Sự cám dỗ đầu tiên –  Sự cám dỗ lần thứ nhì – Vong linh giữ cửa – Nàng chỉ biết yêu – Thiên thần  Adonai – Thư Zanoni gửi Kiềm Mâu – Sự lo ngại của Kiều Dung
  
Sự cám dỗ lần thứ nhất 
  Trong một thời gian rất lâu,  người đệ tử trẻ của Kiềm Mâu dồn tất cả sự chăm chú vào các môn học đòi hỏi một  sự chuyên cần ráo riết với những phép tính tỉ mỉ và tinh vi nhất. Những kết quả  lạ lùng mà anh đạt được đã tưởng thưởng cho những cố gắng và càng kích thích sự  tò mò của anh. 
  Linh Đông lấy làm ngạc nhiên  mà thấy Kiềm Mâu sở trường về khoa thần số bí truyền của môn phái 
Pythagore,  và làu thông tất cả những bí quyết trừu tượng và siêu hình về môn số học. Sự học  hỏi khoa thần số này đã hé mở cho anh thoáng thấy những tia sáng mới lạ độc đáo  về phương pháp cấu tạo vũ trụ và phép vận hành của các tinh tú trong không  gian. Anh cũng bắt đầu nhận thức rằng cho đến các khoa học trừu tượng như khoa  chiêm tinh, thuật số, thuật tiên tri và đoán trước các diễn biến của thời cuộc,  vận mạng các quốc gia, .v.v... cũng đều có nguồn gốc và căn bản sâu xa trong  khoa thần số bí truyền. 
  Nhưng anh cũng nhận thấy rằng  Kiềm Mâu luôn luôn giữ gìn bí mật những điều sở đắc và không chịu tiết lộ cho  anh biết những bí quyết then chốt của khoa học thần bí siêu đẳng này. Khi anh bộc  lộ những suy nghĩ của mình về điều đó thì câu trả lời mà anh nhận được lại có vẻ  nghiêm khắc hơn là làm cho anh thỏa mãn. Kiềm Mâu nói: 
  – Con tưởng rằng ta sẽ trao  cho một người đệ tử sơ cơ chưa từng bị thử thách như con những quyền năng có thể  làm đảo lộn cả thế giới này hay sao? Những bí quyết lợi hại cuối cùng chỉ được  trao cho người đệ tử nào mà tôn sư đã có thể kiểm chứng được đức hạnh của người  ấy một cách mỹ mãn. Con hãy kiên nhẫn chờ đợi. Chính sự chuyên cần học đạo và  trau dồi đức hạnh là sự tinh luyện hiệu quả nhất. Khi tâm hồn con trở nên cứng  cỏi hơn để có thể tiếp nhận được đạo mầu, thì những bí quyết thần diệu sẽ dần dần  được truyền dạy cho con. 
  Sau cùng, Kiềm Mâu tuyên bố  hài lòng về những tiến bộ mà người đệ tử đã thu hoạch được sau một thời gian học  hỏi công phu ráo riết. Ông nói: 
  – Đã sắp đến thời điểm mà con  có thể vượt qua bức rào chướng ngại vô hình, con có thể chuẩn bị dần dần để đương  đầu với “người giữ cửa” ác liệt. Con hãy tiếp tục công phu học hỏi, hãy tiếp tục  luyện đức tính kiên nhẫn và tự chủ lấy mình. Ta có việc phải vắng nhà trong một  tháng. Sau thời hạn đó, khi ta trở về, nếu những công việc ta giao phó cho con  được hoàn thành tốt đẹp, và nếu do sự thiền định công phu tâm hồn con được chuẩn  bị đủ để chịu đựng cuộc thử thách, thì ta hứa với con rằng cuộc thử thách sẽ bắt  đầu. Ta chỉ căn dặn con một điều, và hãy xem đây là một lịnh cấm nghiêm nhặt: Đừng  bao giờ bước vào gian phòng này. 
  Lúc ấy, hai thầy trò đang đứng  trong gian phòng giữa, là nơi mà hằng ngày họ vẫn dùng để thực hiện những cuộc  thí nghiệm khoa học. Đó cũng là nơi mà cách đây không lâu Linh Đông đã suýt bị  nguy khổn khi định mở cửa bước vào. 
  – Đừng bước vào gian phòng  này trước khi ta trở về. Hoặc trong trường hợp cấp bách, nếu con phải vào để lấy  các khí cụ cần dùng cho công việc thí nghiệm, thì chớ nên đốt chất dầu đựng  trong các bình, và chớ mở nút những bình thủy tinh đặt trên kệ. Ta giao cho con  giữ chìa khóa phòng để thử thách đức tánh tự chủ và biết vâng lời của con. Hỡi  đệ tử, sự cám dỗ này cũng là một phần cuộc thử thách đối với con đó. 
  Nói đến đây, Kiềm Mâu đưa  chìa khóa phòng cho Linh Đông và ngay chiều hôm đó ông lên đường. 
  Trong nhiều ngày, Linh Đông đắm  chìm trong công việc sưu tầm, thí nghiệm. Những việc ấy thu hút tất cả khả năng  trí thức của anh. Trí óc anh tập trung hoàn toàn vào những bài toán khó khăn và  trừu tượng đến nỗi anh không còn có thể nghĩ đến vấn đề nào khác. 
  Thời hạn vắng nhà của Kiềm  Mâu chỉ vừa trôi qua được một nửa thì Linh Đông đã hoàn thành hết mọi công việc  của tôn sư giao phó. Trí óc không còn bận bịu vì công việc đòi hỏi sự tập trung  cao độ, nên bây giờ anh có thời giờ nhàn rỗi để suy luận về nhiều điều khác.  Tính chất phiêu lưu và bốc đồng của anh giờ đây bắt đầu bị kích thích bởi lịnh  nghiêm cấm của Kiềm Mâu, và anh thường nhìn một cách tò mò vào cánh cửa gian  phòng bí mật. 
  Anh bắt đầu cảm thấy khó chịu  bực tức vì sự thử thách này, vì anh cho như vậy là quá nhỏ mọn, tầm thường. Những  vách tường của gian phòng mà trước đây anh vẫn làm việc một cách tuyệt đối an  toàn trong đó, nay sao lại có thể là một mối nguy hiểm thật sự? Nếu trong đó có  ma quỷ, thì cũng chỉ là những hình bóng giả tạo mà Kiềm Mâu đã dạy anh phải biết  khinh thường. 
  Tuy vậy, anh vẫn cố gắng  kháng cự lại những đòi hỏi của óc tò mò và lòng kiêu căng. Và để thoát khỏi sự  giày vò, anh bèn rảo bước dạo chơi rất xa trong những vùng núi và thung lũng  chung quanh, cốt lấy sự vận động mệt mỏi của thể xác để dẹp yên những băn khoăn  nghĩ ngợi về tinh thần. 
  Một ngày nọ, trong lúc đi dạo  quanh vùng, anh gặp trong làng một cuộc hội hè long trọng có lễ lạt và chơi bời  vui vẻ. Đó là một cuộc lễ vừa có tính chất dân gian vừa mang sắc thái tôn giáo,  được dân địa phương tổ chức hằng năm. Tề tựu bên ngoài phạm vi một làng ở vùng  núi, những toán dân làng vui nhộn vừa rước lễ xong từ một nhà thờ nhỏ ở làng kế  bên trở về, bèn họp nhau thành từng nhóm, những người già quây quần với nhau một  chỗ để uống rượu, còn những đám người trẻ thì khiêu vũ, đàn hát... Nói chung, tất  cả mọi người đều cùng nhau vui chơi thỏa thích. 
  Cảnh tượng bất ngờ về cuộc sống  vui tươi hồn nhiên đó thật là hoàn toàn trái ngược với sự học hỏi ráo riết và  công phu khổ luyện mà bấy lâu nay anh vẫn theo đuổi như mục đích tối hậu của cuộc  đời mình. Điều này làm cho anh bị dao động và bức rức trong lòng. 
  Trong khi đứng ngẩn ngơ một  mình để ngắm nhìn cảnh tượng ấy, Linh Đông cảm thấy anh vẫn còn rất trẻ. Tất cả  những gì mà anh đã vui lòng hy sinh một cách tự nguyện trước đây, nay nghĩ lại  bỗng lấy làm vô cùng hối tiếc. Hình bóng các thôn nữ tràn đầy nhựa sống nhẹ  nhàng lướt qua lượn lại trước mặt anh trong những bộ y phục xinh đẹp, màu sắc sặc  sỡ, và những chuỗi cười giòn giã vui tươi của họ vang lên trong không khí êm đềm  tươi mát của một ngày mùa thu như làm thức động trong tâm hồn anh những hình ảnh  vui vẻ trẻ trung của một thời quá khứ, khi mà đối với anh sống chỉ có nghĩa là  thụ hưởng. 
  Vô tình, Linh Đông đã từ từ  bước đến gần đám đông lúc nào không hay. Một nhóm trẻ cười nói ồn ào ôm nhau  xoay tít chung quanh anh, rồi thình lình bác Phao Lồ bỗng từ đâu bước tới vỗ nhẹ  trên vai anh và nói với một giọng thân mật: 
  – A! Chào tiên sinh! Chúng  tôi rất vui mừng mà được tiên sinh hạ cố đến đây! 
  Linh Đông vừa định đáp lại  thì nhìn thấy dựa bên cánh tay Phao Lồ là một thiếu nữ có khuôn mặt đẹp mê hồn.  Cái nhìn của cô gái ấy làm cho anh bất giác ửng hồng đôi má và tim đập mạnh.  Đôi mắt nàng chiếu long lanh một tia sáng vui tươi có vẻ nghịch ngợm và cuồng  nhiệt, đôi môi hé mở để lộ hàm răng trắng đều như ngọc trai, và bàn chân nàng  dường như nhún nhẩy theo nhịp điệu tiếng nhạc khiêu vũ vọng lại từ xa. 
  Phao Lồ mỉm cười khi nhìn thấy  Linh Đông lộ rõ vẻ say đắm vì ảnh hưởng ru hồn của cô thôn nữ. Ông ta nói: 
  – Tiên sinh có muốn khiêu vũ  chăng? Thôi, hãy gác bỏ mọi lễ nghi kiểu cách và hay vui đùa cho thỏa thích với  chúng tôi. Tiên sinh hãy xem kìa, cô Phi Lịch xinh đẹp của chúng ta đang mong mỏi  có một chàng kỵ mã. Tiên sinh hãy chiếu cố đến nàng một chút đi! 
  Nghe đến đây, cô thôn nữ tên  Phi Lịch làm ra vẻ hờn dỗi, buông tay Phao Lồ ra rồi bỏ đi vài bước, nhưng còn  ngoảnh đầu nhìn lại phía sau với một dáng điệu nửa như thách thức nửa như mời mọc.  
  Một cách gần như vô ý thức,  Linh Đông bước lại gần nàng và lên tiếng nói chuyện với nàng... Phải, anh đã  nói chuyện với nàng! Nàng cúi mặt xuống nghe và mỉm cười. Phao Lồ để cho hai  người đứng riêng với nhau và đi ra chỗ khác với một vẻ mặt thích thú và đồng  lõa. 
  Phi Lịch bấy giờ mới bắt đầu  nói và ngẩng mặt lên nhìn Linh Đông với cặp mắt dò hỏi. Linh Đông lắc đầu. Phi  Lịch cười, và chuỗi cười giòn giã của nàng nghe trong như tiếng hạc! Nàng đưa  ngón tay chỉ một chàng trai miền núi trẻ đẹp đang lững thững vừa hát vừa đi về  phía nàng. Tại sao Linh Đông lại cảm thấy ghen tức? Và tại sao khi nàng nói  chuyện thì anh không còn lắc đầu quầy quậy như trước nữa? Anh đưa tay ra mời  nàng. Phi Lịch thẹn thùng, cặp má bừng đỏ hây hây, và rồi nắm bàn tay ấy một  cách do dự như còn muốn làm duyên... Có thể như vậy được sao? Thế là hai người  đã chen chân vào điệu khiêu vũ quay cuồng của đám người trẻ tuổi náo động ồn  ào. 
  À, à! Có thế chứ! Như vậy chẳng  hay hơn là ngồi suốt ngày để phân tích dược tính của các loài cây cỏ, và tính  toán đến vỡ óc về khoa thần số của 
Pythagore hay sao? Chà, chà! Phi Lịch  có những bước nhảy thật nhẹ nhàng thay! Và thân hình uyển chuyển của nàng cũng  thật gọn thay trong vòng tay của chàng!
 Tàra rá, tàra rá, tara rà tàrà... Trong nhịp điệu của tiếng kèn có một sức thúc đẩy quyến rũ lạ thường, làm cho  người ta cảm thấy như gân cốt toàn thân muốn tung lên nhịp nhàng như có gắn lò  xo! À, mà có ai có cặp mắt đẹp giống như của Phi Lịch chăng? Cặp mắt ấy tình tứ  xiết bao, không giống chút nào với cái nhìn giá lạnh của những ngôi sao chiếu  xuống tòa lâu đài trên núi! Trái lại, hai ngôi sao trong mắt nàng chói rạng và  linh động thay, mạnh mẽ thay và cũng ấm áp thay! Và cái miệng hồng thắm này, với  cặp môi mọng nước hơi xếch lên một cách làm dáng, dường như sẵn sàng đón nhận  những nụ hôn nồng ấm hơn là để mất thời giờ nói những câu chuyện vô vị bâng  quơ! 
  Ôi! Hỡi người đệ tử của đạo  sư Kiềm Mâu! Anh đã ôm mộng trở nên một đạo đồ của phái Hồng Hoa, một 
Platon của nhân loại, một bậc siêu nhân vĩ đại, và còn gì gì nữa... Nhưng thế là xong!  Còn đâu những cơn thiền định công phu, với cuộc sống khắc khổ đạm bạc, theo  gương những bậc đạo trưởng huyền môn của thời cổ xưa? Phải chăng vì những điều  đó mà anh đã từ bỏ Kiều Dung? Nhưng bây giờ thì người ta có thể đánh cuộc rằng  anh không còn nghĩ gì đến kim đơn linh dược và kinh 
Kabalah nữa! Hãy coi  chừng nhé! Ô kìa! Anh đang làm gì đó? Tại sao anh xiết cái bàn tay xinh xắn mềm  mại kia trong tay anh chặt đến thế? Tại sao? 
Tàra rá, tàra rá, tara ràtàrà! Thôi chứ! Đừng ngắm nhìn những cổ chân thon thon và bộ ngực căng phồng đầy nhựa  sống dưới lớp áo lót màu đỏ thắm kia nữa chứ? 
Tàra rá, tàra rá, tara ràtàrà!...  
  Hai người đã rời khỏi cuộc  khiêu vũ, đi ra xa và ngồi nghỉ dưới một tàn cây lớn. Cuộc vui cuồng loạn náo  nhiệt đã khuất dạng, họ chỉ còn nghe thấy những tiếng cười vọng lại từ đằng xa.  Họ cũng còn nhìn thấy được từ xa từng cặp nam nữ nối tiếp nhau lướt qua, trao đổi  những lời nói yêu đương và những cái nhìn âu yếm. Nhưng thật tình mà nói, trong  khi họ ngồi dưới gốc cây và mặt trời xa xa đang dần khuất núi thì họ không còn  muốn nhìn hoặc nghe thấy gì hơn là... chính họ!... Ngay khi đó thì giọng nói của  Phao Lồ vang lên rất gần: 
  – A! Thưa tiên sinh, ông có  hài lòng về cô vũ nữ của ông không? Hãy ngồi lại cùng bàn ăn với chúng tôi. Sau  bữa rượu, chúng ta sẽ khiêu vũ vui nhộn hơn nữa. 
  Mặt trời đã khuất bóng sau  dãy núi, trăng thu đang từ từ nhô lên. 
Tàra rá, tàra rá, tara ràtàrà! Lại  tiếng nhạc vang lên nữa! Đó là cuộc khiêu vũ, hay là một màn tiêu khiển còn vui  nhộn hơn, say sưa hơn, rừng rú hơn nữa? Trong màn đêm dưới ánh trăng mờ dịu, những  bóng người ẩn hiện chập chờn trong một điệu vũ tân kỳ, trông thật huyền ảo mê  ly! A ha! Đó là vũ điệu 
Tarentella. Phao Lồ có vẻ như là tay quán quân  nhảy vũ điệu này. Ha ha! Đem rượu thêm ra đây! Đêm nay phải nhảy thật hết mình  hay là chết! Đây là một điệu vũ thác loạn, dẫu cho những cuộc lễ nửa đêm của bọn  phù thủy ở 
Benevento cũng không thể sánh kịp! 
  Vầng trăng lướt bóng từ cụm  mây này sang cụm mây khác, khi mờ khi tỏ. Linh Đông đã cảm thấy ngây ngất,  choáng váng lúc chia tay: 
  – Phi Lịch! Cô thật là một kỳ  nữ! 
  – Chúc tiên sinh một đêm yên  giấc, chúng ta sẽ gặp lại nhau một lần khác! 
  Đến đây, một ông lão già lụm  cụm, lưng còng, tay chống gậy, chợt bước tới và nói: 
  – A! Hỡi người trai trẻ! Hãy  tận hưởng tuổi thanh xuân! Tôi cũng vậy, khi xưa tôi cũng từng có được một kỳ nữ  như Phi Lịch. Thời ấy tôi còn đẹp trai hơn anh nữa! Than ôi, ước gì ta có thể  trẻ mãi! 
  Trẻ mãi ư! Linh Đông chợt  rùng mình khi nhìn gương mặt tươi đẹp của người sơn nữ rồi bất giác quay sang  chỗ khác, vì anh đang hình dung được rằng gương mặt ấy rồi có ngày cũng sẽ tàn  tạ như hình ảnh suy nhược của ông lão. 
  Lão già lại bước đi khấp khểnh  với cây gậy chống, và nói với một chuỗi cười quái ác:
  – Ha ha! Phải đó, tôi cũng vậy!  Tôi cũng đã có một thời trai trẻ! Anh hãy cho tôi một đồng lẻ mua rượu uống  chơi. 
  Điệu kèn lại tiếp tục  trỗi lên. Đằng xa, bọn trẻ vẫn nhảy múa một cách hăng say. Họ sẽ khiêu vũ suốt  đêm cho đến sáng! 
  
