Thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giờ và công sức. Nó cũng đòi hỏi một sự  chịu đựng bền bỉ và kỷ luật. Tóm lại, thiền tập đòi hỏi ở ta những phẩm  chất mà thông thường ta vẫn cho là không có gì thú vị và nếu có thể thì  luôn muốn tránh né. Ta có thể nói rằng thiền tập đòi hỏi ở ta một dũng  lực. Ngồi thoải mái trên chiếc ghế bành để xem ti vi có phải là dễ dàng  và thú vị hơn không? Thế thì tại sao ta lại cần phải ngồi thiền? Tại sao  ta lại phải bỏ phí bao nhiêu là thời giờ và công sức của mình, trong khi  ta có thể ngồi đó hưởng thụ được bao nhiêu là những sự vui thú khác? Tại  sao thế? 
  Giản dị lắm! Vì chúng ta là con người. Và vì sự thật rằng chúng ta là  con người, nên ta đã tự nhiên thừa hưởng cái tính chất bất toại nguyện  của cuộc sống, và nó sẽ không bao giờ tự mất đi. Bạn có thể đè nén cảm  giác bất mãn ấy trong giây lát, bạn có thể chối bỏ nó trong một vài giờ,  nhưng rồi chắc chắn nó sẽ trở lại, và thường khi là vào những lúc bất  ngờ nhất. Sẽ có một giây phút nào đó, đột nhiên bạn giật mình tỉnh dậy,  nhìn lại những gì mình đang có và thấy rõ được tình trạng của chính  mình.
  Trong giây phút ấy, đột nhiên ta nhận thấy mình đã bỏ ra trọn cuộc đời,  mà thật sự chỉ là mới cố gắng để sống. Ta lúc nào cũng gắng giữ một bề  ngoài tốt đẹp. Ta cố gắng để giải quyết mọi vấn đề và giữ cho mình lúc  nào cũng có vẻ tươi vui. Nhưng vào những lúc thất vọng, những khi ta cảm  thấy mệt mỏi và chán nản, ta lại chỉ muốn giữ kín cho riêng mình. Trong  ta là một nỗi cô đơn, buồn chán, và ta biết rất rõ điều ấy. Nhưng chúng  ta giấu rất kín và rất tài. 
  Thật ra, sâu kín trong tâm hồn, ta tin rằng phải có một cái gì đó tốt  đẹp hơn, một lối sống hạnh phúc hơn, một cái nhìn cao rộng hơn, một con  đường mà ta có thể tiếp xúc được với sự sống này trọn vẹn hơn. Và thỉnh  thoảng ta cũng có cơ hội nếm được cái hương vị ấy: khi ta tìm được một  công việc tốt, khi ta biết yêu, khi ta thắng cuộc... Trong những giây  phút ấy tất cả bỗng nhiên thay đổi. Cuộc sống này dường như tươi sáng  hơn, có ý nghĩa hơn, khiến những muộn phiền và buồn tẻ hằng ngày đều tan  biến mất. Trong giây phút ấy dường như tất cả đều thay đổi và ta tự nhủ:  “Bây giờ là được rồi đó, mình sẽ là một người hoàn toàn có hạnh phúc.”  Nhưng rồi những giây phút ấy chỉ thoáng qua, như một làn sương mờ trong  buổi sáng sớm. Ta chỉ còn lại chút ký ức nhỏ nhoi và một ý thức mơ hồ  rằng cuộc đời này dường như có một sự bất an nào đó.
  Chúng ta có cảm giác rằng cuộc đời này phải có một cái gì đó sâu sắc  hơn, ý nghĩa hơn, nhưng sao mình vẫn không thấy được. Ta cảm thấy như  mình bị chia cắt. Ta cảm thấy như mình bị cô lập. Ta không tiếp xúc được  với sự sống đang thật sự có mặt quanh mình. Nhưng rồi những thao thức  đó, những ý nghĩ đó cũng phai mờ đi, và ta lại trở về với thực trạng cũ.  Cảm xúc trong cuộc đời cũng giống như một chuyến xe dạo chơi qua vùng  đồi núi, ta mất nhiều thời gian ở phía dưới con dốc mong chờ, ao ước  những giây phút được lên trên đỉnh cao.
