Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Thiền Lâm Bảo Huấn [禪林寶訓] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Thiền Lâm Bảo Huấn [禪林寶訓] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.66 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.78 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thiền Lâm Bảo Huấn

Kinh này có 4 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 |
Việt dịch: Thích Tâm Châu

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

79.– DIỆU NGỘ
Trạm-Đường-Chuẩn Hòa-Thượng khi mới tham học nơi ngài Chân-tịnh, thường thắp đèn trong mùng xem sách. Ngài Chân-Tịnh thấy thế trách: Gọi là người tham học, mong trị tâm trước hết. Dù học nhiều mà tâm không trị thì học có ích gì? Hơn nữa, các môn học khác nhau của hàng trăm nhà, nhiều như núi cao, biển sâu, ông học được hết chăng? Nay ông bỏ gốc theo ngọn, như người nghèo muốn sai khiến người giàu, không những nó khó thực hiện mà còn sợ rằng, nó làm phương hại đến đạo-nghiệp. Vậy, ông nên ngăn lấp ngay mọi duyên, quyết cầu sự diệu-ngộ. Ngày kia chứng ngộ rồi, ông xem đọc kinh sách, như là đẩy cánh cửa vào cối cửa không khó khăn gì cả!
Tức thì, ngài Trạm-Đường bỏ hết sự tập-học cũ, chuyên-chú vào thiền-quán. Một ngày nọ, Ngài nghe thấy một vị Tăng-sĩ đọc bài biểu xuất-quân của Gia-Cát Khổng-Minh, bỗng dưng Ngài khai-ngộ. Do sự khai-ngộ, tất cả những gì ngưng trệ trong Ngài từ trước, đều tiêu-tan và từ đây Ngài biện-tài lưu-loát, mà những vị đồng hàng với Ngài ít có người hơn được.
80.– ƯA VÀ GHÉT
Ngài Trạm-Đường nói: Người có đạo-đức muốn vui chung với mọi người. Người không có đạo-đức thích vui riêng nơi thân mình. Vui chung với mọi người thì sự vui ấy được lâu dài, còn vui riêng nơi thân mình thì sự vui ấy chóng mất.
Thời nay xưng là trụ-trì, thường hay đem tâm ưa, ghét đối với chúng-nhân, nên chúng-nhân không theo. Trụ-trì biết quan-sát, tại sao cái ưa thích của mình mà chúng-nhân lại ghét bỏ và cái ghét bỏ của mình chúng-nhân lại ưa-thích, thì hiện nay ít có. Cho nên, có chỗ nói: “Cùng chung cùng vui, buồn cùng ưa, ghét đó là điều nghĩa. Có nghĩa thì trong thiên-hạ ai cũng qui-kính.”
81.– QUYỀN BIẾN
Ngài Trạm-Đường nói: Đạo là cái cân chính-đáng của xưa và nay. Người khéo hoằng đạo là người biết được chỗ biến, thông. Người không biết biến, thông hay câu-nệ văn-tự, giáo-điển, chấp tướng, chấp tình là những người chưa đạt được quyền biến.
Có vị Tăng hỏi ngài Triệu-Châu[83]: “Vạn pháp qui về một, thì một ấy qui về đâu?” Ngài Triệu-Châu đáp: “Khi tôi ở Thanh-châu, tôi may một cái áo đơn nặng bảy cân.” Nếu cho là cổ-nhân không đạt được quyền biến thì sao có những lời thù tạc như thế. Thánh-nhân xưa (Lão-Tử) có nói: “Hang sâu vô tư, nên nhận những tiếng vang từ chỗ khác tới. Chuông chịu dùi đánh nên đánh vào là thấy tiếng ứng ngay.” Thế mới biết các bậc thượng-sĩ thông phương, làm ngược lại sự bình thường mà hợp đạo, chứ không giữ một mực mà không biết ứng biến.
82.– BẠN BÈ
Ngài Trạm-Đường nói: Người tu học cần tìm bạn, mà bạn phải là người đáng làm khuôn pháp cho ta theo. Được bạn như thế rồi, hàng ngày ta phải thực lòng tôn kính bạn và, làm việc gì phải giữ đúng pháp, hầu mong có lợi-ích cho ta. Hoặc trí-thức của bạn hơi hơn ta, ta cũng noi theo, để thức tỉnh ta trong những chỗ chưa kịp bạn. Vạn nhất, bạn cùng ta tương tự, chẳng bằng không có bạn.
83.– ĐƯỢC NGƯỜI
Ngài Trạm-Đường nói: Tổ-Đình ở vào thời cuối Thu, có người ở chốn Thiền-lâm mà không làm những việc ồn ào, nông nổi, thực là khó tìm được. Xưa kia, Chân-Như-Triết Thiền-Sư ở chùa Trí-Hải thường nói: Khi tôi ở chùa Đạo-Ngô, thuộc miền Tương-Giang tuy chúng không nhiều, chỉ có mấy vị lão-tăng, mà hành-trì được đạo. Từ khi tôi từ chùa Đạo-Qui dời về chùa Trí-Hải này, Tăng chúng không dưới chín trăm vị, mà không có được năm, bảy vị hiểu được lời nói của tôi. Thế mới biết, được người không phải ở chỗ đông đảo.
84.– KHÓ KHĂN
Ngài Trạm-Đường nói: Trên đời này chỉ có việc làm biết thực người là khó. Không thể bằng vào một lời cật-vấn hay đối đáp mà có thể biết hết được về người. Có người, miệng lưỡi biện luận linh lợi, nhưng việc làm của họ có thể chưa tin được. Có người lời nói của họ vụng về, nhưng lý của họ chưa phải là cùng. Tuy cùng lời, nhưng sợ chưa cùng lý. Tuy phục miệng nhưng sợ chưa phục tâm. Biết người là khó, thánh nhân còn lo!

Gần đây, sự thông-minh của hàng Tăng-sĩ, chẳng qua chỉ chuyên về việc thông suốt nhân-tình, và sự thấy, nghe của họ chỉ rình mò vào kẽ hở lỗi-lầm của người khác mà thôi. Vì vậy, dục vọng của họ trái với chúng nhân, phương hướng của họ trái với đại đạo. Thời thường, tâm cùng ưa chuộng của họ là giả-dối, niệm cùng che giấu của họ là man-trá. Như thế, tất nhiên khiến đạo Phật Tổ càng ngày càng suy kém, thực không sao cứu vãn được!
85.– NƯƠNG TỰA
Ngài Trạm-Đường nói với ngài Diệu-Hỷ[84]: Tỳ-Khưu trong thời tượng-quí này, bên ngoài thì thuận theo vật cảnh, bên trong thì không rõ tâm-tính. Dù có người làm những việc coi như là rộng lớn nhưng, chỉ là hư-phù, mà đều không phải là cứu-cánh. Vì đó chỉ là nương-tựa vào sự ty-tiện, bỉ-ổi, nơi người khác mà nên. Như con nhặng đậu trên lưng con trâu, thì nó chỉ đi được vài bước. Nhưng nếu nó bám vào đuôi con ngựa giỏi, thì coi như nó có tài nhanh như theo gió và đuổi theo mặt trời. Đó chỉ là thắng lợi do sự nương tựa mà thôi.

