Trong kinh Pháp cú, kệ số 202, đức Phật dạy rằng:
Không lửa nào bằng tham dục,
Không ác nào bằng sân hận.
(Vô hỏa như tham dục,
Vô ác như sân hận.)
Mỗi chúng ta đều đã hoặc đang bị ngọn lửa tham dục thiêu đốt, và cũng có
thể sẽ tiếp tục chịu sự thiêu đốt lâu dài của nó. Mỗi chúng ta cũng đã
hoặc đang chìm đắm trong sân hận, si mê, và cũng có thể sẽ tiếp tục chìm
đắm lâu dài trong đó!
Khi nhận thức được điều này là chúng ta bắt đầu tự hé mở cánh cửa bước
vào một tương lai tươi sáng hơn. Bởi vì chỉ khi nhận thức đúng thực
tiễn, ta mới có thể phát khởi được những nỗ lực đúng hướng để tự mình
thoát ra khỏi những gì xấu ác trong hiện tại.
Mỗi một con người đều sẵn có khả năng hướng thiện hay sa ngã. Chính nhận
thức của chúng ta về cuộc sống quyết định việc ta sẽ nghiêng theo khuynh
hướng nào, và do đó cũng quyết định việc đời sống này của chúng ta rồi
sẽ đi về đâu.
Một nếp sống buông thả với sự tiếp nối không ngừng của những hành vi bất
thiện, tất yếu sẽ không thể mang lại điều gì tốt đẹp về mặt tinh thần.
Những giá trị vật chất mà chúng ta có được do thực hiện những hành vi
bất thiện luôn có tác dụng nuôi lớn sự tham lam, sân hận và si mê. Vì
thế, những tác hại nhìn thấy được của những hành vi ấy thật ra là không
đáng sợ bằng những tác hại vô hình, những tác hại về mặt tinh thần.
Do lòng tham lam, sân hận và si mê được nuôi dưỡng và phát triển ngày
càng mạnh mẽ hơn, những người có tâm bất thiện sẽ không thể có được sự
thanh thản thật sự trong cuộc sống. Mỗi một sự thỏa mãn vật chất của họ
trong cuộc sống bao giờ cũng là một liều thuốc độc nuôi lớn thêm nguồn
khổ não trong nội tâm. Và một khi nội tâm đã chất chứa đầy khổ não thì
sẽ không có bất cứ niềm vui thanh thản nào có thể được cảm nhận.
Những người như thế chẳng khác nào quay lưng về phía có nguồn sáng, để
rồi phải bước đi trong tối tăm. Mỗi một hành vi, ý tưởng của họ đều sai
lầm vì không có được sự soi rọi của một nhận thức đúng đắn, và do đó
càng đưa họ đi xa hơn nguồn sáng trí tuệ. Những gì chờ đón họ trong đời
sống tương lai chắc chắn chỉ có thể là một sự tối tăm và sa đọa ngày
càng khó thoát ra hơn nữa.
Nhưng không chỉ là một tương lai tăm tối, mà sự thật còn quan trọng hơn
nữa là họ không thể có được một hiện tại tốt đẹp như vẻ ngoài mà người
khác có thể vẫn nhìn thấy. Đó là vì nội tâm của họ đang chìm đắm trong
những trạng thái khổ đau do tham lam, sân hận và si mê gây ra. Vì thế họ
không có niềm vui, chán ghét cuộc sống và chịu đựng nhiều khổ não.
Những gì chúng ta đang nói đến là được xét từ khía cạnh tinh thần. Vì
thế, ta có thể thấy rằng một người giàu có chưa hẳn đã có được cuộc sống
vui vẻ thật sự. Nếu sự giàu sang của họ là kết quả của những việc làm
bất chính, và nếu tâm thức của họ vẫn tiếp tục chìm đắm trong sự tham
lam đã được chính họ nuôi dưỡng trong suốt thời gian làm giàu, thì việc
có được niềm vui chân thật trong hiện tại đối với họ sẽ là điều hoàn
toàn vô lý! Bởi vì sự giàu sang, sung túc không thể giúp họ thoát khỏi
những quy luật tự nhiên chi phối tâm hồn. Và do đó, họ sẽ phải gánh chịu
những tâm trạng khổ não do lòng tham lam và những việc làm bất thiện của
họ mang lại. Điều đó làm cho nội tâm của họ mất đi sự thanh thản cần có
để cảm nhận những niềm vui chân thật trong cuộc sống.