Sự cám dỗ lần thứ hai 
  Khi Linh Đông về đến phòng  mình thì trời đã sắp sáng. Những bài toán trừu tượng còn bỏ dở trên bàn. Vừa liếc  nhìn qua anh đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Nhưng than ôi! Nếu người ta có thể  trẻ mãi! Anh nhớ lại hình ảnh già nua lụm cụm và suy nhược của ông lão mà đâm  ra nghĩ ngợi về ý nghĩa cuộc đời. 
  Phải! Nếu người ta có thể trẻ  mãi! Nhưng chắc chắn không phải là để tiêu hao sức khỏe và cuộc đời bên cạnh những  con số khô khan, cùng những cuộc thí nghiệm vô vị về dược tánh của các loài hoa  cỏ! Không, nếu người ta có thể trẻ mãi, thì đó phải là để được sung sướng, để  yêu đương, để hưởng thụ. Điều gì có thể đi đôi với tuổi trẻ, nếu đó không phải  là sự hưởng thụ khoái lạc? Và khả năng của tuổi trẻ ta có thể có ngay từ bây giờ  kia mà? 
  Lịnh cấm của Kiềm Mâu có ý  nghĩa gì? Phải chăng nó cũng cùng một loại với sự dè dặt ích kỷ mà ông ta thường  có khi dạy về những bí quyết của khoa hóa học hay khoa thần số? Bởi vì ông ta bảo  ta hoàn thành mọi công việc giao phó, nhưng lại không chịu tiết lộ điều bí mật  then chốt có thể giúp ta đạt tới sự thành công cuối cùng. Khi trở về, chắc hẳn  ông ta sẽ còn chỉ cho ta thấy rằng có thể đạt tới điều huyền nhiệm tối mật,  nhưng ông ta sẽ còn ngăn cấm ta không được tìm cách đạt tới chỗ đó. Phải chăng  ông ta muốn ta phải làm nô lệ cho ông ta, chịu lệ thuộc mãi mãi vào ông ta? Phải  chăng ông ta chỉ muốn trói buộc ta vào công việc làm thường nhật và khêu gợi óc  tò mò của ta bằng cách luôn luôn đưa ra những hứa hẹn tốt đẹp để làm mồi nhử? 
  Những ý nghĩ đó cùng với những  lập luận tưởng tượng còn đáng buồn hơn nữa đã làm cho Linh Đông hoang mang và tức  tối. Dưới ảnh hưởng của chất rượu nồng và bị kích thích bởi sự nghi ngờ và dục  vọng, anh không thể tìm vào giấc ngủ. Hình ảnh sự già nua bạc nhược mà thời  gian sẽ mang đến trong tương lai làm cho anh nóng lòng muốn có được sự trẻ  trung trường cửu và bất biến mà ông ta vẫn chiêm ngưỡng nơi 
Zanoni. Lịnh  cấm của Kiềm Mâu chỉ có tác dụng gây cho anh sự nghi ngờ hoang mang trong lòng.  
  Một ngày mới lại bắt đầu, vạn  vật vui tươi như chào đón vầng thái dương vừa lố dạng, làm tiêu tan tất cả mọi  sự sợ sệt và mê tối của màn đêm. Gian phòng bí mật trước mắt Linh Đông không có  gì khác lạ hơn những gian phòng khác trong tòa lâu đài. Còn ma quỉ nào có thể  xuất hiện để quấy phá anh giữa lúc thanh thiên bạch nhật? 
  Trong tính chất của Linh Đông  có một sự mâu thuẫn đặc biệt. Một mặt, sự suy luận của lý trí làm cho anh sinh  nghi ngờ và sự nghi ngờ đó làm cho anh trở nên do dự không quyết đoán về mặt  tinh thần. Mặt khác, về phương diện thể chất anh luôn tỏ ra can đảm đến mức táo  bạo. Đó cũng không phải là điều lạ, vì những tính chất đa nghi và tự phụ vẫn  thường đi đôi với nhau. 
  Khi một người mang những tánh  nết đó đã quyết định một điều gì thì không một sự sợ hãi nào có thể làm cho người  ấy phải lùi bước. 
  Và thế là Linh Đông nhanh  chóng vượt qua hành lang, bước đến chỗ phòng riêng của Kiềm Mâu và mở cửa gian  phòng bí mật. 
  Trong phòng, mọi vật vẫn như  cũ, trừ ra trên mặt bàn giữa phòng có một quyển sách đã mở sẵn. Anh bước đến gần  và nhìn vào trang sách đang bày ra trước mắt. Đó là loại chữ ám tự, nhưng việc  học loại chữ này cũng đã có trong chương trình khảo cứu hằng ngày của anh. Anh  tìm ra ý nghĩa của những câu đầu tiên một cách không khó khăn, và đọc như sau: 
  
