Chân lý hiển nhiên thuộc về ta
Chỉ cần an trú trong thực tướng
Chẳng nghĩ, chẳng suy, chẳng nắm bắt
Chẳng phải của ta, chẳng là ta
Không cố chấp
Không cầu tỉnh giác
Chẳngphải thường hằng
Chẳng phải hằng
Giải thoát rốt ráo và viên mãn
Truyền thuyết
Ngài
Virupa vốn sinh trưởng ở miền đông xứ
Triputa thuộc vương quốc
Bengal dưới thời vua
Devapala.
Ngay từ thuở thiếu thời ngài đã qui y tu học tại tu viện
Somapuri. Không lâu sau đó, ngài nằm mộng thấy
Kim cương nữ Bồ Tát trao cho tâm pháp. Với lòng mong muốn mau thành tựu, ngài gia công trì tụng
Kim cương chơn ngôn hai mươi triệu biến trong suốt thời gian 12 năm, nhưng ngài vẫn không thấy có dấu hiệu chứng đắc.
Một hôm, quá ư thất vọng, ngài ném xâu chuỗi vào hố xí và rủa thầm: “Mấy cái hạt vô tích sự này, chẳng liên quan gì đến niềm an lạc của ta.”
Tuy nhiên, vào một đêm trong khi đang hành trì công phu, sự bừng ngộ xảy ra trong tâm thức, ngài chợt nhớ đến xâu chuỗi đã mất. Tức thì
Kim cương nữ Bồ Tát hiện ra trao lại cho ngài xâu chuỗi và dạy rằng: “Ngươi chớ phiền não. Ta sẽ luôn ở bên ngươi để hộ trì. Hãy loại bỏ các kiến chấp phiền não mà gắng công tu tập.”
Sau đó, ngài
Virupa tu tập
Kim cương tâm pháp thêm mười hai năm nữa thì ngài thấu triệt
đệ nhất nghĩa đế, và kể từ ấy ngài vượt thoát ra ngoài vòng sinh tử.
Mặc dù vậy,
Virupa là người vốn quen rượu thịt. Hằng ngày, người hầu thường đi ra ngoài kiếm rượu thịt để dâng cho ngài. Cho đến một hôm người hầu lén bắt trộm những con chim câu của tu viện làm thịt.
Thấy bỗng dưng mất những con chim câu, vị giám viện rung chuông họp tăng chúng lại tra hỏi: “Ai trong các người đã ăn thịt những con chim câu của tu viện? ”
Chúng tăng đồng thanh đáp: “Bạch thầy, việc này vốn chưa từng xảy ra. Có điều chắc chắn là không ai trong chúng tôi lại có thể sát hại những con chim câu ấy.”
Chợt một vị tăng nhìn vào cửa sổ phòng của
Virupa, thấy ngài đang dùng thịt chim câu với rượu.
Lập tức
Virupa bị trục xuất ra khỏi tu viện.
Gửi lại chiếc bình bát nơi bàn thờ,
Virupa đảnh lễ lần cuối cùng trước tượng đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư mà ngài đã thờ phụng hơn 24 năm qua, rồi ra đi.
Lúc rời cổng tu viện, một ông tăng chận lại hỏi: “Thầy sẽ đi về đâu? ”
Ngài đáp: “Ta đi theo con đường của riêng ta.”
Gần tu viện
Somapuri có một hồ sen lớn, quanh năm phủ đầy lá. Khi đến gần hồ,
Virupa liền ướm thử chân trên một lá sen để xem nó có chìm không. Đoạn ngài niệm danh hiệu Phật, rồi bước thoăn thoát trên những cánh sen để đi qua bên kia bờ hồ.
Chứng kiến cảnh
Virupa hiển lộ thần thông như thế, chúng tăng đều kinh hoàng, lòng tràn đầy hối hận.
Họ tiến lại gần, năm vóc sát đất, đảnh lễ và sờ vào chân ngài với niềm cung kính vô biên: “Ngài thật có pháp lực vô biên. Cớ sao lại nhẫn tâm giết hại những con chim câu của chúng tôi? ”
Virupa mỉm cười đáp: “Những gì các ông thấy biết cũng chỉ là ảo ảnh, giống như các hiện tượng thông thường khác trong thế gian mà thôi.”