Và khi không có được niềm vui chân thật trong cuộc sống, tự thâm tâm họ
sẽ nảy sinh cảm giác chán ngán đối với đời sống. Vì sao vậy? Những niềm
vui giả tạo do sự thỏa mãn vật chất mang lại bao giờ cũng chỉ là tạm bợ,
thoáng qua. Cuộc sống không thật sự được nuôi dưỡng bằng những niềm vui
giả tạo đó, mà luôn cần đến những niềm vui chân thật như một nguồn sinh
lực. Điều này giải thích vì sao có rất nhiều người nghèo khó nhưng vẫn
luôn vui sống và sống tốt, trong khi có những người khác giàu có nhưng
luôn cảm nhận mỗi ngày trôi qua như một sự chịu đựng nặng nề.
Không có niềm vui, chán ghét đời sống và phải chịu đựng khổ não trong
nội tâm. Những điều này không gì khác hơn mà chính là những đặc điểm đã
được mô tả về địa ngục (naraka). Vì thế, sự xuất hiện của những yếu tố
này trong đời sống nội tâm của một người chính là sự biểu hiện của địa
ngục. Tùy theo từng mức độ khác nhau mà ta có thể gọi bằng những tên gọi
khác nhau, nhưng cho dù với tên gọi nào thì những bản chất như trên vẫn
là không thay đổi.
Nhận thức này hẳn có phần nào đó còn xa lạ với một số người, những người
lâu nay vẫn quen nghĩ về một địa ngục âm u chìm sâu trong lòng đất, và
chỉ chờ đón những kẻ ác sau khi chết. Tuy nhiên, có lẽ không ai phủ nhận
được tính chất hợp lý của nó khi đối chiếu với những gì xảy ra trong đời
sống, cũng như khi tự quán xét nội tâm của chính mình.
Trong kinh Phật mô tả về sáu cảnh giới khác nhau mà tất cả chúng sinh
tùy theo nghiệp lực đều phải chịu luân chuyển thọ sinh trong đó. Những
cảnh giới này bao gồm: thiên giới, cảnh giới của chư thiên hay các cõi
trời, với hình tướng oai nghiêm, xinh đẹp và được thọ hưởng nhiều phước
báo, khoái lạc; nhân giới, cảnh giới của con người, là cõi thế gian mà
hiện chúng ta đang sống; a-tu-la giới, cảnh giới của loài a-tu-la, được
mô tả là một loại chúng sinh có đủ thần thông như chư thiên nhưng kém về
oai đức và hình thể; ngạ quỷ giới, cảnh giới của loài quỷ đói, với nhiều
hình thể khác nhau như gầy ốm, cổ rất nhỏ, miệng phun lửa... do nghiệp
lực mà tất cả những chúng sinh này đều không bao giờ được ăn uống no đủ;
súc sinh giới, cảnh giới của các loài thú vật, mỗi loài đều phải chịu
những nỗi khổ khác nhau tùy theo nghiệp lực; và cuối cùng là địa ngục
giới, cảnh giới mà chúng sinh luôn phải sống trong trạng thái không có
niềm vui, chán ghét và chịu đựng đủ mọi khổ não.
Điều đặc biệt là trong sáu cảnh giới vừa kể trên, chúng sinh ở mỗi cảnh
giới đều được mô tả về hình thể xinh đẹp hoặc xấu xí, chỉ riêng cảnh
giới địa ngục không thấy mô tả về hình tướng của những chúng sinh trong
đó, mà chỉ thấy nói về những khổ não họ phải gánh chịu. Điều này phải
chăng cho thấy rõ tính chất phi vật thể, tính chất của một cảnh giới
tinh thần dành cho hết thảy mọi chúng sinh tạo nghiệp ác?
Mặt khác, trong kinh nói về các cảnh giới từ cõi trời cho đến các loài
ngạ quỷ, súc sinh... đều thấy nhắc đến tuổi thọ dài ngắn, chẳng hạn như
ở cõi trời chư thiên có tuổi thọ lâu dài, loài súc sinh có tuổi thọ ngắn
ngủi và thường phải chết vì sự giết hại... Riêng cảnh giới địa ngục
không thấy nói đến tuổi thọ của chúng sinh trong đó, nhưng nói rằng họ
chỉ được thoát ra khỏi đó khi nghiệp báo đã hết. Phải chăng đây chính là
một tấm gương phản chiếu những nghiệp ác của chúng sinh, nên khi những
nghiệp ác đó không còn nữa, nghĩa là khi những tâm thiện được sinh khởi,
thì cảnh giới đó cũng tự nhiên mất đi?
Nhiều câu chuyện về những người thoát khỏi địa ngục được kể lại trong
kinh cũng nói lên những điều phù hợp với nhận xét này. Một trong những
câu chuyện như thế được nhiều người biết đến nhất là chuyện bà Thanh-đề,
mẹ của ngài Mục-kiền-liên, một vị đệ tử lớn của đức Phật.