  Như vậy thì ta có vấn đề gì đây? Tại sao mình lại là như thế này? Thật  ra thì ta không có một vấn đề gì hết. Ta chỉ là một con người, thế thôi!  Ta mang một chứng bệnh chung của cả nhân loại. Trong mỗi người chúng ta  có một con quái thú với nhiều cánh tay dài, chúng là sự căng thẳng tinh  thần, thiếu tình thương chân thật đối với kẻ khác, ngay cả những người  gần gũi với mình nhất, những cảm xúc đóng kín và sự khô cằn tình cảm.  Con quái thú ấy có nhiều, rất nhiều cánh tay, và chúng ta không ai có  thể thoát được nó. Ta có thể chối bỏ nó. Ta có thể cố gắng đè nén nó.  Chúng ta còn xây cả một nền văn hóa để tự bảo vệ mình, để núp phía sau  đó và giả vờ như mọi việc đều bình thường. Chúng ta tự tìm sự xao lãng  trong những mục đích, qua các dự án, và những lo toan về địa vị của mình  trong xã hội. Nhưng con quái thú ấy vẫn có mặt. Trong mỗi ý nghĩ, mỗi  suy tưởng của ta, lúc nào cũng có một giọng nói nhỏ xen vào: “Như vậy  cũng chưa đủ. Cần phải có thêm nữa. Cần phải làm cho tốt hơn nữa. Phải  gắng được thêm nữa.” Nó là một con quái thú, một con quái thú có mặt ở  khắp mọi nơi, biểu hiện qua những hình dạng rất tinh tế.
  Bạn đi đến một buổi tiệc, lắng nghe những tiếng cười giòn tan biểu lộ một  sự vui thú bên trên, và một nỗi sợ hãi nằm phía dưới. Cảm thấy một sự  căng thẳng, đè nén. Không có một ai là thật sự thoải mái. Tất cả mọi  người đều giả tạo. Bạn đi đến xem một trận đá banh, nhìn những khán giả  trên các hàng ghế, nhìn những cơn nóng giận bộc phát, nhìn những tức  tối, bực dọc xuất phát từ mọi người, nhưng được trá hình dưới danh nghĩa  của sự hâm mộ, hăng hái, tinh thần ủng hộ đội nhà. Những la ó, lăng mạ,  tự tôn núp dưới danh xưng của sự trung thành với đội mình, say rượu,  đánh nhau - tất cả chỉ là những cách để người ta giải tỏa sự căng thẳng  của mình. Họ là những người bên trong có rất nhiều bất an. Xem tin tức  trên ti vi, lắng nghe những lời ca của các bài nhạc đang thịnh hành, bạn  sẽ thấy tất cả đều đang lặp đi lặp lại cùng những đề tài: ghen tỵ, khổ  đau, bất mãn và căng thẳng.
  Sự sống dường như là một cuộc tranh đấu không ngừng nghỉ, một nỗ lực  chống lại những nghịch cảnh. Và giải pháp của chúng ta là gì? Chúng ta  tự than vãn: “Nếu như... phải chi...” Nếu như tôi có nhiều tiền hơn, tôi  sẽ có hạnh phúc... Phải chi tôi tìm được một người thật sự yêu mình...  Phải chi tôi sụt đi chừng mười kí... Phải chi tôi có một cái ti vi màu,  một bồn tắm nước nóng, một mái tóc cong... và danh sách ấy sẽ không bao  giờ chấm dứt. Nhưng những cái đó phát xuất từ đâu? Và quan trọng hơn  nữa, chúng ta có thể làm gì được với chúng? Chúng phát xuất từ những đòi  hỏi trong chính tâm thức của chúng ta. Đó là những thói quen tâm lý đã  ăn sâu từ lâu đời, rất tinh tế khó nhận biết và chi phối khắp cả, cũng  giống như một gút mắc được dần dà cột thắt bởi nhiều mối thật chặt, và  bây giờ cũng vậy, muốn mở ra thì ta cũng phải biết từ từ tháo gỡ từng  mối một. Chúng ta cần thắp lên ngọn đèn của ý thức, vớt lên từ chiều sâu  tâm thức từng mảnh vụn nhỏ, và mang ra đặt dưới ánh sáng của chính niệm.  Chúng ta có thể làm cho vô thức trở thành ý thức, thật từ tốn, mỗi lần  một chút.