Cho nên, người tu học, ở phải chọn nơi, chơi phải lựa người, mới có thể dứt được những điều tà vạy, gần được người trung chính và nghe được lời nói chân-chính. Xưa kia, Phúc-Nghiêm, Lương-Nhã Hoà-Thượng[85] thường mến chuộng thể-cách ngài Chân-Như-Triết. Song, chưa biết Ngài thường y-phụ cùng ai. Một hôm, Hoà-Thượng thấy ngài Chân-Như-Triết cùng đi với các ngài: Đại-Ninh-Khoan, Tưởng-Sơn-Nguyên[86] và Thúy-Nham-Chân. Hòa-Thượng Lương-Nhã vui mừng khôn xiết và thung-dung nói với ngài Chân-Như-Triết: Các Đại-sĩ là bậc long-tượng trong pháp-môn mà tôi may mắn được theo. Ngày sau, chống đỡ sự đổ-nát của đạo ta, làm rạng rỡ sự lợi sinh trong giáo-pháp của các Tổ, hẳn không phải là ở chỗ phó-chúc nhiều lần của tôi mà là ở chỗ gương sáng giao bạn của các Ngài vậy.
86.– THAM THIỀN
Ngài Trạm-Đường nói với ngài Diệu-Hỷ: Tham thiền cần phải có thức-kiến cao, suy nghĩ xa, chí-khí siêu-việt. Trong khi nói năng, làm việc cần giữ lòng thành-tín đối với người và, không khuất-phục theo thế-lực, quyền lợi. Được như thế, tự nhiên không bị những bạn bè vẽ vời, đòi hỏi và không bị sự lên, xuống của thời thế.
87.– THÀNH THỰC
Ngài Trạm-Đường nói: Xưa kia, tôi cùng với ngài Linh-Nguyên hầu Hòa-Thượng Hối-Đường ở chùa Chương-Giang. Một hôm, ngài Linh-Nguyên cùng với hai vị Tăng đi vào trong thành đến chiều mới về. Hòa-Thượng Hối-Đường hỏi: Hôm nay các ông đi đâu? Ngài Linh-Nguyên đáp: Chúng con vừa đến chùa Đại-Ninh về. Lúc ấy, ngài Tử-Tâm[87] đứng ở bên, cất tiếng trách: Tham thiền muốn thoát sinh tử, nói năng trước phải thành thực, sao Thanh huynh lại nói dối! Ngài Linh-Nguyên đỏ mặt và không dám đáp lại. Từ đấy ngài Linh-Nguyên không dám vào thành và cũng không dám nói dối nữa.
Tôi vẫn biết ngài Linh-Nguyên và ngài Tử-Tâm đều là bậc lương-khí.
88.– HIẾU HỌC
Ngài Trạm-Đường nói: Ngài Linh-Nguyên ham xem kinh sử, đến nỗi khi ăn, khi nghỉ cũng không ngừng và, chỉ khi nào học thuộc lòng rồi mới thôi. Hoà-Thượng Hối-Đường thấy thế mới răn trách. Ngài Linh-Nguyên thưa: “Con thường nghe, dụng sức nhiều thì thu công nhiều.” Vì vậy, Hoàng-Thái-Sử Lỗ-Trực[88] nói: “Thanh huynh ham học như đói được ăn, khát được uống, coi lợi-dưỡng màu-mè như đồ hôi xấu. Hẳn là, tâm-tính thành-thực tự-nhiên, chứ không phải trong trường hợp đặc-biệt miễn cưỡng mà làm được!”
89.– TRUNG ĐẠO
Linh-Nguyên-Thanh Hoà-Thượng trụ-trì chùa Thái-Bình (Thư-châu) mỗi khi thấy ngài Phật-Nhãn xử sự với chúng rất chu đáo tế-mật và, không để một việc gì xảy ra không hay. Nhân đó, Ngài mới hỏi về yếu-nghĩa của vấn đề ấy. Ngài Phật-Nhãn nói: Dụng sự, thà rằng bị sai lầm trong lúc thong-thả, chứ không nên để xảy ra sự sai lầm trong lúc cấp-bách, thà rằng bị sai lầm trong khi còn giản-lược, chứ không nên để xảy ra sự sai lầm trong khi đã xét kỹ. Sai lầm xảy ra trong lúc cấp-bách thì không thể nào gỡ được, sai lầm trong khi đã xét kỹ thì không thể dung được. Nên giữ mức trung đạo và, đãi ngộ với người trong lúc thong-thả, mới là phương-pháp làm việc xử sự với chúng vậy.
90.– ĐẠO VÀ THỜI
Ngài Linh-Nguyên nói với Trường-Linh-Trác Hoà-Thượng[89]: Làm đạo phải có thời. Xưa kia, ngài Từ-Minh dụng-ý đi lang-thang trong đất Kinh-Sở để tìm hiểu phương-pháp truyền đạo. Người ta thấy thế, khinh-khi Ngài, Ngài an chịu sự nhẫn-nhục nhơ-nhớp ấy và, Ngài chỉ cười mà thôi. Có người hỏi: Sao họ đối xử với Ngài như thế mà Ngài lại cười? Ngài đáp: Ngọc liên-thành[90] và ngói sỏi va chạm nhau, tôi biết hẳn là tôi không thắng nổi! Mãi sau khi yết-kiến ngài Thần-Đỉnh[91], tiếng khen của Ngài mới vang dậy khắp tùng-lâm và, sau này Ngài sáng khởi lên đạo-phái Lâm-Tế.
Ôi, đạo và thời không thể cưỡng được!
91.– LO XA
Ngài Linh-Nguyên nói với Hoàng-Thái-Sử: Người xưa nói: “Ôm lửa để dưới đống củi, nằm lên trên, lửa chưa cháy tới đã cho là an-ổn”. Lời nói này thực là một lời ví-dụ về cơ an, nguy, lẽ sinh tử, rõ như ban ngày, không sai chút nào.
Người ta khi bình-thường ở nơi an nhàn, ít ai lo đến lẽ sinh-tử, họa-hoạn. Một mai, sự việc bất trắc xảy ra, khi ấy mới dậm chân, đấm ngực kêu cứu thì đã muộn và, hoàn toàn không thể cứu giúp được.
92.– VÌ ĐẠO
Ngài Linh-Nguyên nói với ngài Phật-Giám: Phàm, nhận được thư của Đông-Sơn Sư-huynh, chưa bao giờ có lá thư nào Sư-huynh nói về việc đời mà chỉ đinh-ninh dặn-dò là nên quên mình để mở rộng đạo và, dẫn-dắt hậu-lai mà thôi. Gần đây, nhận được một lá thư, Sư-huynh nói: Các trang-trại hạn-hán mất mùa tôi đều không lo, mà chỉ lo Thiền-gia không có người có đạo-nhãn. Mùa Hạ năm nay có hơn một trăm vị an-cư, trong nhà đem ra bàn về câu chuyện “con cẩu không có Phật-tính” mà không có một vị nào hiểu được. Đó thực đáng lo!
Lời nói ấy thực chí lý vậy. Ngày nay cũng có những người lo: Hoặc lo việc trong chùa không làm xong, hoặc sợ có điều gì sơ-xuất với quan-chức bị hiềm trách, hoặc lo thanh-danh chức vị của mình không hiển-dương, hoặc sợ đồ-chúng không đông. So-sánh hai sự lo ấy, thực khác nhau như trời với đất vậy.
Ta thường suy nghĩ, những lời nói thành-thực vừa ý ấy dễ gì được nghe lại. Cháu ta (chỉ ngài Phật-Giám) là cháu nối pháp chính-thức của tông-môn, nên gắng sức chấn-chỉnh gia-phong, an ủy sự kỳ-vọng của tông-thuộc. Đó là sự cầu mong tha-thiết của ta vậy.
93.– THÀNH CÔNG
Ngài Linh-Nguyên nói: Lấy đá mài, mài đá mài, tuy không thấy nó mòn, nhưng có lúc thấy nó hết. Trồng cây, vun bón cây, tuy không thấy nó cao, nhưng có lúc thấy nó lớn. Chứa góp đức-hạnh, tuy không biết sự hay của nó, nhưng có lúc đắc dụng. Bỏ nghĩa trái lý, tuy không biết sự xấu của nó, nhưng có lúc sẽ chết vì nó. Người học đạo, quá như suy-tính kỹ-lưỡng được những lời nói trên và, noi theo thực-hành, quyết-định thành bậc đại-khí và mỹ-danh vang-dội. Đó là đạo-lý xưa nay không thay đổi vậy.
94.– TÂM LƯỢNG
Ngài Linh-Nguyên nói với Cổ Hòa-Thượng[92]: Họa, phúc nương tựa nhau, tốt, xấu cùng lãnh-vực. Chúng đều do nơi việc làm của người mà người tự vời lấy. Như vậy, há không đáng suy nghĩ sao! Hoặc chuyên để sự mừng, giận trong mình mà lòng dạ hẹp lại, không có lượng bao-dung. Hoặc phóng-túng tư-tâm, tiêu-dùng hoang-phí, theo dục-vọng của người. Những việc như trên đều không phải là những việc cấp-bách của trụ-trì, mà thực ra nó là sự dông-dỡ của tình-ý từ chỗ xa-xôi mà dần dần phát-khởi. Do đó, nó tạo thành cơ-sở, căn-nguyên của họa hại vậy.
95.– HỌA – PHÚC
Ngài Linh-Nguyên nói với Y-Xuyên Tiên-sinh[93]: Họa có thể sinh ra phúc và phúc có thể sinh ra họa. Họa sinh ra phúc, vì người ta khi ở vào chỗ tai-ách, tha thiết nghĩ về sự được an và, sâu xa tìm cầu lý giải-thoát, nên kính cẩn sợ hãi, để tâm vào việc làm, do đó phúc sinh ra là thích đáng vậy. Phúc sinh ra họa, vì khi người ta ở vào chỗ an-lạc, thái-bình, phóng-túng trong sự xa-hoa dục-lạc, dông-dỡ trong sự kiêu-mạn, lười biếng, do đó, càng nhiều sự sơ-sót, khinh người, nên họa sinh ra là thích đáng vậy.
Thánh-nhân (Lão-Tử) nói: “Gặp nhiều nạn mới thành chí, không gặp nạn dễ mất mình. Được là đầu mối của mất. Mất là lý lẽ của được”. Thế mới biết, phúc không thể thường may gặp, được không thể thường hy vọng. Ở vào lúc có phúc biết lo đến sự tai-họa thì phúc ấy giữ được. Thấy được biết lo mất, thì được ấy hẳn tới. Cho nên, người quân-tử, an không quên nguy, trị không quên loạn vậy.
96.– MINH ĐẠO
Ngài Linh-Nguyên nói với Y-Xuyên Tiên-sinh: Như người đi nắng, ghét thấy dấu vết và hình bóng, liền quay đầu chạy. Song, càng chạy vội bao nhiêu, dấu vết càng nhiều và hình bóng càng nhanh bấy nhiêu. Chẳng bằng vào chỗ rợp mà nghỉ, hình bóng tự diệt và dấu vết tự dứt. Hàng ngày xét rõ việc này, chỉ một phút tĩnh-tọa có thể tiến được đạo vậy.
97.– LƯỢNG SỨC
Ngài Linh-Nguyên nói: Ngôi vị trụ-trì, nếu năng-lực ít mà trách-nhiệm quá nặng, thì ít có vị làm việc được trọn-vẹn. Vì, phúc đức ít ỏi, độ-lượng hẹp hòi, kiến văn thô-lậu, không theo việc thiện, làm việc nghĩa, lại tự cao, tự quảng mà ra vậy.
98.– ẨN MÌNH
Ngài Linh-Nguyên nghe thấy ngài Giác-Phạm[94] bị Tần-Cối trách phạt và đuổi ra Lĩnh-Hải, Ngài than: Cây lan trồng giữa đường, quyết không có sự xanh tốt suốt bốn mùa, mà cây quế mọc trong hang sâu thì giữ được hoàn-toàn sự xanh tốt quanh năm. Xưa nay người tài-trí bị mất mệnh, bị sàm báng, bị tội vạ thì nhiều, còn những người biết tìm xét, biết cùng sự phù-trầm của đời để bảo-toàn được thân mình thì ít. Cho nên, Thánh nhân nói: “Người có tư-chất thông-minh, xét người một cách kỹ-lưỡng hay bị gần chỗ chết, vì hay bàn việc người. Người biện-bác xa rộng, hay bị nguy đến thân, vì hay vạch lỗi xấu người”. Lời nói này hẳn có ở trường hợp ngài Giác-Phạm vậy.
99.– BIẾT VÀ LÀM
Ngài Linh-Nguyên nói với ngài Giác-Phạm: Tôi nghe Ngài ở Lĩnh-Nam, thường thường nghiên cứu kinh Lăng-Nghiêm và, đặc-biệt thêm lời giải-thích những ý thiếu, đó không phải là sự hy-vọng của kẻ bất-tiếu. Vì cái học văn tự không thể làm thông suốt tính-nguyên người đương thời lại làm cho những kẻ hậu học, ngăn che mất trí-nhãn của tiên Phật. Bởi họ nương tựa vào sự giải-thích của người khác, làm ngăn lấp cửa tự-ngộ của họ. Nhờ khẩu-thiệt họ có thể thắng những người ít học, nhưng mở rộng thần-cơ để chứng-ngộ đến chỗ cực-diệu thì rất khó. Cho nên, sự hiểu biết và sự thực-hành so le nhau nhiều quá, thì sự kiến văn hàng ngày càng thêm mê-mờ vậy.
100.– DIỆU DỤNG
Ngài Linh-Nguyên nói: Sự cử-động, thi-thố của người học đạo không thể không xét và, lời nói việc làm của người học đạo cũng không thể không xem. Người ít nói chưa hẳn là người ngu, người nói giỏi chưa hẳn là người trí, người quê mùa, chất-phác chưa hẳn là người bội-nghịch, người theo thuận mình chưa hẳn là người trung. Cho nên, thiện-trí-thức không thể dùng lời nói mà biết hết được tình người và, không thể dùng ý mình mà tuyển chọn học-giả.
Hàng Tăng-sĩ trong năm hồ bốn biển, ai không muốn cầu đạo. Nhưng, những người hiểu rõ tâm mình, thấy suốt chân-lý, thì trong trăm nghìn người không được một người. Tuy vậy trong số ấy những người cố gắng sửa mình, trau-dồi hạnh-kiểm, gom góp học-vấn, vun trồng đức-nghiệp, thành một người có phẩm-cách, cũng phải mất ba mươi năm công-phu mới đạt được. Ngẫu nhiên, có một sự sai lầm, mà tùng-lâm ruồng bỏ, thì suốt đời người ấy không thể lập nghiệp được nữa. Viên ngọc sáng soi được mười hai cỗ xe[95] không thể không có tỳ-tiết, ngọc bích liên-thành, há khỏi không có vết đục. Phàm, người ta còn ở trong vòng hữu-tình thì đều có lỗi lầm. Đức Khổng-Tử còn cho năm mươi tuổi mới học kinh Dịch, lời nói ấy không phải là thái-quá. Trong Khế-kinh cũng nói: “Không sợ ý-niệm phát-khởi, chỉ sợ giác-ngộ chậm-trễ”. Như vậy, từ bậc thánh-hiền trở xuống, ai là không có lỗi-lầm! Những người được uốn nắn thành ở nơi bậc thiện-tri-thức, thì những phẩm-vật ấy không nên bỏ sót vậy.
Cho nên có chỗ nói: Người thợ mộc khéo, tùy theo gỗ mà dùng làm bánh xe hay tăm xe. Như vậy, dù gỗ cong hay gỗ thẳng, không bỏ sót mảnh nào. Người khéo điều-khiển xe ngựa, tùy theo đường hiểm hay đường dễ mà đổi ngựa cho hợp. Như vậy, ngựa dở, ngựa hay, không trái tính chúng. Vật còn như thế, thì người cũng nên thế. Nếu tiến, thoái tùy theo tình yêu, ghét; tan, hợp hệ vào sự hứng-thú dị, đồng, thì không khác gì như người thợ mộc bỏ giây mực mà làm theo gỗ cong, thẳng, như người buôn bán bỏ bàn cân mà so sánh nặng, nhẹ. Tuy cho là tinh vi, nhưng không thể không lầm lẫn được.
101.– CÔNG TÂM
Ngài Linh-Nguyên nói : Người khéo trụ-trì lấy tâm chúng-nhân làm tâm mình, mà không cần phải dùng riêng tâm mình; lấy tai mắt chúng-nhân làm tai mắt mình, mà không cần phải dùng riêng tai mắt mình. Như thế, thì có thể suốt được chí chúng-nhân và hết được tình chúng-nhân. Dùng tâm chúng-nhân làm tâm mình thì sự ưa ghét của ta là sự ưa, ghét của chúng-nhân, nên ưa không tà và, ghét không lầm, tội gì phải dùng đến sự riêng tư, ký-thác vào tâm-phúc người và, cam chịu sự nịnh hót của người. Đã dùng tai mắt chúng-nhân làm tai mắt mình, thì sự thông minh của chúng-nhân là sự thông minh của mình. Đã minh thì cái gì cũng soi thấu và đã thông thì cái gì cũng nghe biết, tội gì phải dùng đến sự riêng tư ký thác vào tai mắt người mà vời lấy sự ngăn che, mê hoặc của người.
Giải bày tâm phúc, ký thác tai mắt, bậc hiền đạt chuyên xét lỗi mình, theo sự mong muốn của chúng-nhân, không chút thiên tư nên tâm chúng-nhân đều quay về. Và, do đó, đạo đức nhân nghĩa lưu bá xa gần, thích đáng với lẽ này vậy. Ngược lại, tâm ý của người ngu, kẻ bất tiếu, chuyên xét lỗi người, trái với lòng mong ước của chúng-nhân, sa vào thiên tư nên tâm chúng-nhân đều xa tránh và, do đó tên xấu, hạnh hiểm truyền bá xa gần cũng thích đáng với lẽ này vậy.
Thế mới biết, trụ-trì cùng theo sự mong muốn của chúng nhân, gọi là người hiền-triết, người trái với sự mong muốn của chúng-nhân, gọi là kẻ dung-lưu. Tóm lại, ý bày tỏ tâm phúc, ký-thác tai mắt có khác nhau, mà thiện, ác, thành, bại trái nghịch nhau như thế, há chẳng phải là cái tình tìm lỗi có khác và, cái đạo dùng người chẳng đồng ư?
102.– HÓA DUYÊN
Ngài Linh-Nguyên nói : Cận-đại, sự giao-thiệp của các vị Trưởng-lão có hai loại nhân-duyên, mà phần nhiều là thấy sự trí-thức của người không rõ-rệt, nên bị va chạm vào hai loại gió : thuận, nghịch của đời, làm mất pháp-thể. Một là, nhân-duyên ứng-phó với nghịch-cảnh, bị va chạm nhiều vào loại gió suy-tổn. Hai là, nhân-duyên ứng-phó với thuận-cảnh, bị va chạm nhiều vào loại gió quyền lợi. Đã bị va chạm vào hai loại gió trên, thì khí lực của sự mừng, giận giao-động trong tâm, khí-sắc hớn-hở, hầm-hầm, hiện trên nét mặt. Do đó, đem lại sự điếm nhục pháp-môn, và bị sự chê bai của người hiền đạt.
Chỉ bậc có trí-tuệ gặp duyên thuận, nghịch khéo chuyển nó làm phương-tiện nhiếp-hóa và, lưu lại tiếng tốt, dẫn đạo hậu lai là hơn cả. Như Lang-Da Hòa-Thượng[96] tới Tô-Châu thăm ông Phạm-Hy-Văn[97] được tín-thí cúng-dường số tiền đến hơn một nghìn quan, Ngài liền sai người âm thầm đi tính số Tăng-chúng của các chùa trong thành là bao nhiêu và, cũng âm thầm sai đem số tiền trên cúng dường Tăng-chúng. Cùng ngày đem cúng tiền Tăng-chúng, các thí-chủ, định sửa cơm chay cúng-dường, nên Ngài đã từ biệt ông Phạm-Hy-Văn trước, và tờ mờ sáng hôm ấy Ngài xuống thuyền về chùa, không chịu ở lại. Sáng ngày, chúng-nhân biết Ngài đã đi về, có người đuổi theo Ngài đến Thường-Châu để mời lại, nhưng được Ngài thuyết pháp cho nghe và, những người ấy nhận pháp lợi mà trở về.
Xem cử-chỉ này của một vị Trưởng-lão, khiến cả đạo và đời ở Cô-Tô đều khởi tín-tâm và tăng thêm đạo-chủng một cách sâu xa. Đây là chuyển cảnh-duyên làm phương-tiện nhiếp-hóa. Việc này cùng với những vị có những mưu-kế lạm-trộm pháp-vị, tham cầu lợi dưỡng cho một mình, thực xa cách nhau như trời đất vậy!
103.– ĐỨC NGHIỆP
Ông Văn-Chính-Công nói với ngài Lang-Da : Năm ngoái tôi đến trọng nhậm tại Tô-Châu này. Tôi nghĩ, làm sao tôi có thể gặp được vị Tăng nào mà tôi có thể nói chuyện được. Tôi liền hỏi một viên-chức ở đây : Các sơn-môn ở đây có vị Tăng nào tốt, giỏi không? Viên-chức này đáp : Tại chùa Thụy-Quang ở phía Bắc thành này có hai vị Tăng tên là Hy và Mậu[98] là người tốt, giỏi. Tôi lại hỏi : Ngoài chùa ấy ra, trong các chùa Thiền, chùa Luật khác, không còn có vị nào nữa chăng? Viên-chức ấy đáp : Nhà Nho tôn những kẻ sĩ có đức-hạnh, Tăng-gia bàn về những vị có đức-nghiệp, thì như hai vị Hy và Mậu kia, suốt ba mươi năm không ra khỏi cửa, chỉ mặc áo vải, thanh-danh, lợi dưỡng tuyệt không để trong tâm, cho nên người trong xứ này thấy sự thao-lý cao-cả của hai vị, nên người ta đều tôn-kính hai vị ấy như bậc Thày. Còn các vị khác lên tòa thuyết pháp, thay Phật hoằng-dương giáo pháp, tùy theo căn cơ, biện-tài tự tại, được gọi là thiện-tri-thức, thì viên-chức ngu dốt này không thể biết được.
Nhân ngày nhàn rỗi, tôi tới thăm hai bậc thượng-nhân Hy và Mậu. Tôi xem tố-hạnh của hai vị, quả như viên-chức kia đã nói. Tôi về nhà suy nghĩ : Xưa nay vẫn gọi châu Tô, châu Tú có phong tục tốt, nay xem viên-chức già này còn phân biệt được sự hơn, kém của quân-tử, tiểu-nhân như vậy, huống là những người trí-thức !
Ngài Lang-Da nói: Nếu lời nói của viên-chức kia thực là lời bàn cao-cả, xin ghi lại để giúp thêm sự hiểu biết cho những người chưa được nghe.
104.– HIỂU ĐỜI
Ngài Linh-Nguyên nói: Chung-Sơn-Nguyên Hòa-Thượng[99] bình-sinh không giao-du với hàng công-khanh. Ngài không cầu danh-lợi, tự dưỡng tính bằng khiêm-nhượng và tự vui bằng đạo vị.
Lúc đầu, các sĩ, đại-phu khuyên Ngài ứng thế. Ngài nói: “Nếu có ruộng tốt, lo gì thóc có muộn. Song, chỉ sợ thiếu tài trí mà thôi!” Kinh-Công nghe lời ấy của Ngài, nói: “Chim nhìn sắc người bất thiện, cất cánh bay tìm chỗ không có tên đạn mới đỗ xuống.” Với sự kiến cơ này, Nguyên-Công biết được vậy.
105.– KHÓ LÀM
Ngài Linh-Nguyên nói: Tiên-triết thường nói: Học đạo, chứng ngộ được là khó. Chứng-ngộ rồi, giữ được là khó. Giữ được nhưng thực hành là khó. Khi thực hành, sự khó ấy còn khó hơn cả khi chứng ngộ và khi gìn giữ. Vì khi chứng-ngộ, khi gìn giữ, chỉ cần tinh tiến, bền chí, cao hạnh, cố gắng nơi thân mình mà thôi. Còn khi thực hành, quyết định phải có tâm bình đẳng, thệ nguyện kiên cố, lấy sự tổn mình ích người làm mục đích, mới có thể làm trọn trách nhiệm được. Nếu tâm không bình đẳng, thệ nguyện không kiên cố, ích mình, tổn người, thì sự tổn, ích bị đảo lộn. Đã có sự đảo lộn, tức là sa vào hàng lưu tục, a sư. Thực rất kinh sợ!
106.– TỰ KHIÊM
Ngài Linh-Nguyên nói: Đông-Sơn Sư-Huynh[100] thiên-tư đĩnh-đặc, cao cả khác thường, khi nói năng, khi im lặng đều giữ được pháp-độ trung-dung. Khi tầm thường, Ngài nói ra một lời, một câu để khai thị chúng-nhân, thì nghĩa lý ấy tự-nhiên siêu-thăng. Các nơi muốn bắt chước Ngài, nhưng khi họ nói ra, không phải là lời quỷ-quyệt, bỉ-tục, thì cũng là lời dâm-đãng, thô lậu, kết-cục, đương thời, không nơi nào theo kịp được, và, xét ngay trong các bậc cổ-nhân cũng không thể có được nhiều vị như vậy. Được như vậy, song Ngài vẫn nhún nhường ánh sáng đặc dị ấy, để dẫn-đạo chúng-nhân, không khác gì như đói được ăn, khát được uống. Ngài thường nói: “Tôi không có đạo-pháp gì sao có thể dám khuyên răn các vị. Tôi, thực là tội-nhân trong pháp-môn vậy!”
107.– KIỂM TRÁCH
Ngài Linh-Nguyên, đạo, học, hạnh, nghị của Ngài thuần-thành hậu-đức, có phong-cách của cổ-nhân. Bình thường, Ngài giữ sự an-tịnh, cẩn-trọng, ít nói, càng làm cho các hàng sĩ, đại-phu tôn kính.