Ngài Mục-kiền-liên là một vị đệ tử đã tu chứng, được đức Phật khen là
“thần thông đệ nhất” trong số các đệ tử hàng Thanh văn. Tuy vậy, mẹ của
ngài là bà Thanh-đề lại là người không tin Tam bảo, thường làm nhiều
việc ác. Vì thế, sau khi bà chết thì ngài Mục-kiền-liên dùng thiên nhãn
quán sát thấy được bà đang phải chịu đựng những khổ não trong cảnh giới
địa ngục. Ngài đã vận dụng hết sức thần thông của mình để mong cứu mẹ ra
khỏi cảnh giới này, nhưng hoàn toàn không thể làm được. Vì vậy, ngài
không còn cách nào khác hơn là đến cầu cứu với đức Phật.
Nhân lời thỉnh cầu của ngài Mục-kiền-liên, đức Phật đã truyền dạy pháp
Vu-lan-bồn (Ullambana), tức là lễ cúng trai tăng được thực hiện vào dịp
rằm tháng Bảy, nhân ngày Tự tứ khi chư tăng vừa qua ba tháng an cư trong
mùa mưa, thường được gọi với tên thông dụng hơn là lễ Vu Lan.
Nhờ sức chú nguyện của chư tăng mười phương, bà Thanh-đề được cảm hóa và
sinh khởi thiện tâm, nên ngay trong ngày đó thoát khỏi cảnh giới địa
ngục và sinh về cõi trời.
Sự giải thoát tức thời của bà Thanh-đề ra khỏi cảnh giới địa ngục gợi
cho ta thấy rằng cách hiểu về địa ngục như một cảnh giới của những nỗi
khổ tinh thần phi vật thể như đã nói là hoàn toàn phù hợp. Vì một khi
tâm thiện được sinh khởi thì ngay tức thời cảnh giới địa ngục sẽ tự nó
mất đi, nghĩa là chúng sinh ấy được giải thoát.
Nhận xét này cũng gợi ta nhớ đến Bồ Tát Địa Tạng với đại nguyện cứu vớt
hết thảy chúng sinh đang chịu khổ trong cảnh giới địa ngục. Vị Bồ Tát
này với cây tích trượng và hạt minh châu trong tay, thường xuất hiện
trong cảnh giới địa ngục để giúp những chúng sinh nơi đây phát khởi tâm
thiện, và chính bằng cách này ngài cứu thoát được vô số chúng sinh ra
khỏi những khổ não trong cảnh giới địa ngục.
Còn một khác biệt khác nữa giữa địa ngục với các cảnh giới khác mà chúng
ta có thể nhận ra qua những mô tả trong kinh điển. Đó là, những chúng
sinh trong cảnh giới địa ngục không thấy nói đến việc tiếp tục tạo
nghiệp. Trong khi từ cõi trời cho đến các loài ngạ quỷ, súc sinh đều vẫn
tiếp tục tạo nghiệp thiện ác trong đời sống của mình, thì những chúng
sinh ở địa ngục không thấy mô tả việc này. Họ chỉ toàn là chịu đựng
những khổ não do ác nghiệp đã tạo, mãi mãi cho đến khi những ác nghiệp
đó vơi đi, và nhờ một tác nhân nào đó giúp họ sinh khởi được tâm thiện,
họ mới có thể thoát ra khỏi cảnh giới này.
Những khác biệt lần lượt nêu trên đưa chúng ta đến một nhận xét chung:
cảnh giới địa ngục theo như trong kinh điển mô tả là khác hẳn so với tất
cả những cảnh giới khác. Đây là một cảnh giới tinh thần đặc biệt của
những chúng sinh tạo nghiệp ác. Hay nói khác đi, đây không phải là một
cảnh giới với những chủng loại chúng sinh khác nhau thác sinh trong đó
và có đời sống cụ thể như cõi trời, cõi người cho đến súc sinh... mà là
một cảnh giới tinh thần hiện hữu song song với mọi cảnh giới khác.
Ngay khi nào tâm thức của mỗi chúng sinh sa đọa vào các nghiệp ác, bị
lôi cuốn bởi các tâm niệm tham lam, sân hận, si mê, tâm hồn họ sẽ bị
chìm đắm bởi tác hại của những ác nghiệp đó và cảnh giới địa ngục lập
tức xuất hiện. Và ngay khi nào tâm thức bừng tỉnh, nhận ra được các
nghiệp ác và những tác hại của chúng, thiện tâm sẽ nhờ đó mà sinh khởi,
và ngay lập tức cảnh giới địa ngục tan biến.