“Sống mãnh liệt với đời sống  nội tâm tức là biết rõ đời sống bên ngoài. Sống bất chấp thời gian, tức là sống  cuộc sống trường cửu đại đồng. Kẻ nào phát hiện kim đơn thần dược sẽ khám phá  những gì sống trong không gian, vì linh dược ấy vừa đem nguồn sinh lực cho thể  xác vừa tăng cường sức nhạy cảm của các giác quan. Trong cái nguyên lý sơ đẳng  của ánh sáng vẫn có một sức hấp dẫn. Trong những ngọn đèn của phái Hồng Hoa, lửa  là nguyên lý sơ đẳng trong trạng thái thuần khiết. Hãy đốt các ngọn đèn trong  khi mở bầu kim đơn, rồi ánh sáng sẽ thu hút đến những sinh vật sống trong ánh  sáng đó. Hãy coi chừng, đừng sợ sệt. Sự sợ hãi là kẻ thù lớn nhất của khoa huyền  môn.” 
  Đến đây, những chữ mật tự đã  đổi qua ý nghĩa khác và trở nên khó hiểu. Nhưng phải chăng bấy nhiêu đó cũng đã  quá đủ? Câu cuối cùng há không đủ ý nghĩa sao? “
Hãy coi chừng, đừng sợ sệt!”  Theo suy luận của Linh Đông lúc ấy thì dường như Kiềm Mâu đã cố ý mở quyển sách  ra ở ngay trang đó, và cuộc thử thách người môn đồ này thật ra lại là trái ngược  hẳn với điều ngăn cấm. Anh ta nghĩ rằng, chắc có lẽ tôn sư đã giả vờ thử thách  tính kiên nhẫn của đệ tử, nhưng sự thật là muốn thử thách lòng can đảm của anh.  Không phải sự táo bạo, mà chính sự sợ sệt mới là kẻ thù của khoa huyền môn! 
  Linh Đông bèn bước đến gần những  cái kệ trên đó có để những bầu thủy tinh. Với một bàn tay rắn rỏi, anh mở nút một  bầu, và một mùi hương ngọt ngào thơm tho thình lình tỏa ra khắp phòng. Không  khí trong phòng chớp sáng lấp lánh dường như có pha lẫn với bột nhuyễn kim  cương. Một cảm giác lâng lâng thoát tục, nhẹ nhàng sung sướng không phải là của  trần gian xâm chiếm lấy anh; và một loại nhạc điệu không có âm thanh, thoang  thoảng mà du dương, êm dịu, dường như trỗi lên trong gian phòng và vọng đến tai  anh. 
  Khi đó, Linh Đông bỗng nghe một  giọng nói ngoài hành lang gọi tên mình, và kế đó có tiếng gõ cửa. Anh nhận ra  tiếng gọi của Phao Lồ: 
  – Tiên sinh có trong đó  không? 
  Linh Đông hối hả đậy nút và đặt  bầu linh dược lại chỗ cũ. Anh lên tiếng bảo Phao Lồ hãy đến đợi nơi phòng mình.  Anh còn nán lại và lắng tai nghe tiếng chân đi xa rồi mới ra khỏi phòng. Khi  đóng cửa phòng, anh vẫn còn thoảng nghe những âm thanh cuối cùng của điệu nhạc  huyền diệu văng vẳng bên tai. 
  Với một bước đi nhẹ nhàng,  trong lòng vui vẻ, Linh Đông định bụng sẽ trở lại phòng này một lần khác để làm  cuộc thí nghiệm một cách an toàn mà không bị ai khuấy phá. Anh đi về phòng  riêng để gặp Phao Lồ. 
  Khi Linh Đông về tới phòng  thì Phao Lồ đã đợi sẵn ở đó. Người này vừa thấy anh liền tỏ vẻ ngạc nhiên và  kêu lên: 
  – Kìa! Tiên sinh! Tôi không  nhận ra ông nữa. Sự vui thú đã làm cho ông trẻ hẳn lại. Hôm qua tôi thấy ông có  vẻ xanh mét và xuống tinh thần, nhưng đôi mắt nhung của Phi Lịch đã làm cho ông  tươi tỉnh trở lại. 
  Linh Đông liếc nhìn gương mặt  mình trong gương và cũng ngạc nhiên không kém Phao Lồ khi nhận thấy sự thay đổi  sắc mặt cũng như dáng điệu của mình. Thân mình anh trước đây hơi còng xuống một  chút vì làm việc suốt ngày và công phu khổ luyện, nay đã có vẻ dẻo dai uyển  chuyển hơn. Đôi gò má anh đã trở nên đầy đặn hồng hào hơn, biểu lộ sức khỏe thể  chất và niềm hân hoan yêu đời. Nếu mới hít vào có một hơi của bầu kim đơn mà đã  có ảnh hưởng như thế thì các nhà luyện kim thật có lý khi nói rằng uống thứ thần  dược này vào sẽ có thể cải lão hoàn đồng và trường sinh bất tử. 
  Phao Lồ vừa móc túi lấy ra một  phong thư vừa nói: 
  – Xin lỗi ông nếu tôi đã quấy  rầy. Tôn sư ông vừa viết thư cho tôi biết là người sẽ trở về vào ngày mai, và  có nhờ tôi chuyển gấp cho ông bức thư này. 
  – Ai đem thư đến vậy? 
  – Một người kỵ mã đến đưa thư  xong liền đi ngay không đợi trả lời. 
  Linh Đông mở thư ra xem.  Trong thư viết: 
  “Thầy trở về một tuần lễ sớm  hơn dự tính, và sẽ về tới trong ngày mai. Khi ấy con sẽ bắt đầu cuộc thử thách  mà con muốn. Nhưng con hãy nhớ rằng muốn được như vậy, con phải chế ngự và làm  chủ các giác quan, để cho không còn một sự đam mê hay dục vọng nào. Con có thể  thấu triệt các khoa huyền môn và khoa hóa học luyện kim, nhưng trước hết con phải  làm chủ thể xác, chiến thắng mọi dục tình, lòng tự kiêu, tham vọng và thù hận.  Ta mong thấy con được như vậy. Hãy tập nhịn đói và tham thiền cho đến khi chúng  ta tái ngộ.” 
  Linh Đông vò nát lá thư với một  nụ cười khinh ngạo và thầm nghĩ: “Sao? Lại cắm đầu vào công việc nhạt phèo ấy nữa  ư? Tuổi trẻ mà không hưởng lạc và không tình yêu? Ôi! Kiềm Mâu ơi, thế là ông  đã hố rồi đấy! Học trò ông sẽ có thể nắm giữ những bí quyết của cuộc đời mà  không cần có ông chỉ dẫn đâu nhé! 
  – À, còn về Phi Lịch, tôi có  ghé qua nhà nàng trên đường đến đây. Nàng có vẻ lúng túng và thở dài khi tôi nhắc  đến ông để trêu ghẹo nàng, thưa tiên sinh. 
  – Phao Lồ, tôi phải cám ơn  anh vì anh đã giới thiệu cho tôi một cô gái rất dễ thương. Còn anh, chắc là cuộc  đời anh cũng dễ chịu chứ? 
  – A! Thưa tiên sinh, khi người  ta còn trẻ thì không gì sung sướng bằng sống một cuộc đời mạo hiểm phiêu lưu.  Nhưng ngoài ra còn có ái tình, rượu và... yêu đời! 
  – Anh nói rất đúng. Thôi chào  anh, Phao Lồ. Chúng ta sẽ nói chuyện nhiều hơn trong những ngày tới đây. 
  Suốt buổi sáng hôm ấy, Linh  Đông cảm thấy tràn đầy một niềm sung sướng. Anh dạo chơi trong các khu rừng  chung quanh, và khi ngắm nhìn những cảnh mùa thu lá rụng với những màu sắc biến  đổi trên các tàn cây cổ thụ, anh cảm thấy một niềm vui giống như cuộc đời nghệ  sĩ của ông ta khi trước, nhưng tế nhị hơn và cũng linh động hơn. 
  Linh Đông vừa đi bách bộ vừa  suy nghĩ, mộng mơ, rồi từ khu rừng cây rậm rạp, anh đi qua một vườn nho và những  khoảnh đất vườn có trồng rau cải mà trước đây anh chưa hề bước chân đến. Bỗng  anh nhìn thấy bên con đường mòn che bóng cây mát rượi có một căn nhà tranh. Bên  trong cửa là một người con gái đang ngồi dệt cửi. Cô gái ngước mặt lên đứng dậy  chạy ra đón anh bên đường. Anh nhận ra ngay là Phi Lịch với đôi mắt nhung đen  láy. 
  Phi Lịch đưa một ngón tay lên  trước miệng và nói thấp giọng: 
  – Suỵt! Im nhé! Mẹ tôi đang  ngủ. Tôi biết là anh chắc sẽ đến thăm tôi, anh thật chu đáo quá! 
  Linh Đông hơi lúng túng,  nhưng cũng nhận lời khen tặng đó và hỏi: 
  – Phi Lịch, cô cũng nghĩ đến  tôi sao? 
  Cô sơn nữ ửng hây hây đôi má  và đáp với một vẻ ngây thơ thành thật của người phụ nữ miền Nam nước Ý: 
  – Phải, tôi có nghĩ đến anh.  Phao Lồ có nói rằng anh sẽ đến thăm tôi. 
  – Phao Lồ có họ hàng gì với  cô không? 
  – Không, nhưng ông ta là một  người bạn tốt của chúng tôi. Anh tôi có chân trong đảng của ông ta. 
  – Đảng của ông ta? Vậy ra anh  cô là một kẻ cướp? 
  – Này tiên sinh, ở vùng này  chúng tôi không gọi bọn họ là “kẻ cướp” đâu nhé! 
  – Xin lỗi cô, nhưng cô không  lo ngại cho mạng sống của anh cô hay sao? Và công lý sẽ... 
  – Công lý ư? Công lý không  bao giờ bén mảng đến những truông núi này. Lo ngại cho anh tôi ư? Không! Ông nội  tôi và cha tôi đều làm nghề nghiệp đó. Nhiều khi tôi còn nghĩ, ước gì tôi được  làm đàn ông để sống như họ!
 
