Phương pháp thiền tập chúng ta học ở đây là thiền quán. Như tôi đã nói,  có rất nhiều đối tượng thiền tập, và trong hàng ngàn năm qua đã có vô số  đối tượng được các hành giả sử dụng. Ngay cả trong truyền thống thiền  quán vipassana cũng có những khác biệt về đối tượng thiền tập. Có vị  thầy dạy học trò mình theo dõi hơi thở bằng cách quán sát sự phồng xẹp ở  bụng. Có vị thầy khuyên học trò chú ý vào những xúc chạm của thân trên  tọa cụ, hoặc bàn tay chạm trên bàn tay, hoặc cảm giác của hai chân để  lên nhau... 
  Và phương pháp chúng ta trình bày ở đây được xem như là chính thống  nhất, có lẽ chính là phương pháp mà đức Phật Thích-ca đã hướng dẫn cho  các đệ tử của ngài. Kinh Tứ niệm xứ (Bốn lĩnh vực quán niệm -  Satipatthana Sutta) là bản kinh cơ bản trong đó đức Phật thuyết giảng về  chính niệm. Kinh này dạy chúng ta trước hết phải tập trung sự chú ý của  mình vào hơi thở, và từ đó ghi nhận tất cả những hiện tượng vật lý và  tâm lý nào sinh khởi.
  Chúng ta ngồi, theo dõi hơi thở ra vào nơi mũi. Mới nhìn qua có vẻ như  đây là một công việc rất kỳ cục và vô ích. Nhưng trước khi đi vào chi  tiết, chúng ta hãy tìm hiểu lý do nằm phía sau việc ấy. Câu hỏi đầu tiên  ta có thể đặt ra là tại sao phải tập trung tâm ý để làm gì? Sự thực tập  của chúng ta là để phát triển chính niệm mà! Tại sao ta không chỉ ngồi  xuống và tập có ý thức về bất cứ điều gì đang có mặt trong tâm mình?  Thật ra thì cũng có những phương pháp thiền giống như vậy, đôi khi được  gọi là phương pháp thiền quán không đề mục. Nhưng sự thực tập như vậy  rất khó. Tâm ta nó tinh ranh lắm. Tư tưởng là một tiến trình vô cùng  phức tạp. Có nghĩa là lúc nào ta cũng bị mắc kẹt, dính mắc và lôi cuốn  vào sự suy nghĩ của mình. Một tư tưởng sẽ kéo theo một tư tưởng, lại kéo  theo một tư tưởng khác, lại thêm một cái nữa, và một cái nữa, rồi cứ  tiếp tục mãi... Mười lăm phút sau, ta giật mình thức dậy và thấy rằng từ  nãy giờ mình chỉ ngồi đó mơ mộng viển vông, và lo lắng về tiền nhà, tiền  chợ, đủ mọi chuyện trên đời...
  Khi ta ý thức về một tư tưởng, điều đó khác với khi ta suy nghĩ một tư  tưởng. Sự khác biệt này rất vi tế. Trước hết, đó là vấn đề cảm xúc hay  kết cấu. Một tư tưởng được nhận diện đơn thuần tạo cảm giác kết cấu rất  nhẹ nhàng, có thể cảm nhận được như là có một khoảng cách giữa tư tưởng  ấy và sự tỉnh thức nhận biết nó. Nó khởi lên nhẹ nhàng như một bong bóng  nước, và rồi diệt đi mà không nhất thiết phải làm sinh khởi một tư tưởng  nào kế tiếp. Còn tư tưởng trong cách suy nghĩ thông thường có một kết  cấu nặng nề hơn. Nó chậm chạp, độc tài và ép buộc. Nó lôi cuốn ta vào và  bắt buộc ta phải tuân phục. Tự tính của nó rất là độc đoán, nó dẫn ta  hết tư tưởng này lập tức sang ngay tư tưởng khác, không để một khoảng  trống nào ở giữa.
  Sự suy nghĩ tạo nên những căng thẳng tương ứng trong thân, như là sự co  rút của các bắp thịt, hoặc là nhịp đập nhanh của tim. Nhưng thường thì  ta không cảm nhận được những đổi thay đó, cho đến khi nào chúng trở  thành một cơn đau thật sự. Vì sự suy nghĩ lúc nào cũng rất tham lam. Nó  nắm bắt tất cả mọi sự chú ý của ta, không còn lại gì để chú ý đến hậu  quả của nó. Sự khác biệt giữa việc ý thức một tư tưởng và suy nghĩ một  tư tưởng là rất thực. Nhưng nó rất tinh tế và khó nhận biết. Và định lực  là một trong những phương tiện cần thiết giúp ta thấy được sự khác biệt  ấy.