  Bản chất mọi kinh nghiệm của chúng ta là sự thay đổi. Sự thay đổi ấy  không bao giờ ngừng nghỉ. Trong mỗi giây, mỗi phút, sự sống trôi chảy và  biến đổi liên tục, không bao giờ đứng yên. Chính sự chuyển biến không  ngừng ấy là bản chất của vũ trụ tri giác này. Một tư tưởng khởi lên và  chưa đến nửa giây, nó đã biến mất. Rồi một tư tưởng khác khởi lên, rồi  cũng biến mất... Một âm thanh chạm vào tai ta, rồi thinh lặng. Mở mắt  ra, cả thế giới tuôn tràn vào trong; nhắm mắt lại và tất cả mất hết. Có  những người đã đến và đi trong đời ta. Bạn bè rời xa, người thân mất đi.  Thời vận của ta lên rồi lại xuống. Đôi khi ta thắng, nhưng thường hơn là  thua. Tất cả là một sự biến chuyển bất tận: đổi thay, đổi thay và đổi  thay. Không bao giờ có hai giây phút giống hệt nhau!
  Nhưng thật ra thì không có gì là vấn đề với việc ấy hết. Tự tính của vũ  trụ này là vậy. Nhưng có điều là văn hóa nhân loại đã dạy cho chúng ta  có một phản ứng khá kỳ cục đối với sự thay đổi này. Chúng ta phân loại  những kinh nghiệm đã qua. Khi có bất cứ một nhận thức, một sự đổi thay  nào xảy ra, chúng ta tự động bỏ nó vào một trong ba hộc tủ khác nhau:  tốt, xấu hoặc trung hòa. Và tùy theo việc ta xếp nó vào hộc tủ nào mà ta  sẽ có những phản ứng tương ứng với nó. Nếu đó là một nhận thức được ta  cho là tốt, ta sẽ cố gắng níu kéo cho thời gian dừng lại. Ta nắm bắt, ôm  cứng lấy nó, không cho nó thoát đi. Và khi ta biết rằng mình không thể  giữ được nó mãi, ta sẽ tìm đủ mọi cách để mang lại kinh nghiệm nào đã  khơi dậy nhận thức ấy. Chúng ta hãy gọi thái độ tâm lý này là “nắm giữ”.
  Và hộc tủ kế bên được dán nhãn hiệu là “xấu”. Khi ta nhận diện điều gì  đó là xấu, ta sẽ xô đẩy nó đi. Chúng ta cố gắng chối bỏ nó, xa lánh nó,  xua đuổi nó bằng đủ mọi cách. Thật ra là chúng ta đang chống cự lại kinh  nghiệm của chính mình. Chúng ta đang chối bỏ một phần của chính ta.  Chúng ta hãy gọi thái độ tâm lý này là “xua đuổi”. 
  Và giữa hai thái độ ấy là một hộc tủ thứ ba: “trung hòa.” Trong hộc tủ  này, chúng ta bỏ vào những kinh nghiệm nào mà ta nhận thấy không tốt  cũng chẳng xấu. Những gì ta cảm thấy là nhạt nhẽo, nhàm chán, hoặc vô  vị. Chúng ta xếp những kinh nghiệm ấy vào hộc tủ này để ta có thể quên  đi, và mang sự chú ý của mình trở về với những gì là lý thú hơn. Nói một  cách khác, ta trở lại chạy theo vòng quay bất tận của những sự thương và  ghét. Và vì vậy, những kinh nghiệm “trung hòa” này bị chúng ta bỏ qua,  không hề lưu ý đến. Ta hãy gọi thái độ này là “bỏ lơ.” 
  Và kết quả trực tiếp của những thái độ điên rồ này là ta như một người  chạy trên chiếc máy tập chạy, cứ chạy mãi mà chẳng đi đến đâu cả! Mỗi  khi có điều gì ưa thích thì ta tìm cách nắm giữ, gặp điều gì khó chịu  thì ta xua đuổi, và bỏ lơ đi gần 90 phần trăm những kinh nghiệm còn lại  của đời mình. Và rồi chúng ta lại tự hỏi: vì sao cuộc đời này lại quá vô  vị đến thế? Nói tóm lại, thái độ phản ứng máy móc đó của chúng ta sẽ  không thể nào mang lại cho mình sự hạnh phúc.