  – Nhìn đôi môi xinh đẹp của  cô thốt ra lời ấy, tôi lấy làm mừng khi ước nguyện đó của cô không thành hiện  thực. 
  – A! Anh yêu tôi thật sao? 
  – Với tất cả tâm hồn! 
  – Và tôi cũng vậy, tôi cũng  yêu anh! 
  Cô sơn nữ đáp với một vẻ ngây  thơ vô tội. Nàng để yên cho Linh Đông nắm lấy bàn tay nàng rồi nói tiếp: 
  – Nhưng ngày mai anh sẽ từ  giã chúng tôi, và tôi... 
  Nàng ngưng nói, đôi mắt long  lanh ứa lệ. 
  Câu chuyện diễn ra đến đây  thì dường như đã bắt đầu có dấu hiệu nào đó của sự nguy hiểm. Phi Lịch hiển  nhiên là không có cái sắc đẹp diễm kiều, lộng lẫy như Kiều Dung. Vẻ đẹp của cô  sơn nữ này là một vẻ đẹp có phần man dại, rừng rú, nghiêng về khía cạnh thể chất  nhiều hơn, nhưng cũng có một sức hấp dẫn không kém. 
  Có lẽ thật ra thì Linh Đông  chưa hề yêu Kiều Dung! Những tình cảm của anh đối với nàng trước đây không có  tính chất nồng nhiệt của tình yêu. Dầu sao, khi nhìn vào cặp mắt đen như nhung  của Phi Lịch anh liền cảm thấy rằng trước đó anh chưa hề biết yêu. 
  Linh Đông bước đến gần nàng  và hỏi một cách âu yếm: 
  – Em có thể rời khỏi vùng sơn  cước này chăng? 
  Nàng lui lại một bước, rồi vừa  nhìn thẳng vào mắt Linh Đông vừa nói: 
  – Anh hỏi tôi điều đó sao?  Anh có biết rõ bọn gái miền sơn cước chúng tôi là thế nào chăng? Những thanh  niên thành thị hào hoa như các anh ít khi nào giữ đúng lời hứa hẹn. Đối với các  anh, tình yêu là một trò chơi tiêu khiển. Còn đối với chúng tôi, đó là cả một  cuộc đời. Rời khỏi vùng sơn cước này ư? Được lắm, nhưng tôi có thể từ bỏ những  bản tính tự nhiên của tôi được chăng? 
  – Em hãy giữ lấy bản tính tự  nhiên của em, đó là một bản tính dịu dàng! 
  – Phải! Anh sẽ thấy nó dịu  dàng khi anh còn chung tình. Nhưng nếu anh tỏ ra phụ bạc, chừng đó anh sẽ thấy  nó rất đáng ghét. Tôi có nên nói cho anh biết rõ bản tính của tôi, của một cô  gái miền sơn cước là như thế nào chăng? Chúng tôi là con gái của những người mà  anh gọi là kẻ cướp, chúng tôi cũng mong ước trở nên những người bạn đường, những  người tri kỷ của người yêu hay người chồng. Chúng tôi yêu mãnh hệt, yêu say đắm!  Chúng tôi thú thật một cách bạo dạn như vậy. Chúng tôi chiến đấu bên cạnh người  mình yêu trong cơn nguy hiểm, và phụng sự người ấy như những kẻ nô lệ trong lúc  bình thường. Chúng tôi không bao giờ thay đổi, nhưng chúng tôi cũng không chấp  nhận sự thay đổi của người mình yêu thương. Người ấy có thể khiển trách, mắng mỏ  chúng tôi, đánh đập, hất hủi chúng tôi như một con chó, chúng tôi có thể chịu đựng  được tất cả những điều ấy mà không phàn nàn. Nhưng nếu  phản bội thì hãy biết rằng loài mãnh hổ trong  rừng cũng không tàn nhẫn độc ác bằng chúng tôi! Nếu người ấy biết chung tình  thì tình yêu của chúng tôi sẽ đền đáp lại xứng đáng. Nếu người ấy phụ bạc, anh  ta sẽ sớm biết được cách trả thù của chúng tôi là như thế nào! Vậy đó, bây giờ  anh có còn thật tình muốn yêu tôi nữa không? 
  Với một giọng nói vừa thành  thật vừa kiêu hãnh, Phi Lịch thốt ra một tràng dài tâm sự chất chứa đầy hào khí  và lòng nhiệt thành bất khuất của một cô gái rừng xanh. Thái độ bạo dạn, gan  góc và kênh kiệu đó không làm cho nàng mất đi vẻ đẹp man dại, rừng rú, mà trái  lại càng làm nổi bật lên phần nữ tính hấp dẫn và rất đáng yêu của người sơn nữ.  
  Linh Đông không cảm thấy khó  chịu mà trái lại còn thấy thích thú. Anh bèn đáp một câu ngắn ngủi và chân thật:  
  – Có, Phi Lịch! 
  Có thể như vậy được sao? Có  thật không, hỡi Linh Đông? Anh có biết chăng là bất cứ một kẻ bay bướm nào cũng  có thể đáp một cách hời hợt là “Có” trước một câu hỏi tương tự thốt ra từ đôi  môi tươi thắm như vậy? Hãy coi chừng nhé! Nhưng tại sao Đạo sư Kiềm Mâu lại để  cho một người đệ tử trẻ mới hai mươi bốn tuổi lọt vào tầm nanh vuốt của những  con mèo rừng miền sơn cước? Truyền dạy cho anh pháp môn nhịn đói, thanh tĩnh,  tuyệt dục và chế ngự giác quan, những điều đó rất hay đối với vị tôn sư có tuổi  đạo đã qua nhiều thế kỷ, nhưng khi ông chỉ mới hai mươi bốn tuổi thì thầy ông hẳn  phải biết giữ ông tránh xa những kỳ nữ như Phi Lịch, nếu không thì chắc là ông  đã không mặn mòi lắm với khoa huyền môn! 
  Thế là hai kẻ si tình vẫn đứng  đó và thì thầm trao đổi với nhau những lời hẹn nước thề non. Bỗng nghe có tiếng  động từ trong nhà, cô sơn nữ liền mau chân chạy vào ngồi bên khung cửi và lại  đưa lên một ngón tay trước miệng. 
  Linh Đông vừa nhìn về phía  tòa lâu đài vừa thầm nhủ: “Ma thuật của Phi Lịch có vẻ hấp dẫn hơn của Kiềm  Mâu! Nhưng nghĩ cho kỹ, sự trả thù lợi hại mà nàng vừa nói có đáng tin lắm  không? Dầu sao, người đã nắm được bí quyết tối hậu của bầu kim đơn hẳn sẽ có thể  đối phó với sự trả thù của một người đàn bà và tránh khỏi mọi hiểm nguy!” 
  A! Hóa ra mi thật là  một thằng đểu giả! Chưa chi mà mi đã nghĩ đến việc phản bội! 
Zanoni thật  đã có lý khi nói: “Đổ nước trong vào cái giếng bùn, chỉ làm dấy bùn lên mà  thôi!” 
  
Vong linh giữ cửa 
  Đêm ấy rất vắng vẻ tịch mịch.  Tất cả mọi người đã yên giấc trong tòa lâu đài cổ. Mọi vật đều im lặng dưới ánh  sao khuya. Linh Đông thấy rằng thời giờ đã đến. Anh thầm nghĩ: “Kiềm Mâu, vị đạo  sư khắc khổ; Kiềm Mâu, kẻ thù của ái tình; Kiềm Mâu, với cặp mắt nhìn thấu suốt  lòng người, sẽ từ chối những bí quyết đã hứa hẹn với ta chỉ vì khuôn mặt xinh đẹp  của Phi Lịch đã làm mất đi sự an tĩnh trong tâm hồn người đệ tử. Kiềm Mâu sẽ về  đến nơi trong ngày mai. Ta hãy lợi dụng thời cơ trong đêm nay! Đừng sợ sệt gì cả!  Chỉ còn đêm nay nữa thôi...” 
  Thế là, lại một lần nữa, Linh  Đông, với một bàn tay rắn rỏi không chút do dự, cầm chìa khóa mở cửa gian phòng  bí mật... 
  Anh ta đặt cái đèn trên bàn,  bên cạnh quyển sách vẫn mở sẵn. Anh thử lật qua vài trang, nhưng chỉ có thể dịch  được ý nghĩa một số mật tự trong đoạn này: 
  