Ngài thường nói: Chúng-nhân sơ sót, thánh-nhân cẩn-thận. Vị làm chủ tùng-lâm, giúp việc tuyên-dương giáo-hóa của Phật, không phải là vị đã được hành giải tương-ứng, há có thể làm được. Điều cốt yếu là thường thường phải kiểm-điểm tự-trách, đừng để cho thanh-danh, lợi-dưỡng nảy mầm nơi tâm mình. Thảng hoặc, pháp-lệnh có chỗ chưa tin, hàng Tăng-sĩ có chỗ chưa phục thì mình nên nghĩ lại, tu thêm đạo-đức, đợi thời cơ sau này sẽ hoằng-hóa. Chưa thấy có ai chính thân mà tùng-lâm không an-trị được!
Có chỗ nói: “Xem dung mạo người có đức, khiến ác-ý của người khác tiêu tan”. Thành-thực là ở đức vậy.
108.– GIÁO DƯỠNG
Ngài Linh-Nguyên nói với ngài Viên-Ngộ[101]: Hàng Tăng-sĩ tuy có tư-chất thấy đạo, nhưng nếu không có sự giáo dưỡng sâu dày, thì khi họ phát-khởi tác-dụng, tất có những hành động bạo-ngược ghê gớm. Như thế, không những không bổ ích gì cho giáo-môn và còn sợ mang họa nhục nữa.
109.– THÀNH TÍN
Viên-Ngộ Thiền-Sư nói: Học đạo cần giữ chữ TÍN, lập tín cần giữ chữ THÀNH. Trong tâm giữ chữ THÀNH thì chúng-nhân không ngờ vực. Nơi mình giữ chữ TÍN, thì có thể dạy người không dối trá. Tín và thành có sự bổ ích đối với mình và không mất lòng người.
Thế mới biết, tâm thành bất nhất thì tâm ấy không thể giữ được. Tín-lực bất nhất, thì lời nói không thể thực-hành được. Cổ-nhân nói: “Áo mặc, cơm ăn có thể bỏ được, chứ thành tín không thể mất được”. Thiện-tri-thức nên dạy người bằng hai chữ thành tín. Tâm chẳng thành, sự chẳng tín gọi là thiện-tri-thức được sao?
Kinh dịch nói: “Chỉ có cự chí-thành đối với thiên-hạ, mới hiểu hết được tính của thiên-hạ. Hiểu hết được tính của thiên-hạ, mới hiểu hết được tính người”. Tự mình đã không hết thành-tín với mình, mà lại muốn người hết thành-tín với mình, tất nhiên chúng-nhân khinh-khi mà chẳng theo. Tự mình đã không thực với việc làm trước, mà lại nói là thực với việc làm sau, tất nhiên chúng-nhân ngờ vực, không tin. Có chỗ nói: “Cắt tóc nên cắt đến tận da, cắt móng tay nên cắt đến sát thịt”. Thành không hết lòng, thì người ta không cảm, tổn không đến nơi, thì ích cũng chẳng tới. Thành và tín không thể xa mình trong giây lát, rõ vậy.
110.– SỬA SAI
Ngài Viên-Ngộ nói: Người ta, không ai là không có lỗi, có lỗi mà đổi được thì điều hay ấy còn gì lớn hơn nữa. Từ trên, các bậc thánh-hiền đều khen sự thay đổi lỗi-lầm là hiền-đức, chứ không khen việc không có lỗi là đẹp.
Vì vậy, người ta khi làm việc, phần nhiều là có sự sai lầm, mà từ người trí đến người ngu đều không tránh khỏi được. Nhưng, người trí biết sửa đổi lỗi-lầm tới chỗ thiện-mỹ, còn người ngu phần nhiều đều che giấu lỗi lầm, trang sức điều trái. Tới chỗ thiện-mỹ thì đức-nghiệp mỗi ngày một đổi mới, nên gọi người ấy là quân-tử. Trang sức cho lỗi lầm thì điều ác càng rõ, nên gọi người ấy là tiểu-nhân.
Thế nên, nghe lời nói có nghĩa-lý mà tâm chuyển dời tới đó, thường tình là khó. Thấy điều thiện mà vui theo, là điều mà bậc hiền-đức ưa chuộng. Trên đây là các lời răn của thánh-nhân, mong các vị hãy bỏ ngoài lời nói của tôi, mà nhận lấy ý của tôi là được vậy!
111.– CẢM PHỤC
Ngài Viên-Ngộ nói: Tiên-sư thường nói: Làm bậc Trưởng-lão, có đạo-đức cảm được người, có thế lực phục được người. Như, chim loan chim phụng bay thì trăm loài cầm kính mến, con hổ con lang đi thì trăm loài thú sợ hãi. Sự cảm-phục là một, nhưng phẩm-loại thì khác nhau như trời, đất vậy.
112.– THEO ĐẠO
Ngài Viên-Ngộ nói với Long-Tạng-Chủ[102]: Muốn chỉnh-lý tùng-lâm mà không chuyên về việc được tình người thì tùng-lâm không thể chỉnh-lý được. Chuyên về việc được tình người mà không chăm về việc tiếp người dưới thì tình người không thể được. Chuyên chú về việc tiếp người dưới, mà không phân-biện người hiền kẻ bất tiếu, thì người dưới cũng không thể tiếp được. Chuyên về việc phân-biện người hiền kẻ bất tiếu, mà ghét nói lỗi mình, vui thuận tâm mình, thì không thể phân-biện được người hiền, kẻ bất tiếu. Duy có người hiền-đạt, không ghét nói lỗi mình, không vui thuận lòng mình, chỉ biết theo đạo, nên được tình người, mà tùng-lâm được chỉnh-lý vậy.
113.– ĐỨC HẠNH
Ngài Viên-Ngộ nói: Trụ-Trì lấy trí chúng-nhân làm trí mình, lấy tâm chúng-nhân làm tâm mình. Thường sợ không hết tình với một người, không đúng lý với một việc, nên luôn luôn thiết tha với việc hỏi han và lĩnh thụ những điều chỉ bảo. Và, chỉ có điều thiện là mong cầu mà thôi. Vì vậy nên hỏi về lý phải trái, đừng nên bàn về việc lớn nhỏ. Nếu lý phải, dù phí-tổn nhiều vẫn làm, có thiệt gì. Nếu việc trái, tuy dụng độ nhỏ, bỏ đi có hại gì. Vì nhỏ sẽ dần dần thành lớn, vi-tế là manh-nha của sự rõ-rệt. Cho nên, người hiền cẩn-thận ngay từ lúc ban đầu, thánh-nhân giữ gìn khi nó còn vi-tế.
Giọt nước chảy tí-tách không ngăn, sau sẽ thành dòng nước và biến thành ruộng dâu. Đốm lửa cháy leo lét không dập, thoáng qua có thể cháy khắp đồng nội. Khi nước chảy, lửa cháy mạnh, thì tai-họa đã thành, muốn cứu hẳn không kịp. Sách xưa nói: “Không giữ hạnh nhỏ, sau lụy đức lớn”, là ý này vậy.
114.– LỢI THA
Ngài Viên-Ngộ nói với ngài Nguyên-Bố-Đại[103]: Phàm, gọi là Trưởng-lão là phải giúp vào việc tuyên-dương giáo-hóa của Phật và, thường nghĩ đem tâm lợi người, giúp đời mà làm việc. Làm việc mà không kiêu-căng, thì việc làm ấy lan rộng và, sự giúp ấy được nhiều. Song, nếu có tâm cậy mình, khoe tài, thì niệm kiêu-hãnh phát khởi và, tâm của kẻ bất-tiếu sẽ sinh ra.
115.– THỦY CHUNG
Ngài Viên-Ngộ nói với ngài Diệu-Hỷ: Phàm, khi cử-động, đặt-để phải cẩn-thận trước sau. Vì vậy, khéo làm tất khéo thành, khéo trước tất khéo sau. Cẩn-thận sau như trước, thì việc không hỏng. Sách xưa nói: “Tiếc áo khi chưa may xong đã chuyển may thành cái xiêm. Đường đi trăm dặm, mới đi được một nửa hay chín mươi dặm đã trở lại”. Đây là lời than có trước mà không có sau. Kinh Thi nói: “Không có trước, ít có sau”. Xưa kia, Hối-Đường lão-thúc nói: Hoàng-Bá-Thắng Hoà-Thượng[104] là một Tăng-sĩ lỗi-lạc, nhưng về già thì lầm lẫn. Như thế, xem việc làm lúc đầu của Ngài há chẳng cho là bậc hiền ư?
116.– NGHIỆM XƯA

Ngài Viên-Ngộ nói với ngài Phật-Giám: Bạch-Vân Sư-ông trong khi động-dụng, cất đặt, Ngài quyết định phải xem xét pháp-tắc của thánh-hiền xưa. Ngài thường nói: Sự việc không xét theo xưa, tôi cho đấy là không được như pháp. Tôi ghi nhiều những lời nói và việc làm của thánh-hiền xưa, thành chí bình-sinh của tôi. Tôi không phải là người đặc-biệt hiếu cổ, nhưng vì người đời nay không đủ pháp-độ để tôi bắt chước.