  Cho dù bạn có nỗ lực theo đuổi những thú vui và thành đạt đến đâu, rồi  cũng có lúc bạn sẽ gặp thất bại. Cho dù bạn có chạy trốn nhanh và khôn  khéo đến đâu, sẽ có lúc khổ đau bắt kịp bạn. Và giữa những giai đoạn đó,  cuộc sống này nhàm chán đến độ bạn có thể thét lên được. Tâm ta chứa đầy  những phê bình và thành kiến. Chúng ta tự xây lên cho mình những bức  tường kiên cố để bảo vệ, và rồi vô tình tự giam mình vào ngôi nhà tù làm  bằng những ưa thích và ghét bỏ của chính ta. Và ta khổ!
  Khổ là một danh từ rất to tát trong đạo Phật. Đây là một ý niệm quan  trọng mà chúng ta cần phải hiểu thật rõ. Chữ dùng trong tiếng Pa-li là  dukkha, và nó không chỉ có nghĩa là sự đau đớn, dày vò của thân xác mà  thôi. Nó còn mang một ý nghĩa thâm sâu, tinh tế hơn về một cảm giác bất  toại nguyện của mỗi ý tưởng, mà chúng là kết quả trực tiếp của những  phản ứng máy móc của ta. 
  Bản chất của sự sống là khổ, dukkha, đức Phật dạy thế. Mới nghe qua thì  có vẻ như rất bi quan và chán đời. Mà dường như cũng không hoàn toàn  đúng với sự thật nữa. Dầu sao thì cuộc sống này cũng đâu có thiếu gì  những giây phút mà mình cảm thấy vui thú, phải thế không bạn? Nhưng  không, sự thật không phải vậy. Nó chỉ có vẻ là như vậy mà thôi. 
  Bây giờ bạn hãy thử chọn ra một giây phút nào đó mà bạn nghĩ là mình  thật sự cảm thấy hài lòng nhất, rồi nhìn kỹ lại đi. Bên dưới niềm vui  ấy, bạn sẽ thấy có một sự căng thẳng, muộn phiền, biết rằng cho dù giây  phút này có trọn vẹn đến đâu, rồi nó cũng sẽ chấm dứt. Cho dù bạn có thu  đạt được nhiều đến đâu chăng nữa, chắc chắn rồi bạn cũng sẽ đánh mất đi,  hoặc bỏ hết ngày tháng còn lại để bảo vệ những gì mình có và tính toán  làm sao để được nhiều hơn nữa. Nhưng cuối cùng cuộc đời bạn sẽ còn lại  gì? Cái chết! Cuối cùng rồi ta cũng phải buông bỏ hết tất cả. Tất cả chỉ  là tạm bợ mà thôi!
  Nghe có vẻ bi đát quá bạn nhỉ? Nhưng may mắn thay, sự thật không phải  vậy. Nó chỉ bi đát nếu ta nhìn bằng con mắt của cuộc đời, một cái nhìn  chỉ có sự nắm giữ hoặc xua đuổi. Nhưng chúng ta còn có một cách nhìn  khác nữa. Với cách nhìn này, chúng ta không cần phải bắt thời gian dừng  lại, không cần phải nắm bắt một kinh nghiệm nào trôi qua, và cũng không  cần phải ngăn chặn hoặc bỏ lơ trước bất cứ một kinh nghiệm nào khác. Nó  là một mức độ kinh nghiệm nằm trên những ý niệm về tốt và xấu, vượt lên  trên sự vui sướng và đớn đau. Cách nhìn ấy về cuộc đời là một cách nhìn  rất nhiệm mầu, và ta có thể học tập được. Lẽ dĩ nhiên không phải là dễ,  nhưng ta có thể làm được.