  Định lực thâm sâu có công năng làm chậm lại tiến trình của tư tưởng, và  gia tăng sự quán sát của hành giả. Kết quả là ta có thể theo dõi quá  trình của tư tưởng dễ dàng hơn. Định lực là một chiếc kính hiển vi giúp  ta nhìn thấy được những trạng thái vi tế trong tâm thức. Chúng ta tập  trung sự chú ý để tâm mình đạt đến trạng thái nhất tâm cùng với một sự  tỉnh thức và tĩnh lặng. Nếu không có được sự nhất tâm như một chiếc neo  để nương tựa, chúng ta sẽ bị trôi dạt khắp nơi bởi những làn sóng xô đẩy  nhau bất tận trong tâm thức.
  Chúng ta dùng hơi thở làm một điểm tập trung tâm ý. Nó là điểm chủ yếu,  mỗi khi tâm ta đi lang thang sẽ được mang trở về điểm ấy. Sự xao lãng  không thể được nhận biết nếu ta không có một điểm chính nhất định nào để  làm điểm gốc. Ta cần một khung nhất định để làm cái mốc chuẩn, để có thể  dựa vào đó mà quán sát những chuyển động và biến đổi không ngừng của tư  tưởng.
  Kinh điển Pali thường so sánh thiền tập với việc huấn luyện một con voi  rừng. Ngày xưa, người ta cột con voi rừng hung dữ mới bắt được vào cây  cột bằng một sợi dây thừng thật chắc. Con thú lúc ấy rất là bực tức. Nó  vùng vẫy, kêu rống và giựt kéo sợi dây cả ngày. Cho đến một lúc nó hiểu  rằng mình chẳng thể đi đâu được hết, và chịu đứng yên. Khi ấy, ta có thể  cho nó ăn và bắt đầu huấn luyện nó. Sau cùng, ta sẽ không cần đến sợi  dây thừng và cây cột nữa, và ta có thể dạy cho con voi ấy làm những công  việc khác nhau. Bây giờ ta có được một con voi thuần phục, có thể giúp  ta làm những công việc ích lợi. Trong tỷ dụ ấy, con voi rừng hung dữ  chính là tâm ý của ta, sợi dây thừng là chính niệm, và cây cột chính là  đối tượng của chính niệm, tức hơi thở. Một con voi thuần phục tượng  trưng cho một tâm ý an tĩnh, tập trung, có thể giúp ta chọc thủng được  hết những tầng lớp mê mờ che phủ thực tại. Thiền tập sẽ thuần hóa được  tâm ý ta.
  Câu hỏi kế tiếp ta có thể đặt ra là: Tại sao lại chọn hơi thở làm đề mục  chính của thiền tập? Sao ta không chọn một đề mục nào khác thú vị hơn?  Thật ra, có rất nhiều câu trả lời cho câu hỏi này. Một đề mục thiền quán  tốt phải có tác dụng làm phát huy chính niệm, có thể mang đến đâu cũng  được, có thể dễ dàng tìm thấy và không tốn kém. Và nó cũng không làm ta  rối loạn, trói buộc ta vào những trạng thái khổ đau, như là tham, sân,  si. Hơi thở đáp ứng được tất cả những điều kiện ấy, và còn nhiều hơn thế  nữa! Hơi thở thì ai cũng có. Chúng ta mang nó theo bất cứ nơi nào mình  đến, nên lúc nào cũng có thể tìm thấy, chẳng bao giờ gián đoạn từ khi ta  sinh ra cho đến lúc chết đi, và ta có thể sử dụng nó không tốn kém gì  cả!
  Hơi thở là một quá trình không cần khái niệm, ta có thể trải nghiệm nó  trực tiếp mà không cần đến tư tưởng. Hơn nữa, nó là một tiến trình sinh  động, một phần của sự sống lúc nào cũng thay đổi. Hơi thở tuần hoàn theo  một vòng tròn - thở vào, thở ra, thở vào, và lại thở ra... Nó cũng giống  như một kiểu mẫu thu nhỏ của chính sự sống.
