Sau một đêm ngủ và nghỉ ngơi thật thoải mái, hôm sau tôi thiền tọa vào 
		sáng sớm và cảm nhận thật rõ ràng sự gia hộ của dòng chư tổ truyền thống 
		Giới đức.
[10] Ngồi thiền tại Sera Mey thật là an 
		lạc trong sự hộ trì, được cảm nhận từ tầng lớp sâu thẳm của tâm thức: 
		niềm hỷ lạc thật là sâu đậm và nhẹ nhàng, tâm thức an bình trong thiền 
		duyệt,
[11] lìa xa thế sự, thị phi của cuộc đời. 
		Thời tiết thật dễ chịu, tuy hơi lành lạnh vào sáng sớm, nhưng vẫn còn 
		khá ấm áp. 
		Tu viện Sera được chia làm hai phần: Sera Mey khoảng 2.000 vị tăng và 
		Sera Je khoảng 2.500 vị tăng. Điều kỳ diệu nhất là chu vi tu viện Sera 
		(Mey và Je) bao gồm khoảng vài ba cây số vuông. Trong đó có tổng cộng 
		4.500 nam tăng sĩ ở rải rác trong các căn nhà lớn nhỏ.
[12] 
		Khi ra đường vào những ngày lễ lớn, chúng ta sẽ thấy 4.500 vị tăng sĩ tụ 
		họp về chánh điện để làm lễ. Toàn một màu áo tu đỏ tràn ngập đường sá mà 
		không hề có một bóng dáng một ông cảnh sát đeo dùi cui, súng ống nào cả! 
		Cảnh tượng những con đường tràn ngập áo tu màu đỏ đã để lại một ấn tượng 
		sâu sắc trong lòng tôi. Không hề có chuyện tranh chấp đánh nhau hay cãi 
		nhau. Chư tăng sống rất an hòa và dễ thương, hiếu khách. 
		Nhưng chưa kịp xả cữ thiền tọa buổi sáng thì chư vị phái nữ trong phái 
		đoàn đã quay trở lại tu viện và cười nói vui vẻ ồn ào. Chúng tôi dùng 
		bữa ăn sáng xong là đi đến Đại Hùng Bảo Điện ngay vào lúc 8 giờ sáng để 
		dâng lễ trường thọ cho thầy cựu viện trưởng Ngawang Thetchok. Ngài là 
		thầy của thầy đương kim viện trưởng. Trong buổi lễ, chư tăng và chúng 
		tôi cầu nguyện Lễ cúng dường đức Bổn sư.
[13] Buổi 
		lễ thật là cảm động và sau đó chúng tôi lên dâng khăn và cúng dường thầy 
		cựu viện trưởng. Ngài nhận ra phái đoàn chúng tôi và rất là hoan hỷ. 
		
		Thầy cựu viện trưởng Ngawang Thetchok là một vị cao tăng hiếm có. Ngài 
		là một tăng sĩ nghiêm túc, và với tôi, ngài là một thần tăng. Người Đài 
		Loan biết rất nhiều câu chuyện kể lại về những thần thông của ngài. Ngài 
		có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đối với người Đài Loan, trong khi thầy 
		đương kim viện trưởng lại có ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ đối với cộng 
		đồng người Việt tại Bắc Mỹ, kể cả Canada, và nhất là vùng Orange County 
		và San Jose tại California.
		Tôi ngồi nhớ lại câu chuyện kỳ lạ sau: Năm 2003, tôi có qua Wesminter, 
		vùng Orange County sửa chữa và xây cất cho thầy đương kim viện trưởng 
		ngôi chùa tên là Geden Shoeling.