  Hạnh phúc và an vui là những vấn đề trọng đại của con người. Đó là những  gì chúng ta đang thật sự tìm kiếm. Nhưng thật ra rất khó mà thấy được  điều đó, vì cái ước mơ căn bản ấy thường bị che lấp bởi tầng tầng lớp  lớp những mong muốn trên bề mặt. Chúng ta mong muốn nhiều thực phẩm, sự  giàu sang, sắc dục, thú vui, danh vọng... Nhiều khi ta còn nghĩ rằng ý  niệm về “hạnh phúc” trừu tượng quá. “Tôi là một con người rất thực tế.  Cho tôi đủ tiền bạc, tôi sẽ mua được hết những hạnh phúc mà tôi cần.”  Điều không may là chuyện ấy không thể nào có được! 
  Bạn hãy thử nhìn cho sâu sắc về mục đích của những mong muốn đó, bạn sẽ  thấy rằng chúng rất là nông cạn. Bạn muốn có thực phẩm. Để làm gì? “Vì  tôi đói.” Bạn đói à, vậy thì sao? “Thì nếu tôi ăn, tôi sẽ hết đói. Và  khi hết đói thì tôi sẽ cảm thấy dễ chịu.” À, thì ra là vậy! Bạn muốn  được cảm thấy “dễ chịu”: đây mới chính là lý do chân thật! Những gì  chúng ta mong muốn không nằm trong những mục đích trên bề mặt, vì đó chỉ  là những phương tiện dẫn ta đến cứu cánh mà thôi. Cái mà ta thật sự tìm  kiếm là cái cảm giác nhẹ nhõm theo sau, khi mong muốn của mình đã được  thỏa mãn. Một cảm giác nhẹ nhàng, thư thả, không còn bị căng thẳng nữa.  Hạnh phúc và an vui - khi không còn những khát khao.
  Thế thì hạnh phúc này là gì? Đối với phần lớn chúng ta thì ý niệm về sự  hạnh phúc hoàn toàn là có được tất cả những gì mình muốn và có khả năng  kiểm soát được tất cả, được làm một vị chủ tể có thể bắt cả thế giới này  phải nhảy múa theo mỗi sở thích của riêng mình. Nhưng cũng thế, chuyện  ấy cũng không thể nào có được. Hãy thử nhìn lại lịch sử của thế giới,  bạn sẽ thấy thật ra cũng có những người có được quyền uy rộng lớn như  thế, nhưng họ không hề là những người có hạnh phúc. Chắc chắn một điều  là họ không có được sự an vui với chính mình. Tại sao thế? Vì họ có khát  vọng muốn làm bá chủ thế giới này một cách tuyệt đối, và họ không thể  nào làm được việc ấy! Họ muốn kiểm soát tất cả mọi người, nhưng vẫn còn  có những nguời không bị kiểm soát. Họ không thể kiểm soát được những vì  sao trên trời. Mưa vẫn rơi, mây vẫn bay, lá vẫn rụng. Họ vẫn ngã bệnh.  Họ vẫn phải chết!
  Ta không bao giờ có thể có được tất cả những gì mình muốn. Đó là chuyện  không thể được. Nhưng may thay, ta vẫn có một sự lựa chọn khác. Ta có  thể học cách làm chủ được tâm ý của mình, bước ra ngoài vòng xoay bất  tận của sự ham muốn và ghét bỏ. Ta có thể thực tập trừ bỏ sự ham muốn,  nhận diện những tham vọng nhưng không bị chúng sai khiến. Nhưng điều ấy  không có nghĩa là từ nay chúng ta sẽ nằm xuống giữa đường, và để mặc cho  ai cũng có thể bước ngang qua chà đạp. Điều ấy chỉ có nghĩa là ta vẫn  tiếp tục sống đời sống bình thường của mình, nhưng với một cái nhìn hoàn  toàn mới mẻ. Chúng ta vẫn làm những gì mà một người bình thường phải  làm, nhưng ta có tự do, không bị thúc đẩy, lôi cuốn bởi những ham muốn  của mình. Ta có thể muốn một cái gì đó, nhưng không phải đeo đuổi theo  nó. Ta có thể sợ hãi một điều gì, nhưng không cần phải đứng đó mà run  rẩy. Thái độ ấy không phải là dễ. Nó đòi hỏi rất nhiều năm tháng thực  tập. Nhưng ta biết rằng cố gắng kiểm soát hết mọi việc trên đời này là  một chuyện không thể nào có được. Thế thì giữa hai cái, cái khó làm vẫn  còn hơn là cái không thể làm được.