Nói xong, sư sai người hầu mang lại những mẩu xương, thịt vụn của chim, bỏ vào lòng bàn tay trái đưa lên cao, tay phải khẻ khảy móng mấy cái.
Những con chim câu liền sống lại và bay đi, trông chúng to đẹp và khoẻ hơn trước.
Từ bỏ lối sống của một nhà sư trong tu viện
Somapuri,
Virupa trở thành một nhà
Du-già khất thực. Lang thang đến bờ sông Hằng, ngài xin vị nữ thần sông này một ít vật thực, nhưng vị nữ thần này tỏ ra kiêu kỳ từ chối khiến sư nổi giận, rống lên một tiếng rồi tách nước sông làm đôi để đi qua.
Ngài đi mãi đến thị trấn
Kanasata. Tại đây ngài ghé lại một tửu quán để dùng cơm và uống rượu. Cơm trắng và rượu nồng là hai thứ mà ngài ưa thích nhất.
Thấy
Virupa uống rượu liên miên, chủ quán có ý định đòi tiền trước.
Virupa cười bảo: “Ta sẽ ra đi khi trời tối. Lúc ấy trả tiền cũng không muộn.”
Nói xong, tay trái ngài cầm dao quắm chỉ thẳng vào mặt trời, dùng phép “
định thân” chặn đứng mặt trời, chia bầu trời làm thành hai phần: một bên tối và một bên sáng. Cứ như thế trải qua suốt mấy ngày, ngài tiếp tục uống và dùng lửa tam muội thiêu đốt năm trăm ngàn quỷ thần trong vùng, khiến cho hạn hán xảy ra trong vùng.
Đức vua xứ
Kanasata lấy làm kinh hoàng về việc lạ chưa từng có ở đất nước của ngài nhưng không rõ duyên do gì. Cả triều đình cũng bó tay không biết tai họa từ đâu mà đến.
Cuối cùng, nữ thần Mặt Trời hiện ra báo cho nhà vua biết, sở dĩ có việc lạ như thế là do một hành giả
Du-già nợ tiền cơm, rượu, và làm cho chính vị nữ thần này cũng đang phải khốn đốn.
Nhà vua bèn sai người đến trả tiền cho chủ quán.
Virupa biến mất.
Ít lâu sau,
Virupa du hành đến
Indra. Đây là vùng đất có nhiều tín đồ
Bà-la-môn rất cuồng tín.
Virupa tình cờ đi ngang qua một tượng thần
Siva bằng đá cao đến hơn 20 mét. Những tín đồ
Bà-la-môn đang canh giữ tượng thần buộc ngài phải vái chào thánh tượng
Śiva. Ngài chối từ, hỏi rằng: “Bậc trưởng thượng mà phải vái chào kẻ dưới hay sao? ”
Vua xứ
Indra cũng có mặt ở đó, bèn lên tiếng bênh vực cho các đạo sĩ
Bà-la-môn. Nhà vua phán: “Nếu ngươi không vái chào thánh tượng, ngươi sẽ phải tội chết.”
Ngài nói: “Nhưng nếu ta đảnh lễ vị thần này, ta sẽ mắc tội lớn hơn tội chết.”
Vua đáp: “Ngươi cứ làm. Hãy để tội ấy trẫm gánh chịu.”
Virupa liền chắp tay cung kính. Tức thì, tượng thần
Siva nứt đôi, một giọng nói rền vang như sấm sét từ cõi trời vọng xuống: “Đệ tử có mặt! Bạch thầy có điều gì dạy bảo? ”
Ngài
Virupa nói: “Nay ta qui y cho ngươi. Hãy phát nguyện hộ trì chánh pháp.”
Thần
Siva hiện ra, phát nguyện đúng theo lời dạy. Rồi tượng đá khép lại nguyên vẹn như cũ.
Từ
Indra,
Virupa lại vân du đến
Devikota thuộc miền Đông Ấn. Hầu hết cư dân vùng này đều là phù thủy ăn thịt người, uống máu nóng. Họ thường rình rập bỏ bùa mê các khách bộ hành tình cờ qua lại vùng này để bắt đem về tế lễ.