Tiên-sư thường nói: Sư-ông chấp cổ, không biết tùy thời mà biến đổi. Sư-ông nói: Biến cải việc xưa, thay đổi pháp thường, là tai hoạn lớn cho người đời nay. Tôi hoàn toàn không làm.
117.– TỰ TRỌNG
Phật-Giám-Cần Hòa-Thượng từ chùa Thái-Bình dời về chùa Trí-Hải, quan Quận-Thú là Tăng-Công-Nguyên ra làm lễ và hỏi: Ai có thể kế vị trụ-trì? Ngài Phật-Giám cử Bính-Thủ-Tọa[105]. Ông Tăng-Công-Nguyên muốn được yết-kiến Bính-Thủ-Tọa. Ngài Phật-Giám nói: Bính-Thủ-Tọa là người cương-chính, xa lánh việc đời, không ham muốn gì, mời Bính-Thủ-Tọa còn không theo, há là chịu tự lại. Ông Tăng-Công-Nguyên cố yêu cầu, Bính-Thủ-Tọa nói : “Đây là việc trình thân Trưởng-lão.” Bính-Thủ-Tọa liền trốn vào núi Tư-Không. Ông Tăng-Công-Nguyên quay lại nói với ngài Phật-Giám: Biết con chẳng bằng biết cha, cha nào con ấy vậy! Liền nhờ chư sơn cố thỉnh, bức-bách, bất đắc dĩ, Bính-Thủ-Tọa phải ứng-mệnh.
118.– CAO THƯỢNG
Ngài Phật-Giám nói với ngài Tuân-Phật-Đăng[106] : Kẻ sĩ cao thượng không lấy danh vị làm vinh và con người đạt lý không bị chèn ép làm khốn. Còn người nhờ chút ân-huệ gắng sức làm theo, được chút lợi-lộc đem hết lòng thành cung-kính, những người như thế đều là hạng người trung-bình trở xuống mới làm những việc ấy.
119.– ƯA THÍCH
Ngài Phật-Giám nói với Bính-Thủ-Tọa: Phàm, gọi là bậc Trưởng-lão, trong tâm cần phải không thích một vật gì. Nếu tâm còn thích một vật gì, thì bị ngoại vật làm hại. Thích thị-dục thì tâm tham-ái sinh, thích lợi-dưỡng thì niệm ganh-đua khởi, thích thuận-tòng thì kẻ tiểu-nhân a-dua họp lại, thích được thua thì núi nhân, ngã cao, thích gom góp của cải thì tiếng ta-thán phát-xuất. Xét cùng, tất cả không xa lìa nhất tâm. Tâm nếu không sinh, muôn pháp tự hết. Những điều mà tôi biết được trong đời tôi, không vượt quá chỗ ấy. Ông nên gắng sức chăm tu và, đem chỗ biết được ấy làm qui-pháp chân-chính cho người học sau.
120.– KIỆM ĐỨC
Ngài Phật-Giám nói: Tiên-sư tiết-kiệm, một túi đựng bát, một túi đựng giày, vá đụp đến trăm nghìn lớp mà Ngài vẫn không nỡ bỏ. Ngài thường nói: Hai vật này theo tôi, từ khi tôi dời Quì-Quan đến nay đã gần năm mươi năm, há nỡ giữa đường vứt bỏ. Hữu-Toàn, Nam-Ngộ Thượng-Tọa đem một áo lông mạng vải dâng Ngài. Thượng-Tọa nói: Áo này mua được từ hải-ngoại, mùa Đông mặc vào thì ấm, mùa Hạ mặc vào thì mát. Tiên-sư nói: Lão Tăng mùa rét đã có than củi, chăn dày, mùa nóng có gió thông, nước đá, giữ áo này làm chi. Ngài nhất định khước từ không nhận.
121.– THƯƠNG TIẾC
Ngài Phật-Giám nói: Tiên-sư nghe Hòa-Thượng Chân-Tịnh viên-tịch, Ngài đặt linh-vị, sửa đồ cúng, khóc thương quá lễ, và than: “Người này thực khó có được. Người này thấy đạo tận căn-đế, không vướng vào cành lá. Nhưng, tiếc là mất sớm! Nay chưa nghe biết có ai nối được đạo-nghiệp ấy. Tùng-lâm Giang-Tây từ đây vắng vẻ vậy!”
122.– GIỮ ĐẠO
Ngài Phật-Giám nói: Tiên-sư nói: Bình-sinh, Bạch-Vân Sư-ông, trong tâm không còn một chút gì ngưng-đọng. Khi Ngài thấy việc gì hợp nghĩa-lý có thể làm được, Ngài mừng rỡ và, tự-thân đứng ra làm trước. Ngài hay dẫn dắt và đề-bạt những người hiền-năng. Nhưng Ngài không ưa những người có tính-cách cẩu-hợp vì tài-lợi mà xu-phụ hay ly-biệt. Ngài như như tự-tại, ngồi trên một cái giường hẹp suốt ngày. Ngài thường nói với Ngưng thị-giả: “Yên phận nghèo giữ đạo là bổn phận của Tăng-sĩ. Nếu lấy sự cùng, đạt, được, mất mà bỏ sự giữ đạo ấy, thì chưa thể nói đạo vậy.”
123.– GIAN NAN
Ngài Phật-Giám nói: Người làm đạo không lo, thì tâm thao-lý không xa, xử mình thường cầu-an, thì dụng chí không lớn. Cổ nhân, trải sự gian-nan, nếm mùi hiểm-trở, sau mới hưởng được cái yên trọn đời. Vì, việc khó thì chí bén, khắc khổ thì lo sâu, mới chuyển họa thành phúc, chuyển vật làm đạo vậy.
Nay phần nhiều thấy người học đạo, thường theo ngoại vật mà quên đạo, bỏ sáng mà vào tối. Như thế, là trang sức chỗ không có tài-năng của mình mà dối người cho là mình có trí-tuệ. Gượng hơn người trong chỗ chẳng kịp của mình, mà khinh người cho là mình cao hơn. Dùng những sự việc ấy để dối người, mà không biết rằng có chỗ không thể dối được bậc tiên giác. Dùng những sự việc ấy để ngăn che người, mà không biết rằng không thể ngăn che được công-luận. Cho nên, nếu mình tự cho là trí thì người cho là ngu, mình tự hạ thì người tôn cao.
Bậc hiền đức thì không thế, cho muôn sự ở đời khác nhau, nên tản mác vô cùng, trí năng của người có hạn lượng, nên hữu tận. Muốn đem trí hữu tận mà nhìn khắp vào sự việc vô cùng, thì trí thức có chỗ thiên lệch, tinh thần có chỗ cùng khốn. Vì vậy, đối với đại đạo quyết định có sự quan hệ.
124.– TAM QUYẾT
Ngài Phật-Giám nói với Long-Nha-Tài Hòa-Thượng[107]: Muốn đổi mới tệ-bệnh của tiền nhân, không nên bỏ vội vàng, mà phải nhân việc gì đó mới thay đổi, thì tiểu-nhân không ngờ vực và, ngõ hầu không sinh ra sự oán-hận. Tôi thường nói: Trụ-trì có ba điều quyết biệt: Kiến sự (thấy rõ sự việc), năng hành (làm việc đạt tới đích) và, quả-đoán (quả-quyết trong việc xét đoán phải trái một cách minh-bạch). Ba điều ấy thiếu một thì thấy việc không rõ, sau sẽ bị tiểu-nhân khinh-mạn và, đạo trụ-trì không chấn-hưng được.
125.– TRONG SẠCH

Ngài Phật-Giám nói: Phàm, làm chủ một chùa, quý ở chỗ thao-lý trong sạch và giữ tâm rất tín-thành, để tiếp đãi hàng Tăng-sĩ bốn phương. Sự việc hơi có một chút thô-bỉ khinh-mạn bằng sợi tóc ở nơi mình mà không bỏ, thì liền bị tiểu-nhân dòm ngó. Tuy có đạo-đức như cổ-nhân, người học đạo cũng ngờ mà không tin.
126.– DANH TIẾT
Ngài Phật-Giám nói: Đệ-tử ngài Phật-Nhãn chỉ có ngài Cao-Am là người cương-trực, đĩnh-đặc, không gần nhân-tình, không ham thích gì, làm việc không viện-dẫn bè-đảng và, có đức thanh-tịnh, trang-nghiêm, đoan-cung, kính-cẩn. Trước sau Ngài lấy danh-tiết tự-lập, có phong-cách cổ-nhân, hàng Tăng-sĩ cận-đại, ít có người sánh kịp.
127.– NGHIÊM CẨN
Phật-Nhãn-Viễn Hòa-Thượng[108] nói: Dung-mạo khi tới chỗ đại-chúng quyết-định cũng phải nghiêm-kính như những ngày nhàn-rỗi, lời nói đối với tân-khách nên nghiêm-trang thành-thực như khi yên-tĩnh một mình. Vị Tăng-sĩ, khi phát-ngôn, dụng sự, cất đặt, làm lụng phải suy nghĩ trước, sau mới thực-hành, đừng nên làm việc một cách vội-vàng, thô bạo. Hoặc tự mình không quyết-đoán được cần phải hỏi nơi các bậc kỳ-cựu, các bậc tiên-hiền cho rộng kiến văn, hầu thêm vào chỗ chưa hay, soi sáng chỗ chưa hiểu. Chả lẽ cứ làm ra vẻ có khí-thế, mặc sức làm sự cống cao, tự bày sự hôi nhơ của mình mãi sao! Nếu một hạnh đã để mất trước đây, thì sau này dù có trăm điều hay cũng không thể che lấp được.
128.– LỢI DỤC
Ngài Phật-Nhãn nói: Người ta sinh trong vũ-trụ này, bẩm theo khí âm-dương mà thành hình. Tự mình nếu không phải là bậc Ứng-Chân[109], theo sức bi-nguyện, xuất-hiện thế-gian để độ sinh thì tâm lợi-dục tựa hồ không thể bỏ được. Chỉ có bậc thánh-nhân biết không thể bỏ được lợi-dục của con người, nên trước đem đạo-đức để chính tâm, sau lấy nhân, nghĩa, lễ, trí giáo-hóa, đề phòng. Ngày tới, tháng đến, dần dần khiến lợi-dục không thắng được nhân, nghĩa, lễ, trí, mà đạo đức được hoàn-toàn vậy.
129.– THỰC NGỘ
Ngài Phật-Nhãn nói: Người học đạo không nên chấp-nệ vào văn-tự, ngữ-ngôn. Vì, văn-tự, ngữ-ngôn dựa vào sự hiểu biết của người khác, làm chướng ngại cửa chứng ngộ của mình và, không thể ra khỏi biểu-tượng của văn-tự, ngữ-ngôn được. Xưa kia, ngài Đạt-Quan-Dĩnh[110] khi mới tới yết-kiến Thạch-Môn-Thông Hòa-Thượng, trong nhà thường có những lời biện-luận dông-dài. Ngài Thạch-Môn-Thông nói: Lời nói của các ông chỉ là lời nói trên giấy. Nếu bàn về tâm tinh-vi của các ông thì chưa thấy được chỗ huyền-áo. Các ông nên tìm ngay vào chỗ diệu-ngộ. Diệu-ngộ rồi thì tự thành cao siêu, hùng-kiệt, không phải nhân theo lời nói, không phải chấp đọng câu văn và, khi ấy, như tiếng sư-tử-vương gầm lên thì trăm con thú phải kinh-hãi, ngoảnh lại xem cái học văn-tự, như mười sánh với trăm và nghìn sánh với vạn vậy.
130.– QUI-PHÁP
Ngài Phật-Nhãn nói với ngài Cao-Am[111]: Thanh-qui của ngài Bách-Trượng đại-khái là nêu việc chính, xét việc tà, làm khuôn-pháp cho người, làm tề-chỉnh đại-chúng và, nhân thời cơ, đem dùng để điều-chế tình-thức của những người sau. Tình người như nước, qui-củ, lễ-pháp là bờ đập. Bờ đập không chắc, tất nhiên nước sẽ đục thủng chảy ra. Tình người không điều-chế thì phóng-túng, loạn động. Cho nên, muốn bỏ tình, thôi vọng, cấm ác, ngăn tà, không thể một thời một khắc quên mất qui-củ được. Thế thì, qui-củ, lễ-phép có thể ngăn-ngừa hết được tình thức của người chăng? Đây chỉ là thềm bậc giúp cho người vào đạo mà thôi. Qui-củ được lập ra, rõ ràng như mặt trời, mặt trăng trên không trung, người trông thấy không bị mê mờ, rộng rãi như đường lớn, người đi không bị lầm lạc. Tiên-thánh lập ra qui-pháp tuy khác nhau, nhưng dòng chảy về nguồn thì không khác.
Cận đại, tùng-lâm có người dựa thế, ra sức sai khiến người làm theo qui-củ, có người không biết quyền biến giữ qui-củ đến chết và, có người miệt thị qui-củ. Những việc làm ấy đều trái đạo, thất lễ và, đó chỉ là thả tình theo ác mà sinh ra vậy. Những người ấy, họ không nghĩ rằng tiên-thánh lập ra qui-pháp là muốn cứu tệ-bệnh đời mạt-pháp, cấm tình-thức, phóng-dật, lấp đầu mối ham muốn và, dứt con đường tà vạy!
131.– TRÁCH MÌNH
Ngài Phật-Nhãn nói với ngài Cao-Am: Thấy vật rất nhỏ như lông thú mùa Thu mà không thấy được lông mi mắt của mình. Nhấc được vật nặng nghìn quân[112], nhưng không nhấc được thân mình. Cũng như người học đạo, rõ việc trách người mà mờ việc suy xét mình, không khác.
132.– HỌC NHÃN
Cao-Am-Ngộ Hòa-Thượng nói: Khi tôi mới tới Tổ-Sơn, thấy ngài Phật-Giám tiểu-sam[113], Ngài nói: Tham-dục, giận-tức tệ hơn giặc oan-trái, cần phải đem trí-tuệ mà ngăn chống. Trí-tuệ như nước, không dùng thì ngưng-đọng, ngưng-đọng thì không chảy, không chảy thì trí-tuệ không lưu hành. Và, như thế, thì đối với tham-dục, giận-tức kia làm sao mà chống được? Khi ấy, tôi tuy còn ít tuổi, nhưng tâm tôi biết Ngài là bậc thiện-tri-thức, tôi liền treo cất áo bát và xin y-chỉ Ngài.
133.– TRUNG CHÍNH