  Nhưng mà, hãy khoan cái đã! Hạnh phúc và an vui, có phải đó là mục tiêu  nhắm đến của nền văn minh chúng ta chăng? Chúng ta xây những tòa nhà  chọc trời và những xa lộ. Chúng ta có những tháng nghỉ hè được trả  lương, những chiếc ti vi màu... Chúng ta có nhà thương miễn phí, những  ngày nghỉ bệnh, an ninh xã hội và lợi dưỡng chung. Tất cả những cái đó  nhằm mục đích mang lại cho chúng ta một mức độ hạnh phúc và an vui nào  đó. Nhưng dù vậy, số bệnh nhân tâm thần trong xã hội vẫn mỗi ngày một  nhiều và con số người phạm pháp mỗi ngày một tăng nhanh hơn. Đường phố  đầy dẫy những cá nhân bạo động và thiếu quân bình. Đưa tay ra khỏi cửa  nhà mình, bạn có thể bị ai đó lột mất đi chiếc đồng hồ mà không hay! Có  điều gì đó không được ổn cho lắm. Một người hạnh phúc không bao giờ trộm  cắp. Một người có an lạc không bao giờ biết bạo động. Ta muốn tin rằng,  xã hội chúng ta đã tận dụng hết mọi lĩnh vực của kiến thức con người để  đạt đến mục tiêu an lạc và hạnh phúc, nhưng sự thật không phải thế.  
  Chúng ta chỉ mới bắt đầu ý thức rằng, mình đã phát triển khía cạnh vật  chất của sự sống quá độ, chúng ta sẵn sàng hưởng thụ nó trên sự sống tâm  linh và tình cảm của mình. Và bây giờ chúng ta đang phải trả giá cho  việc làm đó. Nói là một chuyện, và thật sự làm một cái gì đó để sửa đổi,  lại là một chuyện khác. Nơi bắt đầu phải là từ bên trong chính mỗi người  của chúng ta. Bạn hãy thử quay lại nhìn vào trong chính mình cho sâu  sắc, một cách chân thật và khách quan. Bạn sẽ thấy rõ, chính ta cũng có  những giây phút mà “Tôi chính là kẻ phạm pháp” và “Tôi chính là người  điên rồ.” Và khi ta có thể nhận diện được chúng một cách rõ rệt, vô tư,  và không phê phán hoặc trách móc, chúng ta mới có cơ hội để bước ra khỏi  được.
  Và chúng ta sẽ không thể nào thay đổi được bất cứ một điều gì của mình  hết, trừ khi ta nhìn thấy được con người thực của mình, ngay trong giờ  phút này. Chừng ấy sự chuyển hóa sẽ xảy ra một cách rất tự nhiên và trôi  chảy. Bạn không cần phải nỗ lực hoặc tuân phục theo một uy quyền nào bắt  buộc bạn hết. Tự động bạn sẽ thay đổi. 
  Nhưng làm sao để ta vẫn có thể giữ được cái tuệ giác ban đầu ấy, đó mới  là vấn đề khó! Bạn phải nhìn thấy được mình là ai, và như thế nào, một  cách chân thật, không thành kiến, và không chối bỏ. Bạn phải thấy được  chỗ đứng và ảnh hưởng của mình trong xã hội. Bạn phải thấy được bổn phận  và trách nhiệm của mình đối với những người sống chung quanh, và hơn nữa  trách nhiệm đối với chính mình như là một cá nhân sống chung với kẻ  khác. Và cuối cùng, bạn phải thấy được rằng hết tất cả những điều ấy  thật ra chỉ là một mà thôi, một cái chung toàn vẹn mà trong đó tất cả  đều có liên hệ mật thiết với nhau. Tuy điều ấy nghe có vẻ rất phức tạp,  nhưng thật ra nó có thể xảy ra trong một chớp mắt. Công năng của thiền  tập có một sức mạnh vô song, nó có thể đem lại cho ta thứ tuệ giác này,  và một hạnh phúc rất tĩnh lặng.