  Sự cảm nhận hơi thở là vô cùng tinh tế, nhưng sẽ trở nên rõ rệt khi ta  biết cách hòa nhập với nó. Cần phải nỗ lực luyện tập đôi chút, nhưng bất  cứ ai cũng có thể làm được. Bạn cần phải có cố gắng nhưng không được quá  sức. Vì tất cả những lý do ấy mà hơi thở là một đối tượng rất lý tưởng  cho thiền tập. Bình thường, hơi thở là một quá trình tự nhiên diễn ra  theo nhịp điệu riêng của nó mà không cần đến ý chí. Dù vậy, chỉ một tác  động của ý chí là có thể làm cho nó chậm lại hoặc nhanh hơn, dài ra và  dịu dàng hoặc ngắn lại và gấp gáp. Đường ranh giới giữa hơi thở tự nhiên  và hơi thở có chủ ý rất là mỏng manh. Và từ đây ta có thể học được rất  nhiều điều về bản chất của ý chí và ước muốn. Cũng vậy, vị trí ngay đầu  lỗ mũi của ta có thể được xem như là một cánh cửa nối liền giữa thế giới  bên ngoài và bên trong ta. Nó là điểm nối liền và cũng là một nơi trao  chuyển năng lượng. Ở ngay điểm này, những gì từ thế giới bên ngoài đi  vào và trở thành một phần mà chúng ta gọi đó là “tôi” và cũng từ nơi  này, một phần của cái “tôi” trở ra và hoà nhập lại với thế giới bên  ngoài. Từ đấy, ta cũng có thể học được rất nhiều về ý niệm và sự cấu  thành của một cái “tôi”.
  Hơi thở là một hiện tượng chung cho tất cả mọi sinh vật trên vũ trụ. Một  hiểu biết thực nghiệm về quá trình hơi thở sẽ giúp ta xích lại gần hơn  với mọi sự sống khác. Nó giúp ta ý thức được mối liên hệ mật thiết vốn  sẵn có giữa mọi sự sống. Và sau cùng, hơi thở còn là một quá trình của  hiện tại. Nghĩa là nó chỉ có thể xảy ra bây giờ và ở đây mà thôi. Thường  thì chúng ta ít khi nào có mặt trong giờ phút hiện tại. Chúng ta dành  hầu hết thời gian để sống hồi tưởng về quá khứ hoặc mơ mộng đến tương  lai, lúc nào cũng đầy những lo lắng và dự tính. Hơi thở thì không có  tính chất “ở một thời gian khác”. Khi chúng ta chú ý đến hơi thở, là tự  nhiên chúng ta được đặt trở về ngay trong giờ phút hiện tại. Chúng ta  được kéo ra khỏi vũng lầy của những ý niệm và hình ảnh, và trở về với  một kinh nghiệm đơn thuần của bây giờ và ở đây. Vì vậy, hơi thở cũng  chính là một phần sinh động của thực tại. Một cái nhìn chính niệm về cái  kiểu mẫu thu nhỏ này của sự sống, cũng có thể dẫn đến những tuệ giác  rộng lớn hơn về tất cả những kinh nghiệm khác của ta.
  Bước đầu tiên trong việc dùng hơi thở làm đối tượng thiền quán là tìm  thấy nó. Cái mà chúng ta muốn tìm là một cảm giác vật lý rõ rệt của hơi  thở ra vào nơi mũi. Thường thì nó có mặt ngay phía trong đầu lỗ mũi.  Nhưng điểm ấy sẽ thay đổi tùy theo mỗi người, nó cũng còn tùy thuộc vào  hình dạng của chiếc mũi nữa. Muốn tìm điểm của mình, bạn hãy hít vào một  hơi dài và sâu, và ghi nhận điểm ngay phía trong lỗ mũi hoặc là ở phía  môi trên, nơi nào mà bạn cảm thấy không khí xúc chạm rõ rệt nhất. Đó là  điểm mà bạn sẽ dùng để theo dõi quá trình hơi thở của mình. Một khi đã  xác định được vị trí rõ ràng của nó rồi, bạn đừng bao giờ rời xa điểm  ấy. Dùng ngay một điểm này để giữ sự chú ý của mình. Nếu không có được  một điểm nhất định, tâm ý bạn sẽ di chuyển khắp nơi trong và ngoài lỗ  mũi, lên xuống theo ống khí quản, ráng đuổi theo hơi thở, nhưng rồi sẽ  không bao giờ bắt kịp vì nó cứ tiếp tục thay đổi, chuyển động và trôi  chảy mãi!