[14] Chùa hoàn tất 
		theo ý thầy hai tháng sau đó. Nhờ thế, tôi quen nhiều bạn đạo ở tại đó 
		và thường liên lạc với nhau khi có tin tức gì, hay là giúp họ dịch kinh 
		sách v.v... Một hôm, tôi nhận được điện thư của một vị bạn đạo kể chuyện 
		lạ. Chuyện này cũng xảy ra mới đây vào tháng 11 năm 2007 thôi. Lá thư 
		như sau:
		“Sáng nay em đi nghe Khen Rinpoche
[15] thuyết pháp 
		về Bát Nhã Tâm Kinh. thầy giảng rất hay và rất kỹ. Vẫn theo thường lệ, 
		sau buổi giảng thì mọi người lên dâng khăn, cúng dường và thọ phép lành 
		của thầy. Em cũng nối đuôi để lên dâng khăn. Đến lượt một chị Phật tử 
		kia, (chị này, thỉnh thoảng em cũng thấy chị tham dự buổi thính pháp một 
		vài lần, trông cũng khá lớn tuổi, mắt, mũi sửa chữa tùm lum nên trông 
		không được tự nhiên cho lắm). Khi chị lên dâng khăn và thầy ôm lấy đầu 
		chị để ban phép lành hộ trì thì chị bật khóc. Người run lên bần bật, chị 
		loạng choạng bước né qua một bên để nhường cho người khác lên dâng khăn. 
		Nhưng chị vẫn khóc, gần như là đi không muốn nổi nữa. Mọi người phải dìu 
		chị đi xuống cuối phòng. Mọi người cứ nghe chị nói lảm nhảm cái gì không 
		rõ và cứ khóc mãi. Sau khi người cuối cùng lên dâng khăn, cúng dường, 
		thì thầy ra lệnh (trông lúc đó mặt thầy nghiêm làm em sợ lắm). Thầy bảo 
		đem cái chị kia lên đây. Chị đó run tới quỵ cả chân, phải 2 người dìu 
		hai bên chị mới đi nổi, vừa đi, vừa khóc, vừa lảm nhảm eo éo nói gì đó 
		mà không ai nghe rõ. Lên chỗ thầy, chị không còn quỳ được nữa mà ngồi 
		phệt xuống đất, người cứ run lên bần bật, ré lên khóc rõ to. Thầy Khen 
		Rinpoche và thầy Norbu bắt đầu tụng kinh gì đó mà em không biết. Tụng 
		rất to, em có cảm tưởng từng câu tụng là từng cơn bão có lực rất mạnh 
		hất vào người chị... Tụng khoảng 5 phút thì cả hai thầy đều vỗ hai bàn 
		tay vào nhau mấy cái. Chị kia hét lên một tiếng rồi ngã ngửa lên sàn. 
		Hai tay chị dơ lên khỏi đầu. Chị hổn hển nói “Nam mô A Di Đà Phật” rồi 
		khóc rức lên. Lần này em nghe tiếng nói của chị khác với cái tiếng nói 
		trước khi chị bị ngã. Xong thầy Khen Rinpoche tụng thêm một ít nữa rồi 
		đứng lên lấy tấm áo choàng màu vàng của mình quất lên người chị kia mấy 
		cái và nói lớn “NO TALK!!” “STOP!”. 
		Tất cả mọi người trong chánh điện đều vẫn tiếp tục niệm câu Bát nhã tâm 
		kinh: “Tayatha, Gate, Gate...” trong khi Khen Rinpoche bước ra khỏi 
		chánh điện.
		Đây là lần đầu tiên em thấy thầy trừ ma. Trông thầy nghiêm lắm. Sau đó, 
		em có vào phòng chào thầy, Lisa (là người thông dịch ra tiếng Việt) vào 
		sau, hỏi thầy, chị kia bị sao thế thầy? Chị ấy có OK không? Thầy bình 
		tĩnh như không có gì, và bảo, bà ta không sao cả, mọi sự xong rồi. Don’t 
		worry. Lisa tò mò hỏi tiếp, có phải bà ta bị ma nhập không? Thầy trả 
		lời: Thì đại khái là như vậy, nhưng bây giờ thì không sao cả. 
		
		Em nghe xong cũng hú hồn! 
		(Trước khi viết về câu chuyện này, tôi cũng khá đắn đo suy nghĩ nên hay 
		không nên viết ra... Vì bản thân của tôi vốn không thích mê tín. Nhưng 
		vì dù tôi có thích hay không, thì đó cũng là một sự thật đến từ chư vị 
		cao tăng, và viết ra trong ý hướng tỏ lòng kính trọng đến chư vị, một 
		đời hoằng hóa cứu độ chúng sinh, và mình không thể không cảm nhận thấy 
		chư vị làm mọi thứ giúp đời hoằng hóa độ sinh mà không hề có mảy may suy 
		nghĩ, hay cho là mình có gì đặc biệt hơn người. Chư vị làm những kỳ tích 
		xong là xả bỏ ra khỏi tâm, không hề dính mắc).