  Kinh Pháp cú (Dhammapada), một quyển kinh rất xưa của đạo Phật có viết:  
  Ý dẫn đầu các pháp, 
  Ý làm chủ, ý tạo; 
  Nếu với ý ô nhiễm, 
  Nói lên hay hành động, 
  Khổ não bước theo sau, 
  Như xe, chân vật kéo . 
  Ý dẫn đầu các pháp,
  Ý làm chủ, ý tạo;
  Nếu với ý thanh tịnh, 
  Nói lên hay hành động,
  An vui bước theo sau, 
  Như bóng, không rời hình 
  (Kệ số 1 và 2, bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu)
  Một khi tử thần đến,
  Không có con che chở,
  Không cha, không bà con,
  Không thân thích che chở.
  Biết rõ ý nghĩa này,
  Bậc trí lo trì giới,
  Mau lẹ làm thanh tịnh,
  Con đường đến Niết bàn. 
  (Kệ số 288, 289, bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu)
   Và thiền tập là một phương pháp giúp ta làm thanh tịnh được tâm ý mình.  Thiền tập giúp ta thanh lọc được tiến trình tư tưởng của ta, giúp ta gạn  bỏ được những chất kích động tâm ý như là tham lam, sân hận và si mê,  những thứ đã từng trói buộc ta bằng sợi dây giam hãm của tình cảm. Thiền  tập sẽ mang tâm ta đến một trạng thái tĩnh lặng và tỉnh thức, một trạng  thái của định và huệ.
  Trong xã hội ngày nay, chúng ta đặt niềm tin rất lớn vào sự giáo dục.  Chúng ta tin rằng học thức có thể làm một người trở nên văn minh hơn.  Nhưng thật ra, văn minh và học thức chỉ đánh bóng phần bên ngoài của con  người mà thôi. Bạn chỉ cần thử đem một người “học thức” và “đáng kính”  ấy ra đối diện với những hoàn cảnh như là căng thẳng trong chiến tranh  hoặc kinh tế suy sụp, và xem người ấy còn “đáng kính” nữa hay không!  Chúng ta tuân theo luật lệ vì không muốn chịu hình phạt và sợ hậu quả là  một chuyện; còn chúng ta tuân theo luật vì mình đã được thanh tịnh,  không còn lòng tham để trộm cắp, hoặc lòng sân hận để giết hại, thì đó  là một chuyện hoàn toàn khác. Thảy một hòn đá xuống dòng suối. Dòng nước  chảy sẽ làm mòn đi bề mặt bên ngoài của hòn đá, nhưng bên trong vẫn y  nguyên. Nung hòn đá ấy trong một lò lửa cho đến khi ta nóng chảy, cả hòn  đá ấy sẽ biến dạng từ trong ra ngoài. Văn minh và học thức chỉ có thể  thay đổi bề ngoài của con người mà thôi. Thiền tập sẽ chuyển hóa con  người một cách toàn diện từ bên trong.
  Thiền tập còn được ví như là một vị thầy lớn. Nó là ngọn lửa tôi luyện  chúng ta, tuy chậm chạp nhưng rất chắc chắn, bằng sự hiểu biết. Khi sự  hiểu biết của chúng ta càng rộng lớn bao nhiêu, thì lòng tha thứ, bao  dung và tâm từ của chúng ta sẽ càng rộng mở bấy nhiêu. Chúng ta sẽ trở  thành như là một bậc cha mẹ gương mẫu hay một vị thầy toàn thiện. Ta sẵn  sàng tha thứ và bỏ qua tất cả. Ta cảm thấy thương yêu tất cả mọi người  vì ta hiểu được họ, và sở dĩ ta có thể hiểu được họ là vì ta hiểu rõ  được chính mình. Chúng ta quay lại nhìn sâu vào chính mình, và ta đã  thấy được những sự giả tạo, những thiếu sót của một con người, cũng như  những giới hạn của kiếp người, và từ đó ta biết tha thứ và thương yêu  tất cả. Khi ta có tâm từ đối với chính mình thì tự nhiên ta sẽ có tâm từ  đối với kẻ khác. Một thiền sinh giỏi sẽ có được sự hiểu biết lớn đối với  sự sống, và từ đó họ sẽ đối xử với cuộc đời này bằng một tình thương sâu  xa, không hề phán xét.
  Thiền tập cũng giống như làm ruộng vậy. Muốn có một thửa đất trống để ta  trồng trọt, trước hết ta phải biết đốn cây và bứng đi hết những gốc rễ.  Rồi sau đó chúng ta mới cày đất, bón phân, gieo hạt, và gặt hái. Đối với  thửa ruộng tâm cũng thế, trước hết chúng ta phải dọn dẹp làm trống đi  hết những yếu tố nào làm trở ngại - ta phải bứng nhổ tận gốc rễ để chúng  không thể nào còn mọc trở lại. Rồi chúng ta bón phân cho mảnh đất tâm:  bằng sự tinh tiến và nỗ lực. Và sau đó, ta gieo xuống những hạt giống  tốt, và gặt hái những hoa trái của niềm tin, giới luật, chính niệm và  tuệ giác.
  Niềm tin và giới luật trong đạo Phật mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Niềm  tin trong đạo Phật không phải là sự tin tưởng vào kinh điển xuất phát từ  một đấng thiêng liêng, hay đức tin vào những giáo lý của một bậc đạo sư  nào đó. Ý nghĩa của niềm tin ở đây gần giống với sự tự tin hơn. Chúng ta  tin đó là sự thật vì chính ta đã thấy, vì tự mình đã kinh nghiệm được  điều ấy. Và cũng thế, giới luật không phải là những nghi thức, những quy  luật được đặt ra bởi một uy quyền nào đó ở bên ngoài. Thật ra giới luật  là những khuôn thước hành động mà ta đã ý thức và tự nguyện hành xử  theo, vì ta biết rằng chúng tốt đẹp và cao thượng hơn lối hành xử bình  thường của mình trong đời sống hằng ngày.
  Mục đích của thiền tập là một sự chuyển hóa tự thân. Cái “tôi” đi vào  bên này của kinh nghiệm thiền tập sẽ không phải là cái “tôi” đi ra phía  bên kia. Thiền tập sẽ thay đổi con người của ta qua một tiến trình nhận  thức sâu sắc về những cảm giác của mình, nó bắt ta ý thức rõ rệt về  những ý nghĩ, lời nói và hành động của ta. Lòng tự tôn sẽ tan biến và  thái độ chống đối của ta cũng sẽ khô cạn đi. Tâm ta sẽ trở nên an tĩnh.  Và cuộc sống cũng được suôn sẻ hơn. Thiền tập có khả năng giúp ta đối  diện với những thăng trầm của cuộc đời một cách dễ dàng hơn. Nó làm giảm  đi những sự căng thẳng, lo lắng và sợ hãi. Những bất an sẽ vơi đi và  những đam mê cũng sẽ nhẹ nhàng hơn. Mọi việc rồi nằm yên vào vị trí của  nó, và cuộc đời của ta sẽ giống với một con thu-yền nhẹ lướt trên một  dòng nước hơn là gập ghềnh trôi qua những con thác. Và tất cả bắt đầu  bằng một sự hiểu biết.
  Thiền tập sẽ giúp cho định lực và tuệ giác của ta ngày được sâu sắc  thêm. Và từ đó, những động cơ thúc đẩy nằm sâu kín trong vô thức, những  phản ứng máy móc của ta, sẽ dần dần bị phơi bày ra. Trực giác của ta sẽ  trở nên bén nhạy hơn xưa. Sự suy nghĩ của ta sẽ chính xác hơn, và dần  dần ta sẽ có thể trực tiếp tiếp xúc được với sự vật chung quanh mình như  bản chất hiện hữu thật sự của chúng - đúng như vậy - không phán xét,  không bị những vọng tưởng làm sai lệch.
  Bấy nhiêu đó lý do liệu đã đủ để trả lời cho ta câu hỏi “vì sao phải  quan tâm đến thiền” hay chưa? Thật ra thì chưa thấm thía gì hết! Dầu sao  thì chúng cũng chỉ là những lý thuyết suông trên giấy mà thôi! Chỉ có  một cách duy nhất giúp bạn có thể biết được thiền có ích lợi gì cho mình  hay không, đó là thực hành, và thực hành cho đúng. Bạn hãy tự chính mình  kinh nghiệm lấy.