vì không đi với ba chứ thật ra là đi cùng cả đoàn lận. 
		Nhưng dẫu sao, lần đầu tiên đó đã mở màn cho những chuyến ngao du đơn 
		độc của tôi sau này. 
		Vâng! Cũng trong năm đó, vào dịp tết, ngôi chùa gần nhà tôi có tổ chức 
		đi “hành hương thập tự” hai ngày ở Hà Tiên. Tôi năn nỉ, nhăn nhó, xin 
		riết, cuối cùng ba má mới đồng ý cho đi với điều kiện là tôi không được 
		tắm biển (vì không biết lội) và phải đi chung với cô H, người mà ba nhờ 
		canh chừng tôi giùm. 
		Tôi nghĩ, đi với nhà chùa hẳn là ba má yên tâm rồi. Ai dè, chắc còn thấy 
		lo lo nên ba lên chùa, mấy bận gởi gắm tôi cho quý sư và cô chú Phật tử 
		lớn tuổi dòm ngó giùm. Má nói, có như vậy lòng ba mới thôi thấp thỏm.
		
		4. 
		Đã thành thông lệ của gia đình tôi, cứ sáng mùng một Tết là ba má dẫn 
		anh em tôi qua bên nhà ông nội đốt nhang cúng ông bà và mừng tuổi ông 
		nội. 
		Năm nay, khiến xui gì đó mà chúng tôi đi trễ. Đang lúc chuẩn bị thì chú 
		tôi báo tin ông nội mất. Ba tôi vội vã đi liền. Ra tới cửa rào rồi vẫn 
		còn nói với vô biểu má dẫn anh em tôi qua sau. 
		Ở nhà nội không biết đã xảy ra “chiến sự” gì mà mấy cô tôi cứ cằn nhằn 
		cẳn nhẳn, hằn học ba miết. Không kiềm chế được lòng tự trọng đàn ông, ba 
		lạy ông nội ba lạy rồi bỏ về thẳng một nước. (Chuyện này tôi chỉ nghe kể 
		lại.)
		Về tới nhà, ba không nói không rằng mà chỉ lặng lẽ khóc một mình. Má hỏi 
		riết, ba cũng chỉ thẳng thừng: “Khỏi qua.” 
		Thế là suốt mấy ngày tang tóc của nội, cả nhà tôi cũng đìu hiu. Không 
		khí Tết biến đâu mất tiêu biệt dạng. Buồn héo hắt. Mà tôi cũng không 
		hiểu sao hồi đó má không khuyên ba và dắt bọn tôi qua để tang nội. Kệ 
		mấy bà cô chứ! Ở nhà cũng chẳng có gì vui. Cả ngày ba không nói một lời, 
		cứ ngồi đó mà rơm rớm nước mắt để nghe nỗi đau xé lòng xé dạ. 
		Tới hôm đưa nội đi chôn. Từ sáng sớm ba đã đứng bên cửa sổ. Xe tang chạy 
		ngang qua nhà. Ba lặng nhìn theo đến khi dòng người mất hút mà gặm nhấm 
		niềm đau tiễn nội về nơi an nghỉ cuối cùng.
		Mấy ngày sau, ba vẫn cơm canh cúng nội đều đặn. Duy chỉ có điều là không 
		nghe ba nhắc gì đến chuyện nhà nội. Tuyệt nhiên không. 
		Sau này, khi lớn lên chút đỉnh tôi có ý thầm trách sự “cứng ngắc” của ba 
		má và hối tiếc cho sự tự ái nông nổi của ba đã gây nên lầm lỗi. Cũng có 
		thể là tôi chưa thật sự thấu hiểu cho tình cảnh của ba má. Nhưng rõ ràng 
		sự bực tức của ba ngày ấy đã làm cho tình cảm dòng họ bên nội vốn đã rạn 
		nứt từ lâu nay lại càng thêm vỡ nát. 
		À! Thì ra ba với mấy cô chỉ là anh em cùng cha khác mẹ. Ủa, mà sao lạ 
		vậy? Chứ chẳng phải má vẫn thường hay nói là ba rất có hiếu với bà nội 
		kế? Huống chi!...
		5.       
		Hôm tôi thi tốt nghiệp cấp 2, ba dậy thật sớm, chuẩn bị sẵn mọi thứ cho 
		tôi.
		Ba đến trường lúc nào tôi cũng không biết. Khi thấy tôi thi xong ra sớm 
		là ba lên tiếng kêu tôi hỏi liền “Làm bài được không con?” Tôi gật đầu 
		chắc chắn: “Đạt điểm khá trở lên, dư sức.” Ba khẽ cười, mắt hướng về dãy 
		phòng khuất sau cánh cổng như đang hồi tưởng lại thời niên thiếu. Ba nói 
		hồi nhỏ ba cũng học ở đây. Trường lớp xưa vẫn vậy, chỉ có không khí thi 
		cử là khác thôi. Ba không nói là khác cái gì, khác như thế nào? Tôi cũng 
		không hỏi thêm.
		Tôi kêu ba về trước đi vì tôi còn đợi vài thằng bạn nữa. Ba ừ rồi im 
		lặng. Mắt dõi nhìn xung quanh tìm kiếm giúp tôi mấy thằng bạn trong từng 
		tốp học sinh đông đúc đang đổ xô đi ra. 
		Về nhà, tôi hơi nhăn nhó chuyện ba tới trường chi cho mệt hổng biết nữa. 
		Tôi đi thi một mình được mà, có gì đâu. 
		Hôm sau, bữa thi cuối, quả thật ba không đến trường. Tôi đinh ninh như 
		vậy. Nhưng sau này nghe má nói lại là ba vẫn âm thầm theo tôi mỗi buổi 
		sớm trưa suốt hai ngày thi ấy. Và vì không muốn cho tôi nhìn thấy nên ba 
		đứng khuất phía bên kia góc đường. Tôi thì chỉ ngại mỗi việc là bạn bè 
		chọc mình lớn rồi mà còn nhõng nhẽo đòi ba đưa rước. Ồ! Chỉ có vậy thôi.
		