  Nếu bạn đã có dịp nào đó dùng cưa xẻ gỗ, chắc chắn bạn phải biết cách  thức. Người cầm cưa không bao giờ dán mắt mình theo lưỡi cưa lên xuống.  Điều đó sẽ làm cho bạn chóng mặt. Bạn chỉ nên nhìn vào một điểm nơi lưỡi  cưa tiếp xúc với khúc gỗ, và chỉ có cách đó bạn mới có thể giữ cho đường  xẻ được thẳng! Khi ngồi thiền cũng thế, chúng ta tập trung sự chú ý của  mình vào một điểm cảm xúc duy nhất phía trong mũi. Từ điểm ưu thế đó, ta  có thể theo dõi toàn thể sự chuyển động của hơi thở vào ra một cách rõ  ràng và định tĩnh. Ta cũng không bao giờ cố gắng kiểm soát hơi thở của  mình. Đây không phải là một phương pháp tập luyện thở như trong các pháp  môn yoga. Hãy tập trung và chú ý vào sự chuyển động tự nhiên của hơi  thở. Đừng điều khiển, cũng đừng nhấn mạnh nó vì bất cứ một lý do gì.  Những thiền sinh mới thường hay mắc phải lỗi này. Vì muốn dễ tập trung  vào cảm giác của hơi thở, nhiều khi họ vô tình thay đổi cách thở của  mình. Và kết quả là một sự cố gắng gò bó, thiếu tự nhiên, làm trở ngại  và ngăn chặn sự tập trung. Bạn đừng bao giờ cố gia tăng chiều sâu hoặc  âm thanh của hơi thở mình, hãy giữ cho nó thật tự nhiên. Vấn đề âm thanh  rất quan trọng, nhất là khi ta ngồi chung trong một nhóm. Thở lớn tiếng  có thể làm ảnh hưởng đến những người chung quanh. Hãy để cho hơi thở của  mình được tự nhiên, không cố gắng, như trong lúc ta ngủ. Buông thư và để  cho nó đi theo nhịp điệu tự nhiên của nó.
  Điều này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng thật ra là khó hơn bạn tưởng. Bạn  cũng đừng nản lòng khi thấy ý chí mình cứ xen vào, muốn điều khiển hơi  thở. Hãy dùng cơ hội ấy để quán chiếu về các đặc tính của những tác ý.  Hãy chú ý đến mối quan hệ vi tế và phức tạp giữa hơi thở, ý muốn điều  khiển hơi thở, và ý muốn ngừng điều khiển. Có thể bạn sẽ cảm thấy rất  bực mình, nhưng thật ra ta có thể học được từ đó nhiều điều, và giai  đoạn này rồi cũng sẽ trôi qua. Sau một thời gian, hơi thở sẽ ra vào tự  nhiên, và ta không còn cảm thấy muốn điều khiển nó nữa. Đến đây, bạn sẽ  học được một bài học lớn là trong ta lúc nào cũng có một sự thúc đẩy  muốn kiểm soát được vũ trụ của mình.
  Tiến trình của hơi thở vừa nhìn thoáng qua có vẻ như rất bình thường và  nhạt nhẽo, chẳng có gì thú vị, nhưng thật ra lại vô cùng phức tạp và kỳ  diệu. Nếu quán sát kỹ, bạn sẽ thấy trong hơi thở có rất nhiều sự khác  biệt tinh tế. Hơi thở vào và hơi thở ra, hơi thở dài và hơi thở ngắn,  hơi thở cạn, hơi thở sâu, hơi thở nhẹ nhàng, và hơi thở gấp gáp... Những  sự khác biệt này kết hợp với nhau một cách phức tạp và tinh tế. Hãy quán  sát hơi thở cho thật kỹ. Thật sự nghiên cứu nó. Ta sẽ tìm thấy vô số  những biến dạng khác nhau của hơi thở, và chu kỳ thay đổi ấy cứ tiếp tục  lặp đi lặp lại, giống như một bản nhạc giao hưởng. Đừng chỉ quán sát vẻ  ngoài của hơi thở. Còn có rất nhiều điều để nhận biết chứ không chỉ là  những hơi thở vào và hơi thở ra. Mỗi hơi thở đều có phần bắt đầu, phần  giữa và phần cuối. Mỗi hơi thở vào đều phải đi qua một quá trình sinh,  trụ và diệt. Và mỗi hơi thở ra cũng giống hệt như thế. Chiều sâu và tốc  độ của hơi thở thay đổi tùy theo tâm trạng của bạn, những ý nghĩ nào  đang có mặt trong đầu, những âm thanh nào bạn đang nghe. Hãy nghiên cứu  những hiện tượng này thật kỹ. Bạn sẽ khám phá ra nhiều điều kỳ diệu!
  Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn nên ngồi yên và tự nhủ: “Đây là hơi  thở ngắn và thô, kia là hơi thở dài và sâu. Không biết hơi thở sắp tới  sẽ như thế nào?” Không phải vậy. Đó không phải là thiền quán. Đó là suy  nghĩ. Lúc đầu việc ấy rất thường xảy đến cho ta. Nhưng bạn cũng đừng lo,  nó rồi cũng sẽ qua. Bạn chỉ cần đơn giản ghi nhận sự kiện ấy, và đem sự  chú ý trở về quán sát cảm giác của hơi thở. Những sự xao lãng trong tâm  sẽ tiếp tục xảy ra. Và ta lại cứ tiếp tục mang sự chú ý của mình trở về  với hơi thở một lần nữa, lần nữa, và lại một lần nữa... cho đến khi nào  sự xao lãng không còn nữa.
  Khi mới bắt đầu thực tập phương pháp này, bạn nên chuẩn bị đối mặt với  một số khó khăn. Tâm ta lúc nào cũng lang thang đi khắp mọi nơi, phóng  bên này, vọt sang bên kia, giống như một con ong bầu trên những bông  hoa. Bạn đừng lo. Hiện tượng “tâm viên ý mã” đó là rất thông thường và  mọi thiền sinh giỏi đều đã từng phải đối mặt. Bằng cách này hay cách  khác họ đều đã vượt qua được. Vì thế, chắc chắn bạn cũng sẽ làm được.  
  Khi điều đó xảy ra, bạn chỉ cần ghi nhận sự thật là mình đã, đang suy  nghĩ, mơ tưởng, lo lắng hoặc là gì gì đó... Bạn nhẹ nhàng ghi nhận,  nhưng cũng rất cương quyết, không để bị bực mình hoặc tự trách móc về  việc ấy, cứ từ tốn trở về với cảm giác của hơi thở. Và lần tới khi nó  xảy ra, bạn cũng lại làm y như vậy, và rồi lần tới, lần tới, và lần tới  nữa...
  Một lúc nào đó trong tiến trình thực tập, bạn sẽ trực tiếp đối diện với  một nhận thức bất ngờ và kinh khủng là mình hoàn toàn điên rồ. Tâm ý ta  là một căn nhà điên đầy những tiếng kêu rú, la hét hỗn loạn, đang lao  đầu xuống một con dốc cao, hoàn toàn mất tự chủ, không người điều khiển.  Nhưng không sao hết. Bạn hôm nay thật ra cũng chẳng điên rồ gì hơn bạn  ngày hôm qua. Thật ra lúc nào nó cũng vậy, chỉ có điều bạn không bao giờ  để ý đến mà thôi! Và bạn cũng chẳng điên rồ gì hơn những người đang sống  quanh bạn. Vấn đề khác biệt là bạn chịu đối diện với sự thật ấy, còn  những người khác thì vẫn chưa. Họ vẫn còn cảm thấy tương đối an ổn.  Nhưng điều ấy không có nghĩa là họ được lợi thế hơn ta. Ngu si có thể  hưởng thái bình đấy, nhưng nó sẽ không giúp ích gì cho ta trên con đường  giải thoát. Vì vậy bạn đừng quan tâm về vấn đề này. Thật ra nó là một  mốc rất quan trọng, đó là một dấu hiệu của sự tiến bộ. Sự thật rằng bạn  đã nhìn ngay tận mặt của vấn đề có nghĩa là bạn cũng đang đi trên con  đường giải thoát ra khỏi vấn đề ấy.