Một khi đã nhận rõ được sự hiện hữu của cảnh giới địa ngục ngay trong
đời sống hiện tại này như thế nào, rõ ràng là chúng ta không còn cần
thiết phải quan tâm đến việc có một địa ngục sau khi chết hay không. Bởi
vì sự hiện hữu một địa ngục sau khi chết thật ra cũng phải là một điều
khó hiểu, khó tin, mà chỉ đơn giản là sự kéo dài của những khổ não mà
chúng ta đã không thoát ra khỏi được ngay trong đời sống hiện tại này.
Như đã nói, mỗi chúng ta đều sẵn có khả năng hướng thiện cũng như khả
năng sa đọa, nên khi có được một nhận thức rõ ràng về địa ngục cũng như
những nguyên nhân làm cho chúng ta sa đọa vào đó, chắc chắn không ai
trong chúng ta lại có thể chọn con đường đi vào khổ não.
Bởi vậy, hết thảy những người đang chìm đắm trong đau khổ chỉ có thể là
do họ tự chọn lấy con đường như thế. Và sự chọn lựa sai lầm này xuất
phát từ việc không có một nhận thức đúng về đời sống và không đủ lòng
tin vào lời dạy chân chánh của những bậc giác ngộ. Một khi tự mình không
nhận biết đường đi, cũng không tin được vào người dẫn đường chân chánh,
thì điều tất yếu không thể tránh khỏi là phải đi sai đường, lạc lối.
Khổ đau trong cuộc sống là điều không ai mong muốn. Nhưng hầu hết chúng
ta đều chấp nhận điều đó là bởi vì chúng ta không nhận biết được rằng
mọi khổ đau đều do chính chúng ta tự chuốc lấy. Những đau khổ trong thế
giới vật chất này là do chính những nghiệp ác đã tạo của chúng ta mang
lại, và những đau khổ trong thế giới tinh thần cũng không gì khác hơn là
kết quả tất yếu của những tâm niệm bất thiện như tham lam, sân hận và si
mê.
Vì thế, đời sống vật chất của chúng ta hôm nay không gì khác hơn là biểu
hiện của những gì ta đã làm trong quá khứ. Những điều tốt đẹp luôn mang
lại những kết quả tốt đẹp, và ngược lại; như một phép tính chính xác mà
không ai có thể làm thay đổi kết quả. Và song song với đời sống vật chất
đó là một thế giới tinh thần với những vui buồn sướng khổ, như một sự
phản chiếu chính những tâm niệm thiện ác của chúng ta trong đời sống.
Hiểu được điều này, chúng ta sẽ không bao giờ dại dột đánh đổi những
niềm vui chân thật dài lâu của việc làm điều thiện để có được những niềm
vui giả tạo tạm bợ do sự thỏa mãn vật chất mang lại.
Chúng ta có thể thực hiện những sự so sánh rất cụ thể để thấy được thế
nào là một sự lựa chọn đúng đắn.
Hãy lấy một ví dụ. Có một người bạn đang gặp khó khăn và do đó nhờ bạn
đứng ra lo liệu một sự việc quan trọng.
Sau khi thực hiện công việc, bạn có thể sẽ nói dối anh ta một cách dễ
dàng về chi phí thực hiện công việc để qua đó thu về cho mình một món
tiền lớn.
Nhưng bạn cũng có thể chân thành giúp đỡ anh ta trong lúc khó khăn ấy,
và không cần tính toán đến cả công sức đã bỏ ra của mình, nói gì đến
việc dối gạt anh ta để kiếm tiền?
Trong hai trường hợp, những gì được và mất của bạn có thể mang ra cân
nhắc và so sánh một cách hoàn toàn cụ thể.
Trường hợp thứ nhất, về vật chất bạn kiếm được một khoản tiền lớn, nhưng
về tinh thần bạn không thể tránh khỏi phải trải qua những tâm trạng bất
an: sự lo lắng về lời nói dối có thể bị phát hiện, và do đó kèm theo
nhiều nỗ lực suy nghĩ, tính toán để che giấu sự thật, có thể phải kéo
theo nhiều hành vi lừa dối khác nữa. Và khi sự lừa dối đã thành công,
bạn cũng không thể có một tâm trạng thanh thản, do những ray rứt trong
nội tâm về khoản tiền kiếm được không chính đáng. Tâm hồn bạn ngay trong
lúc này phải chất chứa thêm một “trọng lượng” đáng kể làm cho nó trở nên
“trĩu nặng” hơn trước đó. Và sự tích lũy của những “trọng lượng” tương
tự như thế này chính là nguyên nhân nhấn chìm bạn vào cảnh giới khổ đau
của tinh thần, đánh mất đi sự thanh thản vốn có của tinh thần. Vì thế,
điều bạn có được trong trường hợp này không sao bù đắp lại những gì bạn
mất đi!