		6. 
		Hè năm lớp 9, thơ tôi được đăng trên “Trang viết học trò” báo Kiên 
		Giang. Người đầu tiên phát hiện ra bài thơ là ba. 
		Ba vẫn thường đọc báo mỗi ngày. Và dĩ nhiên, ngoài cái chuyện theo dõi 
		tin tức thời sự trên báo, ba đã không quên ghé mắt đọc vào trang văn thơ 
		học trò khi biết con mình cũng đang tập tành học đòi “chuyện bút mực”.
		
		Ba cầm tờ báo đưa cho má, tay chỉ bài thơ nhỏ của tôi. Ánh mắt ba ngời 
		lên rạng rỡ. 
		7. 
		Bẵng đi một thời gian mười mấy năm trời ba mới trở lại thăm ông ngoại và 
		bà con bên má lớn. 
		Cũng trong năm đó, ba đã về thăm bà ngoại và nói chuyện thật lâu với mấy 
		dì của tôi. Không biết ba linh cảm chuyện gì mà cứ biểu má tôi phải bán 
		nhà về quê ngoại sống. Má tôi mơ hồ trước những suy nghĩ của ba. Đang 
		sống ở Rạch Giá yên ổn, ăn nên làm ra, gia đình ấm êm sung túc, tự dưng 
		ba đòi dọn nhà đi. Đương nhiên là má tôi không chịu rồi. Má nói ở quê 
		ngoại khó làm ăn lắm. Vả lại, anh em tôi sinh ra và lớn lên ở chợ thì 
		làm sao quen với cuộc sống đồng ruộng được. Ở thành thị mọi thứ đều tiện 
		lợi, nhất là chuyện học hành và tương lai của bọn tôi. 
		Thấy không thể nào thuyết phục được má, sẵn dịp về ngoại lần này, ba tôi 
		kêu mấy dì đốc thúc má tôi về ngoại sống. Dù gì đi nữa, sống ở quê ngoại 
		cũng có bà con dòng họ... Và rồi, chẳng bao lâu, sự mơ hồ của má đã mở 
		ra rõ ràng khi điều linh cảm của ba xuất hiện. Đó là sau lần đi thăm họ 
		hàng về ba đã lâm trọng bịnh. Cơn tai biến mạch máu não đã làm cho nửa 
		thân người ba yếu hẳn. Cũng may là khuya đó má tôi và tôi phát hiện kịp 
		thời, đồng thời nhờ các bác sĩ (bạn của ba má) tận tình cứu chữa nên sức 
		khỏe ba dần ổn định. 
		Lúc này, ba mới nói rõ lý do ba giục má bán nhà về ngoại ở là vì sợ rằng 
		mai mốt ba mất rồi thì gia đình tôi sẽ bơ vơ nơi quê nội (?). Má tôi thì 
		cũng chỉ ừ ừ cho qua chuyện thế thôi. Bởi má vẫn tin tưởng ở sự chăm sóc 
		chu đáo và thuốc thang đầy đủ của gia đình mà ba sẽ qua khỏi, không sao!
		
		Nào ngờ, chưa đầy năm thì bịnh ba tái phát. Lần này phải đành chịu, 
		không cứu vãn kịp nữa rồi. Cơn nhồi máu cơ tim đã nhanh chóng cướp mất 
		của gia đình tôi một người cha hiền khả kính. Ba lặng lẽ đi vào giấc ngủ 
		ngàn thu! 
		8. 
		Sau khi ba mất, má đã kể cho tôi nghe rất nhiều về chuyện của ba. Nhất 
		là tình phụ tử, má vẫn thường nhắc đi nhắc lại. 
		Thật ra, không phải chỉ có mình tôi hay mấy anh chị con riêng của ba là 
		được yêu thương mà ngay cả mấy chị con riêng của má, ba đều dành trọn 
		lòng lo lắng như nhau. Nhưng vì là đàn ông nên tình cảm bao giờ cũng kín 
		đáo và âm thầm. Chắc vì lẽ đó mà hầu như ít có đứa nào sớm nhận ra được 
		tình thương của người cha. 
		Chứ như má tôi nói, mà nếu bình tâm nhìn cho thấu đáo thì chúng ta cũng 
		sẽ nhận thấy và thừa hiểu một điều là con cái có thể không thương cha 
		mẹ, nhưng ít có người cha mẹ nào mà chẳng yêu thương con! 
		(Sài Gòn, mùa An cư kiết hạ 2007)