  Trong khi quán sát và theo dõi hơi thở, có hai trạng thái ta cần tránh:  suy nghĩ và hôn trầm. Tâm ý suy nghĩ lung tung là biểu hiện của một hiện  tượng tâm viên ý mã, tâm ta như một con khỉ chuyền cành, ý ta như một  con ngựa phóng nhanh trên đường. Và hôn trầm là một trạng thái hoàn toàn  trái ngược lại. Hôn trầm, nói chung, là những trạng thái ý thức mập mờ,  không rõ rệt. Nếu tốt nhất thì nó cũng chỉ giống như một khoảng không  trong tâm thức, không có tư tưởng, không theo dõi hơi thở, không hay  biết gì hết. Nó là một lỗ hổng, một trạng thái lờ mờ không có hình dáng,  cũng giống như một giấc ngủ không mơ. Hôn trầm là một khoảng trống vô  ích trong tâm. Hãy tránh nó!
  Thiền quán là một chức năng rất linh động. Định là một sự chú ý mãnh  liệt vào một đối tượng duy nhất. Niệm là một sự tỉnh thức, sáng tỏ và rõ  ràng. Định (samadhi) và niệm (sati) là hai khả năng chúng ta cần cố gắng  trau giồi. Và hôn trầm không hề có hai yếu tố đó. Lúc tệ thì nó có thể  làm bạn ngủ gục. Còn khi khá lắm nó cũng chỉ làm uổng phí thì giờ của  bạn mà thôi.
  Khi nào bạn cảm thấy mình đang bị rơi vào trạng thái hôn trầm, hãy ghi  nhận nó và mang sự chú ý của mình trở lại với cảm giác của hơi thở. Nhận  diện cảm giác của hơi thở vào thật rõ ràng. Và cảm nhận rõ rệt sự xúc  chạm của mỗi hơi thở ra. Thở vào, thở ra, và theo dõi những gì xảy ra.  Nếu bạn tiếp tục thực tập được qua một thời gian - có thể là nhiều tuần  hoặc nhiều tháng - bạn sẽ bắt đầu cảm nhận được sự xúc chạm ấy rõ ràng  như là một đối tượng vật lý. Hãy cứ đơn giản tiếp tục thở vào và thở ra,  theo dõi việc gì đang xảy ra. Khi định lực của bạn được gia tăng, “tâm  con khỉ” của bạn cũng sẽ bớt lăng xăng đi. Hơi thở bạn chậm lại. Bạn sẽ  theo dõi được dễ dàng, và càng lúc càng ít bị gián đoạn hơn. Bạn sẽ bắt  đầu trải nghiệm được một trạng thái an tĩnh rất sâu sắc, và không còn bị  ảnh hưởng bởi những yếu tố kích động trong tâm nữa, như là tham lam,  ganh tỵ, sân hận và si mê. Những bực tức biến mất, sợ hãi cũng không  còn. Đây là một trạng thái rất hạnh phúc, tốt đẹp và tươi sáng trong  tâm. Nhưng chúng cũng chỉ tạm thời thôi, chúng sẽ chấm dứt khi ta xả  thiền. Dù vậy, những kinh nghiệm ngắn ngủi này cũng sẽ thay đổi cuộc đời  của bạn. Tuy tự nó không phải là giải thoát, nhưng đó là những bước tiến  giúp ta đi về đường hướng ấy. Nhưng bạn cũng đừng kỳ vọng rằng ta sẽ có  được niềm hạnh phúc ngay tức thì. Những bước này cũng đòi hỏi thời gian,  công phu luyện tập và một sự kiên trì.
  Kinh nghiệm thiền tập không phải là một sự tranh đua. Ta có một mục đích  nhất định, nhưng không có một thời hạn nào hết. Việc ta cần làm là đào  cho thật sâu, xuyên qua hết những tầng lớp ảo tưởng, để đi đến một tuệ  giác về một hiện hữu chân thật. Quá trình ấy tự nó vô cùng hấp dẫn và  thoả mãn. Ta cảm thấy rất vui và hạnh phúc khi đi trên con đường này.  Không có gì phải vội vã hết.