“Khi người đệ tử đã được chuẩn  bị và nhập môn, anh ta hãy mở cửa sổ, đốt đèn lên và lấy linh dược thoa hai bên  thái dương. Phải vô cùng thận trọng trong việc xử dụng kim đơn thần dược. Trước  khi uống, hãy hít nhiều lần liên tiếp chất hơi nóng vào phổi để cho cơ thể từ từ  quen dần với chất linh dược, nếu không thì thay vì được trường sinh, anh ta sẽ  phải mất mạng.” 
  Linh Đông không thể đọc được  nhiều hơn nữa, vì ám số lại thay đổi. Anh đưa mắt nhìn quanh phòng một cách  chăm chú. Ánh trăng khuya rọi vào phòng xuyên qua cánh cửa sổ vừa mở, dường như  cũng đem vào phòng một sức mạnh nhiệm mầu. Anh sắp xếp những ngọn linh đăng – tất  cả là chín ngọn – chung quanh trung tâm điểm của gian phòng, và thắp sáng từng  ngọn đèn một. 
  Một ngọn lửa màu xanh và bạc  tỏa ra từ mỗi ngọn đèn và chiếu sáng khắp phòng. Trong giây lát, ánh sáng ấy trở  nên lu mờ dần, rồi một làn mây xám và nhẹ giống như sương mù từ từ tỏa ra khắp  phòng. Một cơn run rẩy, ớn lạnh thình lình xâm chiếm lấy toàn thân Linh Đông  như một luồng tử khí. Cảm thấy nguy hiểm, với tay chân đã lạnh cóng như đá, anh  cố gắng một cách vô cùng khó khăn vất vả để lê chân tới chỗ cái kệ đặt những bầu  thủy tinh. Anh hối hả mở nút một bầu, hít hơi nồng vào phổi và lấy chất linh dược  thoa lên hai bên thái dương. Tức thời cái cảm giác vui vẻ trẻ trung đầy sinh  khí và nhẹ nhàng lâng lâng thoát tục màanh đã có trước đây lại xuất hiện và làm  tan biến ngay cảm giác rã rời tê liệt vừa rồi. 
  Linh Đông liền đứng thẳng người,  hai tay khoanh trước ngực một cách ngang nhiên hùng dũng, và đợi chờ... 
  Làn hơi tỏa khắp phòng đã  đông đặc lại giống như một đám mây tuyết. Những ngọn linh đăng chiếu lung linh  xuyên qua đó như những ngôi sao. Bây giờ, Linh Đông thấy rõ những hình bóng giống  như hình người từ từ lướt nhẹ và đều xuyên qua đám mây. Những hình bóng đó có vẻ  trong suốt như pha lê và có thể co giãn như những cái khoen rắn. 
  Trong khi những hình bóng đó  lượn qua lại một cách điều hòa, uyển chuyển, nhịp nhàng, thì anh thoảng nghe một  âm thanh nhỏ yếu, dường như bị che lấp, nhưng là một thứ nhạc điệu vui tươi và  êm đềm. Những hình bóng đó không có vẻ gì để ý đến sự có mặt của anh. Linh Đông  có cảm tưởng như anh muốn nhập bọn với họ và cùng lướt nhẹ một cách thoải mái  thong dong trong khoảng không. Anh bèn đưa hai tay ra về phía họ và thử gọi một  tiếng lớn, nhưng anh không thốt được ra lời mà chỉ có một tiếng ú ớ thoát ra  ngoài vành môi. 
  Những bóng ấy vẫn tiếp tục  bay lượn nhẹ nhàng dường như không hề biết có một người nào ở quanh đó. Rồi từ  từ, chúng lượn qua một vòng trong gian phòng và bay bổng lên trên không cho đến  khi thoát ra một cách mềm mại, tuần tự từng bóng một xuyên qua cửa sổ mở và biến  mất dạng dưới ánh trăng. 
  Trong khi Linh Đông vẫn để mắt  theo dõi những hình bóng đó, thì thình lình cánh cửa sổ bỗng bị che khuất bởi một  vật lúc đầu còn chưa hiện rõ, nhưng sự xuất hiện đột ngột của nó cũng đủ gây  cho anh một cơn sợ sệt khủng khiếp, trái hẳn với cảm giác dễ chịu mới rồi. Dần  dần, vật khủng khiếp ấy hiện rõ trước mắt anh ta. Hình như đó là một cái đầu  người bao phủ dưới một tấm màn đen, xuyên qua đó, hai con mắt chiếu ra một tia  sáng đục như từ cõi âm ty hiện lên nhìn vào anh làm cho anh phải rợn tóc gáy.  Ngoài cái gương mặt phủ màn đen và đôi mắt có cái nhìn lạnh xương sống đó thì  phần còn lại không sao nhìn thấy rõ. 
  Cơn sợ hãi kinh hoàng của Linh  Đông lại càng tăng thêm một cách rùng rợn, khủng khiếp hơn nữa khi cái bóng ma ấy,  sau một lúc đứng yên lặng, bèn từ từ bước vào gian phòng. Đám mây mù lúc nãy  tan biến dần khi nó bước tới. Những ngọn đèn cũng lu mờ dần và chỉ còn là những  đóm lửa lập lòe sắp tắt. Toàn thân hình con quái vật cũng bị che khuất dưới tấm  màn đen như cái đầu, nhưng cái dáng điệu ẻo lả có vẻ giống như hình bóng một nữ  quái. 
  Vật ấy không lướt nhẹ như những  bóng ma khác khi xuất hiện trước mắt người sống; mà trái lại dường như đang bò  sát đất như loài rắn. Sau cùng, vật ấy ngừng lại gần bên cái bàn, và xuyên qua  tấm màn đen che mặt, nó lại phóng cặp mắt sắc như dao nhìn kẻ táo bạo đã dám  kêu gọi đến nó. 
  Cái nhìn nóng bỏng như một ngọn  lửa đó, tuy nhợt nhạt nhưng lại rất linh động, có hàm chứa một cái gì như vừa  thù hận vừa nhạo báng, một cái gì nó chỉ rằng con quái vật rùng rợn này không  phải chỉ là một cái bóng ma mờ ảo, mà dường như nó còn có tham dự một phần nào  thể chất để có thể là một kẻ thù nguy hiểm và lợi hại đối với con người. 
  Trong cơn hãi hùng, Linh Đông  bám chặt vào tường một cách tuyệt vọng, đầu tóc dựng đứng, hai mắt trợn trừng  dường như muốn lọt tròng ra ngoài, và không thể nào tách rời đôi mắt ra khỏi  cái nhìn ám ảnh ma quái như thôi miên lấy anh một cách không sao cưỡng lại.  Trong khi đó thì con quái vật bắt đầu nói chuyện với anh! Anh không phải nghe bằng  tai, mà là hiểu ngầm bằng sự giao cảm của linh hồn những lời nói như sau của  con quái vật: 
  – Ngươi đã bước vào cảnh giới  huyền bí vô biên. Ta là vong hồn giữ cửa. Ngươi muốn gì ta? Ngươi không trả lời  sao? Ngươi có sợ ta chăng? Lẽ nào ta chẳng phải là tình yêu của ngươi sao? Phải  chăng vì ta mà ngươi đã từ bỏ mọi thú vui của cuộc đời? Ngươi muốn có sự minh  triết thăng? Ta vốn sở hữu sự minh triết vô biên của muôn vàn thế hệ. Ngươi hãy  hôn ta đi, hỡi người yêu phàm trần của ta! 
  Nói xong, con quái vật bò lết  lại gần một bên, cho đến khi nó chạm vào người Linh Đông. Hơi thở của nó lướt  qua bên má anh! Linh Đông kêu thét lên một tiếng thất thanh rồi ngã quị xuống đất,  bất tỉnh nhân sự... 
  
***
  Linh Đông không còn biết gì nữa  mãi cho đến trưa ngày hôm sau, anh chợt tỉnh dậy và mở mắt ra thì thấy mình  đang nằm trên giường. Ánh nắng mặt trời chiếu sáng rực xuyên qua cửa sổ, Phao Lồ  ngồi ngay dưới chân giường đang bận lau chùi khẩu súng trường, miệng huýt sáo một  bản tình ca của miền Nam nước Ý. 
  
Nàng chỉ biết yêu 
  Zanoni cùng người yêu hưởng  tuần trăng mật trên một hòn đảo nhỏ có khí hậu mát mẻ trong lành và phong cảnh  thơ mộng ngoài khơi Hy Lạp, thuộc vùng biển Địa Trung Hải. 
  Từ trên đỉnh một ngọn đồi cỏ  cây sầm uất nhìn xuống dưới thì hòn đảo mà 
Zanoni đã chọn giống như một  khu vườn hoa rất đẹp, màu sắc xinh tươi. Những đài cao và tháp nhọn của thành  phố chói rạng ngời giữa những vườn cam và chanh. Những vườn nho tươi và ô–liu  bao phủ các thung lũng và ôm sát quanh các sườn đồi. Những nhà tranh, nông trại  và biệt thự xinh xinh chen lẫn với những rừng hoa lá rậm rạp xanh um và những  tàn cây to với hoa quả đỏ thắm. 
  
Zanoni ngụ trong một ngôi  nhà cách xa thành phố và cách bờ biển chừng một đoạn đường. Nhà này do chàng  mua lại của một người Ý tỉnh 
Venise; tuy nhỏ nhưng rất xinh xắn và kiến  trúc thanh nhã hơn những nhà khác trong vùng. 
  Xa tận ngoài khơi nhưng có thể  nhìn thấy từ trên bờ là chiếc tàu của chàng bỏ neo. Hai người gia bộc Ấn Độ mà  chàng đem theo coi sóc việc nhà một cách chu đáo và lặng lẽ âm thầm. 
  Thật không có xứ nào đẹp và  yên tĩnh hoàn toàn bằng đảo này. Đối với sự minh triết huyền bí của 
Zanoni và tâm hồn ngây thơ trong trắng của Kiều Dung thì cuộc đời náo động ồn ào của  thế nhân không có gì là hấp dẫn. Một bầu trời đất bao la bát ngát, với phong cảnh  chung quanh tịch mịch êm đềm cũng là quá đủ đối với những tâm hồn siêu việt và  hồn nhiên khi yêu nhau. 
  Trong sinh hoạt của 
Zanoni,  tuy không có gì chứng tỏ chàng là một vị đạo đồ của khoa huyền môn, nhưng chàng  có thói quen của một người lúc nào cũng trầm tư mặc tưởng. Chàng thường ở riêng  một mình, nhất là vào lúc bình minh hay những buổi chiều tà. Đặc biệt là vào những  đêm trăng non hay trăng rằm chàng thường hay dạo bước quanh vùng để hái những  loại hoa cỏ rồi mang về cất kỹ, xem như những vật rất quí. 
  Đôi khi, vào những lúc đêm sắp  tàn, Kiều Dung thức giấc với ý thức mơ màng rằng 
Zanoni không có mặt bên  cạnh nàng. Nàng đưa tay ra sờ soạng thì thấy giường trống không. Sau đó nàng nhận  thấy rằng 
Zanoni có vẻ rất dè dặt trong những cử chỉ quen thuộc hằng  ngày, và đôi khi nàng có một linh cảm lạ lùng khó hiểu, hoặc hồi hộp hay nghi  ngờ, thì nàng lại lặng thinh không hỏi chàng điều gì cả. 
  Nhưng không phải lúc nào  chàng cũng dạo chơi một mình. Khi biển lặng sóng êm, Kiều Dung và 
Zanoni thường sánh vai nhau dạo chơi trên bãi cát dọc theo bờ biển, hoặc dùng thuyền  nhỏ viếng thăm các đảo lân cận. 
  Tất cả những danh lam thắng cảnh  của xứ Hy Lạp đều quen thuộc đối với chàng, và khi nói về lịch sử và truyền thống  đẹp đẽ mỹ lệ của xứ ấy, chàng làm cho Kiều Dung cũng phải yêu mến cái dân tộc  ngàn năm văn vật đã từng là nguồn gốc nghệ thuật và minh triết của thế giới  phương Tây. 
  Với thời gian qua, càng biết  rõ 
Zanoni nhiều hơn nàng càng nhận thấy ở chàng muôn nghìn sắc thái làm  cho tình yêu của nàng trở nên thâm trầm sâu sắc hơn. 
  Tình yêu của 
Zanoni đối  với nàng có tính cách dịu dàng, săn sóc, cao thượng và quí báu đến nỗi dường  như chàng tỏ ra biết ơn về hạnh phúc mà chàng được hưởng gần bên nàng hơn là  kiêu hãnh về hạnh phúc mà chàng đem đến cho nàng. 
  
Zanoni cũng thường đi dạo  một mình ở những nơi vắng vẻ tĩnh mịch, nhất là dưới ánh trăng khuya. Mục đích  của những chuyến đi dạo cô đơn này là do một sự mong ước căn bản mà mỗi một ngày  sống bên cạnh Kiều Dung càng được củng cố và tăng cường hơn nữa. 
  Cảnh tượng mà Linh Đông đã  nhìn thấy trong trạng thái xuất thần trước đây quả là cảnh thật. ít lâu sau đêm  ấy, Kiều Dung cảm giác một cách mơ hồ rằng có một thứ ảnh hưởng nào đó mà nàng  không biết rõ dường như đang cố gắng chen vào cuộc đời hoàn toàn hạnh phúc của  nàng. Những hình ảnh sống động vui tươi và không rõ rệt bắt đầu ám ảnh nàng  ngày đêm mỗi khi 
Zanoni đi vắng, và lại tan biến mất đi khi chàng vừa trở  về, dường như chúng không thể so sánh được với sự có mặt của chàng. 
  Những khi ấy, 
Zanoni thường gạn hỏi nàng một cách rất chăm chú và tỉ mỉ về những linh ảnh đó, và  chàng có vẻ thất vọng, đôi khi tỏ ra bối rối khi nghe nàng trả lời. 
  Ngày nọ, chàng nói với Kiều  Dung: 
  – Em từng nói với anh về những  hình ảnh chập chờn vô định vừa bay lượn vừa múa hát trong khoảng không, hay những  điệu nhạc du dương như ở Bồng Lai tiên cảnh. Em có thấy chăng một trong những  hình ảnh đó hiện ra rõ ràng và đẹp hơn những hình bóng khác? Em có nghe chăng một  âm thanh nói chuyện với em, hay dường như nói bằng tiếng nói của em, về những  điều bí mật lạ lùng của khoa huyền môn? 
  – Không! Những cơn mộng mơ đó  đều rất lộn xộn, cho dù là ban ngày hay ban đêm. Và khi những bước chân của anh  làm em tỉnh giấc, ký ức của em chỉ còn giữ lại một ấn tượng mơ màng về một niềm  hạnh phúc thoáng qua. Cái cảm giác nhạt nhẽo đó khác hẳn với niềm hạnh phúc đậm  đà đến với em ngay khi được nhìn thấy nụ cười của anh, khi được nghe giọng anh  nói với em rằng anh yêu em. 
  – Nhưng tại sao những linh ảnh  không đẹp bằng những linh ảnh này xưa kia đối với em lại rất mặn mà duyên dáng  và đầy thú vị? Tại sao trước kia chúng lại làm cho óc tưởng tượng và tâm hồn em  tràn đầy một niềm hạnh phúc vui tươi? Khi xưa em mong ước được sống trong một cảnh  giới thần tiên, còn ngày nay em lại có vẻ sung sướng trong một cuộc sống tầm  thường! 
  – Em đã chẳng giải thích với  anh rồi hay sao? Được yêu và chung sống với người mình yêu đâu có thể xem là một  cuộc sống tầm thường? Cảnh giới thần tiên thật sự của em, em đã có rồi. Anh đừng  nói với em một cảnh giới nào khác nữa! 
  Thế là màn đêm từ từ  rơi xuống khi hai kẻ yêu nhau cùng ngồi trên bãi cát vắng lặng cô liêu. 
Zanoni gác bỏ một bên những kế hoạch ước ao thần diệu của chàng, và cúi xuống gần kề  gương mặt thanh tao dịu dàng của người đẹp, chàng quên hết tất cả mọi vật chung  quanh và không còn biết có một vũ trụ nào khác hơn là cảnh giới của tình yêu. 
  
Thiên thần Adonai 
  “
Adonai! Adonai! Hãy đến với  tôi! Hãy đến với tôi!” 
  Trong một hang núi hoang vắng  mà xưa kia loài người đã từng giao tiếp với thần minh để cầu xin những lời  giáng ngôn mách bảo những điều họa phúc, thình lình xuất hiện giữa những tảng  đá cao nhô lên với đủ hình thái khác nhau một cột ánh sáng khổng lồ, chói lòa  và rung động thường xuyên. 
  Ánh sáng ấy chiếu rạng những  thạch nhũ, những vòm cao và khe ngách trong động đá, và rọi một tia sáng nhợt  nhạt rung rinh trên khuôn mặt 
Zanoni. 
  Sau khi lên tiếng kêu gọi  thiên thần 
Adonai đến với chàng, 
Zanoni nói: 
  – Hỡi thiên thần, con của ánh  sáng trường cửu muôn đời, ngài đã từng ban cho tôi sự hiểu biết huyền nhiệm trải  qua nhiều cấp đẳng, từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, và sau cùng tôi đã đạt tới mức  tột đỉnh trong những vùng đồng bằng bát ngát của xứ 
Chaldée. Ngài đã ban  cho tôi sự minh triết vô biên khôn cùng; ngài và tôi tuy khác biệt nhau về tánh  chất nhưng cùng đồng quan niệm về tâm linh; ngài đã từng là vị thần hộ mạng của  tôi trải qua nhiều thế kỷ, xin ngài hãy đáp lại lời cầu nguyện của tôi và hãy  giúp lời mách bảo cho tôi. 
  Khi đó, từ trong cột ánh sáng  chói lòa bỗng xuất hiện hình ảnh một nhân vật cao cả huy hoàng. Gương mặt của  nhân vật ấy giống như một người đang độ thanh xuân, nhưng với phong thái uy  nghi của một đấng thần tiên ung dung tự tại. Một vầng hào quang bao bọc chung  quanh thân hình và những tia ánh sáng tỏa ra chung quanh mái tóc dợn sóng trên  đầu vị thiên thần. Hai tay khoanh trước ngực, thiên thần dừng lại cách 
Zanoni chừng vài bước và nói thấp giọng: 
  – Xưa kia, những lời khuyên của  ta luôn được ông nghe theo. Trước kia, đêm đêm ông có thể theo dõi sự di chuyển  của ta xuyên qua không gian vô tận. Nhưng ngày nay ông đã tự trói buộc mình vào  cõi thế gian bằng những sợi dây rất kiên cố bền chặt; và sự hấp dẫn của thể xác  bằng cát bụi còn mạnh hơn cả lòng ưu ái làm cho các thiên thần muốn đến với  ông. Lần cuối cùng mà ông nghe tiếng nói của ta thì những xúc cảm của giác quan  cũng đã làm cho trí tuệ và nhãn quang tâm linh của ông bị lu mờ. Một lần nữa,  ta đến với ông, nhưng cái quyền năng mà ông có để kêu gọi ta xuất hiện đã bị  che lấp, cũng như ánh nắng mặt trời tan biến khỏi mặt nước khi có cụm mây che  giữa trời xanh và mặt đại dương. 
  
Zanoni đáp một cách chua  cay: 
  – Hỡi 
Adonai, tôi cũng  biết quá rõ những điều ngài nói. Tôi biết rằng nguồn gốc của sự minh triết là  thái độ thản nhiên đối với sự vật của trần gian, vốn chỉ là những điều phù du  giả tạm. Tấm gương sáng của tâm hồn không thể phản ảnh cùng một lúc cả đất lẫn  trời, mà chỉ có thể phản ảnh một trong hai thứ. Một lần nữa, với sự cố gắng khổ  nhọc của một quyền năng đã giảm sút, tôi kêu gọi và khẩn nguyện đến ngài. Nay  tôi đang yêu, và do tình yêu đó, tôi bắt đầu sống trong cuộc sống êm đềm của một  người khác. Với một ít minh triết còn lại của tôi, tôi còn có thể tự cứu giải  khỏi mọi sự hiểm nguy đe dọa bản thân tôi, nhưng tôi lại mù quáng không biết gì  về định mệnh tương lai của người con gái đã làm rung động quả tim tôi bằng một  thứ tình yêu say đắm, làm cho thần trí của tôi bị che ám lu mờ. 
  Thiên thần 
Adonai đáp:  
  – Vô ích! Đó chỉ là thứ tình  cảm tầm thường, không xứng đáng với tình yêu dành cho cả nhân loại. Một người  như ông lẽ ra không thể yêu bằng thứ tình cảm tầm thường của thế gian. Không  bao lâu nữa, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi dường như một ngày trong cuộc  đời trường cửu của ông, thì cái hình hài thể chất của người mà ông yêu thương  chỉ còn là cát bụi. Những người ở trần gian đều phải trải qua sinh tử luân hồi.  Ông còn có thể sống thêm nhiều thế kỷ nữa, còn nàng thì chỉ còn là vấn đề giờ  khắc. Hỡi người siêu nhân có đầy quyền năng nhưng hãy còn đau khổ, giữa ông và  nàng ấy làm sao có thể có được một sự tái hợp tương ứng về sau này? Tâm hồn  nàng còn phải trải qua bao nhiêu sự chìm nổi, bao nhiêu giai đoạn tuần tự trên  các cảnh giới vô hình, còn ông là một bậc siêu nhân còn sót lại trong sự sống  cô đơn, sẽ vượt khỏi cuộc sống trần ai tục lụy để vươn mình lên tới ngưỡng cửa  ánh sáng. 
  – Hỡi thiên thần! Ngài lẽ nào  không biết rằng ý nghĩ đó vẫn thường ám ảnh tôi không lúc nào nguôi? Và lẽ nào  ngài không biết rằng khi tôi kêu gọi đến ngài chính là để ngài nghe lời cầu  nguyện của tôi và giúp đỡ tôi? Ngài lẽ nào không thấu rõ ước vọng và hoài bão của  tôi là muốn nâng cao trình độ tâm linh của nàng lên tới mức độ của tôi sao? Hỡi  thiên thần 
Adonai, ngài sống trong niềm an tĩnh phúc lạc của cõi trời  muôn đời trường cửu, chỉ do bởi đạo tâm tương ứng mà ngài có thể thông cảm những  gì tôi đang cảm xúc, một con người của chủng tộc loài người, khi tôi nhận thấy  rằng tôi phải chịu cảnh sống cô đơn trên cõi thế gian này. Tôi đã cố tìm một  người bạn đường tri kỷ trong những đồng loại của tôi, nhưng không có kết quả.  Sau cùng, tôi đã tìm thấy một người bạn gái tâm giao, tương đồng thanh khí.  Loài chim muông, mãnh thú cũng còn có bạn đường, huống chi con người? Nói về sự  tương hợp tâm linh giữa tôi với nàng về sau này thì đối với những “vong linh giữ  cửa” trấn giữ cõi vô hình, tôi có đủ quyền năng để đuổi chúng ra khỏi con đường  hẹp đưa nàng lên các cõi trên, trong khi chờ đợi bầu không khí siêu việt của  cõi đạo nhiệm mầu chuẩn bị cho nàng sẵn sàng tiếp nhận kim đơn thần dược để trở  nên trường sinh bất tử. 
  – Và ông đã bắt đầu nghi thức  nhập môn cho nàng, nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu, và ông đã thất vọng. Ta biết!  Ông đã làm cho những linh ảnh tốt đẹp huy hoàng xuất hiện trong giấc ngủ của  nàng, ông đã ra lịnh cho những địa tiên và tinh linh trong không gian trỗi những  khúc nhạc huyền diệu của cõi trời để ru hồn nàng và đưa nàng vào cơn đại định.  Nhưng linh hồn nàng không chịu nghe theo những dẫn dụ này, và khi trở về cõi tục,  nàng thoát ly ra khỏi những ảnh hưởng huyền diệu đó. Tại sao vậy? Mù quáng thay  cho ông! Ông không nhìn thấy sao? Đó là vì trong tâm hồn nàng, tất cả đều là  tình yêu! Nàng không có một sở thích riêng nào có sự phù hợp hoặc tương ứng với  những điều mà ông muốn truyền qua cho nàng bằng những bí thuật huyền môn. Những  kiến thức đó chỉ có thể được tiếp nhận bởi những tâm hồn đang nuôi ước vọng và  hoài bão tâm linh. Nếu không như vậy thì làm sao những kiến thức huyền môn lại  có thể liên hệ với tình yêu thế tục, vốn là loại tình cảm đam mê hữu hoại vô  thường? 
  – Có thể nào có một sự vật  nào đó làm trung gian, làm sợi dây liên lạc để cho tâm hồn cũng như tình yêu của  chúng tôi có thể hòa hợp và do đó tâm hồn nàng sẽ mở rộng để sẵn sàng đón nhận ảnh  hưởng của tôi chăng? 
  – Ông đừng hỏi ta điều đó. Vì  ông sẽ không hiểu được ta. 
  – Xin ngài vui lòng dạy bảo,  tôi xin nghe theo. 
  – Khi hai tâm hồn cách biệt  nhau quá, lẽ nào ông lại không biết rằng cần có một tâm hồn thứ ba mà cả hai đều  có thể gặp nhau qua đó và cùng chia sẻ sự sống với nhau? Đó chính là mắt xích  liên lạc để nối liền họ với nhau. 
  
Zanoni nói với một niềm  hân hoan vui sướng hiện trên nét mặt: 
  – Tôi hiểu ngài muốn nói gì rồi!  Và nếu định mệnh của tôi là cùng chung số phận với những kẻ tầm thường khiêm tốn  nhất, nếu tôi cũng có một đứa con mà tôi có thể ôm ấp vào lòng và gọi nó là con  tôi... 
  – Ông đã cố gắng vươn mình  lên tới địa vị siêu nhân, phải chăng rốt cuộc cũng chỉ là để trở lại làm một  người tầm thường? 
  – Nhưng một đứa con, một Kiều  Dung thứ nhì trong đời tôi... 
  
Zanoni thầm nhủ một mình,  dường như không còn nghe thấy tiếng nói của thiên thần. 
  – Một đứa con... một linh hồn  trẻ mà tôi sẽ nuôi dưỡng từ khi mới chào đời, tôi có thể dạy dỗ, rèn luyện cho  nó noi theo bước chân tôi để vẫy vùng trong khắp vũ trụ, và nhờ đứa con ấy mà mẹ  nó sẽ có thể được giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi! 
  – Ông hãy coi chừng! Hãy suy  nghĩ kỹ! Ông có biết chăng kẻ thù độc hại nhất luôn ẩn núp dưới bóng chân lý?  Những mong ước của ông càng ngày càng làm cho ông trở nên gần gũi hơn với nhân  loại. 
  
Zanoni đáp ngay không ngần  ngại:
  – A! Nhân loại cũng đáng  thương lắm chứ! 
  Nghe đến đây, thiên thần 
Adonai nở một nụ cười trên gương mặt và biến mất dạng... 
  
Thư Zanoni gửi Kiềm Mâu 
  “Về phần tôi, điều mà đạo  huynh đã cảnh giác tôi, nay đã đến. Tình yêu đem mọi sự về với mình. Tôi phải,  hoặc tự hạ thấp xuống cho vừa với trình độ của người tôi yêu, hoặc nâng cao  trình độ của nàng lên ngang hàng với tôi. Để đưa vào cửa đạo một linh hồn khiết  bạch như nàng, tôi đã kêu gọi đến sự trợ giúp của các thiên tinh trong không  gian, là những vị có những hình thể dịu dàng tươi sáng, để nhờ các vị ấy xuất  hiện trong những giấc mơ của nàng. Nhưng các vị ấy cũng không thể đưa tâm thức  của nàng lên cao hơn mức độ của quả tim, vì quả tim của nàng sống trong một cảnh  giới riêng của nó. Tôi vừa nhìn ngắm nàng trong giấc ngủ. Tôi nghe nàng thốt  tên tôi trong cơn mơ. Than ôi! Đối với người khác thì đó là một điều sung sướng,  nhưng đối với tôi thì đó lại là một niềm cay đắng, vì tôi nghĩ rằng thời gian  qua mau, sẽ có lúc mà giấc ngủ này không còn mộng mơ, quả tim đầy tình yêu này  sẽ cứng lạnh, đôi môi vừa thốt ra tên tôi đó rồi cũng sẽ câm lặng! 
  Thật là lạ thay khi người ta  nghĩ đến hai đối tượng trái ngược nhau trong tình yêu. Nếu quan niệm tình yêu  dưới khía cạnh thô kệch và nhục dục của xác thể, hoặc dưới khía cạnh đam mê sôi  sục của tình cảm chiếm hữu, thì người ta không khỏi lấy làm ngạc nhiên lạ lùng  khi thấy rằng sự đam mê đó lại có thể là động lực sáng tạo của trời đất; là nguồn  cảm hứng của mọi sự hy sinh cao cả vĩ đại! Tình yêu đó đã từng ảnh hưởng đến xã  hội loài người xuyên qua cả thời gian và không gian. Những bậc vĩ nhân cao cả  nhất trong thiên hạ cũng phải suy tôn phụng thờ tình yêu; và chính nhờ tình  yêu, chỉ nhờ vào tình yêu mà thôi, mà con người mới có được những nền văn minh  rực rỡ huy hoàng, những kỳ công về văn nghệ, mỹ thuật, tuyên dương cái hay cái  đẹp trong thiên nhiên, và nói chung là có một đời sống cao thượng hơn loài vật!  
  Bây giờ chúng ta hãy quan sát  tình yêu dưới khía cạnh cao quí siêu việt, hoàn toàn vị tha, vô kỷ. Tình yêu  siêu việt ấy đáp ứng những gì là tế nhị, tinh anh trong tâm hồn con người. Nó  có sức mạnh vô cùng huyền diệu để có thể biến đổi một mái nhà tranh thành một  tòa cung điện lâu đài, một bãi sa mạc khô khan thành một xóm làng xanh tươi trù  phú, một vùng tuyết băng giá lạnh thành một nơi cỏ cây sầm uất dưới ánh mặt trời.  Trên thế gian ít có người biết quan niệm tình yêu dưới khía cạnh thiêng liêng  đó. 
  Hỡi Kiềm Mâu, có ngày tôi sẽ  nói chuyện với đạo huynh về Kiều Dung như một biểu tượng điển hình của tình yêu  thiêng liêng siêu thoát. Hỡi Kiềm Mâu! Tôi có tin mừng để báo với huynh: một  linh hồn mới sắp sửa chào đời. Một linh hồn mới sẽ gọi tôi bằng “cha”! Đối với  người thế gian bận rộn lo toan sinh kế hằng ngày, họ còn cảm thấy một niềm vui  sướng được sống lại thời thơ ấu khi nhìn thấy khuôn mặt non trẻ của đứa con  chào đời. Trong việc sinh ra một đứa con, họ cảm thấy dường như chính họ được  tái sinh một lần nữa trong trạng thái hồn nhiên vô tội và thánh thiện, vốn là  trạng thái nguyên thủy tối sơ của đời sống con người. 
  Người đời có thể hiểu rằng họ  cũng chia sẻ phần nào sứ mạng của một thiên thần khi họ có bổn phận nuôi dưỡng  và dìu dắt một linh hồn kể từ khi còn nằm trong nôi cho đến cứu cánh sẽ vươn  mình lên tận cõi trời. Nếu người thế tục còn có được những cảm nghĩ như thế,  thì cái hạnh phúc của tôi sẽ lớn đến đâu khi tôi đón nhận một linh hồn thừa kế  để truyền sang cho nó tất cả những khả năng hiện có của tôi, dường như tôi đang  sống lại cuộc đời của chính tôi xuyên qua đứa hài nhi, và tăng gia sự sống ấy  lên gấp bội phần. 
  Thật là một niềm vui sướng  lâng lâng nhẹ nhàng thay, khi tôi có thể chuyển hướng trào lưu sinh hoạt của  mình sang một con đường khác. Trên con đường đó hai tâm hồn chúng tôi, Kiều  Dung và tôi, sẽ gặp nhau. 
  Đứa con ấy sẽ tạo nên sự hòa  hợp tâm linh còn thiếu sót giữa chúng tôi hiện nay. Khi đó thì liệu có một bóng  ma nào có thể ám ảnh nàng, có một hình ảnh khủng khiếp nào có thể làm cho nàng  kinh sợ, nếu như nghi thức vào cửa huyền môn được thực hiện kề bên vành nôi đứa  con yêu của nàng?” 
 Sự lo ngại của Kiều Dung 
  Zanoni và Kiều Dung hằng  ngày vẫn dạo chơi trên bãi cát và chiều đến thì ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn từ  từ khuất bóng dưới lòng biển sâu. Họ đã ở trên hòn đảo này từ bao lâu rồi? Nhiều  tháng, hoặc có lẽ nhiều năm, nhưng điều đó có quan hệ gì? Họ có cần gì phải nhớ  rõ cái thời kỳ hạnh phúc đó là bao nhiêu lâu? Giấc mộng trong một lúc, đôi khi  cũng gây cho ta cái cảm giác như đã kéo dài hàng thế kỷ. Như thế, làm sao ta có  thể đo lường những cảm xúc vui buồn bằng ý niệm thời gian? 
  Mặt trời đã dần dần chếch  bóng; không khí có vẻ khô ráo và nặng nề. Chiếc tàu lớn vẫn bỏ neo ngoài khơi;  trên bờ không một ngọn gió làm rung lá trên các cành cây. 
  Kiều Dung tiến đến gần 
Zanoni.  Một linh cảm kỳ lạ mà nàng không thể giải thích làm cho tim nàng đập mạnh hơn  lúc bình thường. Nhìn vào gương mặt của 
Zanoni, nàng lấy làm ngạc nhiên  vì nét mặt ấy biểu lộ một sự băn khoăn, lo nghĩ và bối rối. Nàng nói thấp giọng:  
  – Sự im lặng thâm trầm này làm  cho em sợ hãi! 
  