Ngài Cao-Am nói: Người học đạo giữ được tâm trung-chính, tuy gặp trăm phương chèn-ép, vẫn đường đường chính chính không lo. Nếu người tâm hướng về sự thiên-tà, sớm hôm khư-khư nghĩ kế vì lợi, tôi sợ tấm thân lồ-lộ ấy sẽ không có chỗ an-ổn trong khoảng trời đất này vậy.
134.– XƯA VÀ NAY
Ngài Cao-Am nói: Đạo-đức, nhân-nghĩa không riêng cổ-nhân có, mà người đời nay cũng có. Người đời nay, trí thức không minh, học-vấn không rộng, căn-khí không sạch, chí-khí hẹp-hòi và, không gia sức làm việc nên liền bị thanh-sắc chuyển-di, khiến không tự-giác được. Hơn nữa, vì vọng-tưởng của người đời nay quá nhiều, tình-niệm nặng-nề, tập-khí chứa-chất dày đặc mà không diệt trừ nhanh chóng được, cho nên không tới được địa-vị của cổ-nhân.
135.– THANH-KIỆM
Ngài Cao-Am nghe biết ngài Thành-Khô-Mộc[114] trụ-trì chùa Kim-Sơn, thụ-dụng xa-xỉ, tổn-phí. Ngài than-thở giờ lâu và nói: Sự thụ-dụng của Tỳ-Khưu chỉ quý ở chỗ thanh-kiệm, há nên thụ-dụng xa-xỉ như thế, khiến cho lũ hậu-sinh tập mặc áo nhẹ, dùng đồ béo, tăng sự mong cầu không chán, há không thẹn với cổ-nhân ư?
136.– KHUÔN MẪU
Ngài Cao-Am nói: Đại-thể của trụ-trì, lấy tùng-lâm làm nhà, phân-biệt sự việc phải thích-đáng, giao-phó công việc phải đáng người mỹ-khí, khi cất, khi đặt, hệ thuộc vào lẽ an, nguy, khi được, khi mất, liên quan đến nguồn giáo hóa. Làm khuôn mẫu cho người há dễ dàng sao?
Chưa thấy vị trụ-trì nào phóng-túng mà sai khiến được Tăng-sĩ phục-tùng, pháp-độ lấn-lướt mà muốn cấm được sự bạo-mạn trong tùng-lâm. Xưa kia, ngài Dục-Vương-Thậm[115] khiển trách ông Thủ-Tọa, ngài Ngưỡng-Sơn-Vĩ[116] đuổi vị Tăng hầu cận. Hai việc này có chép trong Tăng-Bảo-Truyện, đủ làm khuôn pháp tốt đẹp vậy.
Ngày nay, trụ-trì cứ noi theo sự ham muốn riêng, phá nát qui-củ, mực thước của ngài Bách-Trượng. Lười dậy sáng và, phần nhiều thiếu lễ-pháp trong những buổi họp tảo-sam, vãn-sam. Hoặc mặc sức tham muốn mà không kiêng-kỵ. Hoặc vì lợi dưỡng đến nỗi tranh-giành ồn-ào. Và, đến cả những sự việc nhỏ nhen xấu xa đều có cả.
Ôi, như vậy mà mong pháp-môn hưng-hiển, tôn-giáo thịnh-đạt làm sao được!
137.– SÁCH TIẾN
Khi ngài Cao-Am trụ-trì chùa Vân-Cư, thấy Tăng-sĩ nào vào trong nhà Thiền mà lời giải đáp không hợp cơ, Ngài liền nắm tay áo vị ấy, chính sắc và trách: “Cha mẹ nuôi thân ông, thày bạn thành chí ông, không bị ngặt-nghèo vì đói khát, không bị nhọc mệt vì phục-dịch chiến-chinh, như thế mà ông không vững tâm tinh-tiến làm xong đạo-nghiệp, ngày kia mặt mắt nào ông còn trông thấy cha mẹ, thày bạn ông”. Tăng-sĩ nghe lời dạy của Ngài, có người khóc lóc thảm-thiết. Và, do đó hiệu-lệnh nghiêm chỉnh.
138.– ĐỨC HÓA

Khi ngài Cao-Am ở chùa Vân-Cư, nghe biết có Tăng-sĩ nào đau phải dời đến Diên-Thọ-Đường, Ngài than-thở như tự mình đau, sớm hôm thăm hỏi, tự mình sắc thuốc, nấu món ăn cho vị kia. Và, món ăn, Ngài nếm rồi mới cho ăn. Gặp thời-khí hơi lạnh, Ngài vỗ lưng vị kia hỏi: Áo có mỏng không? Hoặc gặp mùa nắng, Ngài xét sắc mặt vị kia hỏi: Có nóng lắm không? Bất hạnh, vị kia không cứu chữa được, không hỏi rằng vị kia có tiền bạc gì hay không, Ngài đem của thường-trụ, hết lễ tiễn tống mai-táng. Vị Tri-sự, hoặc các vị khác từ-khước, ngài Cao-Am trách rằng: Xưa kia, ngài Bách-Trượng vì các vị già, bệnh mà lập ra thường-trụ, ông không bệnh, không chết sao?
Các thức-giả bốn phương đều tôn Ngài là bậc cao cả và, khi Ngài lui từ chùa Vân-Cư qua núi Thiên-Thai, các Tăng-sĩ theo Ngài gần năm mươi người và, nếu ai không đi được đều khóc lóc từ biệt. Đức của Ngài cảm-hóa người ta như thế!
139.– TÙY DUYÊN
Ngài Cao-Am khi lui chùa Vân-Cư, Viên-Ngộ Thiền-Sư rất ưu-ái Ngài, định sửa lại Ngọa-Long-Am của ngài Phật-Ấn, làm nơi an nhàn dưỡng lão cho Ngài. Ngài Cao-Am nói: Người ở dưới núi rừng cầu cái vui đạo-nghĩa, thì hình hài này bỏ ngoài ý muốn. Năm nay tôi bảy mươi tuổi, như sao Trường-Canh, mặt trăng cuối tháng, ánh sáng được bao lâu! Vả lại, nhà lá, gò đống, suối rừng Tây sơn liên thuộc nhau, đều là chỗ tôi dưỡng lão, hà tất, phải có chỗ riêng cho tôi, sau mới làm vui được hay sao? Không bao lâu, Ngài chống gậy qua Thiên-Thai và, sau Ngài thị tịch ở Hoa-Đỉnh-Phong.
140.– RÈN LUYỆN
Ngài Cao-Am nói: Tăng-sĩ không có ai là hiền hay ngu, chỉ do nơi bậc thiện-tri-thức biết uốn nắn, làm cho họ biết tôn-sùng đức-nghiệp hay không mà thôi. Thời thường thí-nghiệm để họ phát-xuất tài-năng, mỹ-khí, dùng những hình-thức tưởng-lệ để khuyến tưởng họ, tỏ ra sự tôn-trọng những lời họ nói ra và, ưu-ái họ giữ trọn-vẹn được tiết-tháo của Tăng-sĩ. Như thế, gom góp năm này tháng khác, tự-nhiên thanh-danh cũng như sự thực-hành của họ sẽ được đầy đủ. Vì, người ta đều hàm-tàng tính linh-tri, chỉ cần siêng-năng dẫn-dụ là đạt tới được. Như viên ngọc còn nằm trong đá, vất bỏ thì là sỏi đá, mài dũa thì là ngọc khuê, ngọc chương. Như sự phát-nguyên của nước, ứ-đọng thành bùn lầy, khơi sâu thành sông, đầm. Nên biết rằng trong đời tượng-quí này không phải tại chỗ bỏ sót người hiền không dùng, mà là do ở đường lối giáo-dưỡng, khuyến-tưởng có chỗ chưa đến nơi vậy. Và, những người ở trong lúc tùng-lâm ân-thịnh, đều là những người tài-ba bị bỏ quên ở đời tượng-quí. Ở đời tượng-quí thì là ngu, mà ở đời hưng-thịnh thì là trí. Cho nên đã nói: “Người ta đều hàm-tàng tính linh-tri, chỉ cần siêng-năng dẫn-dụ là đạt tới được”. Thế mới biết, tài năng của người học đạo cùng thời mà lên, xuống. Tốt thì đến, khen thì chuộng, ép thì suy và trách thì dứt. Đấy là nguyên do của sự mòn đi hay lớn lên về đạo đức, tài-năng của người học đạo!
141.– TỰ NGHIÊM
Ngài Cao-Am nói: Lẽ trọng-đại của sự giáo-hóa, không có gì trước tiên bằng đạo-đức, lễ nghĩa. Người trụ-trì tôn đạo-đức thì người học đạo giữ tâm cung-kính, thực-hành lễ-nghĩa thì người học đạo biết xấu-hổ về việc ham muốn, cạnh-tranh. Trụ-trì có dáng mặt khinh-mạn, thì người học đạo có cái tệ lấn-lướt, thô đạo. Trụ-trì có dung-sắc tranh-biện, thì người học đạo có cái họa đấu-tranh, công-kích. Tiên-thánh biết chúng từ khi chưa xảy ra, nên kén chọn được người minh-triết. Chủ tùng-lâm làm sao khiến người ta chiêm-ngưỡng một cách trọn vẹn và, không cần phải dùng thí-dụ mà cảm-hóa được mới xứng đáng. Trong thời ngài Thạch-Đầu[117], ngài Mã-Tổ, đạo-hóa thịnh-hành, thì các vị anh-kiệt xuất-hiện, uy-nghi nhu-hòa, gia mỹ, thư thái, trang nghiêm, nói năng, ra lệnh, nháy mắt, giương mi, đều có thể làm mô phạm cho đời sau. Thực thích-đáng với lẽ trên vậy.
142.– CAM KHỔ
Ngài Cao-Am nói: Tiên-sư thường nói: Đi hành-cước ra khỏi Quì-Quan, đến những chùa viện nhỏ có nhiều sự không vừa ý. Nhân nghĩ đến việc ngài Pháp-Nhãn tham học ngài Địa-Tạng[118], ngài Minh-Giáo yết kiến ngài Thần-Đỉnh[119] liền không thấy phiền não nữa.
143.– KHÔNG THẸN

Ngài Cao-Am, trong tâm ngoài tướng đều đoan-trang, kính trực, phong cách uy nghiêm, khi động khi tĩnh không quên lễ pháp. Hàng ngày, Ngài thấy trong chúng thường có điều gì xâm hại, Ngài cũng không cần để ý. Suốt đời Ngài lấy sự giản ước xử mình, trong nhà, không bao giờ Ngài chấp nhận cho ai một cách không chính đáng. Hơi có ai nói năng không hợp cơ, Ngài chính sắc nói thẳng để ngăn cản. Tăng-sĩ đều tín-phục. Ngài thường nói: Tôi học đạo không hơn người. Nhưng, bình-sinh làm việc không thẹn với tâm mà thôi.
144.– DƯỠNG TÍNH
Ngài Cao-Am trụ-trì chùa Vân-Cư, có Tăng-sĩ nào hay công-kích người che giấu điều xấu, Ngài liền thung-dung hiểu-dụ: Sự việc không nên như thế. Người tu ở chốn lâm-hạ, lấy sự ngộ-đạo làm việc cần kíp, hoà-hợp là gốc của sự tu thân, há lại phóng tâm vào việc ưa, ghét, phá-hoại việc làm hay không làm của người!
Ngài uốn nắn người như thế.
145.– DANH ĐỨC
Ngài Cao-Am lúc đầu không vâng mệnh đi trụ-trì chùa Vân-Cư. Ngài Phật-Nhãn gửi thư khuyên: Vân-Cư là thủ-phủ của miền Giang-Tả, nơi ấy có thể an chúng hành đạo, vậy không nên cố nhường. Ngài Cao-Am nói: “Từ khi có tùng-lâm đến nay, người học đạo bị ngăn che bởi danh-tự, đề-mục ấy, làm hoại tiết-nghĩa không ít.” Ngài Phật-Giám nghe biết, nói với chúng: Sự đi hay tới của ngài Cao-Am, hàng Tăng-sĩ khó kịp được!
146.– LÃO BỆNH
Ngài Cao-Am làm một bài văn khuyến-an các vị tăng lão, bệnh như sau:

Bần đạo thường xem Kinh-tạng, giáo-điển, xét rõ ý Phật là không cho các vị Tỳ-Khưu ngồi không, mà thụ dụng những món ăn không có công-phu gì vào đó, khiến các vị sinh tâm lười biếng, và, khởi ra kiến-thức nhân, ngã. Hàng ngày, cứ vào buổi sáng, đức Phật và các đệ-tử mang bát đi xin ăn, không chọn nhà sang, hèn, không phân biệt cao, thấp, khiến cho những người được phúc đều bình đẳng.
Sau này, vì các vị Tỳ-Khưu lão, bệnh không đi khất-thực được nên mới thiết-lập ra thường-trụ. Thường-trụ không phải là nơi dành cho các vị Tăng-sĩ ít tuổi, khỏe mạnh nhận các món thực-dụng. Sau khi đức Phật diệt-độ, trong thời chính-pháp cũng còn duy-trì như thế. Nhưng từ thời tượng-quí tới nay, các nơi thiền-lâm tại Trung-quốc không bỏ việc khất-thực, song, chỉ cử những vị có lương-năng đi làm việc ấy mà thôi. Khi đi khất-thực về, được bao nhiêu lợi-dưỡng, gộp lại làm của chiêu-đề[120], để tiện cung cấp cho nhiều chúng. Do đó, mà qui-củ đi khất-thực hàng ngày bị ngưng lại.
Nay nghe có một số trụ-trì tại các chùa, không biết nhân quả, không an dưỡng các vị lão-tăng, như vậy là làm trái ý Phật và làm suy yếu pháp-môn. Nếu các vị lão-tăng không ở chùa viện thì về đâu? Các vị không nghĩ lại rằng tài vật của thường-trụ vì ai mà đặt ra? Nên đem tâm gì để hợp với tâm Phật? Và, nên đem hạnh gì để hợp với hạnh Phật?
Xưa kia, khi đức Phật còn tại thế, hoặc Ngài không tới chỗ đàn-việt thỉnh, mà ở lại nơi tinh xá, thì Ngài đi xem xét mọi phòng Tăng, trông coi các vị lão, bệnh, nhất nhất đều hỏi han và nhất nhất đều xếp đặt. Ngài lại khuyến-thỉnh các Tỳ-Khưu phải cung-kính lẫn nhau, tùy thuận phương-tiện, xóa bỏ giận-hiềm. Đấy là khuôn-mẫu thống-lý đại-chúng của đấng Điều-Ngự-Sư của chúng ta.
Đời nay, người làm chủ Tùng-lâm, mặc sức chi dùng của thường-trụ. Tư-cấp cho thân miệng, kết-giao với những người quyền quí, nhưng không lưu tâm tới các vị lão, bệnh chi cả. Hơn thế nữa, của chúng tăng giấu làm của mình. Tâm Phật, hạnh Phật không có một chút, thực đáng thương thay!
Bậc cổ-đức nói: Lão-tăng là tiêu-bảng của sơn-môn. Nay, trong thiền-lâm, trăm vị không có một vị lão-tăng. Tùng-lâm không nhận lão-tăng thì sống lâu vô bổ, chẳng bằng chết non còn hơn. Tôi mong các Tăng-sĩ thời nay, theo lời Phật dạy, nối dõi sự long-thịnh của Tổ-sư, đều nên an-ủi, vỗ-về các vị lão, bệnh, nơi thường-trụ có vật gì thì tùy nghi cung-cấp cho các vị, đừng để cho những người ngu-muội chuyên-quyền, hủy-diệt đạo-pháp và, vời lấy quả báo chết non sau này. Tha-thiết mong các vị xét kỹ!
147.– TRÌ PHÁP
Giác-Phạm Hoà-Thượng đề vào bảng cổng chùa Linh-Nguyên rằng: Ngài Linh-Nguyên lúc đầu không muốn ra đời. Tâm ý của Ngài rất vững như bờ đập ngăn nước. Dù ông Trương-Vô-Tận[121] khi ấy đang làm Tào-Vận-Sứ miền Giang-Tây, thường thường tới thỉnh Ngài ra đời độ sinh, nhưng Ngài nhất định không thuận. Thời gian lâu, tự nhiên Ngài đổi ý, nói: Thiền-lâm suy, tuy có hoằng-pháp, nhưng phần nhiều là mượn Phật-pháp để trộm lấy sự an-nhàn cho cái ta của mình. Nếu ta không ra tay chống giữ gấp, thì sự suy đồi của Phật-pháp nhanh chóng có thể thấy được trong nửa bước vậy. Khi ấy Ngài khai pháp ở chùa Thái-Bình (Hoài-Thượng).
Lúc tôi Đông du tới cửa chùa này, tôi thấy tùng-lâm chỉnh-tề, phong-thái của tông-môn rất chấn-hưng, không kém gì thời ngài Bách-Trượng. Mười lăm năm sau, tôi thấy bảng này ở thất của Phùng-Nguyên lão-sư. Đọc tới lời trong bảng này, kính sợ như thấy đạo-cốt của Ngài vậy.
Sơn-Cốc Cư-sĩ viết bảng này bằng lối viết phương-khải[122] lớn và, cuối cùng có lời khích lệ rằng: Ôi, nếu các vị pháp-thí trong thiên-hạ, đều theo lời ngài Linh-Nguyên để trụ-trì thì lo gì Tổ-đạo không chấn-hưng! Sách truyện xưa có viết: “Người mở rộng đạo, không phải đạo mở rộng người.” Ngài Linh-Nguyên có điểm ấy vậy!
148.– GIAN NỊNH
Qui-Vân-Bản Hòa-Thượng[123] trong thiên Biện-Nịnh ngài có viết: Ông Phú-Trịnh-Công-Bật[124] trong triều đại này, hỏi đạo nơi Đầu-Tử-Ngung Thiền-Sư[125], hai vị viết thư đi lại với nhau bằng kệ-tụng, gồm 14 trang giấy, sau được khắc vào vách của hai dãy hành-lang chùa Hồng-Phúc. Như thế, thấy rõ bậc tiền-bối chủ-trì Phật-pháp tôn-nghiêm, nên các hàng vương, công quí-nhân mới tin đạo một cách thành-tín sâu dày như vậy. Trịnh-Quốc-Công là bậc trọng-thần của xã-tắc, tuổi già biết hướng về đạo như thế, tất nhiên ngài Đầu-Tử-Ngung phải có đạo-đức, tài năng siêu-việt hơn người. Mà, chính Trịnh-Quốc-Công cũng tự cho là ngài Đầu-Tử-Ngung có chỗ cảnh sách, phát-sinh diệu-ngộ. Kỳ như, trong hàng sĩ-phu, tin thực vào đạo Phật, quên tuổi tác, khuất thế-vị, khởi tâm phấn-phát mạnh-mẽ, mong đạt tới chỗ chứng-ngộ triệt-để, như Thị-Lang, Dương-Đại-Niên[126], Đô-Úy, Lý-Hòa-Văn[127], tới yết-kiến ngài Quảng-Tuệ-Liễn[128], ngài Thạch-Môn-Thông, ngài Từ-Minh và các vị Trưởng-lão khác. Những lời thù, xướng, khích-dương của các vị, thấy nhan-nhản trong các sách của Thiền-gia. Như Cư-sĩ Dương-Vô-Vi tham học nơi ngài Bạch-Vân-Đoan, Cư-sĩ Trương-Vô-Tận yết-kiến ngài Đâu-Suất-Duyệt[129], đều là những vị chứng-ngộ đến nguyên-đế, như người gõ vào cửa quan, đánh vào thanh tre, đi khỏi quan ải một cách ung-dung, thì không phải là việc làm cẩu-thả được.
Cận đại, Thị-Lang Trương-Vô-Cấu[130], Tham-Chính Lý-Hán-Lão[131], Học-Sĩ Lã-Cư-Nhân[132] đều tới yết-kiến Diệu-Hỷ lão-nhân đăng đường, nhập thất, gọi là phương-ngoại đạo-hữu (người bạn đạo đã vượt ngoài phương sở trần-lao). Nếu trong tâm các vị kia còn có sự yêu, ghét, thuận, nghịch, thì do sự thấm-nhuần đạo-pháp, như sấm chớp quét lau, trút bỏ được những sự câu-chấp, nghi-kỵ của thế-tục. Những người quan-sát thấy thế cũng phải khép áo run sợ, biến đổi, vì không còn nhìn thấy gì ngăn cách như bờ bến nữa. Những sĩ, quân-tử cùng cầu tới bến không-nhàn, tịch-mịch, nương tâm nơi thiền-tịch là đợi phát-huy chân-tính sẵn có nơi mình mà thôi.
Đời sau, không còn thấy khuôn mẫu của các bậc tiên-đức, mà chỉ thấy chuyên việc a-dua nịnh hót, cầu cạnh sự tiến thân, hiển-đạt. Phàm, những người lấy chức-vị trụ-trì, lạm xưng là Trưởng-lão, thường thường viết thư thiếp xưng là “môn-hạ-tăng” và, vâng mệnh người đại-đàn-việt hiện-tiền này là “ân-phủ”, rồi đem của chiêu-đề, đút lót dâng nịnh. Thức-giả thấy thế thương, cười, nhưng họ vẫn điềm-nhiên không biết hổ thẹn. Ôi, ta là bậc Sa-môn, Thích-tử, một bình, một bát, đi lại như mây chạy, chim bay, không bị sự bức-bách của đói rét, không bị luyến-ái về con cái, ngọc lụa, mà muốn khom lưng cầm chổi, co-ro, khúm-núm tự vời lấy sự nhục-nhã đê-tiện như thế ư!
Người xưng là bậc ân-phủ, xuất ra một chút tư-vật của mình, không thể coi đó là nơi nương-cậy mãi được, vì một kẻ tầm thường nói láo xướng ở trước, thì có trăm kẻ tầm thường nói láo họa ở sau, toan tranh-giành sự hầu hạ. Thực, ty-tiểu vậy! Làm suy-yếu phong-giáo, không ai tệ hơn là kẻ nịnh hót và, thực là nguyên-do của sự gian-tà dối trá. Tuy là đoan-nhân, chính-sĩ nhưng, đôi khi cũng bị sự sảo-lộng của chúng mà nhập vào bọn chúng, thì là hãm mình vào vòng bất-nghĩa, thất-đức, không cứu gỡ được. Há chẳng thương vậy ư?
Tỳ-Khưu phá Phật-pháp, bị ma-khí chung-đúc, dối-trá tự-nhược và, trá-hiện thân-tướng người trí-thức. Họ cho các bậc đại-lão trong thiền-lâm là thày trò và, nịnh bợ những quí-nhân đương thời là tông-thuộc. Họ nghiêng về sự cung-kính trái đạo, là mở đầu cho sự phá-hoại Phật-pháp. Bạch-y (Cư-sĩ mặc áo trắng) ngồi trên giường, nhà tu quì lạy dưới đất, thực là trái với Phật-chế và làm đại-nhục cho tông-phong. Sự suy-vi của đạo đến thế là cùng! Ôi, thiên tru, quỉ lục, dù chết hàng vạn lần cũng không thể chuộc được tội ấy. Như vậy, không phải là những kẻ gian-nịnh ư?
Trong bộ Nguyên-Giáo của Minh-Giáo-Tung Thiền-Sư có viết: Cao tăng đời xưa, thấy nhà vua không phải thi-lễ như bày tôi. Và, nhà vua có gửi chế-thư gì cho các vị cao tăng thì gọi là “Công” hay là “Sư”. Ngài Tăng-Viễn ở Chung-Sơn, xe nhà vua tới cửa, Ngài vẫn ngồi trên giường không xuống nghinh tiếp[133]. Ngài Tuệ-Viễn ở Hổ-Khê, nhà vua tới Tầm-Dương, cho chiếu mời, Ngài cáo-từ không ra khỏi núi[134]. Đương thời, nhà vua đãi người, tôn đức như thế, nên đạo của thánh-nhân được chấn-hưng.
Đời sau, cử chỉ mến mộ các bậc cao tăng, giao-dịch với các hàng khanh, đại-phu, đối xử không được như lễ-nghi của hạ-sĩ. Sự xuất-xử của họ, không được tự-đắc như những người tầm thường, huống là được như thái-độ của ngài Tăng-Viễn yết-kiến nhà vua, như ngài Tuệ-Viễn vẫn tự-tại đối với chiếu mời của nhà vua sao? Mong đạo của ta chấn-hưng, mà sự tu của chúng ta như thế có thể được không? Còn đạo-giáo mà không dùng những người đạo-đức, thì còn có ích gì? Nói tới đây tôi rất đau lòng và sa lệ!
Năm Đinh-Dậu, niên-hiệu Thuần-Hy, tôi tạ từ công việc chùa Hiển-Ân, ngụ-cư tại một cái ổ nhỏ, thuộc Tây-Sơn (Bình-Điền), để ngày ngày gần sự thấy, nghe. Nhưng, sự thấy, nghe này phần nhiều là giả-dối và cổ-phong bị tàn rụng. Tới đây, tôi nghĩ rằng tôi nói ra không đủ rõ được sự trọng, khinh của vấn-đề, nên tôi viết ra bản văn này để tự răn.
149.– TÁN TRỢ
Viên-Cực-Sầm Hoà-Thượng[135] làm bài bạt đề sau thiên Biện-Nịnh rằng: Cách xa đời Phật, chính-tông đạm-bạc, phong-hạnh kiêu-ly, không nơi nào là không có bậc tiền-bối tàn lụi, kẻ hậu-sinh không nghe. Khuôn-mẫu của tùng-lâm, hầu như chỉ còn dùng để quét đất. Nếu có ai ra cứu giúp thì trở lại làm kẻ nô dịch. Nay xem thiên Biện-Nịnh của Sơ-Sơn-Bản Thiền-Sư, lời xa, ý rộng, thâm-thiết rõ ràng, có thể răn trừ tệ-bệnh của người một cách tích-cực. Song, những bọn tầm thường, lừa dối, hay những trí-thức ám-đoản, tâm họ say sưa trong lĩnh-vực tà nịnh, thì tất nhiên vị đề-hồ này sẽ biến thành độc-dược!
150.– NÓI THỰC
Đông-Sơn-Không Hòa-Thượng[136] viết thư đáp Dư-Tài-Mậu mượn vài người phu khuân-vác như sau: Ngày xưa tôi ở trong hoàn cảnh khuất-nhục, mà Tài-Mậu đã chiếu cố tới, tôi rất cảm tạ tình ái-niệm của Tài-Mậu. Sau khi từ-biệt, tôi lại nhận được huệ-thư, lại càng tự cảm thấy thẹn hổ. Người trong hang huyệt của tôi, đều xa vắng với thế-gian. Hẳn Tài-Mậu cũng biết, nay tôi tuy làm bậc Trưởng-lão ở chốn phương-trượng, nhưng chỉ là Không Thượng-Tọa ngày trước mà thôi. Của thường-trụ có hay không, nhất nhất đều giao-phó cho vị chủ-sự. Sổ xuất nhập, chi-tiêu tôi đều không để mắt tới. Tôi không cất y bát, không dùng của thường-trụ, không đi ra ngoài theo lời mời, không cầu ngoại-viện. Sự cư-trụ của tôi đều tùy duyên, sáng nay không nghĩ kế gì cho ngày mai. Tài-Mậu đã lấy tình đạo cũ nhắc đến tôi, vậy chúng ta nên cùng quên những cái gì thuộc về đạo-thuật.
Nay trong thư của Tài-Mậu muốn mượn vài người phu khuân-vác, tôi không hiểu Tài-Mậu muốn mượn ở nơi thường-trụ hay là ở nơi Không Thượng-Tọa này? Nếu muốn mượn ở nơi Không này, thì Không này không có. Nếu muốn mượn ở nơi thường-trụ, thì là những người dùng riêng của thường-trụ. Nếu của thường-trụ mà dính vào một chút gì để làm tư, thì phạm vào tội ăn trộm. Có thiện-tri-thức nào lại trộm dụng của thường-trụ?
Ông đã định vào đế-hương để cầu những sự tốt đẹp, thì không nên mưu tìm những sự ấy trong các tự-viện. Ông là người đất Mân (Phúc Kiến), sự tri-kiến của ông đều là sự tri-kiến của các Trưởng-lão đất Mân. Trưởng-lão đất Mân, trụ-trì tự-viện nào thì ăn trộm hết của thường-trụ làm của mình, hoặc dùng để kết-giao với những người quyền quí, hoặc dùng để tư-cấp cho người thế-tục, hoặc dùng để bồi-tiếp những người tri-kỷ, mà không hề nghĩ đến những của ấy là của thập phương thường-trụ, của chiêu-đề-tăng. Nay những giống thú mặc lông, đeo sừng để trả lại những món nợ xưa, đều là những bọn người ấy vậy! Tiên Phật đã nói rõ, không đáng sợ sao? Mấy năm gần đây, nhà chùa bị tàn-phế, Tăng-đồ bị rời-rạc, đều do lỗi ở những người ấy! Tôi mong ông đừng để tôi vào những bọn người ấy! Quả như ông tin lời nói của tôi, thì nếu chùa nào đã hứa cho ông, ông đều nên cảm ơn mà đừng nhận, thì trên đường đi tới kinh-đô của ông có thể hay-ho chưa lường được.
Lời nói thực trái tai, không biết tôn-ý thế nào? Mùa lạnh, trên đường đi, ông nên bảo-ái!
151.– GƯƠNG XƯA
Triết-Ông-Diễm Hòa-Thượng[137] nói: Lá thư của ngài Đông-Sơn đáp Dư-Tài-Mậu thực như là một bản xá-thư ở trước điện Diêm-Vương vậy. Nay không hiểu các bậc đạo-nhãn khắp nơi như thế nào? Nếu thụ-trì được như lá thư ấy thì hẳn là chỗ rất đắc-lực cho ngày mai. Triết-Ông tôi thường đem lá thư ấy ra răn bảo người và mong người thực-hành theo.
Sán-Ẩn-Sơn[138] cũng nói: Vàng bạc, thóc gạo của thường-trụ, trừ những vật cung chúng rồi, còn đều coi như là thuốc độc.
Người trụ-trì và người trông coi việc xuất nhập nếu dính-líu vào một chút thì khắp mình sẽ bị hư-nát, như trong các bộ Luật đã nói rõ. Cổ-nhân còn đem tiền xuống kho, mua gừng sống sắc thuốc[139] thì chúng ta khá rõ!
Ngày nay những người ngồi xổm trên phương-trượng, chẳng những rút bớt những vật trong bát chén chúng-nhân, để thỏa-thích khẩu-phúc, giúp thêm tự-kỷ, còn dùng vào những việc phù-phiếm cho được lòng người. Hơn thế nữa, cắt xén của thường-trụ, tìm mua những vật trân-kỳ, để được nhân-tình một cách rộng rãi, hầu mong sẽ được ở ngôi chùa lớn. Như thế, tôi chỉ sợ ngày kia, Diêm-Vương mặt sắt sẽ tính-toán với họ!