Một ngày nọ
Virupa cùng một thiếu niên đi vào vùng này. Cả hai dừng chân ở một ngôi đền thờ cuối làng để nghỉ qua đêm. Trong cuộc tương ngộ này,
Virupa có ban cho chú bé một câu thần chú để hộ thân. Cả hai lăn ra ngủ vùi vì quá mệt mõi sau chặng đường dài.
Lúc ấy, bọn phù thủy đang tụ tập để tế lễ. Họ đã có thịt thú vật nhưng còn thiếu máu người để cử hành đúng nghi thửc của cuộc tế. Gã phù thủy cầm đầu đã bỏ bùa
Virupa và cậu bé vào buổi sáng, bèn sai thuộc hạ đến ngôi đền để bắt hai nạn nhân của chúng.
Nhờ mật chú hộ thân, cơ thể của cậu bé như dính chặt xuống mặt đất khiến bọn phù thủy dùng hết sức cũng không tài nào nhấc lên nổi. Chúng đành khiêng một mình
Virupa đang còn say ngủ về nơi ở của chúng.
Bọn phù thủy tưới rượu lên khắp thân hình của
Virupa, tay cầm dao, miệng cười rú lên một cách ma quái. Tiếng cười mỗi lúc một lớn, nhưng khi chúng chưa dứt tiếng cười,
Virupa liền ngồi choàng dậy cất tiếng cười. Lần này, tiếng cười của
Virupa to hơn gấp ngàn lần tiếng cười của bọn phù thủy, âm thanh chấn động đến tam thiên đại thiên thế giới, khiến bọn chúng mất hết ý thức.
So với tiếng cười của
Virupa, tiếng cười của bọn phù thủy chỉ như tiếng khóc của trẻ sơ sinh.
Quá kinh sợ, bọn phù thủy khẩn nài xin ngài tha tội. Sau khi dùng thần lực nhiếp phục bọn phù thủy,
Virupa làm lễ qui y cho chúng. Ngài dạy: “Nếu các ngươi một lòng chí tín, quy ngưỡng Tam bảo thì ta luôn kề cận các ngươi để hộ trì, tránh khỏi mọi sự tổn hại. Ngày ngày các ngươi phải chuyên cần tu tập hạnh Bồ Tát. Nếu các ngươi giải đãi, tự thân sẽ bị mất đi một cốc máu. Và nếu các ngươi quay lưng lại với chánh pháp mà trở về với loài quỷ thần thì chiếc đĩa này sẽ chém lìa đầu các ngươi. Lúc bấy giờ,
Bắc Phương Quỷ Vương sẽ đến hút cạn máu của các ngươi.”
Bọn phù thủy nhất mực vâng lời dạy của ngài
Virupa.
Tương truyền, ngày nay người ta vẫn còn thấy hình dáng chiếc đĩa này và
Bắc Phương Quỷ Vương trong dãi Ngân hà.
Sau khi nhiếp phục bọn phù thủy,
Virupa lại vân du sang xứ khác.
Ít lâu sau, ngài lại trở về viếng thăm vùng
Dekikotta. Lúc bấy giờ, vị Đại Phạm Thiên và thị giả của ngài là
Umadevi dùng thần thông tạo ra một thành phố gồm bốn triệu cư dân để tôn vinh và thờ phụng ngài.
Tất cả vật thực dành cho buổi lễ cung nghinh ngài
Virupa trở lại
Dekikotta được chư thiên mang đến từ 33 cõi trời trong Dục giới.
Có truyền thuyết nói rằng ngài thọ đến 700 tuổi mới viên tịch.
Hành trì
Chướng ngại của
Virupa cũng chính là phiền não của các hành giả
Mật tông lúc còn sơ cơ. Trở lực ấy có lẽ do ngài quá đem tâm dục cầu khiến
sắc ý bột phát trong giai đoạn tu định và cũng bởi kiến chấp ấy của ngài (preconception) đối với
chân tính (nature of reality).
Kim Cương Thánh Nữ hiện ra như một thực thể nội tại vô biên đã phá vỡ cái vòng luẩn quẩn mà
Virupa bị kẹt trong đó suốt 12 năm và giải thoát ngài ra khỏi sự bế tắc của tâm thức.