Zanoni không tỏ vẻ gì đang  nghe lời nàng nói. Chàng lẩm bẩm một mình điều gì đó, và đôi mắt chàng nhìn  quanh bốn phía một cách lo ngại. Nàng không hiểu tại sao, nhưng cái nhìn của  chàng như muốn dò thám trong không gian và những câu nói lẩm bẩm một mình bằng  một thứ ngoại ngữ của chàng lại gợi cho Kiều Dung những ý nghĩ mê tín của nàng  trước kia, khi nàng nghĩ rằng có lẽ chàng là một nhà phù thủy bàng môn tả đạo. 
  Nàng đã trở nên dễ xúc cảm và  dễ sợ sệt hơn kể từ ngày biết mình sắp được làm mẹ. Đó là một cơn khủng hoảng lạ  lùng trong cuộc đời và trong tình yêu của một người phụ nữ. Một đứa trẻ còn  chưa sinh ra mà đã tranh chấp quả tim nàng với người từng làm chủ quả tim ấy 
  – 
Zanoni! Anh hãy nhìn  mặt em! 
  Nàng vừa nói vừa nắm lấy bàn  tay chàng. 
  – Kiều Dung! Em có vẻ tái  xanh, bàn tay em lại hơi run. Sao vậy? 
  – Đúng thế. Em cảm thấy dường  như có điều gì chẳng lành sẽ đến với chúng ta. 
  – Linh cảm của em quả thật  không lầm. Điều chẳng lành ấy quả thật đã đến. Anh nhìn thấy nó xuyên qua bầu  không khí nặng nề này! Anh nghe thấy nó đến xuyên qua cái im lặng chung quanh  ta. Đó là bịnh ôn dịch giết người tàn khốc! Em hãy chú ý nhìn xem những lá cây  kia: trên đó có đầy những loài sâu bọ; bịnh dịch đã đem chúng nó đến đây! 
  Khi 
Zanoni còn đang  nói chưa dứt, thì một con chim từ trên cành cây té rơi xuống dưới chân Kiều  Dung. Nó còn giãy giụa một lần cuối cùng rồi mới chết hẳn. 
Zanoni bất  giác kêu lên một cách lo lắng: 
  – Ôi! Kiều Dung! Thần chết đã  tới đó! Em có sợ chết chăng? 
  – Nếu chết có nghĩa là bỏ anh  ở lại thì... có, em có sợ thật đấy! 
  – Và nếu anh có thể chỉ dẫn  cho em biết cách làm thế nào để chiến thắng sự chết; nếu anh có thể ngăn chặn  bước tiến của thời gian để giữ cho thời kỳ son trẻ của em được lâu bền trường cửu;  và nếu anh có thể... 
  Chàng bỗng nhiên ngừng nói,  vì thấy Kiều Dung biến sắc. Đôi mắt nàng đầy vẻ sợ hãi, đôi má và đôi môi nàng  tái nhợt. Nàng vừa hối hả quay mặt đi một cách sợ sệt vừa nói: 
  – Anh đừng nói như thế; anh đừng  nhìn em như thế! Anh làm cho em sợ. Ôi! Anh đừng nói vậy nữa làm em cảm thấy  run sợ, không phải cho em, mà là cho con của em! 
  – Con của em! Nhưng em không  muốn cho con em cũng có được quyền năng tương tự như thế sao? 
  – 
Zanoni! 
  – Em muốn nói gì? 
  – Mặt trời lặn trước mắt  chúng ta, nhưng chỉ là để mọc lên trước những đôi mắt khác. Từ bỏ thế giới này  tức là đến sống nơi một thế giới khác thanh cao hơn. Chàng ơi! Hãy nói với em rằng  vừa rồi chàng chỉ nói đùa đấy thôi! Bịnh ôn dịch có lẽ cũng không ghê rợn đáng  sợ như những lời chàng vừa nói! 
  
Zanoni sa sầm nét mặt, rồi  im lặng nhìn nàng một lúc. Sau cùng, chàng nói bằng một giọng gần như nghiêm khắc:  
  – Em đã biết được những gì về  anh mà lại nghi ngờ anh như vậy? 
  Kiều Dung ngả đầu vào ngực  chàng và khóc nức nở: 
  – Em xin lỗi anh? Em không biết  gì cả. Nhưng em không muốn tin những lời nói của anh, dẫu cho chúng tố giác  anh. 
  
Zanoni lau sạch những giọt  lệ của Kiều Dung bằng một nụ hôn, nhưng không đáp lại. Nàng bèn phát lên một tiếng  cười tinh nghịch và ngây thơ, rồi nói: 
  – A ha! Nếu anh cho em một lá  bùa để trị bịnh ôn dịch thì đây rồi, em sẽ đích thân gỡ lấy. 
  Kế đó nàng luồn tay vào ngực  chàng để nắm lấy một đạo linh phù mà chàng đeo nơi cổ rồi nói: 
  – Chàng có biết đâu rằng vật  này đã làm cho em ghen tức dĩ vãng. Chắc hẳn đó là kỷ vật của một mối tình nào?  Nhưng không, chắc chắn anh không yêu người nào khác như anh yêu em. Em muốn  đánh cắp đạo bùa của anh đây. 
  
Zanoni nói một cách âu yếm:  
  – Em ơi! Người đàn bà đã đeo  nó vào cổ anh hẳn là đã xem nó như một linh vật hộ phù, vì người ấy cũng như  em, đã có ít nhiều sự mê tín. Nhưng đối với anh, vật ấy có giá trị hơn một đạo  linh phù: đó là kỷ niệm một thời kỳ hạnh phúc đã qua, mà những người từng yêu  anh không hề ngờ vực anh. 
  Chàng nói những lời ấy với một  vẻ trách móc u buồn đến nỗi làm cho Kiều Dung phải xúc động tận đáy lòng. Nhưng  chàng lại nói thêm với một giọng nghiêm nghị làm cho lòng nàng tê tái: 
  – Kiều Dung, có lẽ một ngày  kia anh sẽ chuyển đạo linh phù này sang ngực em, khi em đã hiểu về anh nhiều  hơn, nghĩa là khi mà “những định luật về sự sinh tồn của chúng ta sẽ giống như  nhau”. 
  Nói đến đây, chàng đứng dậy sửa  soạn bước đi. Hai người cùng nhau đi chậm bước trở về nhà. Nhưng Kiều Dung vẫn  cảm thấy lo sợ trong lòng, dẫu rằng nàng cố xua đuổi cái cảm giác ấy. Nàng là một  người Ý theo đạo Gia Tô, với tất cả niềm tin của xứ sở quê hương và tôn giáo  nàng. Khi về đến phòng riêng, nàng liền cầu nguyện trước một bức tượng nhỏ của  Thánh 
Janvier. Một vị giáo sĩ địa phương đã cho nàng bức tượng này từ  khi nàng còn nhỏ. Nàng luôn đem theo bức tượng ấy bên mình dù đi đến bất cứ nơi  nào... 
  Bệnh dịch đã thật sự xuất hiện  và hoành hành dữ dội trên đảo. Hai người phải bỏ nhà đi nơi khác. 
  Hỡi siêu nhân, ông không có một  quyền năng nào để cứu nguy cho những người mà ông thương yêu. Vĩnh biệt tổ uyên  ương đầm ấm; vĩnh biệt mảnh đất êm đềm của tình yêu tràn đầy hạnh phúc! Ôi! Những  ngọn gió thổi xuôi thuận chiều, hãy thổi mạnh hơn nữa! Hãy thổi căng phồng những  cánh buồm lớn kia lên, để đưa cặp uyên ương tránh xa dải đất mà thần chết đã đến  để cướp đoạt quyền uy ngự trị của thần ái tình!