Chú thích:
[83] Triệu-Châu tức Tòng-Thẩm Thiền-Sư ở Quan-Âm-Viện (Triệu-châu). Ngài họ Hác ở Tào-châu. Ngài nối pháp Nam-Tuyền Phổ-Nguyện Thiền-Sư, thuộc đời thứ 2 của phái Nam-Nhạc.
[84] Diệu-Hỷ tức Kính-Sơn, Tôn-Cảo, Đại-Tuệ Thiền-Sư. Ngài họ Hồ, ở Ninh-Quốc. Ngài nối pháp Phật-Quả, Khắc-Cần Thiền-Sư thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[85] Phúc-Nghiêm Lương-Nhã Thiền-Sư ở Trạch-châu. Ngài nối pháp Động-Sơn, Thủ-Sơn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 8 của phái Thanh-Nguyên.
[86] Đại-Ninh, Đạo-Khoan Thiền-Sư ở Hồng-Châu. Ngài nối pháp Thạch-Sương, Sở-Viên Thiền-Sư. Và, Tưởng-Sơn, Tán-Nguyên Thiền-Sư cũng nối pháp Thạch-Sương, Sở-Viên Thiền-Sư. Hai Thiền-Sư đều thuộc đời thứ 11 của phái Nam-Nhạc.
[87] Tử-Tâm tức Hoàng-Long, Ngộ-Tân Thiền-Sư ở phủ Long-Hưng. Ngài họ Hoàng ở Thiều-châu. Ngài nối pháp Hoàng-Long, Tổ-Tâm Thiền-Sư, thuộc đời thứ 13 của phái Nam-Nhạc.
[88] Hoàng-Thái-Sử tên húy là Đình-Kiên, tự Lỗ-Trực, hiệu Sơn-Cốc Cư-sĩ và đắc pháp nơi Hoàng-Long Tổ-Tâm Thiền-Sư.
[89] Trường-Linh, Thủ-Trác Thiền-Sư ở Thiên-Ninh (Đông Kinh), nối pháp Linh-Nguyên-Thanh Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc.
[90] Liên-thành-bích: Viên ngọc bích rất quí giá, có thể đem viên ngọc này đổi lấy nhiều thành trì, nhiều đất đai. Xưa kia, nước Triệu có viên ngọc Biện-Hòa rất quí. Tần-Chiêu-Vương muốn đem 12 thành liên cận (liên thành) để đổi lấy viên ngọc ấy. Vua Triệu sai ông Tương-Như đem viên ngọc ấy vào cho vua Tần coi. Ông Tương-Như thấy vua Tần có ý lấy viên ngọc ấy, nhưng không muốn cắt đất đai để đổi. Ông Tương-Như liền nói dối là ngọc ấy có vết, xin vua Tần đưa lại để ông chỉ cho. Vua Tần tưởng thật, trao viên ngọc lại cho ông Tương-Như. Ông Tương-Như cầm viên ngọc đứng dựa vào cột, tỏ vẻ giận dữ nói: Tôi nghe những người mặc áo vải chơi với nhau còn không lừa dối nhau, huống là Quốc-vương của một nước lớn à! Nếu nhà vua cưỡng-bách tôi, thì đầu tôi và viên ngọc này, đều vỡ tan ở nơi cột này. Nhà vua sợ vỡ viên ngọc, cho người nâng ông Tương-Như dậy. Vì vậy, người đời gọi là liên-thành-bích.
[91] Thần-Đỉnh, Hồng-Nhân Thiền-Sư ở Đàm-châu. Ngài họ Hồ ở Tương-Thủy. Ngài nối pháp Thủ-Sơn-Niệm Thiền-Sư, thuộc đời thứ 9 của phái Nam-Nhạc. Ngài tu khổ-hạnh, thường thường chỉ có một áo đụp để che đỡ rét, nóng. Sau Ngài vào ẩn ở núi Hành-Nhạc. Một hôm có một nhà hào-quí đi chơi núi, trông thấy khí-mạo nhàn-tĩnh của Ngài, đồ dùng chỉ có một cái bát. Họ liền thỉnh Ngài về trụ-trì chùa Thần-Đỉnh. Suốt mười năm khô khan, đạm bạc không thay đổi, trong chùa không có một thưng gạo, ngày xin một chén cơm, pháp tọa là một giường gỗ, chung quanh có vài vị tàn-tăng mà thôi. Sau này tiếng Ngài vang khắp nơi, đệ-tử đông-đảo và tài giỏi. Giữa lúc này, thì ngài Từ-Minh đến yết-kiến. Ngài Từ-Minh để tóc dài không cắt, mặc áo rách, nói tiếng nước Sở. Khi vào yết-kiến ngài Thần-Đỉnh, xưng là Pháp-điệt. Cả chúng đều cười. Ngài Thần-Đỉnh sai đồng tử ra hỏi: Trưởng-lão nối pháp ai? Ngài Từ-Minh ngửa mặt trông lên nhà và nói: Ta từ Phần-Dương lại. Ngài Thần-Đỉnh chống gậy đi ra, vui vẻ nhìn và hỏi: Phần-châu có bậc Tây-hà sư-tử này à? Ngài Từ-Minh chỉ về đàng sau và nói: Nhà nghiêng kìa! Đồng-tử chạy về và ngài Thần-Đỉnh cũng quay trở lại nhìn. Ngài Từ-Minh ngồi xuống đất cởi một chiếc giày ra ngó. Ngài Thần-Đỉnh quên cả việc hỏi han. Ngài Từ-Minh từ từ đứng dậy, xốc áo và vừa đi vừa nói: “Thấy mặt không bằng nghe tên!”. Ngài Thần-Đỉnh cho người đuổi theo, không được, than: “Phần-châu lại có người này à!” Ngài Từ-Minh từ đấy tiếng khen vang khắp các nơi và làm hưng hiển lại đạo-phái Lâm-Tế.
[92] Huệ-Cổ Thiền-Sư nối pháp Linh-Nguyên-Thanh Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc.
[93] Y-Xuyên Tiên-Sinh họ Trình, tên là Di, tự là Chính-Thóc, hiệu là Y-Xuyên, người Hà-Nam, hỏi đạo nơi Linh-Nguyên-Thanh Thiền-Sư.
[94] Đức-Hồng, Giác-Phạm Thiền-Sư trụ-trì chùa Thanh-Nguyên ở Thụy-châu. Ngài họ Bành ở Bản-quận. Ngài nối pháp Chân-Tịnh-Văn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 13 của phái Nam-Nhạc. Thời Nam-Tống, vua Cao-Tôn phong hiệu cho Ngài là Bảo-Giác, Viên-Minh. Người đương thời gọi Ngài là Tịch-Âm Tôn-Giả. Nhân lúc Tần-Cối chuyên quyền, ghét những người tốt, người giỏi trong thiên hạ. Nhân có kẻ sàm-tấu cáo gian cho Thiền-Sư, nên Thiền-Sư bị Tần-Cối trách-phạt và đuổi ra Lĩnh-Hải.
[95] Ngụy-Huệ-Vương nói: Quả-nhân có viên nhọc chỉ dài một tấc, mà soi được trước sau 12 cỗ xe. Tề-Vương nói: Tôi có bốn người bày tôi, soi biết được công việc ngoài nghìn dậm, há là chỉ có 12 cỗ xe sao? Ngụy-Vương thẹn!
[96] Lang-Da Hòa-Thượng tức Quảng-Chiếu, Tuệ-Giác Thiền-Sư ở Trừ-Châu. Ngài nối pháp Phần-Dương-Chiêu Thiền-Sư, thuộc đời thứ 10 của phái Nam-Nhạc.
[97] Ông Phạm-Hy-Văn, họ Phạm tên là Trọng-Yêm, tự Hy-Văn, người ở Nhũ-Nam. Thời Tống-Nhân-Tôn, niên-hiệu Khánh-Lịch, ông giữ chức Tham Chính, lấy tên thụy là Văn-Chính-Công. Ông hỏi đạo nơi ngài Lang-Da.
[98] Hy-Mậu: Hy Thiền-Sư không rõ về lịch-sử. Mậu tức Mậu-Nguyệt Thiền-Sư, nối pháp Đại-Ngu, Thủ-Chi Thiền-Sư, thuộc đời thứ 11 của phái Nam-Nhạc.
[99] Chung-Sơn-Nguyên Hòa-Thượng tức Tưởng-Sơn, Tấn-Nguyên Thiền-Sư.
[100] Đông-Sơn Sư-Huynh tức là chỉ vào ngài Diên-Tổ.
[101] Viên-Ngộ tức Phật-Quả, Khắc-Cần Thiền-Sư ở chùa Chiêu-Giác, phủ Thành-Đô. Ngài họ Lạc ở Bành-Châu. Ngài nối pháp Ngũ-Tổ-Diễn Thiền-Sư.
[102] Long-Tạng-Chủ tức Hổ-Khâu, Thiệu-Long Thiền-Sư ở phủ Bình-Giang. Ngài là người ở Hòa-Chi, Hàn-Sơn. Ngài nối pháp Viên-Ngộ-Cần Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[103] Nguyên-Bố-Đại tức là Hộ-Quốc, Thủ-Am, Cảnh-Nguyên Thiền-Sư ở Đài-Châu. Ngài họ Trương ở Nam-Khê, Vĩnh-Gia. Ngài nối pháp Viên-Ngộ-Cần Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[104] Duy-Thắng Thiền-Sư ở núi Hoàng-Bá. Ngài họ La ở Đồng-Châu. Ngài nối pháp Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư, thuộc đời thứ 12 của phái Nam-Nhạc.
[105] Bính-Thủ-Tọa tức Nam-Hoa, Trí-Bính Thiền-Sư ở Thiều-Châu. Ngài là người Vĩnh-Khang, Thục-Xuyên. Ngài nối pháp Phật-Giám Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[106] Tuân-Phật-Đăng tức là Hà-Sơn, Phật-Đăng, Thủ-Tuân Thiền-Sư ở An-Cát-Châu, phủ Hồ-Châu (Triết-Giang). Ngài họ Sử ở Bản-Quận, ngài nối pháp Phật-Giám-Cần Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[107] Trí-Tài Thiền-Sư ở chùa Long-Nha (Đàm Châu). Ngài họ Thi ở Thư-Châu. Ngài nối pháp Phật-Giám-Cần Thiền-Sư thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[108] Phật-Nhãn Long-Viễn Thiền-Sư ở Thư-Châu. Ngài họ Lý ở huyện Lâm-Cung. Ngài nối pháp Ngũ-Tổ-Diễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc.
[109] Ứng-Chân: Chỉ vào vị A-la-hán. Có nghĩa là bậc chân-nhân, ứng nhận sự cúng dường của nhân, thiên.
[110] Đạt-Quang-Dĩnh tức Kim-Sơn, Đàm-Dĩnh Thiền-Sư ở Nhuận-châu. Ngài nối pháp Thạch-Môn-Thông Thiền-Sư thuộc đời thứ 11 của phái Nam-Nhạc.
[111] Vân-Cư, Cao-Am, Thiện-Ngộ Thiền-Sư ở quận Nam-Khang. Ngài họ Lý ở Phán-Châu. Ngài nối pháp Phật-Nhãn-Viễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[112] Quân: 30 cân là một quân. Đây là một thứ cân-lường của Trung-Hoa thuở xưa.
[113] Tiểu-sam: Trong thiền-gia có những danh-từ chỉ cho thời khóa trong ngày. Giờ chính thức lên pháp-đường thuyết-pháp gọi là đại-sam. Buổi sáng lên Tăng-đường gọi là Tảo-sam. Buổi chiều tụng niệm gọi là vãn-sam. Những lúc thuyết pháp không đúng thời gọi là tiểu-sam.
[114] Tịnh-Nhân, Khô-Mộc, Pháp-Thành Thiền-Sư ở Đông-Kinh. Ngài là người ở Hà-Sóc. Ngài nối pháp Phù-Dung, Đạo-Khải Thiền-Sư , thuộc đời thứ 12 của phái Thanh-Nguyên. Bình-sinh ngài hay ngồi thiền trông như cây khô, nên gọi là Khô-Mộc.
[115] Vô-Thị, Giới-Thậm Thiền-Sư ở chùa Dục-Vương, phủ Khánh-Nguyên. Ngài họ Trương, ở Ôn-châu. Ngài đắc pháp nơi Trường-Linh-Trúc Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc. Tính-tình ngài cương-nghị. Một hôm có người thỉnh cả đại-chúng đi phó trai, nhưng ông Thủ-Tọa cáo bệnh ở nhà. Sau khi chúng đi rồi, ông Thủ-Tọa cùng vị Thị-Tăng ngồi uống trà. Vị Tri-sự thấy thế, cật vấn ông Thủ-Tọa. Ông Thủ-Tọa chống lại vị Tri-Sự. Vị Tri-Sự bạch với Giới-Thậm Thiền-Sư. Thiền-Sư cho đánh chuông họp chúng quở trách và đuổi ra khỏi chùa. Chúng cố xin. Thiền-Sư cắt chức Thủ-Tọa và cho trông coi nhà khách, tiếp đón quan khách lui tới. Một hôm có quan Quận-Thú đến chùa thăm, ông không tiếp, cứ nói chuyện với vị Thị-Tăng cũ. Thiền-Sư liền quở trách nặng nề và đuổi hẳn.
[116] Ngưỡng-Sơn, Hành-Vĩ Thiền-Sư ở Viên-Châu. Ngài là người Hà-Sóc. Ngài nối pháp Hoàng-Long-Nam Thiền-Sư, thuộc đời thứ 12 của phái Nam-Nhạc. Tính-tình ngài cương-nghị, xử việc có pháp-độ, không ai dám trái. Ngài thường giao cho vị Tri-sự một danh sách 12 người. Cứ mỗi buổi sáng, 12 người này phải lên nhà phương-trượng để ngài uốn nắn dạy bảo và uống trà. Một hôm thiếu một người. Ngài hỏi thiếu ai? Chúng thưa : Thiếu ông Vĩnh-Thái ở Tùy-châu. Vị Thủ-Tọa thưa : Ông Vĩnh-Thái đi núi chưa về. Chợt có người vào thưa : Ông Vĩnh-Thái hiện đang ở nhà. Ngài nghiêm sắc mặt, cho người tìm, đúng ông Vĩnh-Thái có ở nhà. Ông Vĩnh-Thái tự nhận là vì sức yếu, sợ không nhận nổi các việc giao phó, nên không dám ra. Ông Thủ-Tọa thì nói là không biết. Ngài cho đánh chuông họp chúng và đuổi cả hai người ra khỏi chùa. Ngài Vĩnh-Thái sau nối pháp ngài Pháp-Trụ, Hoàng-Bá-Sơn. Vị Thủ-Tọa ấy tức là Đại-Qui, Tổ-Thung Thiền-Sư ở Đàm-châu, người họ Ngô ở Phúc-châu và đắc pháp nơi Đại-Qui-Tú Thiền-Sư, thuộc đời thứ 13 của phái Nam-Nhạc.