  Sau mỗi giờ ngồi thiền, bạn sẽ cảm thấy được một cảm giác tươi mới và an  lành trong tâm. Đó là một năng lượng an tĩnh, tích cực và hân hoan mà ta  có thể áp dụng để chuyển hóa những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày.  Bấy nhiêu đó cũng đủ là một lợi ích rất lớn rồi. Thật ra, mục tiêu của  thiền tập không phải để giúp ta đối phó với vấn đề, mặc dù khả năng  chuyển hóa những khó khăn là một trong những lợi ích phụ của nó, và ta  nên nhớ điều ấy. Nếu ta đặt nặng vấn đề vào việc giải quyết những khó  khăn, ta sẽ chú tâm vào khía cạnh này trong lúc ngồi thiền, và định lực  của mình sẽ bị phân tán.
  Trong lúc ngồi thiền, ta đừng nên nghĩ về những khó khăn của mình. Ta  nhẹ nhàng tạm gác chúng qua một bên. Tạm nghỉ một chút, không lo lắng và  dự tính gì cả. Hãy xem giờ thiền tập như một chuyến đi nghỉ mát hoàn  toàn. Tin vào mình, tin vào khả năng chuyển hóa khó khăn của ta sau này,  nhờ biết sử dụng những năng lượng an vui và tĩnh lặng tích tụ được trong  lúc ngồi thiền. Hãy tự tin như thế, và thế nào rồi điều đó cũng sẽ thực  sự xảy ra.
  Đừng tự đặt cho ta một mục tiêu nào xa vời quá. Hãy nhẹ nhàng với chính  mình. Bạn chỉ cần theo dõi hơi thở một cách liên tục, và đừng để bị gián  đoạn. Nghe qua thì rất dễ, và vì vậy bạn sẽ có khuynh hướng ép buộc mình  cho được thật chính xác và hoàn toàn. Điều ấy không thực tế lắm. Hãy  chia tiến trình ra thành từng phần nhỏ. Lúc bắt đầu hơi thở vào, ta chỉ  cần cố gắng theo dõi trọn vẹn suốt một hơi thở vào đó thôi. Mặc dù cũng  không dễ, nhưng ít ra ta có thể làm được. Và rồi, lúc bắt đầu hơi thở  ra, ta chỉ cần cố gắng theo dõi trọn một hơi thở ra đó thôi, từ đầu cho  đến cuối. Bạn sẽ liên tục thất bại, nhưng hãy kiên trì thực tập.
  Mỗi lần bạn vấp ngã, hãy bắt lại từ đầu. Mỗi lần chỉ có một hơi thở.  Thực tập như thế bạn sẽ thành công. Hãy giữ như vậy - mỗi lần bắt đầu  lại là một hơi thở mới, một đơn vị thời gian nhỏ. Quán sát mỗi hơi thở  cho thật chu đáo và chính xác, trong mỗi sát-na là một quyết tâm mới.  Được như vậy ta sẽ có một chính niệm liên tục và không gián đoạn.
  Chính niệm về hơi thở là một ý thức có mặt trong giờ phút hiện tại. Khi  thực hành đúng đắn, ta chỉ ý thức về những gì đang xảy ra trong giây  phút này mà thôi. Bạn không nhìn lại phía sau, cũng không nhìn về phía  trước. Bạn quên đi hơi thở vừa rồi, và cũng không mong chờ hơi thở kế  tiếp. Khi hơi thở vào vừa bắt đầu, bạn không nhìn tới trước, chờ nó chấm  dứt. Bạn cũng không vội nhảy sang hơi thở ra kế tiếp. Bạn có mặt ngay  với những gì đang thật sự xảy ra trong giờ phút này. Hơi thở vào đang  bắt đầu, và đó là điều bạn đang chú ý, ngoài ra không còn có gì khác  nữa.
  Phương pháp thiền tập này giúp ta đào luyện lại tâm mình. Trạng thái bạn  muốn đạt đến là hoàn toàn ý thức được tất cả những gì đang xảy ra trong  vũ trụ nhận thức của mình: chúng thật sự xảy ra như thế nào, vào lúc  nào... Một chính niệm hoàn toàn không gián đoạn trong giờ phút hiện tại.  Thật ra, đây là một mục tiêu rất cao xa, và ta không thể nào đạt đến  trong một lần. Nó đòi hỏi một công phu luyện tập, vì vậy ta cần phải bắt  đầu bằng những bước đi nhỏ. Chúng ta bắt đầu bằng cách giữ chính niệm  hoàn toàn trong một đơn vị thời gian nhỏ, chỉ cần trong một hơi thở vào.  Và khi bạn thành công rồi, sự sống của bạn sẽ là một sự chuyển hóa lớn.