Không dựa vào sự vật bên ngoài, vất bỏ xâu chuỗi để đi vào bản tâm, đó là nhận thức đầy tính dứt khoát của
Virupa.
Trong kinh dạy rằng: Bản tâm thanh tịnh thì gọi đó là hạt châu như ý. Bản tâm vốn là không, các pháp lưu xuất thành niệm là do có các căn. Trong khi thiền định, thường thì các kiến chấp sẽ tạo nên vọng tưởng rồi biến thành phiền não.
Sử liệu
Nơi ngài
Virupa trải qua 12 năm tu học chính là đại tu viện
Somapuri, một trong những tu viện lớn nhất ở vùng Đông Ấn, được xây dựng dưới triều đại
Pala (gồm xứ
Bengal và
Bihar). Các vua thuộc triều đại này vốn là những đại thí chủ của
Mật tông.
Nhà sư học giả
Taranatha cho rằng vua
Devapala (810-840) đã xây dựng tu viện này, nhưng có lẽ nó đã được tạo dựng trước đó nhiều năm do công của vua
Dhamlapaka (770-810), một nhân vật sống cùng thời với
Virupa.
Đến nay, người ta vẫn chưa xác định được vị trí chính xác của tu viện này, nhưng có thể đó là khu vực
Ompur ở
Bengal.
Có một điều đáng nói là thanh qui chi phối tăng chúng ở đây đã được sư
Santaraksita truyền sang Tây Tạng và vẫn còn được áp dụng cho đến bây giờ.
Tripura, sinh quán của ngài, gồm những khu vực khác nhau như
Radhakisorapura,
Assam Devikotta. Các địa danh này cũng là tên của các đền thờ
Mẫu thần (
Sakta) toạ lạc trong những khu rừng sâu khó vào được. Nơi đó, các bộ tộc theo giáo pháp Đại Mẫu có tập tục tế người như theo chuyện kể ở
Kamarupa mà
Virupa đã cải đạo cho các bộ lạc này.
Từ “
witch” theo Tạng ngữ là
Phra Men (
vetala), đó là một loại ma tử thi chuyên ăn thịt người để hoàn sinh (
a resurrected flesh-eating corpse), nhưng theo kinh văn Tây Tạng thì đây là những nữ phù thủy bậc thấp chuyên về ma thuật và sử dụng linh phù.
Có một mẩu chuyện khác kể rằng
Virupa được các thiên nữ (
dakini) dâng cúng hoa sen và ốc tiên (hai biểu tượng của
âm dương).
Với sự giúp đỡ của một Phật tử,
Virupa đến được núi
Sri Parvata. Tại đây, ngài
A-xà-lê Long Trí Bồ Tát đã truyền thụ cho ngài các pháp thuật của Trời Dạ Ma (
Yama). Với các pháp thuật này,
Virupa quay lại
Devikotta hàng phục các phù thủy và khiến họ qui y Tam bảo.
Lại có thuyết nói rằng
Virupa là người lập ra pháp môn
Rakta Yamari Tantra và một số các phương pháp thiền định đó liên quan đến bộ môn
Tantra này.
Xét theo cung cách mà
Virupa cải đạo cho dân chúng vùng
Devikotta cũng như cách hàng phục Trời Đại Phạm Thiên ở
Indra, chúng ta liên tưởng đến vị đạo sư
Mật tông Liên Hoa Sanh, một nhân vật cùng thời với ngài, cũng đã dùng những phương cách tương tự để nhiếp phục và cải đạo cho những người theo đạo
Bôn ở Tây Tạng. Theo kinh văn của dòng tu
Yogini Candika (
the Mystic Heat) thì ngài
Virupa chính là nhà sư
Sridramapala, và
Nalanda là tu viện mà
Virupa có lần đến tu học và sau đó bị trục xuất.
Orissa chính là nơi ngài thi triển tửu lượng.
Ngoài ra, có một điểm phù hợp với câu chuyện thần
Siva nứt ra khi
Virupa chắp tay tại
Somanath, vì tại
Samrastra có một tượng đá của Đại Phạm Thiên (
Mahadeva). Bức tượng đá khổng lồ rất nổi tiếng này bị quân Hồi giáo phá huỷ vào năm 1015.