Trong trường hợp thứ hai, khi bạn chọn lựa một sự giúp đỡ chân thành, có
thể là đời sống vật chất của bạn sau đó có kém hơn đôi chút. Nhưng với
tâm niệm giúp đỡ bạn bè, chắc chắn bạn không thể lấy đó làm một sự buồn
phiền. Ngược lại, bạn còn có được một niềm vui nhẹ nhàng với cảm giác
hài lòng, thỏa mãn vì đã làm được một việc nên làm. Sự chọn lựa này vừa
mang lại cho bạn thêm một phần thanh thản trong đời sống tinh thần, vừa
cứu bạn thoát khỏi mối nguy cơ sa đọa vào tội lỗi. Vì thế, điều bạn mất
đi trong trường hợp này là quá nhỏ nhoi không đáng kể so với những gì
bạn có được.
Khi một người chọn lựa khả năng thứ nhất trong trường hợp này, chỉ có
thể là do họ không hiểu hoặc không tin được vào những gì vừa nói trên.
Và cả hai nguyên nhân – không hiểu hoặc không tin – đều là xuất phát từ
sự si mê, thiếu trí tuệ. Bởi vì khi một người có đủ trí tuệ để phán đoán
đúng về sự việc thì người đó không thể không hiểu hoặc không tin vào sự
thật.
Vì thế, điều chắc chắn là chúng ta hoàn toàn có thể quyết định được việc
tự thân có sa đọa hay không. Ta chỉ mất đi khả năng tự quyết này khi
không có đủ trí tuệ sáng suốt, bởi vì khi ấy ta sẽ chịu sự lôi cuốn, sai
sử của những tâm niệm bất thiện như tham lam, sân hận và si mê.
Địa ngục hiện hữu ngay trong cuộc sống này. Đó là sự thật mà mỗi chúng
ta đều có thể nhận ra khi quán sát nội tâm của chính mình. Ngay khi một
tâm niệm bất thiện khởi lên, cánh cửa địa ngục sẽ mở ra chờ đón chúng
ta. Và ngược lại, ngay khi một tâm thiện khởi lên thì cửa địa ngục cũng
tự nhiên khép lại.
Có lần, một kiếm khách ngang tàng tìm đến thiền sư Bạch Ẩn để đặt câu
hỏi về việc có địa ngục và thiên đường hay không. Thiền sư không trả
lời, chỉ hỏi lại anh ta: “Anh là ai?” Anh ta đáp: “Tôi là một kiếm
khách.” Thiền sư cười nhạt và mạt sát: “Anh mà là kiếm khách à? Tôi nhìn
anh giống một người ăn xin hơn.” Anh chàng ngay lập tức nổi giận và rút
gươm ra khỏi vỏ, xông đến. Thiền sư nhoẻn miệng cười và nói: “Cửa địa
ngục đang mở.” Chàng trai ngay khi ấy nhận ra ý nghĩa câu nói của thiền
sư, liền tra gươm vào vỏ và cung kính vái lạy. Thiền sư lại nói: “Cửa
địa ngục đã khép, cửa thiên đường đang mở.”
Mỗi ngày, nếu chúng ta bình tâm xét lại những tư tưởng, lời nói và việc
làm của mình, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra là có rất nhiều lần cửa địa
ngục hé mở. Thậm chí có những lần chúng ta đã bước hẳn vào trong đó. May
thay, cũng chỉ cần quay lưng về phía địa ngục là ngay lập tức chúng ta
có thể nhìn thấy cửa thiên đường!
Tuy nhiên, chúng ta sẽ không có nhiều cơ hội nữa một khi đời sống này
chấm dứt. Và nếu như ngay trong cuộc sống này, chúng ta không thể vĩnh
viễn khép lại cánh cửa địa ngục, thì rõ ràng là chúng ta không thể tránh
khỏi một tương lai u ám. Vì thế, một người khôn ngoan sẽ không thể chờ
đợi lâu hơn nữa, mà ngay trong giây phút hiện tại này của đời sống phải
biết nỗ lực hết sức để vĩnh viễn thoát ra khỏi những nỗi khổ của tâm
hồn. Và để làm điều đó, không có cách nào khác hơn là phải trừ diệt đi
ba yếu tố độc hại là tham lam, sân hận và si mê, như chúng ta đã đề cập
đến trong một phần trước đây.