[117] Nam-Nhạc, Thạch-Đầu, Hy-Thiên Thiền-Sư. Ngài họ Trần ở Cao-An, Thụy-châu. Ngài nối pháp Thanh-Nguyên, Hành-Tư Thiền-Sư. Sau ngài về phía Đông chùa Hành-Nhạc, có tảng đá giống như cái đài, ngài kết-am trên tảng đá ấy nên gọi là Thạch-Đầu, thụy hiệu Vô-Tế Đại-Sư.
[118] Thanh-Lương-Viện, Pháp-Nhãn, Văn-Ích Thiền-Sư ở Kim-Lăng. Ngài họ Lỗ ở Dư-Hàng. Một hôm, ngài đi hành-cước đến Phúc-châu (Hồ-Ngoại) thì gặp mưa, khe suối ngập lụt, ngài tạm ngụ nơi phía Tây Cổ-thành. Ngài Địa-Tạng trông thấy, gạt tuyết, đem lò sưởi đến cho ngài. Ngài Địa-Tạng hỏi: Thượng-Tọa đi đâu vậy? Ngài Pháp-Nhãn đáp: Tôi đi hành-cước lang-thang. Ngài Địa-Tạng hỏi: Việc hành-cước này sẽ phát-sinh được cái gì? Ngài Pháp-Nhãn đáp: Không biết. Ngài Địa-Tạng nói: Không biết, là chỗ rất thân-thiết rồi! Ngài Pháp-Nhãn bỗng nhiên đại ngộ. Ngài Pháp-Nhãn xin nối pháp ngài Địa-Tạng và, sau ngài sáng lập ra Pháp-Nhãn-Tôn.
[119] Minh-Giáo-Tung Thiền-Sư đến yết-kiến ngài Thần-Đỉnh. Ngài Thần-Đỉnh ngồi trên nhà, ngài Minh-Giáo-Tung ra làm lễ. Ngài Thần-Đỉnh chỉ lên hai cái vò nhỏ nói: Ông đến rất hợp thời.
a. Năm nay trong chùa mới có ít lương-thực. Sáng mai đến thời ăn cháo, ngài thấy tịnh-nhân đem một cái dá, lấy ít món ăn, bỏ vào trong bát chúng Tăng. Ngài trông trên dưới thấy ai cũng nhai món ăn ấy một cách tự-tại. Ngài xuống bếp xem, thì là bánh cơm khô. Ngài Minh-Giáo-Tung hỏi vị kỳ-túc ở đây, vị này nói: Chùa này từ trước tới nay không nấu cháo, có đàn-việt thỉnh trai còn những cơm thừa, phơi khô, nghiền nhỏ ra đem bỏ vào kho. Và, ngày nào không có ai thỉnh trai, thì đem ra rang lên, rồi chia cho chúng Tăng ăn, cùng nhau hưởng sự cam-khổ vậy.
[120] Chiêu-đề: (Caturdesa): Là tiếng Phạn, Trung-Hoa dịch là Tứ-phương (4 phương). Tứ-phương Tăng gọi là Chiêu-đề-tăng. Thí-vật của tứ-phương Tăng gọi là Chiêu-đề tăng-vật. Trụ-xứ của tứ-phương Tăng gọi là Chiêu-đề Tăng-phường.
[121] Trương-Vô-Tận tức Thừa-Tướng Trương-Thương-Anh, tự là Thiên-Giác, hiệu là Vô-Tận Cư-sĩ. Năm ông 19 tuổi đã chiếm khoa bảng và sau ông lưu tâm về Phật-đạo. Tống-Triết-Tôn niên-hiệu Nguyên-Hựu năm thứ 6, ông làm Tào-Vận-Sứ ở Giang-Tây. Ông tham học và đắc ngộ nơi Đâu-Suất-Duyệt Thiền-Sư.
[122] Sơn-Cốc Cư-sĩ chuyên viết lối chữ vuông tám phân.
[123] Sơ-Sơn, Qui-Vân, Như-Bản Thiền-Sư ở Phủ-châu. Ngài là người ở Đài-Thành, Bản-châu. Ngài nối pháp Linh-Ẩn, Huệ-Viễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[124] Thừa-Tuớng Phú-Bật, tự Ngạn-Quốc, người phủ Hà-Nam. Tống-Nhân-Tôn phong làm Trịnh-Quốc-Công, thụy là Văn-Trung Định-Công. Ông đắc-pháp nơi Đầu-Tử, Tu-Ngung Thiền-Sư. Sau về trí-sĩ ở Lạc-Dương, ông có làm bài kệ phúc-đáp Tô-châu, Viên-Chiếu-Bản Thiền-Sư như sau:
i. Tăng kiến Ngung-Sư ngộ nhập thâm,
ii. Nhân-duyên truyền đắc lão-tăng tâm.
iii. Đông-Nam mạn thuyết giang sơn viễn;
iv. Mục đổ linh-quang diễn diệu-âm.
b. Phỏng dịch:
i. Hiểu rõ Ngung-Sư chứng-ngộ sâu,
ii. Duyên may, truyền-đạt ý, tâm đầu.
iii. Đông-Nam, non nước bàn chi rộng!
iv. Mắt thấy linh-quang, tiếng nhiệm mầu!
[125] Đầu-Tử, Ngộ-Chứng, Tu-Ngung Thiền-Sư ở Thư-châu. Ngài nối pháp Tuệ-Lâm, Tôn-Bản Thiền-Sư, thuộc đời thứ 12 của phái Thanh-Nguyên.
[126] Dương-Ức đời nhà Tống, tự là Đại-Niên, người ở Bồ-Thành, Kiến-Châu, thụy là Văn-Chính-Công, làm quan đến Hàn-Lâm, đắc-pháp nơi Quảng-Tuệ, Nguyên-Liễn Thiền-Sư. Sau, trong thời Nhân-Tôn, niên-hiệu Khang-Định, ông là Phương-Ngoại-Hữu của ngài Từ-Minh.
[127] Phò-Mã Đô-Úy, Lý-Tuân-Húc, hiệu Hòa-Văn Cư-sĩ, đắc-pháp nơi Cốc-Ẩn, Uẩn-Thông Thiền-Sư. Khi ông mới tham-học nơi Thông Thiền-Sư, ông hỏi về việc xuất-gia, Thông Thiền-Sư đem chuyện Thôi-Triệu-Công hỏi Kính-Sơn, Đạo-Khâm Thiền-Sư: Đệ-tử nay muốn xuất-gia được không? Ngài Đạo-Khâm đáp: “Xuất-gia nãi đại-trượng-phu sự, phi tướng, tướng chi sở năng vi: Nghĩa là, việc xuất-gia là việc của đại-trượng-phu, không phải là việc mà các quan văn, quan võ làm được”. Ông Lý-Tuân-Húc liền tỉnh ngộ và trình bài kệ sau:
i. Học đạo tu thị thiết-hán,
ii. Trước thủ tâm đầu tiện phán.
iii. Trực xu vô-thượng bồ-đề,
iv. Nhất thiết thị, phi mạc quản.
b. Phỏng dịch:
i. Người sắt mới mong học đạo mầu,
ii. Đặt tay, phân-biện rõ tâm-đầu.
iii. Thẳng về đường giác cao vô thượng,
iv. Phải trái e gì tiếng trước, sau.
c. Sau này, ông là phương-ngoại-hữu của ngài Từ-Minh.
[128] Quảng-Tuệ-Viện, Nguyên-Liễn Thiền-Sư ở Nhữ-châu. Ngài họ Trần ở Tuyền-châu. Ngài nối pháp Thủ-Sơn-Niệm Thiền-Sư, thuộc đời thứ 9 của phái Nam-Nhạc.
[129] Tòng-Duyệt Thiền-sư ở chùa Đâu-Suất, phủ Long-Hưng. Ngài họ Hùng ở Chương-châu. Ngài nối pháp Chân-Tịnh-Văn Thiền-sư.
[130] Thị-Lang Trương-Vô-Cấu, húy là Cửu-Thành, tự Tử-Thiều, hiệu là Vô-Cấu Cư-sĩ, ở Diêm-Quan, Hàng-châu, đắc pháp nơi Diệu-Hỷ-Cảo Thiền-Sư.
[131] Tham-Chính Lý-Bính, tự Hán-Lão, đắc pháp nơi Diệu-Hỷ Thiền-Sư.
[132] Hàn-Lâm Học-Sĩ Lã-Bản-Trung, tự Cư-Nhân, hỏi đạo nơi ngài Diệu-Hỷ.
[133] Chung-Sơn, Tăng-Viễn Thiền-Sư, vào tháng tám năm Canh-Thìn, niên-hiệu Kiến-Nguyên năm đầu, vua Tề-Cao-Tổ, ngự-giá đến Chung-Sơn. Nhân nơi này có Sa-môn Tăng-Viễn, nhà vua muốn hỏi thăm, ngài Tăng-Viễn ngồi trên giường cáo bệnh không tiếp. Vua Cao-Tổ toan đi tới nơi để tiếp-kiến, tả hữu can, nói: Phòng, giường chật hẹp, xe không tới được. Nhà vua liền để xe ở ngoài, đi bộ vào thăm, hỏi ân-cần. Ngài Tăng-Viễn ở núi hơn 50 năm. Hai mươi năm đầu, ngài chỉ ăn cỏ cây, uống nước khe. Các nơi đều ngưỡng-mộ cao-phong của ngài. Khi ngài mất, nhà vua biết, tôn ngài là bậc thày và cho làm lễ mai táng long-trọng tại Chung-Sơn.
[134] Lư-Sơn, Đông-Lâm, Hổ-Khê, Tuệ-Viễn Thiền-Sư. Ngài họ Giả ở Lâu-Phiền, Nhạn-Môn. Ngài thông-suốt sáu kinh, nhưng hiểu sâu về kinh Dịch. Ngài thường cùng em là Tuệ-Trì tới nơi Đạo-An Pháp-Sư nghe kinh Bát-Nhã. Sau ngài đi xuất-gia. Gặp lúc nơi Quan-Trung nhiễu loạn, ngài đi về phương Nam đến đất Tầm-Dương, ngài thích núi Khuông-Sơn, liền cất nhà lá ở trong núi này. Thái-Thú Hoàn-Doãn mến đức ngài, mới sáng lập ra tinh-xá. Khi nhà Tấn suy-vi, các bậc kỳ-tài trong thiên hạ ẩn-dật không ra làm quan. Ngài lập Liên-Xã, nhóm họp những vị Sa-môn và hiền-nho hơn 1.000 người, cầu sinh Tịnh-Độ của đức Phật A-Di-Đà. Vua An-Đế nhà Đông-Tấn, ngự giá đến Tầm-Dương, viết chiếu mời ngài Tuệ-Viễn, ngài cáo bệnh không ra. Nhà vua càng kính mộ, liền sắc cho quan Thái-Thú Cửu-Giang, hàng năm phải trợ-cấp các thực-phẩm, đồ dùng. Ngài ở đây 30 năm không ra khỏi núi. Ngài tiễn khách chỉ tới cầu Hổ-Khê mà thôi. Ngài soạn ra Khuông-Sơn-Tập 30 quyển, đương thời rất thịnh hành.
[135] Ẩn-Tĩnh, Viên-Cực, Ngạn-Sầm Thiền-Sư ở châu Thái-Bình. Ngài là người ở Đại-Thành, Phủ-châu. Ngài nối pháp Vân-Cư, Pháp-Như Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[136] Tuyết-Phong, Đông-Sơn, Tuệ-Không Thiền-Sư ở Phúc-châu. Ngài họ Trần ở Bản-Quận. Ngài nối pháp Lặc-Đàm, Thiện-Thanh Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc.
[137] Kim-Lăng, Chung-Sơn, Như-Diễm Thiền-Sư, hiệu là Triết-Ông. Ngài nối pháp Phật-Chiếu-Quang Thiền-Sư, thuộc đời thứ 12 của phái Nam-Nhạc.
[138] Sán-Ẩn-Sơn tức Phật-Chân, Liễu-Sán Thiền-Sư ở chùa Tịnh-Chúng (Chương-châu). Ngài họ La ở Tuyền-Nam. Ngài nối pháp Phật-Giám-Cần Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[139] Đây chỉ về chuyện Động-Sơn, Tự-Bảo Thiền-Sư ở Thụy-Châu. Ngài là người ở Lư-Châu. Ngài nối pháp Ngũ-Tổ-Giới Thiền-Sư, thuộc đời thứ 9 của phái Thanh-Nguyên. Ngài là người nghiêm-cẩn, thường giữ chức coi kho ở nơi Ngũ-Tổ-Giới Thiền-Sư. Giới Thiền-Sư nhân có bệnh, sai thị-giả xuống xin ít gừng sống sắc thuốc. Ngài Tự-Bảo mắng thị-giả. Thị-giả bạch với Giới-Thiền-Sư. Giới-Thiền-Sư sai thị-giả mang tiền xuống mua. Sau này, chùa Động-Sơn ở Quân-Châu thiếu Trụ-trì, quan Quận-Thứ nhờ Giới-Thiền-Sư cử cho một vị có đức làm chủ. Giới-Thiền-Sư nói: Có ông bán gừng sống Trụ-trì được. Quận-Thú liền thỉnh ngài Tự-Bảo trụ-trì. Sau ngài dời về chùa Qui-Tôn. Một hôm ngài ra cổng, có người đương dẹp đường. Ngài hỏi có ai đi qua đấy? Người kia đáp: Có quan Huyện-Úy đi qua. Ngài Tự-Bảo đứng ra bên đường, con ngựa của ông quan đi qua liền quì xuống. Ngài Tự-Bảo nói : Súc-sinh cũng biết người ư? Quan Huyện-Úy xuống lạy Ngài rồi đi. Sau Ngài dời về chùa Vân-Cư. Một đêm, được sơn thần khiêng Ngài lên trên vai đi quanh chùa. Ngài bảo khiêng ta vào nhà phương-trượng. Ngài làm bài tán Đạt-Ma, tiếng khen khắp Tùng-lâm.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 4 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn


Vô niệm (Pháp bảo Đàn kinh)


Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ


Tổng quan về Nghiệp

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.224.45.82 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập