Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp 
		môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm 
		người, thấy tánh thành Phật”.
		
		Tuy nhiên, từ khi tổ Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Hoa (vào khoảng năm 520) cho 
		đến lúc Thiền tông Trung Hoa thực sự phát triển hưng thịnh, đã phải mất 
		gần hai thế kỷ, truyền qua năm đời tổ sư, cho đến vị tổ thứ sáu là Huệ 
		Năng (638 - 713) thì Thiền tông mới thực sự trở thành một trong những 
		tông phái mạnh nhất của Phật giáo Trung Hoa. Với sự hoằng hóa của Lục tổ 
		Huệ Năng ở đất Tào Khê, Thiền tông đã lan rộng ra khắp nơi và không bao 
		lâu đã phát triển thành 5 tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và 
		Pháp Nhãn. Quả đúng như bài kệ nổi tiếng được cho là do tổ Đạt-ma truyền 
		lại:
		
		
		Nhất hoa khai ngũ diệp,
		
		Kết quả tự nhiên thành.
		
		“Một hoa, năm cánh” quả đúng là thời kỳ Thiền tông cực kỳ hưng thịnh, và 
		tông chỉ “thấy tánh thành Phật” của Sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma đã trở thành đặc 
		điểm nổi bật của Thiền tông Trung Hoa kể từ đó trở về sau.
		
		“Thành Phật” quả là mục đích tối thượng mà cho dù là Thiền tông, Giáo 
		tông hay Mật tông cũng đều nhắm đến. Nhưng “thấy tánh thành Phật” thì 
		duy nhất chỉ có Thiền tông nêu lên và dạy người thực hiện. Vì thế, những 
		ý chỉ mà Tổ sư truyền lại qua bao nhiêu thế hệ vẫn luôn là sự cuốn hút 
		không sao cưỡng lại được đối với những người quyết tâm học Phật.
		
		Thiếu Thất lục môn là một tác phẩm Hán văn hiện còn được lưu giữ trong 
		Đại tạng kinh (bản Đại chánh tân tu), được xếp vào quyển 48, trang 365, 
		số hiệu 2009. Tác phẩm được chia làm 6 phần, mỗi phần xem như trình bày 
		một khía cạnh của vấn đề chung, luận giải về một phần nhận thức cần 
		thiết trên con đường hướng đến sự giải thoát, hoặc vạch rõ những trở lực 
		cần phải vượt qua trên con đường ấy, vì thế mà có tên là “lục môn”.
		
		
		Tuy chia làm sáu phần, nhưng thật ra cũng có thể nói là toàn bộ tác phẩm 
		đều thống nhất hướng đến việc nêu bật những vấn đề được xem là cơ sở của 
		tông chỉ “thấy tánh thành Phật”. Một mặt, tính chất bổ sung cho nhau đã 
		làm cho cả 6 phần này trở thành một khối kết cấu chặt chẽ, và do đó mà 
		người học cần phải vận dụng đồng thời cả 6 phần của tác phẩm mới có thể 
		nắm vững được những gì tạm gọi là những “luận thuyết căn bản” của tông 
		chỉ “thấy tánh thành Phật”. Mặt khác, do tính chất liên quan mật thiết 
		và nhất quán của các phần trong tác phẩm, nên khi người đọc thực sự nắm 
		vững, thấu hiểu được một trong sáu phần, thì những phần còn lại cũng tự 
		nhiên được thông suốt. 
		
		Qua việc sử dụng hình thức vấn đáp tương tự như hầu hết các tác phẩm 
		trong Luận tạng, tác phẩm cũng chỉ ra những cách hiểu sai lệch mà những 
		người mới bước vào thiền rất dễ mắc phải. Vì thế, có thể xem đây là một 
		trong số rất ít “giáo điển” quan trọng của Thiền tông, một tông phái vốn 
		chủ trương “bất lập văn tự”. 
		
		Nhan đề của tác phẩm gợi sự liên tưởng mạnh mẽ đến tổ Bồ-đề Đạt-ma, bởi 
		Thiếu Thất chính là tên gọi của ngọn núi nơi Tổ sư đã từng chín năm ngồi 
		quay mặt vào vách, cũng là nơi Tổ sư truyền dạy pháp thiền cho Nhị tổ 
		Huệ Khả và các vị đệ tử khác. Nội dung tác phẩm cũng chính là những gì 
		mà Tổ sư đã từng truyền dạy. Hơn thế nữa, trong tác phẩm còn xuất hiện 
		những bài kệ tụng mà xưa nay vẫn được tin là do chính tổ Bồ-đề Đạt-ma 
		nói ra.
		
		Trước đây, trong bản dịch tác phẩm này được ấn hành vào các năm 1969 và 
		1971, học giả Trúc Thiên đã có phần xác quyết đây là tác phẩm của Bồ-đề 
		Đạt-ma khi ông chính thức ghi tên vị tổ sư này ngoài bìa sách, mặc dù 
		trong lời đầu sách ông có nêu lên nghi vấn về tác giả của tác phẩm và 
		không hề đưa ra ý kiến xác quyết.
		
		Do sự tin tưởng chắc chắn rằng đây là tác phẩm của Bồ-đề Đạt-ma, nên ông 
		cũng đặt nhan đề cho bản dịch của mình là “Sáu cửa vào động Thiếu Thất” 
		để tạo mối quan hệ chặt chẽ hơn với nơi xuất phát của tác phẩm, đồng 
		thời cũng đưa vào cuối sách một số bài viết về Tổ Bồ-đề Đạt-ma.
		
		Hơn ba mươi lăm năm đã trôi qua kể từ khi bản dịch của Trúc Thiên ra 
		đời. Tuy vẫn không có thêm cứ liệu nào khác hơn vào thời điểm ông Trúc 
		Thiên dịch sách này, nhưng chúng tôi vẫn muốn đặt lại vấn đề bởi một số 
		lý do sau đây.
		
		Thứ nhất, các bậc tiền bối trước chúng ta chưa ai có đủ căn cứ để xác 
		định đây là tác phẩm trực tiếp của Bồ-đề Đạt-ma. Cụ thể là trong bản Mục 
		lục Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh vẫn để trống tên tác giả của tác phẩm 
		này, xem như là khuyết danh. Nếu chúng ta không có thêm cứ liệu nào chắc 
		chắn, không thể dựa vào sự suy đoán để xác quyết đây là tác phẩm của 
		Bồ-đề Đạt-ma.
		
		Thứ hai, nếu căn cứ vào nội dung tác phẩm thì điều này hoàn toàn không 
		đủ cơ sở. Bởi ngay cả một tác giả ở thế kỷ 21 này cũng vẫn có khả năng 
		viết ra một tác phẩm hoàn toàn phù hợp với những gì mà Tổ sư xưa kia đã 
		truyền dạy. Đơn giản chỉ là vì những điều đó được truyền lại trực tiếp 
		qua nhiều thế hệ trong Thiền tông, cũng như bàng bạc trong rất nhiều bản 
		ngữ lục hay thiền luận khác. Vì thế, nếu chỉ căn cứ vào nội dung của tác 
		phẩm thì rõ ràng là không thuyết phục.
		
		
		Thứ ba, nếu chỉ căn cứ vào danh xưng Thiếu Thất thì càng không đủ cơ sở. 
		Bởi vì cũng giống như hai chữ Tào Khê được dùng để chỉ nguồn mạch Thiền 
		tông được hoằng truyền từ Lục Tổ, danh xưng Thiếu Thất cũng được dùng để 
		chỉ chung cho dòng thiền được xem là do tổ Bồ-đề Đạt-ma truyền lại, mà 
		như thế thì cũng có thể xem là toàn bộ cội nguồn của Thiền tông Trung 
		Hoa. Như vậy, tên gọi tác phẩm không hề có ý nghĩa quyết định rằng đây 
		là tác phẩm trực tiếp của Tổ sư. Một truyền nhân của ngài sau nhiều thế 
		hệ vẫn có thể ghi lại những lời dạy này và dùng tên gọi Thiếu Thất để 
		nói lên rằng những điều này trước đây đã được chính Tổ sư truyền dạy.
		
		
		Thứ tư, phần đầu tiên trong tác phẩm là Tâm kinh tụng đã được xây dựng 
		trên bản dịch Tâm kinh Bát-nhã của ngài Huyền Trang. Bản Tâm kinh này 
		hiện có trong Đại tạng kinh (bản Đại chánh tân tu), thuộc quyển 8, trang 
		848, số hiệu 251, ghi rõ là do ngài Huyền Trang dịch vào đời nhà Đường. 
		Ngài Huyền Trang sinh năm 600, mất năm 664, nghĩa là bản dịch Tâm kinh 
		chỉ có thể xuất hiện sau khi Tổ Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Hoa (520) khoảng 
		một thế kỷ!
		
		
		Nếu đưa ra khả năng tổ Bồ-đề Đạt-ma đã tự dịch Tâm kinh Bát-nhã thì vẫn 
		không thể chấp nhận được việc hai bản dịch có thể trùng khớp với nhau 
		đến từng chữ một! 
		
		
		Do đó, việc tác phẩm sử dụng bản dịch Tâm kinh của ngài Huyền Trang là 
		không thể phủ nhận. Và như thế, nếu xem tác phẩm này là của Bồ-đề Đạt-ma 
		thì phải loại phần Tâm kinh tụng ra khỏi tác phẩm, xem như đây là phần 
		do người sau thêm vào.
		
		
		Tuy nhiên, cấu trúc chặt chẽ của tác phẩm không cho phép ta chấp nhận 
		khả năng suy luận như trên. Vì thế, chỉ có thể chấp nhận khả năng duy 
		nhất là tác phẩm phải do một vị nào đó, dựa vào những giáo pháp mà Tổ sư 
		đã truyền dạy để biên soạn vào thời điểm sau này, ít nhất cũng là sau 
		khi đã xuất hiện bản dịch Tâm kinh của ngài Huyền Trang. Soạn giả đã 
		không ghi tên mình vào tác phẩm, có lẽ vì không xem đó là việc cần làm. 
		Và điều này là rất thường gặp với các trước tác Phật học xưa kia, ngay 
		cả ở Ấn Độ cũng vậy chứ không riêng gì Trung Hoa. Tuy nhiên, soạn giả 
		cũng không hề ghi tên Bồ-đề Đạt-ma, nên tất nhiên là cũng không có ý 
		đánh lạc hướng người hậu học. Việc gán ghép tác phẩm cho Tổ sư hoàn toàn 
		chỉ là do ý riêng của người sau mà thôi.
		
		
		Một chi tiết tương tự cũng xuất hiện trong phần thứ hai của tác phẩm là 
		Phá tướng luận. Trong phần này có trích dẫn kinh Thập địa, tên gọi đầy 
		đủ là Phật thuyết Thập địa kinh, được xếp vào Đại tạng kinh (bản Đại 
		chánh tân tu), thuộc quyển thứ 10, trang 535, số hiệu 287, do ngài 
		Thi-la Đạt-ma dịch vào đời nhà Đường (618 – 907). Như vậy, phần này cũng 
		chắc chắn là do người đời sau biên soạn.
		
		
		Chúng tôi cũng tìm thấy trong Đại tạng kinh, bản Đại chính tân tu, còn 
		lưu giữ một tác phẩm khuyết danh có nhan đề là Quán tâm luận, thuộc 
		quyển 85, trang 1270, số hiệu 2833. Nội dung quyển luận này lại là một 
		bản trích nguyên văn gần như toàn bộ phần Phá tướng luận trong sách 
		Thiếu thất lục môn. Đọc kỹ nội dung phần này, chúng tôi lại cảm thấy có 
		vẻ như nhan đề Quán tâm luận là một nhan đề phù hợp hơn so với nhan đề 
		Phá tướng luận.
		
		
		Một câu hỏi đặt ra là: liệu các bộ sách này do cùng một người hay hai 
		người khác nhau biên soạn? Khả năng đạo văn đối với loại sách này hầu 
		như rất khó có thể xảy ra. Hơn nữa, cả hai quyển đều thuộc loại khuyết 
		danh. Mặt khác, nếu ai đó có trong tay quyển Thiếu thất lục môn thì cũng 
		không có lý do gì để trích ra một phần mà làm thành quyển Quán tâm luận. 
		Như vậy, rất có khả năng là cả 2 quyển đều do cùng một người biên soạn, 
		và Thiếu thất lục môn có thể là tác phẩm ra đời sau, đã sử dụng Quán tâm 
		luận – được viết trước đó – như một phần trong công trình biên soạn. Nếu 
		sự suy luận này là đúng, thì rất có khả năng các phần khác của sách này 
		cũng đã từng xuất hiện riêng lẻ như Quán tâm luận, để rồi cuối cùng mới 
		được tập hợp lại thành một quyển chung là Thiếu thất lục môn. Quá trình 
		này tất nhiên phải diễn ra trong một quãng thời gian khá dài, và điều đó 
		càng khẳng định người chấp bút trực tiếp biên soạn bộ sách này hẳn là 
		một người sống về sau này, ít nhất cũng phải vào cuối đời Đường, tức là 
		khoảng thế kỷ 10.
		
		
		Trong Đại tạng kinh bản chữ Vạn, chúng tôi cũng tìm thấy một bản luận 
		nhan đề Đạt-ma Đại sư Phá tướng luận, được xếp vào quyển 63, tập 1220, 
		nội dung hoàn toàn trùng khớp với phần Phá tướng luận trong sách Thiếu 
		thất lục môn, trừ ra một vài khác biệt nhỏ có thể là do quá trình sao 
		chép sai lệch. Đặc biệt, phần cuối bản luận này có thêm một bài kệ mà 
		bản Quán tâm luận trong Đại chánh tạng không có, trong khi phần Phá 
		tướng luận của Thiếu thất lục môn lại thấy có bài kệ này. 
		
		
		Sự suy diễn như trên của chúng tôi càng được củng cố thêm khi chúng tôi 
		lần lượt tìm thấy trong Đại tạng kinh bản chữ Vạn một số tác phẩm liên 
		quan khác. Trước hết là quyển Bồ-đề Đạt-ma Đại sư Lược biện Đại thừa 
		nhập đạo tứ hạnh quán, được xếp vào quyển 63, tập 1217, với nội dung 
		hoàn toàn trùng khớp với phần Nhị chủng nhập trong sách Thiếu thất lục 
		môn. Tiếp đó là các bản Đạt-ma Đại sư Ngộ tánh luận (Quyển 63, tập 1219) 
		và Đạt-ma Đại sư Huyết mạch luận (Quyển 63, tập 1218). 
		
		
		Một chi tiết nhỏ có thể nhận ra ở đây là trật tự sắp xếp các bộ luận này 
		trong Đại tạng kinh bản chữ Vạn không giống với trật tự của chúng khi 
		xuất hiện trong sách Thiếu thất lục môn. 
		
		
		Còn lại phần An tâm pháp môn, không tìm thấy tác phẩm tương ứng nào 
		trong Đại tạng kinh, nhưng kết quả tìm kiếm của chúng tôi lại phát hiện 
		ra ít nhất là 3 tác phẩm có ghi chép phần này với ít nhiều khác biệt. 
		Một là sách Liên đăng hội yếu (Đại tạng kinh bản chữ Vạn, quyển 79, tập 
		1557), hai là sách Chánh pháp nhãn tạng (Đại tạng kinh bản chữ Vạn, 
		quyển 67, tập 1309) và ba là sách Tông cảnh lục (Đại tạng kinh bản Đại 
		chánh tân tu, quyển 48, trang 415, số hiệu 2016)
		
		
		Như vậy, chỉ trừ ra phần đầu tiên là Tâm kinh tụng không thấy có bản nào 
		khác, còn ngoài ra 5 phần còn lại trong sách Thiếu thất lục môn đều đã 
		xuất hiện từng phần, hoặc như một tác phẩm độc lập, hoặc được đưa vào 
		trong các tác phẩm khác. 
		
		
		Từ những kết quả khảo sát như trên, chúng tôi cho rằng Thiếu thất lục 
		môn rất có thể là một bộ sách được người sau biên soạn trên cơ sở tập 
		hợp những tác phẩm đã xuất hiện trước đó được cho là của Sơ tổ Bồ-đề 
		Đạt-ma. 
		
		
		Vì hai lý do sau đây, chúng tôi hoàn toàn không tin vào khả năng ngược 
		lại là sách Thiếu thất lục môn đã được biên soạn trước rồi sau đó mới 
		được tách ra thành các phần riêng rẽ. 
		
		
		Thứ nhất, không có lý do gì để giải thích cho việc trích riêng từng phần 
		trong một tác phẩm như Thiếu thất lục môn để hình thành một tác phẩm 
		khác. Đây không phải là một tác phẩm quá đồ sộ để phải chia nhỏ nhằm mục 
		đích dễ in ấn, lưu hành, càng không phải là một tác phẩm đề cập đến 
		nhiều chủ đề khác nhau để có thể dùng riêng mỗi phần vào một mục đích 
		khác.
		
		
		Thứ hai, phần Tâm kinh tụng trong tác phẩm rất có thể là phần duy nhất 
		được người biên soạn trước tác và thêm vào. Như đã nói, phần này chắc 
		chắn chỉ có thể xuất hiện vào khoảng cuối đời Đường, sau khi ngài Huyền 
		Trang đã hoàn tất và cho lưu hành bản dịch Tâm kinh Bát-nhã. Ngoài ra, 
		đây lại là phần duy nhất trong tác phẩm không mang tính chất luận giải 
		mà chỉ là những bài thi kệ lấy cảm hứng từ Tâm kinh và các tư tưởng 
		Thiền. Điều này cũng dễ hiểu nếu chúng ta nhớ lại rằng đời Đường vốn 
		được mệnh danh là triều đại của thi ca.
		
		
		Tóm lại, qua những gì vừa trình bày, chúng tôi tin rằng những gì mà Sơ 
		tổ Bồ-đề Đạt-ma truyền dạy đã được các đệ tử của ngài ghi lại và lưu 
		hành trong nhiều tác phẩm khác nhau. Và đến khoảng cuối đời Đường, một 
		vị truyền nhân nào đó trong dòng Thiền của ngài đã tập hợp tất cả những 
		tác phẩm ấy, trước tác thêm phần Tâm kinh tụng và đưa vào đầu tác phẩm 
		để hình thành sách Thiếu Thất lục môn.     
		
		
		
		Như vậy, những điều vừa nói trên chỉ có ý nghĩa riêng về mặt nghiên cứu 
		học thuật mà thôi. Còn xét về mặt giáo điển thì cho dù tác phẩm này 
		không phải do Tổ Bồ-đề Đạt-ma trực tiếp viết ra, chúng ta vẫn không thể 
		phủ nhận việc nội dung tác phẩm chính là những gì mà vị Tổ sư này đã 
		từng truyền dạy. Vì thế mà từ xưa đến nay, bên cạnh kinh Pháp Bảo Đàn 
		ghi lại những lời dạy của Lục tổ Huệ Năng thì Thiếu Thất lục môn vẫn 
		đương nhiên được thừa nhận như là một tác phẩm ghi lại những lời dạy của 
		Sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma. Và do đó, hai tác phẩm quan trọng này có thể xem là 
		tóm thâu được trọn vẹn phần “giáo lý căn bản” – nếu có thể tạm gọi như 
		vậy – của Thiền tông Trung Hoa, bên cạnh những bộ ngữ lục nổi tiếng như 
		Bích nham lục, Vô môn quan được xem như những bộ sách “hướng dẫn thực 
		hành”.
		
		
		Với tầm quan trọng như vậy, nên khi khởi sự công việc dịch và chú giải 
		tác phẩm này, chúng tôi hy vọng là sẽ góp thêm được phần nào – dù là nhỏ 
		nhoi – trong việc giới thiệu những tinh hoa của Thiền tông đến với đông 
		đảo độc giả, những người không có khả năng sử dụng trực tiếp nguyên tác 
		Hán văn.
		
		
		Tuy nhiên, kinh nghiệm của những người đi trước cho chúng tôi thấy rằng 
		việc chuyển dịch một tác phẩm Hán văn – nhất là một tác phẩm thuộc loại 
		này – rất hiếm khi có thể đạt đến sự toàn hảo. Ngay cả khi công việc 
		chuyển dịch đã được thực hiện với một sự cố gắng và cẩn trọng đến mức 
		tối đa, thì những sai sót và khiếm khuyết cũng là không sao tránh khỏi. 
		Điều này xuất phát từ tính chất cô đọng, súc tích về mặt văn chương của 
		tác phẩm, cũng như nội dung chuyển tải vốn rất thâm áo, trừu tượng, phức 
		tạp và đôi khi cực kỳ khó hiểu. Trong khi đó, trình độ của người dịch 
		bao giờ cũng có những giới hạn nhất định, và những vấn đề được trình bày 
		trong tác phẩm thì quả thật người dịch càng không dám nhận là mình đã có 
		thể hoàn toàn am hiểu.
		
		
		Vì thế, khi thực hiện công việc này, chúng tôi luôn tâm niệm một điều là 
		sẵn sàng đón nhận mọi sự chỉ giáo từ các bậc cao minh, tôn túc, cũng như 
		quý độc giả gần xa về những sai sót có thể có. Và do đó, chúng tôi đã 
		đưa cả nguyên tác Hán văn kèm theo bản dịch, để quý vị tiện đối chiếu và 
		góp ý xây dựng. Với cách làm này, chúng tôi hy vọng là trong những lần 
		tái bản về sau sẽ có thể hạn chế đến mức tối đa các sai sót.
		
		
		Mặt khác, vì đây là một tác phẩm luận giải, nên trong quá trình chuyển 
		dịch, chúng tôi cố gắng tránh đi sự trói buộc trong từng câu chữ và luôn 
		nhận hiểu từng vấn đề thông qua tính nhất quán trong toàn đoạn văn với 
		những tư tưởng, lập luận mà đoạn văn ấy chuyển tải. Cách làm này cộng 
		thêm với sự tham khảo các bản văn khác đã giúp chúng tôi làm sáng tỏ 
		thêm rất nhiều vấn đề mà người đi trước vẫn còn bỏ ngỏ. Một số các bản 
		văn mà chúng tôi đã sử dụng tham khảo sẽ được đưa vào cuối sách này 
		trong phần phụ lục. Hy vọng điều này sẽ giúp quý độc giả có thêm điều 
		kiện dễ dàng hơn trong việc đối chiếu, so sánh và giúp chúng tôi phát 
		hiện ra những sai sót nếu có trong công việc. 
		
		
		Ngoài việc tham khảo các bản văn liên quan trực tiếp đến sách Thiếu thất 
		lục môn như đã kể trên, chúng tôi cũng tham khảo thêm rất nhiều kinh 
		luận để có thể hiểu rõ hơn những vấn đề được nêu ra trong sách. Căn cứ 
		vào những gì được ghi chép chính thức trong kinh luận, chúng tôi cũng 
		mạnh dạn đặt lại rất nhiều vấn đề mà những cách hiểu theo truyền thống 
		đã tỏ ra không hoàn toàn chính xác. 
		
		
		Xin đưa ra một vài ví dụ cụ thể, chẳng hạn như cách hiểu về câu: “Ngôn 
		ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.” Trước đây, học giả Trúc Thiên đã dịch 
		câu này là: “Lời nói làm cho đạo dứt, tâm động làm cho giác ngộ tiêu.” 
		Không riêng gì ông Trúc Thiên, rất nhiều vị lão thành mà chúng tôi có 
		dịp tiếp xúc cũng thường hiểu nghĩa câu này như thế. Chữ đạo ở đây được 
		hiểu theo nghĩa là “đạo pháp”, và do đó chữ xứ trong vế thứ hai được 
		hiểu là “chỗ giác ngộ”.
		
		
		Qua tham khảo nhiều kinh luận có đề cập đến câu này, chúng tôi phát hiện 
		ra cách hiểu như trên hoàn toàn không chính xác. 
		
		
		Về hai chữ tâm hành, Từ điển Phật học Đinh Phúc Bảo giải thích: "Tâm 
		hành giả, tâm niệm chi dị danh." Như vậy, tâm hành chỉ là một cách nói 
		khác để chỉ các tâm niệm, ý tưởng trong tâm ta. Luận Đại trí độ, quyển 
		5, nói về ý nghĩa câu trên theo một cách khác: "Ngôn ngữ dĩ tức, tâm 
		hành diệc diệt." Ở đây không dùng chữ đạo và chữ xứ nên không tạo ra sự 
		nhầm lẫn như câu trước, nhưng cũng qua đây chúng ta xác định được chữ 
		đạo không được dùng với nghĩa “đạo pháp, đạo lý”, mà có nghĩa là “nói 
		năng, đàm luận”. Luận Chỉ quán giải thích rõ hơn: "
Ngôn ngữ đạo đoạn, 
		tâm hành xứ diệt, cố danh bất khả tư nghị cảnh. "– (Ngôn ngữ nói năng dứt 
		sạch, tâm niệm, ý tưởng diệt hết, nên gọi là cảnh giới không thể nghĩ 
		bàn.) Như vậy, nói chung thì những cách diễn đạt này đều cùng một ý 
		chính là: Mọi tư tưởng, ngôn ngữ không thể diễn đạt được cảnh giới giải 
		thoát rốt ráo. Do đó, người tu muốn đạt đến cảnh giới chân thật thì phải 
		dứt sạch ngôn ngữ, lời nói, diệt hết tâm niệm, tư tưởng.
		
		
		Một ví dụ khác là cách hiểu bài kệ tụng sau đây:		
		
Giang tra phân ngọc lãng,
		
		Quản cự khai kim toả. 
		
		Ngũ khẩu tương cộng hành,
		
		Cửu thập vô bỉ ngã.		
		
		Từ trước đến nay, bốn câu kệ này vẫn được xem là một dạng sấm truyền, 
		báo trước ngày viên tịch của Tổ Bồ-đề Đạt-ma, qua cách giải thích chiết 
		tự chữ 
ngô gồm hai chữ 
ngũ và 
khẩu ghép lại, và cho rằng Tổ sư dùng hai 
		chữ này để tự xưng. Hai chữ 
cửu thập được lý giải là ngày 9 tháng 10. Ba 
		chữ vô bỉ ngã được giải thích là sự viên tịch của Tổ sư, vì khi ấy là 
		“không còn bỉ ngã”. Như vậy, bốn câu kệ này dự báo việc Tổ sư viên tịch 
		vào ngày 9 tháng 10. 
		
		
		Theo chúng tôi, đây là phần thứ hai trong toàn bài kệ tụng 8 câu, và 
		cách hiểu như trên làm cho 4 câu này trở nên không liên quan gì đến 4 
		câu trước đó:		
		
		
Ngô bản lai tư thổ.
		
		
		Truyền pháp cứu mê tình.
		
		
		Nhất hoa khai ngũ diệp.
		
		
		Kết quả tự nhiên thành.		
		
		Ngoài ra, hai câu đầu “
Giang tra phân ngọc lãng, quản cự khai kim toả” 
		cũng sẽ không được hiểu một cách thỏa đáng, phù hợp với nội dung của một 
		bài kệ truyền pháp trong truyền thống Thiền tông.
		
		
		Vì thế, chúng tôi đã gạt bỏ định kiến về một dạng sấm truyền kỳ bí, vốn 
		không phải là tông chỉ của Thiền tông, bởi vì ngay chính trong luận này 
		cũng có viết: “
Chủng chủng biến hóa giai thị ngoại đạo.” Việc dự báo 
		trước ngày viên tịch không phải là một điều lạ đối với rất nhiều vị 
		thiền sư. Nhưng điều này hoàn toàn không mang tính cách huyền bí mà chỉ 
		là một sự khai mở trí huệ, làm chủ được đời sống của chính mình. Lục Tổ 
		Huệ Năng cũng đã nói trước với các đệ tử của ngài một cách rõ ràng về 
		việc ngài sắp viên tịch. Chính đức Phật Thích-ca cũng nói trước một cách 
		công khai về việc ngài sắp nhập Niết-bàn. Chư Phật, Tổ đều không dùng 
		sấm ký!
		
		
		Quay lại tìm hiểu nội dung bài kệ từ chính những gì được chuyển tải qua 
		ngôn ngữ, chúng tôi hiểu như sau:
		
		
		Hai câu đầu nêu lên hình ảnh chiếc bè lướt sóng ngọc trên sông (giang 
		tra phân ngọc lãng) và ngọn đuốc mở khóa vàng (quản cự khai kim tỏa).
		
		
		
		Chiếc bè là một hình ảnh rất quen thuộc trong các pháp dụ được dùng 
		trong kinh luận, tượng trưng cho các pháp môn được vận dụng để đạt đến 
		sự giải thoát, hay “qua sông”, đến “bờ bên kia”. Chính sáu pháp 
		ba-la-mật (Lục độ) cũng đã được gọi tên theo cách hình tượng này, bởi vì 
		ba-la-mật (paramit) có nghĩa là “đến bờ bên kia” (đáo bỉ ngạn), chỉ cho 
		sự giải thoát. Như vậy, câu kệ này phải được hiểu là hình ảnh vị hành 
		giả vận dụng các pháp môn tu tập theo Chánh pháp để vượt dòng sông mê, 
		thẳng đến bến bờ giải thoát.
		
		
		Ngọn đuốc cũng là một biểu tượng không kém phần quen thuộc, tượng trưng 
		cho trí huệ chiếu phá vô minh. Chúng ta có lẽ không ai không biết đến 
		Phật ngôn: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, với hình ảnh ngọn đuốc 
		hồng chính là trí tuệ sáng suốt của mỗi người. Do đó, hình tượng khóa 
		vàng (kim tỏa) trong câu kệ này không gì khác hơn chính là ngục tù vô 
		minh kiên cố từ muôn kiếp đã giam giữ tất cả chúng sinh, làm cho ta 
		không thể phát lộ được ánh sáng giác ngộ. Vì thế, để mở được khóa vàng 
		này không thể dùng chìa khóa, mà chỉ có thể dùng ngọn đuốc trí huệ mà 
		thôi.
		
		
		Câu tiếp theo là “
Ngũ khẩu tương cộng hành”. Để hiểu được câu này, phải 
		liên hệ với bốn câu của bài kệ trước, trong đó có câu thứ ba viết: “Nhất 
		hoa khai ngũ diệp.” Như đã nói ở phần trước, chúng tôi cho rằng “ngũ 
		diệp” ở đây chỉ năm phái lớn của Thiền tông (ngũ gia) vào sau thời Lục 
		tổ Huệ Năng, nên “ngũ khẩu” ở đây cũng chính là chỉ cho năm phái Thiền 
		này. Câu này nói đến việc cả năm phái đều cùng nhau xiển dương Chánh 
		pháp, quảng bá Thiền tông.
		
		
		Câu cuối cùng “
Cửu thập vô bỉ ngã” tỏ ra khá kỳ bí với hai từ “
cửu 
		thập”. Tuy nhiên, đây chỉ là một cách nói tượng trưng bằng số. Nếu như 
		
nhất nhị  được dùng để chỉ những gì là sơ sài, qua loa, thì 
cửu thập được 
		dùng để chỉ những gì là rốt ráo, cùng cực. Cách dùng “nhất nhị” vừa được 
		thấy ngay trong một đoạn văn trước đó: (
bất cập nhất nhị dã – chỉ là sơ sài 
		thôi vậy) và hiện vẫn còn được dùng khá phổ biến trong văn chương ngày 
		nay, chẳng hạn như: "
lược tri nhất nhị" hay "
thô tri nhất nhị", đều được 
		dùng với nghĩa “chỉ biết qua loa chút ít thôi”. Như vậy, câu kệ này được 
		hiểu là chỉ đến trạng thái rốt ráo, cứu cánh của người tu tập, và trạng 
		thái đó chính là đạt đến chỗ “không người, không ta” (vô bỉ ngã).
		
		
		Tương tự như vậy, trong suốt quá trình chuyển dịch chúng tôi đã cố gắng 
		hết sức trong việc tham khảo nhiều kinh luận khác nhau để làm rõ hơn 
		những nghi vấn trong tác phẩm, hy vọng là có thể làm cho bản dịch càng 
		trở nên sáng sủa, dễ hiểu và chính xác hơn.
		
		
		Về nhan đề của tác phẩm, chúng tôi quyết định giữ nguyên không chuyển 
		dịch sang tiếng Việt. Bởi vì tuy chỉ gồm có 4 chữ, mà quả thật rất khó 
		lòng chuyển dịch được hết ý sang tiếng Việt mà không gây ra một sự ngộ 
		nhận nào đó. Trong khi hai chữ “Thiếu Thất” chỉ cho cội nguồn của một 
		dòng thiền, thì hai chữ “lục môn” hàm ý sáu phép tu, sáu khía cạnh dẫn 
		đến sự giải thoát, hay sáu phần luận giải giúp người học có thể vững 
		bước tiến trên con đường hướng về sự đốn ngộ, “thấy tánh thành Phật”. Vì 
		thế, chữ “môn” ở đây không thể hiểu là “cửa vào”, cũng không thể hiểu 
		theo nghĩa đơn thuần là “pháp môn” như các pháp môn khác vẫn thường được 
		nhắc đến trong đạo Phật. 
		
		
		Như vậy, người đọc chỉ có thể tự mình hiểu được trọn vẹn nhan đề sau khi 
		đã đọc xong tác phẩm. Tương tự, đối với nhan đề của các phần trong tác 
		phẩm cũng vậy. Chẳng hạn, nếu chuyển dịch các nhan đề như Phá tướng 
		luận, An tâm pháp môn... thì người dịch chẳng làm được gì nhiều hơn là 
		thay đổi trật tự các từ thành Luận phá tướng, Pháp môn an tâm... Điều 
		này không giúp người đọc hiểu được nhiều hơn về các nhan đề này, mà 
		ngược lại còn có phần giới hạn ngữ nghĩa của chúng hơn là để nguyên như 
		vậy. 
		
		
		Và đây cũng không phải là trường hợp duy nhất đối với các tác phẩm Hán 
		văn thuộc loại này. Trường hợp của tác phẩm Vô môn quan có thể là một ví 
		dụ khá điển hình. Chưa thấy ai chuyển dịch được nhan đề này sang tiếng 
		Việt! Ngoài ra còn có thể kể đến Bích nham lục và rất nhiều tác phẩm 
		khác...
		
		
		Về nội dung, chúng tôi cố gắng chuyển dịch trọn vẹn tác phẩm mà không tự 
		ý lược bỏ bất cứ đoạn văn hay câu văn nào. Với các tác phẩm thuộc loại 
		này, chúng tôi không nghĩ rằng người dịch có thể tự cho mình quyền phán 
		đoán về giá trị hay tính chất cần thiết của từng đoạn văn, câu văn để 
		rồi quyết định lược bỏ một hay nhiều phần, bởi cách làm này sẽ gây rất 
		nhiều khó khăn cho các thế hệ tương lai khi muốn tiếp cận với tác phẩm 
		như vốn có trước đây.
		
		
		Về các chú giải, chúng tôi cố gắng thực hiện theo hướng cung cấp cho độc 
		giả càng nhiều càng tốt những kiến thức liên quan đến vấn đề đang trình 
		bày, hoặc các thuật ngữ, điển tích có thể là xa lạ với những ai chưa có 
		điều kiện tiếp cận nhiều với các tác phẩm Phật học.
		
		
		Hy vọng là việc chuyển dịch, chú giải và giới thiệu tác phẩm này kèm 
		theo nguyên tác Hán văn sẽ giúp những ai quan tâm đến Thiền học có thêm 
		một nguồn tư liệu quý giá để sử dụng trong việc nghiên cứu, học tập cũng 
		như thực hành tu tập. Và nếu như việc làm này có thể mang lại được ít 
		nhiều lợi ích cho những người học Phật thì đó sẽ là phần thưởng quý giá 
		nhất và là sự khích lệ rất lớn lao đối với chúng tôi để có thể tiếp tục 
		thực hiện tốt hơn nữa những công việc sắp tới. 		
		
		
Trân trọng
		
		
		NGUYỄN MINH TIẾN