		
		Đời sống chư tăng trong tu viện khá nghiêm ngặt và chặt chẽ. Trừ những 
		ngày lễ chư tăng được nghỉ ngơi như là Tết Tây Tạng (Losar), chư tăng 
		được theo học một chương trình huấn luyện kỹ lưỡng. Sáng thường thức dậy 
		vào lúc 5 giờ và làm vệ sinh cá nhân xong là nghe tiếng kèn lớn, tiếng 
		rất trầm, (Tạng ngữ gọi là Radong) báo hiệu là lúc phải vân tập tại 
		Chánh điện để hành lễ và cầu nguyện (kinh nào thì tùy theo hôm). Sau đó 
		7 giờ sáng thì dùng điểm tâm cho đến 9 giờ thì chư tăng sẽ tụ họp để 
		luận đạo (debate), đây là lúc mỗi vị sẽ phải mang hết sở trường học đạo 
		của mình ra để tranh luận và đào sâu đề tài đã học. Cách luận đạo như 
		vậy giúp cho chư tăng nhuần nhuyễn sở học của mình. Sau đó là ăn trưa và 
		nghỉ ngơi đến 2 giờ chiều. Sau đó, chư tăng theo học các lớp học chung 
		hoặc là theo học lớp riêng với vị bổn sư của mình. Sau đó là bữa cơm 
		tối, và từ 9 giờ tối trở đi, chư tăng sẽ tiếp tục họp nhau luận đạo đến 
		11 giờ tối mới đi ngủ, để sáng hôm sau thức dậy từ 5 giờ sáng tiếp tục 
		một ngày mới trong tu viện. 
		Ngày tôi đến tu viện thì chư tăng vẫn còn trong dịp nghỉ Tết Tây Tạng. 
		Nhưng tôi vẫn cố gắng theo thời khóa biểu mà chư tăng thường theo, mong 
		là mình gieo duyên để đời sau được tu học trong dòng truyền thừa. Các bộ 
		môn nằm trong chương trình tu học là luận đạo bao gồm Ngũ Đại Luận:
[16]
		
		1. Lượng học: môn học về Biện chứng pháp của Phật giáo và Nhận thức 
		luận, bao gồm cả các luận thuyết ngoại đạo.
		2. Bát nhã ba la mật: bao gồm các bộ Đại Bát Nhã Luận và các hành trì 
		của Bồ tát đạo (như Lục độ ba la mật).
		3. Trung quán luận và Tánh không.
		4. A tỳ đàm Câu xá luận: là bộ luận lớn bao gồm vũ trụ quan, siêu hình 
		học và hiện tượng luận.
		5. Luật: là những giới luật và kỷ luật trong tu viện. 
		Trong lần này, phái đoàn người Đài Loan về tham dự khá đông. Trong bữa 
		ăn trưa chung, tôi nhận thấy mỗi người nâng niu cầm trên tay một cuốn 
		sách, họ có vẻ rất là quý cuốn sách. Tôi bập bẹ vài câu tiếng phổ thông 
		và hỏi họ về cuốn sách mới biết ra là họ vừa xuất bản cuốn này, viết 
		tiểu sử và cuộc đời của thầy cựu viện trưởng Ngawang Thetchok. Tôi cũng 
		xin họ một cuốn, mặc dù sách viết bằng Tạng ngữ và tôi không hiểu, nhưng 
		vì lòng kính trọng thầy cựu viện trưởng, tôi vẫn xin một cuốn mang về để 
		trên bàn thờ.
		Buổi tối, sau thời cơm chung, chúng tôi lại chia tay giã từ các vị phụ 
		nữ đi về khách sạn. Còn tôi quay về phòng hành trì thời công phu Tối 
		thượng Du già thiền quán và sau đó đi vào trong giấc ngủ an bình trong 
		sự gia hộ của chư thiên nữ.
[17]