Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
152.– TUYỂN HIỀN
Tuyết-Đường-Hạnh Hòa-Thượng[140] khi trụ-trì chùa Tiến-Phúc, một hôm hỏi thăm một vị Tăng mới tới rằng: Ông từ đâu lại? Vị Tăng kia nói: Tôi từ Phúc-châu lại. Ngài Tuyết-Đường hỏi: Trên quãng đường ông đi, ông có thấy vị Trưởng-lão nào tốt không? Vị Tăng kia nói: Gần tới Tín-châu, tôi thấy có Bản Hoà-Thượng[141] trụ-trì chùa Bác-Sơn. Tuy tôi chưa từng lễ bái Hòa-Thượng, nhưng tôi biết Hòa-Thượng là vị Trưởng-lão tốt. Ngài Tuyết-Đường hỏi: Sao ông biết Hòa-Thượng là người tốt? Vị Tăng kia đáp: Vào chùa tôi thấy đường sá rộng-rãi, hành-lang tu-chỉnh, điện-đường hương-đăng bất tuyệt, sớm hôm chuông trống phân-minh, hai thời cơm cháo thanh-khiết, tăng-hàng thấy người tới thăm có lễ-độ. Qua những việc ấy, tôi biết Hòa-Thượng là vị Trưởng-lão tốt. Ngài Tuyết-Đường cười, nói: Bản Hòa-Thượng vốn là người hiền, song ông cũng là người cụ-nhãn.
Ngài đem thẳng lời nói của vị Tăng kia nói chuyện với quan Quận-Thú Nhiêu-châu là ông Ngô-Công Truyền-Bằng. Ngài nói: Sự luận bàn của vị Tăng kia, giống như việc ông Phạm-Diên-Linh tiến cử ông Trương-Hy-Nhan, mà sự hiền đức của quan Quận-Thú không kém gì ông Trương-Trung Định-Công[142]. Nay lão-tăng tuổi đã già, lão-tăng xin đề-nghị Quận-Thú thỉnh Bản Hòa-Thượng trụ-trì chùa Tiến-Phúc, ngõ hầu làm được những việc hưng-thịnh cho thiền-lâm. Ông Ngô-Công rất mừng và, ngay hôm ấy, Bản Hòa-Thượng dời về chùa Tiến-Phúc.
153.– BỀN CHÍ
Ngài Tuyết-Đường nói: Bờ sông kiên-cố hàng nghìn dặm, nhưng bị hư-nát, chỉ vì một lỗ kiến. Ngọc bích trắng, đẹp nhưng bị bỏ rơi, chỉ vì một vết nhơ. Huống chi diệu-đạo vô thượng, không phải như bờ sông kiên-cố, ngọc bích trắng đẹp sao? Và, tham-dục, giận tức không phải như lỗ kiến, vết nhơ sao? Cốt yếu ở chỗ tâm-chí đoan-cẩn, thực-hành tinh-tiến, giữ gìn bền vững, tu-chứng hoàn-mỹ, sau mới có thể làm việc lợi mình, lợi người được.
154.– BẤT ĐỘNG
Ngài Tuyết-Đường nói: Khi tôi ở chùa Long-Môn, thì Bính-Thiết-Diện ở chùa Thái-Bình. Có người nói với tôi: Bính-Thiết-Diện ly hương, hành-cước chưa bao lâu, thì nghe thấy nơi chùa ông thày thụ-nghiệp của Bính-Thiết-Diện, một hôm bị thất hỏa, cháy hết. Bính-Thiết-Diện nhận được thư, ném xuống đất mà nói: “Chỉ làm loạn tâm ý người ta”.
155.– THIỆN NGÔN
Ngài Tuyết-Đường nói với Hối-Am-Quang Hòa-Thượng[143]: Năm tôi hai mươi tuổi, tôi thấy thân-phụ tôi dạy: “Trong tâm không làm chủ được, thì không lập-thân được. Ngoài mặt không đoan-chính, thì không tiến-hành được gì. Lời nói ấy, suốt đời noi theo được, thì sự nghiệp của thánh-hiền hàm-tàng đầy-đủ trong đó!” Tôi giữ-gìn lời nói ấy, tại-gia thì tu thân, xuất-gia thì học đạo, cho đến khi xuất thân xử sự với chúng-nhân, tôi coi nó như bàn cân định nặng nhẹ, qui-củ thành vuông tròn. Và, nếu bỏ đi thì mất chuẩn-đích vậy.
156.– HƯỚNG THƯỢNG
Ngài Tuyết-Đường nói: Ngài Cao-Am khi xử sự với chúng thường nói: “Trong chúng cần phải có người tri-thức”. Nhân cớ ấy, tôi hỏi Ngài: Tại sao? Ngài Cao-Am trả lời: Ông không thấy ngài Qui-Sơn nói: “Người học đạo, khi cử động cần phải xem bậc thượng-lưu và, đừng nên khinh theo những hạng tầm thường”. Bình-sinh tôi ở trong đại-chúng, tôi không chìm theo những kẻ hạ-ngu, là đều xuất ra ở lời nói ấy.
Trong chúng đông người, người tầm thường thì nhiều mà người tri-thức thì ít. Người tầm thường thì dễ tập, mà người tri-thức thì khó thân. Nếu như ở trong ấy mà chí-khí mình phấn-phát được, như một người chống với muôn người, thì năng-lực tập-nhiễm với những người tầm thường sẽ hết và, thực là một người đĩnh-đặc không còn hạn-lượng nữa. Suốt đời tôi noi theo lời nói ấy, nên mới không phụ chí-hướng xuất-gia vậy.
157.– TRÍ ĐỨC
Ngài Tuyết-Đường nói với ngài Thả-Am[144]: Chọn người chấp-sự, cần cân-nhắc nặng nhẹ, phát ngôn cần suy nghĩ trước và cần phải hợp trung đạo, chứ không nên thiên vị. Nếu bạo dụng vội vàng thì ít thành, mà dù có thành, cuối cùng vẫn không được vạn toàn. Tôi ở trong chúng thấy hết những lợi bệnh, nhưng chỉ người có đức, dùng độ lượng khoan dung mà cảm phục người. Tôi thường mong những người có chí lực sau này nên xem xét và, thực hành, mới được lợi ích tốt đẹp.
Ngài Linh Nguyên thường nói: Phàm người ta ở nơi bình yên hay nhiếp tâm soi vào trong, thì hiểu thấu rất nhiều, nhưng đến khi theo đuổi vào việc ngoài, thì liền trái với lẽ hỗn dung trước và, mất pháp thể. Vậy nếu ai quyết tâm muốn nghĩ đến trách nhiệm nối tiếp Phật Tổ, mở lối cho hậu côn, không thể không thường tự kiểm trách!
158.– TÔN ĐỨC
Ứng-Am-Hoa Hòa-Thượng[145] trụ-trì chùa Minh-Quả, ngài Tuyết-Đường vẫn lui tới hàng ngày. Thỉnh thoảng có người bàn tán trộm. Ngài Tuyết-Đường nói: Pháp điệt của tôi là Ứng-Am-Hoa, là người không ưa lợi gần danh, không trước khen sau chê, không a dung cẩu hợp, không nịnh sắc sảo ngôn. Hơn nữa, ông ấy thấy đạo minh bạch đi, ở thoát sái, mà trong hàng Tăng-sĩ khó có, người được như thế, nên tôi vẫn tôn trọng.
159.– THẮNG
Ngài Tuyết-Đường nói: Người học đạo, khí thắng chí là tiểu nhân, chí thắng khí là đoan nhân, chính sĩ, khí và chí bằng nhau là đắc đạo hiền thánh.
Trong tùng-lâm, có người cứng cỏi, không chịu sự can gián theo qui luật, đó là do khí sai khiến. Những người đoan-chính tuy có trường hợp cưỡng ép phải làm việc bất thiện, nhưng thà chết chứ không hai lòng, đó là chí sai-khiến vậy.
160.– ĐẠI-ĐỨC
Ngài Tuyết-Đường nói: Khi ngài Cao-Am trụ-trì chùa Vân-Cư, ngài Phổ-Vân-Viên[146] làm Thủ-Tọa, ngài Nhất-Tài-Tăng[147] làm Thư-Ký, ngài Bạch-Dương-Thuận[148] làm Tạng-Chủ, ngài Thông-Ô-Đầu[149] làm Tri-Khách, ngài Hiền-Chân-Mục[150] làm Duy-Na (Tri-Sự), ngài Ứng-Am-Hoa làm Phó-Tự[151], ngài Đức-Dụng làm Giám-Tự[152] đều là những vị có đức nghiệp.
Ngài Đức-Dụng, khi tầm thường là người rất thanh-liêm, kiệm ước, không dùng một chút dầu của thường-trụ. Ngài Ứng-Am-Hoa có lúc nói đùa: Thời khác Sư-huynh làm Trưởng-lão cần phải lỗ mũi đoan-chính mới được, há dùng những sự nhỏ-nhặt ấy mà làm được ư? Ngài Đức-Dụng không đáp lại. Ngài Đức-Dụng xử mình tuy kiệm-ước, nhưng đối với người rất phong-hậu, tiếp đón các vị từ bốn phương lại, sắc mặt không có chút mệt-mỏi. Ngài Cao-Am một hôm thấy thế nói: Giám-Tự dụng tâm, cố nhiên không có ai được như vậy, nhưng cần phải soi xét tỉ-mỉ vào việc thường-trụ hơn nữa, đừng để xảy ra một chút sơ-sót gì! Ngài Đức-Dụng nói: Trên phận-sự có chỗ nào sơ-sót, đó chỉ là vấn-đề nhỏ nhặt, nhưng tất yếu tại chỗ Hòa-thượng tôn hiền, đãi sĩ, độ lượng như biển cả thâu nhận nước trăm sông, như hang núi dung-nạp vạn vật, không hỏi đến việc vi-tế, thực là đại-đức của trụ-trì. Ngài Cao-Am cười! Cho nên, tùng-lâm này thường gọi Ngài là “ĐẠI-UYỂN” – như cái chén lớn, đựng được nhiều vật vậy.
161.– TƯƠNG ĐẮC
Ngài Tuyết-Đường nói: Người học đạo, không biết chỗ hướng về đạo, thì cần phải tìm thày, bạn để tham hỏi. Là bậc thiện-tri-thức, không thể hoá-đạo một mình, nên cần có những người tham-học tán-trợ. Bởi thế, vị sư có đạo-đức làm chủ tùng-lâm, thành-lập pháp-xã, tất nhiên sẽ có hàng Tăng-sĩ hiền-trí các nơi lại trợ-tá. Thế là, có khác gì hổ gầm, gió buốt, rồng cuộn mây bay vậy!
Xưa kia, ngài Mã-Tổ tại Giang-Tây, vì được ngài Bách-Trượng, ngài Nam-Tuyền mà đại-cơ, đại-dụng hiển-phát. Như ngài Thạch-Đầu ở Nam-Nhạc, được ngài Dược-Sơn[153], ngài Thiên-Hoàng[154] mà đại-trí, đại năng rạng-rỡ. Thực là, nghìn năm một thuở, tâm đầu ý hợp, luận-thuyết không ngờ, phơi-phới như lông hồng gặp gió, vẫy-vùng như cá lớn gặp biển, đều là thế tự nhiên vậy. Và, cũng bởi sự hợp hội ấy, nên công-huân xây-dựng tùng-lâm, làm tăng ánh sáng của Phật-Tổ, cũng đều là thế tự nhiên vậy.
Tiên-Sư khi trụ-trì chùa Long-Môn, một hôm nói với tôi: Ta không có đức-nghiệp, không thể qui-nạp hàng Tăng-sĩ hồ-hải một cách rộng lớn được. Ta thực hổ thẹn đối với Đông-Sơn Trưởng-lão! Nói xong, Ngài buồn rầu sa lệ. Tôi thường nghĩ đến việc ấy. Nay làm thày, làm khuôn pháp cho người, thực cách xa cổ-nhân gấp muôn lần vậy!
162.– BẤT KHUẤT
Ngài Tuyết-Đường nói: Khi tôi ở chùa Long-Môn, ngài Linh-Nguyên ở chùa Thái-Bình, quan Hữu-Ty đem việc vô tội mà nhiễu hại Ngài. Ngài Linh-Nguyên viết thư cho Tiên-Sư nói: “Chính-trực khả dĩ làm đạo và, đã làm thì không thể bỏ. Uổng-khuất khả dĩ trụ-trì nhưng thực không phải là chí của tôi. Chẳng bằng phóng ý tại nghìn hang muôn hốc, ngày ăn hạt cỏ, để thỏa kiếp sống còn thừa này, sao lại phải lo buồn, thành khẩn ư?” Và, trong khoảng không đầy mười hay mười hai ngày, có mệnh ngài Hoàng-Long thỉnh Ngài đi trụ-trì nơi khác. Nhân sự cảm-hứng ấy, Ngài trở về miệt Giang-Tây.
163.– TAM TƯ
Ngài Tuyết-Đường nói: Ngài Linh-Nguyên hay so-sánh vật-loại cho các Tăng-sĩ biết. Ngài nói: Cổ-nhân có nói: Ví như người làm tượng đất, tượng gỗ. Người làm tượng gỗ, trước nên làm tai, mũi lớn và miệng, mắt nhỏ. Nếu sau có người chê, thì tai, mũi lớn có thể làm nhỏ đi và, miệng, mắt nhỏ có thể làm lớn ra. Người làm tượng đất, trước nên làm tai, mũi nhỏ và, miệng mắt lớn, nếu sau có người chê, thì tai mũi nhỏ có thể làm lớn lên và miệng mắt lớn có thể làm nhỏ đi. Lời nói ấy tuy nhỏ mọn, nhưng có thể dụ vào việc lớn được. Người học đạo, tới việc phải quyết-định lấy hay bỏ, không nên ngại phải suy nghĩ tới ba lần. Như thế, mới là người trung-hậu.
164.– GIÁN-KHÍ
Ngài Tuyết-Đường nói: Ngài Vạn-Am[155] tiễn chân ngài Cao-Am qua chùa Thiên-Thai, khi trở về nói chuyện với tôi: Được nghe có Đức-Quán Thủ-Tọa[156] ẩn trong hang Cảnh-Tinh ba mươi năm không ra khỏi núi. Khi ông Long-Học, Cảnh-Công làm Quận-Thú, đặc-biệt định đón Ngài về chùa Thụy-Nham. Ngài Đức-Quán từ chối bằng bài kệ sau:
Tam thập niên lai độc yểm quan,
Sứ phù ná đắc đáo thanh-san.
Hưu tương tỏa mạt nhân-gian sự,
Hoán ngã nhất sinh lâm hạ nhàn.
Phỏng dịch:
Ba mươi năm ẩn, cửa quan cài,
Thư tới non xanh, uổng mệnh ai!
Việc nhỏ nhân-gian toan hoán cải?
Thảnh-thơi rừng suối sẵn cao-hoài!
Sứ-mệnh đến lần thứ hai, Ngài cũng nhất định từ chối. Ông Cảnh-Công than: “Ngài Đức-Quán được liệt vào hàng ngài Ẩn-Sơn ngày nay vậy!”
Ngài Vạn-Am nói tiếp: Nơi Thiên-Thai có vị lão-túc, ghi được những lời của Đức-Quán Thủ-Tọa thị-chúng rằng: “Không thể-nhập được gốc đạo, tất sẽ chìm đắm trong biển sinh-tử. Xúc cảnh sinh tâm, tùy tình động-niệm, lòng lang ý cáo, nịnh hót dối người, dựa thế a-dung, khoe danh cầu lợi, trái chân theo vọng, bội giác hợp trần[157] là những việc mà đạo-nhân ở nơi lâm hạ, nhất định không làm”.
Nghe tới đây, ngài Tuyết-Đường nói: Đức-Quán Thủ-Tọa là bậc gián-khí[158] trong Tăng vậy!
165.– THANH-LIÊM
Ngài Tuyết-Đường sinh trong gia-đình giàu sang, nhưng Ngài không có thái-độ kiêu-ngạo. Ngài xử mình tiết-kiệm, thanh-nhã, không chuộng những vật lạ đẹp. Khi Ngài ở trong núi Ô-Cự, có Tăng-sĩ đem dâng Ngài một cái gương sắt. Ngài Tuyết-Đường nói: Nước khe trong vắt, soi được lông tóc, giữ vật này làm gì! Ngài quyết-định khước-từ.
166.– ĐẠO PHONG
Ngài Tuyết-Đường là người nhân-từ, trung-thứ, tôn-hiền, kính-tài, ít khi nói lời đùa cười, thô-tục. Hình-sắc Ngài không khô-khan, cử-chỉ không bạo-nộ và, cả những lúc đi lại cũng rất mực đoan-nghiêm, thanh-khiết. Ngài thường nói: Người đời xưa học đạo, lạnh nhạt với ngoại vật, không ham muốn gì, quên cả thế-vị, bỏ cả thanh-sắc một cách thành-thực, chứ không phải miễn-cưỡng. Người đời nay học đạo, làm hết mọi nghề, không bỏ sót một vấn-đề gì, là sao vậy? Vì, chí không bền, sự bất nhất, tuy làm nhưng chỉ là đại-khái vậy!
167.– NGHIÊM HUẤN
Ngài Tuyết-Đường nói: Ngài Tử-Tâm ở chùa Vân-Nham, trong nhà, Ngài hay giận, mắng. Hàng Tăng-sĩ trông thấy chùa này là rút lui. Phương-Thị-Giả[159] nói: Là bậc thiện-tri-thức, thực-hành đạo Phật Tổ, làm hiệu-lệnh cho nhân, thiên, nên coi người học đạo như con đỏ. Nay, tại sao Hòa-Thượng không đem thi hành tâm thương xót, ra ân vỗ về sự thuận tòng, dùng lời dạy trung-hòa, mà lại coi Tăng-chúng như cừu-thù, thấy là mắng nhiếc, như vậy, há là dụng tâm của thiện-tri-thức ư? Ngài Tử-Tâm rút gậy đuổi, nói: Sự thấy biết của ông như thế, ông định sau này chỉ là kẻ nịnh-bợ người thế-vị, cầu cạnh nơi quyền-hào, bán rẻ Phật-pháp, lừa dối những người tầm thường à? Ta không nỡ thấy sau này như thế, nên ta dùng lời nói nặng để khích-lệ, há có ý gì khác! Ta muốn cho Tăng-chúng biết hổ thẹn đổi lỗi, ôm-ấp trong lòng mãi không quên, để sau này sẽ là người tốt vậy!
168.– ĐỨC VÀ LỄ
Tử-Tâm-Vân Hoà-Thượng nói: Ngài Tú-Viên-Thông[160] thường nói: Mình không đoan-chính lại muốn người ta đoan-chính, đấy là thất đức. Mình không cung-cẩn lại muốn người ta cung-cẩn, đấy là bội lễ. Là thiện-tri-thức mà thất đức, bội lễ thì lấy gì làm khuôn mẫu cho người sau!
169.– PHÓNG XẢ
Ngài Tử-Tâm nói với ông Trần-Oánh-Trung: Muốn cầu đại-đạo, trước phải chính-tâm. Còn có chút giận-bực thì tâm cũng không chính. Và, còn có chút ham muốn thì tâm cũng không chính. Song, mình không phải là bậc thánh-hiền ứng thế, nên vẫn còn có sự yêu, ghét, mừng, giận. Có, nên thẳng-thắn phóng xả, không nên để trong tâm, làm hại cho sự chân-chính của mình. Thế là được vậy!
170.- ĐƯỜNG ĐẠO
Ngài Tử-Tâm nói: Tiết-kiệm, phóng-xả, là con đường vào đạo rất ngắn. Nay phần nhiều thấy những người học đạo, tâm vẫn còn ấm-ức, miệng vẫn còn ấp-úng. Ai không muốn nối gót cổ-nhân. Nhưng, xem sự phóng-xả, tiết-kiệm thì thấy trong muôn người không được một người. Như con cái nhà thế-tục, không chịu đọc sách lại muốn làm quan. Như thế, ngay như đứa trẻ nít cũng biết rằng việc ấy họ không sao đạt được!
171.– HỌC ĐẠO
Ngài Tử-Tâm nói với ngài Trạm-Đường: Người học đạo có tài năng, kiến-thức, trung-tín, tiết-nghĩa là người ở vào bậc thượng. Người có tài-năng tuy không cao, nhưng biết cung-cẩn và có độ-lượng là người ở vào bậc thứ. Người mà tâm họ còn mang sự tư-tà, xem xét và trông mong nơi người khác, để tùy thế thay đổi, người ấy thật là tiểu nhân. Nếu đem đặt để tiểu-nhân ấy ở trước đại-chúng, thì quyết-định họ phá-hoại tùng-lâm và, làm nhơ-nhớp pháp-môn vậy!
172.– TÍN PHỤC
Ngài Tử-Tâm nói với ngài Thảo-Đường: Phàm, chức-vị trụ-trì, nói năng làm việc cần phải thành-tín. Nói thành-tín, thì sự cảm phục sâu xa. Nói không thành-tín, thì cảm-phục nông cạn. Nói năng không thực, việc làm không tín, người thứ tục còn không nỡ làm, vì sợ trong hương-đảng thấy sự dối-trá của mình, huống là người làm chủ tùng-lâm, thay Phật Tổ tuyên-dương pháp-hóa, nếu nói năng, làm việc không thành-tín, thì hàng Tăng-sĩ khắp nơi, ai theo!
173.– CẦU ĐẠO
Ngài Tử-Tâm nói: Người cầu lợi không thể nói đạo với họ. Người cầu đạo cũng không thể nói lợi với họ. Cổ nhân không phải là không biết cả hai thứ ấy, nhưng thế không thể kiêm được. Nếu lợi và đạo cùng làm được, thì những người buôn bán, giết thịt, bán rượu cùng những người khuân-vác, buôn gánh, bán bưng trong các làng xóm, ngõ hẻm đã cầu được đạo sớm-sủa rồi, hà tất cổ-nhân phải bỏ giàu sang, quên công danh, muội tâm, bặt trí, ở trong nơi không-sơn, đại-trạch, uống nước khe, ăn rau cỏ đến suốt đời làm gì? Nếu quyết cho là lợi và đạo cùng làm được, mà không có gì ngang trái, trở ngại thì khác gì như bưng chén nước dò mà tưới vào cái nồi đang cháy đỏ, thực không thể gỡ được!
174.– ĐỨC CẢM
Ngài Tử-Tâm nói: Hối-Đường tiên-sư trước kia khi Ngài đi hành-cước ở Đông-Ngô, Ngài thấy Viên-Chiếu Thiền-Sư[161] tới khai pháp tại chùa Tịnh-Từ, những vị Tăng và người tục của Tô-châu và Hàng-châu tranh giành nhau về việc được thỉnh Ngài, mãi không thôi. Một đàng nói: Đây là thày của chúng tôi, sao các ông lại định chiếm-đoạt? Một đàng nói: Nay Ngài là thày của chúng tôi, các ông không còn nữa. Cuối cùng quan Quận-Thú Hàng-châu phải viết giấy cho Phật-tử Tô-châu, xin mượn Ngài ba năm để hoằng đạo, mới thôi.
175.– ĐẠO NGHĨA
Ngài Tử-Tâm khi ở chùa Thúy-Nham, nghe biết ngài Giác-Phạm bị đày ra hải ngoại. Trên đường ngài Giác-Phạm đi qua Nam-Xương, ngài Tử-Tâm liền mời về trong núi, tiếp đãi suốt ngày và, hậu-lễ tiễn tống. Có người cho ngài Tử-Tâm có tính tình mừng, giận bất thường. Ngài Tử-Tâm nói: Ngài Giác-Phạm là vị Tăng có đức. Sở dĩ trước kia tôi cực lực chê-trách là muốn ngài Giác-Phạm nên bỏ những cử chỉ lộ khuê-dác mà thôi. Nay Ngài bị tù đày là tố phận của Ngài, tôi lấy đạo-nghĩa khi bình thường của tùng-lâm mà đối xử thôi! Các thức giả cho ngài Tử-Tâm đối với người có tâm vô-tư như thế. Đáng khen!
176.– NHÂN TÍNH
Ngài Tử-Tâm nói với ngài Thảo-Đường: Hối-Đường tiên-sư thường nói: Đức-tính khoan hậu của người là tính sẵn có, không thể miễn-cưỡng mà có được. Nếu tính nhu mà miễn-cưỡng làm ra mạnh, tất nhiên sẽ không được lâu dài. Mạnh mà không được lâu dài, thì bị tiểu-nhân khinh-mạn lại. Tà, chính, thiện, ác cũng là tính sẵn có và đều khó chuyển-di. Chỉ người có tính trung-dung là dễ chuyển lên hay dễ chuyển xuống, theo sự biến-hóa của hoàn-cảnh.
177.– NGĂN NGỪA
Thảo-Đường-Thanh Hòa-Thượng[162] nói: Lửa cháy cả cánh đồng, được phát-sinh ở nơi một đốm lửa nhỏ. Nước làm lở núi đá, được chứa-chất từng giọt tý-tách. Giọt nước nhỏ ấy, có thể bưng đất ngăn lấp, nhưng khi nó tràn đầy, thì trôi cả gỗ đá, ngập cả gò, đống. Đốm lửa nhỏ ấy, một gáo nước có thể dập tắt, nhưng khi nó bốc mạnh, cháy cả thành-đô, thôn-ấp, đốt cả núi rừng. Nước lửa ấy, so-sánh với nước ái-dục, lửa sân-hận có khác gì đâu!
Cổ-nhân trị tâm, ngăn-ngừa khi vọng-niệm chưa sinh, thức-tình chưa khởi, thì dùng sức rất ít, mà thu công thật lớn. Nhưng đến khi tính tình loạn động, yêu, ghét công phá, thì đối với mình sẽ làm hại cho kiếp sống, còn đối với người thì sẽ làm hại đồng-nhân. Nguy lắm! Nguy lắm! Không thể cứu vớt được!
178.– AN ĐỊNH
Ngài Thảo-Đường nói: Trụ-trì không cần điều gì khác, chỉ cần xét kỹ tình người, biết suốt trên dưới mà thôi. Tình người được xét kỹ, thì trong ngoài hòa. Tình trên dưới thông, thì trăm sự được điều lý. Đó là sự an-định của trụ-trì. Tình người không xét kỹ, tình trên dưới không thông, tức là trên dưới trái ngược nhau, thì trăm sự mâu thuẫn. Đó là sự phế-hủy của trụ-trì.
Thảng-hoặc, người làm chủ, tự-thị tư-chất thông-minh, hay chấp thiên-kiến, không suốt tình người, bỏ công nghị mà trọng quyền mình, hủy công-luận mà làm ơn riêng, khiến cho con đường tiến thiện bị hẹp dần, đạo lãnh chúng càng nhỏ bé, hủy bỏ điều chưa thấy chưa nghe, lại an tâm vào chỗ đã tập, đã bị che lấp. Như thế, muốn cho đạo trụ-trì truyền-bá xa rộng, khác gì người đi giật lùi lại muốn tiến về phía trước, thì không thể được!
179.– DỊ LUẬN
Ngài Thảo-Đường nói: Sự lập thân của người học đạo, cần ở chỗ chính-đáng và, đừng để người ta bàn trộm. Nếu có một chút gì sa vào dị-luận, thì suốt đời không thể lập-nghiệp được. Xưa kia, Thái-Dương Bình Thị-Giả[163] đạo-học được tùng-lâm suy trọng. Nhưng vì tâm xử sự bất chính, bị thức-giả chê-trách, đến nổi suốt đời bị lận đận và, đến khi chết cũng không có chỗ qui-hướng. Gương ấy há riêng người học đạo soi thôi, mà người làm chủ một phương cũng càng nên kính sợ!
180.– THÂN SƠ
Ngài Thảo-Đường nói với Như-Hòa-Thượng[164]: Hối-Đường tiên-sư nói: Trong chúng đông người, người hiền kẻ bất-tiếu, tiếp gót nhau chung ở hỗn-tạp. Vì, đó là nơi giáo-hóa rộng lớn, không cứ kẻ thân người sơ. Song, chỉ ở chỗ thêm chút công-phu chọn lựa tinh-tế mà thôi. Nếu người có tài-đức hợp với sự ngưỡng vọng của chúng-nhân, thì không nên đem sự giận, ghét của riêng mình mà sơ người ấy. Nếu người có kiến-thức tầm thường, bị chúng-nhân ghét bỏ, thì cũng không nên đem lòng yêu riêng của mình mà thân người ấy. Như thế, thì người hiền tự tiến, kẻ bất-tiếu tự lui, tùng-lâm yên-ổn. Nếu người làm chủ, ưa thích tư tâm, chuyên theo sự mừng, giận của mình, áp-đảo vào sự tiến, thoái của người, thì người hiền ngậm miệng, kẻ bất-tiếu ganh tiến, kỷ-cương rối loạn, tùng-lâm phế-hủy.
Hai việc ấy thực là đại-thể của trụ-trì. Thành tâm xét kỹ và làm theo, thì người gần vui mừng, người xa truyền rộng, lo gì đạo không thịnh hành và, hàng Tăng-sĩ không kính mến mà lại!
181.– KHÉO DÙNG
Ngài Thảo-Đường nói với Không Thủ-Tọa[165]: Từ khi có tùng-lâm đến nay, được người và làm hưng thịnh Phật-giáo, không ai bằng các ngài: Thạch-Đầu, Mã-Tổ, Tuyết-Phong[166], Vân-Môn[167]. Và, cận đại, chỉ có hai Tổ: Hoàng-Long và Ngũ-Tổ, thực sự thu-tập được những Tăng-sĩ anh tuấn ở khắp bốn phương. Các Ngài tùy theo khí-độ nông hay sâu, tài, tính được hay không của từng vị mà dùng vào công việc. Như thế, như cỗ xe nhẹ, bốn ngựa tuấn kéo, có mười sáu dây cương và roi da điều-khiển, hoặc chậm hoặc nhanh đều do mình trông ngó, thì muốn đến chỗ nào mà không đến được!
182.– KHÔNG LẦM
Ngài Thảo-Đường nói: Trụ-trì không có điều gì khác mà cốt ở chỗ răn giữ và cẩn-thận đối với tệ-bịnh: nghe lệch và tự-chuyên. Không chủ nghe những lời vào tai trước là phải, thì những lời sàm-báng của những kẻ tiểu-nhân siểm-nịnh đón hợp, không thể mê-hoặc được. Tình chúng-nhân bất nhất, lời bàn luận chí công khó thấy, nên phải xem rõ lợi hại, xét kỹ được không, sau mới làm. Như thế có thể không bị sai lầm!
183.– QUYẾT ĐOÁN
Ngài Thảo-Đường nói với ngài Sơn-Đường[168]: Sự việc thiên hạ, phải, trái chưa rõ cần phải thận-trọng và, phải, trái đã rõ thì dùng lý quyết-đoán. Quyết-đoán theo đạo-lý, thì quyết đoán không ngờ vực. Như thế, kẻ gian-nịnh không thể mê-hoặc được và, kẻ cưỡng-biện cũng không thể chuyển-dịch được.
184.– THANH TU
Sơn-Đường-Chấn Hoà-Thượng từ-khước mệnh-lệnh của tiên-sư về trụ-trì chùa Tào-Sơn, thì quan Quận-Thú có gửi thư khuyên. Ngài Sơn-Đường viết thư từ chối: “Nếu bảo tôi phải làm một Tăng-sĩ tham danh, thích cơm ngon, đồ béo, thì chẳng bằng tôi làm một người quê mùa, ẩn nơi núi non, mặc áo cỏ, ăn trái cây còn hơn!”
185.– VÔ TÂM
Ngài Sơn-Đường nói: Con rắn, con hổ không phải kẻ thù của chim cắt, thế mà hễ nó thấy con rắn, con hổ ở đâu, là nó theo và kêu, là sao vậy? Vì con rắn, con hổ đều có dị tâm. Con trâu, con lợn không phải là thứ để cưỡi của chim sáo, thế mà con trâu con lợn ở đâu, thì nó lại tới đỗ trên lưng, là sao vậy? Vì con trâu, con lợn kia không có dị tâm.
Xưa kia, ngài Triệu-Châu đến thăm vị Am-Chủ, gặp lúc thấy con quạ đang ăn chén cơm xuất-sinh, và Ngài đi tới gần thì nó bay. Ngài Triệu-Châu hỏi: Tại sao con quạ thấy người lại bay? Am-Chủ không biết, liền đem lời nói ấy hỏi lại ngài Triệu-Châu. Ngài Triệu-Châu đáp: “Vì, tôi có tâm định giết nó”. Cho nên, ngờ vực người thì người cũng ngờ vực lại, quên vật thì vật cũng quên. Cổ-nhân cùng làm bạn với hổ với rắn, tức là khéo đạt lẽ vong-cơ vậy. Bàng Cư-sĩ[169] nói: Trâu sắt không sợ sư-tử gầm, giống như người gỗ thấy chim hoa, lời nói ấy, đạt hết lẽ vong-cơ vậy.
186.– ÂN UY
Ngài Sơn-Đường nói: Phương-pháp trị người, ân không nên quá, quá thì kiêu. Uy không nên nghiêm, nghiêm thì oán. Muốn người được ân không kiêu, uy không oán, thì ân phải thưởng cho người có công, chứ không nên thưởng cho người không công, uy phải ghép cho người có tội, chớ không nên ghép cho người vô tội. Do đó, ân tuy hậu mà người không kiêu, uy tuy nghiêm mà người không oán. Công không xứng đáng mà thưởng ân hậu, tội không đáng trách mà phạt rất nặng, thì kẻ tiểu-nhân sinh ra kiêu, oán vậy!
187.– TIẾT CẨN
Ngài Sơn-Đường nói: Sự truyền-trì đạo của Phật Tổ, không được quá lý trung-đạo. Quá lý trung-đạo là thiên tà. Sự việc trong thiên-hạ không nên hết ý, hết ý thì họa loạn. Người thời xưa và người thời nay vì không biết giữ tiết-độ, không biết cẩn-thận, nên bị đi đến chỗ nguy-vong nhiều vậy. Song, ai không có lỗi. Chỉ có người hiền-đạt, biết đổi lỗi không tiếc, mới gọi là đẹp vậy.
188.– VÔ ÚY
Ngài Sơn-Đường cùng với ông Hàn Thượng-Thư là Tử-Thương[170], Vạn-Am-Nhan Thủ-Tọa và ngài Hiền-Chân-Mục lánh nạn ở am Vân-Môn. Tiện dịp Hàn-Công hỏi ngài Vạn-Am: Mới rồi tôi nghe Ngài bị binh-sĩ của Lý Thành[171] bắt giữ, Ngài dùng kế gì mà thoát được?
Ngài Vạn-Am nói: Hôm qua, tôi bị giam giữ, đói rét suốt ngày, tự tính liều chết mà thôi. Nhưng, tình cờ, mưa tuyết lớn, lấp cả nhà và vách của căn nhà giam ấy tự-nhiên sụp đổ. Vì vậy, đêm ấy chúng tôi thoát được hơn một trăm người. Hàn-Công lại hỏi: Chính lúc Ngài bị bắt giữ, dự định đối phó với tình-thế của Ngài như thế nào? Ngài Vạn-Am không đáp. Hàn-Công cố gạn hỏi. Ngài Vạn-Am nói: “Việc ấy không đáng nói. Chúng tôi học đạo, lấy nghĩa làm chất, có chết mà thôi, việc gì mà sợ!” Hàn-Công gật đầu.
Thế mới biết, sự thiệp thế của tiền-bối, họa hại sinh-tử, đều có sự xử-đoán vậy.
189.– TIẾN THOÁI
Ngài Sơn-Đường khi rút lui khỏi chùa Bách-Trượng có nói với ông Hàn-Tử-Thương: Sự tiến-cử làm trụ-trì của người xưa, là chọn người có đức, đợi có mệnh-lệnh, thỉnh đến ba lần mới đi và chỉ một lần từ-khước là lui. Ngược lại, sự tiến cử trụ-trì ngày nay, chỉ dùng thế-lực mà thôi. Biết tiến thoái mà không mất lễ chân-chính, đáng gọi là người hiền-đạt.
190.– CÔNG CHÍNH
Ngài Sơn-Đường nói với ngài Dã-Am[172]: Trụ-trì giữ tâm công-chính, thì làm việc bất tất phải cho mình là phải, cho người là trái. Như thế, thì tâm yêu, ghét, dị, đồng sẽ không sinh ra và khí bạo-mạn, tà-vạy sẽ không từ nơi mình mà nhập được.
191.– TIẾT NGHĨA
Ngài Sơn-Đường nói: Ông Lý-Thương-Lão nói: Khí-độ của ngài Diệu-Hỷ có vẻ ngưng-đọng nhưng xa vời, tiết-nghĩa hơn người và ham học không mệt. Ngài cùng lão-phu đến Bảo-Phong và ở đây gần bốn, năm năm. Suốt thời gian ấy, cứ mười ngày không thấy lão-phu là sai người đến hỏi thăm. Cả nhà lão-phu bị bệnh thũng, ngài Diệu-Hỷ qua thăm, tự mình sắc thuốc, nấu cơm, coi như lễ-giáo con em đối với cha anh trong gia-đình. Khi trở về, Nguyên Thủ-Tọa[173] trách, ngài Diệu-Hỷ dạ dạ thụ-giáo, chứ không nói gì. Các thức-giả biết ngài Diệu-Hỷ là bậc đại-khí.
Ngài Trạm-Đường thường nói: Cảo Thị-Giả là người tái-lai! Sơn-tăng này tiếc không được gặp nữa! Khi ngài Trạm-Đường mất, ngài Diệu-Hỷ đi chân đất hàng nghìn dặm, hỏi thăm đến nhà ông Vô-Tận Cư-sĩ, ở Chữ-Cung để xin một bài minh, khắc vào tháp ngài Trạm-Đường.
Một đoạn quang-minh thời sau cùng của ngài Trạm-Đường là do năng-lực của ngài Diệu-Hỷ vậy!
192.– TRỌNG HIỀN
Diệu-Hỷ-Cảo Hòa-Thượng nói: Ngài Trạm-Đường mỗi khi nhận được lá thư, lá thiếp nào của bậc tiền-hiền, Ngài liền đi thắp hương rồi sau mới mở đọc. Và, có thư, Ngài còn đem khắc vào đá. Ngài nói: Đức thịnh, tiếng hay của tiên-thánh há nỡ vất bỏ hay cất kỹ. Sự nhã-thượng của Ngài như thế, cho nên khi Ngài mất đi, không có đến mười thỏi vàng, chỉ có gần hai lồng tre những sách vở của các bậc hiền-đạt đời Đường, đời Tống và, những văn-thư đua nhau thù xướng của hàng Tăng-sĩ mà thôi. Những văn-liệu ấy bán được hơn tám mươi nghìn quan tiền, giúp vào lễ trà-tỳ[174] vậy.
193.– DANH PHẬN
Ngài Diệu-Hỷ nói: Khi ngài Phật-Tính[175] trụ-trì chùa Đại-Qui, có một tu-sĩ đánh nhau với người làm ruộng. Ngài Phật-Tính muốn trừng-trị vị tu-sĩ kia. Khi ấy, Siêu-Nhiên, Văn-Tổ Thiền-Sư[176] thấy thế, nói: Nếu mặc sức cho người làm ruộng kia làm nhục, đánh đập tu-sĩ, không những danh-phận trên, dưới thất lễ, còn sợ kẻ tiểu-nhân thừa thời khinh-mạn nữa. Việc ấy không nên làm. Ngài Phật-Tính không nghe. Không bao lâu, quả nhiên có người làm ruộng giết vị Tri-sự.
194.– GIẢO HOẠT
Ngài Diệu-Hỷ nói: Khi ngài Siêu-Nhiên, Văn-Tổ trụ-trì chùa Ngưỡng-Sơn, có một người làm ruộng, ăn trộm thóc của thường-trụ. Ngài Siêu-Nhiên vẫn hiềm người làm ruộng ấy, nhân cơ này, Ngài có ý muốn đuổi người làm ruộng kia ra khỏi chùa. Ngài liền sai vị tu-sĩ coi kho, làm tờ cung-trạng về việc kia. Nhưng, tu-sĩ kia lại muốn bảo-toàn cho người làm ruộng. Tu-sĩ kia biết được ý ngài Siêu-Nhiên, mới lập cách cho người làm ruộng trái-lệnh, bỏ cung-trạng, la lối không phục và, không chịu cung khai trách-nhiệm. Ngài Siêu-Nhiên giận tu-sĩ kia chuyên quyền. Hai người quyết xin chịu phạt mà thôi. Hẳn ngài Siêu-Nhiên không biết âm mưu của tu-sĩ kia.
Ôi, tiểu-nhân giảo-hoạt như thế!
195.– THƯỜNG TÌNH
Ngài Diệu-Hỷ nói: Yêu, ghét, dị, đồng là thường tình của người ta. Nhưng, chỉ có người hiền-đạt cao-minh là không bị những tính-tình kia chuyển-biến. Xưa kia, ngài Viên-Ngộ trụ-trì chùa Vân-Cư, ngài Cao-Am rút lui Đông-đường. Người thì ưa ngài Viên-Ngộ. Người thì ghét ngài Cao-Am. Người đồng ý với ngài Cao-Am. Người dị-biệt với ngài Viên-Ngộ. Do đó, tùng-lâm bị rối-ren và, có ra đảng Viên-Ngộ đảng Cao-Am.
Trộm xem hai bậc Đại-sĩ trên, đại danh vang lừng hải-thượng, những bọn tầm thường không thể nào so-sánh được, tiếc rằng hai Ngài đã mê-muội, nhẹ tin lời gièm-pha của tiểu-nhân, hoặc-loạn trí thông-minh, làm cho các thức-giả chê cười. Vì vậy, thực nên như ngài Lượng Tọa-Chủ[177] ngài Ẩn-Sơn[178] là những bậc cao-thượng hơn!
196.– THÔNG SUỐT
Ngài Diệu-Hỷ nói: Cổ nhân thấy điều thiện thì dời tới, có điều lỗi thì thay đổi. Noi theo đức hạnh ấy và gắng nghĩ, làm sao cho không có lỗi. Lo, không gì lo hơn bằng sự không biết điều xấu của mình. Tốt, không gì tốt hơn bằng ham nghe lỗi lầm của mình. Như vậy, có phải tài-trí của cổ-nhân không đủ, kiến-thức của cổ-nhân không sáng ư? Không, thực tâm cổ-nhân muốn răn những người đời sau có tính muốn rộng mình mà hẹp người vậy!
Tùng-lâm rộng lớn, chúng-nhân trong bốn biển đông-đảo không phải là việc một người biết riêng được, mà cần phải nhờ tai, mắt và, sự lo nghĩ của những người tả, hữu mới có thể suốt hết được nghĩa-lý và khéo hợp được nhân-tình. Nếu người làm chủ ở nơi tôn, biết tự-trọng, biết cẩn-thận việc nhỏ, nhưng bỏ quên đại-thể, người hiền không biết, kẻ bất-tiếu không xét, việc trái không đổi, việc phải không theo, mặc ý làm càn, không kiêng sợ gì, thì thực là nền tảng của họa hại, há không sợ sao? Nếu quả như không thể hỏi han những người tả hữu được, thì nên theo qui-pháp của tiên-thánh mà làm, há lại tự cho mình như thành-trì nghiêm-cẩn, binh-sĩ vững-vàng, không ai vào được ư? Cử-chỉ như thế, không thể cho là thu-nạp nước của trăm sông mà tạo-thành biển cả được!
197.– ĐỀ CỬ
Ngài Diệu-Hỷ nói: Sự đề-cử Trưởng-lão ở các nơi, nên đề-cử những vị giữ đạo, có tính điềm-tĩnh và xa tránh danh-lợi. Người được đề-cử, chí-tiết càng bền, thì tới đâu không phá hoại của thường-trụ mà còn làm thành-tựu cho tùng-lâm. Và, các vị chủ pháp xứng đáng ấy sẽ cứu được tệ-bệnh ngày nay. Những người xiểm-trá, giảo-hoạt, không biết thẹn hổ, chuyên làm việc nịnh hót, hầu hạ những người có thế-vị và, nương cậy nơi quyền-quí, thì không nên đề-cử.
198.– CÔNG LUẬN
Ngài Diệu-Hỷ nói với Siêu-Nhiên Cư-sĩ[179]: Công-luận không thể bỏ được. Nếu dẹp bỏ công-luận, thì sao còn gọi là công-luận được? Vì vậy, tùng-lâm đề cử một vị có đạo-đức, thì ai nghe biết, trông thấy cũng đều vui mừng, khen ngợi. Nếu đề-cử một vị không xứng đáng, thì chúng-nhân đều buồn rầu than-thở. Thực ra, không có gì khác cả, chỉ bởi cho thực hành hay không cho thực-hành vấn-đề công luận mà thôi.
Dùng việc ấy mà chiêm-nghiệm có thể biết được sự thịnh, suy của tùng-lâm!
199.– NỀN TẢNG
Ngài Diệu-Hỷ nói: Tiết-kiệm, phóng-xả là nền-tảng tu thân, là quan-yếu vào đạo. Xem lại các bậc cổ-nhân, ít có vị nào là không giữ tiết-kiệm, phóng-xả. Mấy năm gần đây, có các Tăng-sĩ tới miền Kinh-Sở mua nệm lông, qua đất Triết-Hữu tìm tơ lụa, há không thẹn với cổ-nhân sao!
200.– TRI SỰ
Ngài Diệu-Hỷ nói: Bậc cổ-đức trụ-trì, không tự mình trông coi các việc trong thường-trụ, mà giao-phó cho Tri-sự quản-chưởng hết thảy. Cận đại, người làm chủ, cậy tài-lực mình có thừa, không cứ việc lớn hay nhỏ, đều dồn về nơi phương-trượng, còn Tri-sự chỉ là có tên suông mà thôi.
Nếu đem tư-chất một mình, nắm giữ hết các việc trong một chùa, mà tiểu-nhân không che mờ được, kỷ-cương không bị rối loạn, lại hợp với công-luận, thực là khó-khăn vậy!
201.– THỜI
Ngài Diệu-Hỷ nói: Dương cực thì âm sinh. Âm cực thì dương sinh. Thịnh suy nhân nhau, là lý-số tự-nhiên của trời đất và, chỉ có quẻ Phong-Hanh (thịnh-vượng) – trong kinh Dịch – là thích-đáng như mặt trời giữa trưa. Nhưng, Thoán-Từ trong kinh Dịch lại giải thêm rằng: Mặt trời giữa trưa rồi sẽ xế bóng, mặt trăng tròn đầy rồi sẽ thiếu khuyết. Sự đủ, thiếu trong trời đất cùng với thời mà mòn, nở, huống là đối với loài người!
Cho nên, cổ-nhân đương khi huyết-khí tráng-thịnh, lo bóng sáng dễ qua, nên sớm hôm suy nghĩ, tự răn, cẩn-trọng và rất sợ hãi, không dám buông thả thức-tình, không dám vui theo dục-vọng, mà chỉ mong cầu đạo-lý, mới bảo-toàn được tiếng hay thủa bình sinh. Nếu sa ngã bởi vui theo dục-vọng, thất bại bởi buông thả thức-tình, đến khi không thể cứu được nữa, mới dậm chân, đập tay đuổi theo, thì đã muộn.
Chữ THỜI khó được mà dễ mất vậy!
202.– ĐẠO NGHIỆP
Ngài Diệu-Hỷ nói: Cổ-nhân, trước chọn đạo đức, sau xét tài-học và tiến-dụng người hợp thời. Nếu không phải bậc lương-khí mà được đặt mình ở trước chúng-nhân, thì kẻ thấy, người nghe, đều khinh-khi, bạc đãi. Bởi thế, là Tăng-sĩ phải tự lo nghĩ về việc mài giũa danh-tiết để tạo-lập đạo-nghiệp.
Gần đây, thấy tùng-lâm suy tàn, người học đạo không đoái đến đạo-đức, ít tiết nghĩa, không liêm-sỉ, chê người thuần-thành chỉ theo tố-phận là quê mùa, khen kẻ ồn-ào nông nổi là lanh-lẹ. Đối với bọn người vào đạo muộn màng này, thức-kiến của họ không sáng, không có thực học, họ chỉ biên chép lõm-bõm trong các sách vở, để giúp cho khẩu-thiệt biện luận mà thôi. Do đó, ngày tháng dần-dà, trở thành phong-thái khinh-bạc. Song đến khi nói về đạo của thánh-nhân, thì họ mờ-mịt như quay mặt vào tường, không biết chi cả. Những người này thực không thể cứu được!
203.– LƯU DANH
Ngài Diệu-Hỷ nói: Xưa kia, ngài Hối-Đường làm bảng ghi tên các vị trụ-trì chùa Hoàng-Long trên đá rằng: Người học đạo thời xưa, ở nơi hang hốc, ăn bằng cỏ cây, mặc bằng da, cỏ, không bận tâm về danh lợi, không ghi tên nơi quan-phủ. Từ các triều-đại: Ngụy, Tấn, Tề, Lương, Tùy, Đường đến nay, mới lập ra chốn chiêu-đề, tụ-tập học đồ bốn phương, lựa chọn người hiền-đạt, làm khuôn pháp cho kẻ bất-tiếu, để cho người trí-thức hướng dẫn kẻ ngu-mê. Do đó, chủ, khách được lập ra và trên, dưới phân biệt vậy.
Chúng-nhân bốn biển, họp tại một chùa, người đảm-đương trách-nhiệm trong tùng-lâm, thực rất khó-khăn. Nhưng, cốt ở chỗ tóm lấy đại-cương, bỏ phần tiểu-tiết, việc gấp làm trước, việc hoãn làm sau, không vì kế riêng, mà chuyên vì lợi người. Như thế, so-sánh với những người chỉ đau-đáu nghĩ đến mưu-kế cho một mình, thực xa cách như trời, đất vậy!
Nay, ngài Hoàng-Long đem tên những vị trụ-trì đề, khắc trên đá, để cho những người tới sau thấy và, chỉ cho biết ai đạo-đức, ai nhân-nghĩa, ai công tâm với chúng, ai làm lợi riêng mình. Thực đáng sợ vậy!
204.– CHỌN NGƯỜI
Trương Thị-Lang, Tử-Thiều nói với ngài Diệu-Hỷ: Chức Thủ-Tọa trong thiền-lâm, là chức vị được tuyển chọn bằng những người hiền-đức. Nay các nơi, không cứ người hiền, kẻ bất-tiếu, đều có thể giữ được chức ấy, nghĩa là, họ cho việc ấy là một đường lối may rủi. Do đó, họ tự-hào và mặc sức theo danh-lợi, phá-hoại qui-củ. Như thế, cũng là lỗi tại người chủ-pháp không biết dùng người vậy.
Song, đời tượng-quí khó tìm được người. Nếu chọn được người hơi khá về phần biết làm, hơi đủ về phần tài-đức, biết liêm-sĩ, tiết-nghĩa ở vào địa-vị ấy, thì bị những bọn người mạo-hiểm cạnh-tiến, tranh giành phần hơn vậy.
205.– PHỤNG SỰ
Ngài Diệu-Hỷ nói với ông Tử-Thiều: Cận đại, những vị chủ-pháp không ai bằng ngài Chân-Như-Triết và, khéo giúp tùng-lâm không ai bằng ngài Dương-Kỳ.
Có người dị-nghị cho rằng tính-tình ngài Từ-Minh thành-thực nhưng đại-khái, làm việc thì sơ-sót, bừa-bãi, không kiêng tránh gì cả. Như thế, mà ngài Dương-Kỳ vẫn quên mình để phụng sự, chỉ sợ không được chu đáo, chỉ lo làm việc không xong. Dù phải chịu sự lạnh buốt hay nắng cháy, chưa bao giờ Ngài có nét mặt vội vàng hay lười biếng. Đầu tiên từ chùa Nam-Nguyên, sau đến chùa Hưng-Hóa, gần ba mươi năm, Ngài giữ trọn cương-luật và, cho đến khi ngài Từ-Minh viên-tịch mới thôi.
Ngài Chân-Như-Triết, từ khi mang túi đi hành-cước cho đến khi ra đời lĩnh chúng, vì pháp quên mình chẳng khác gì như đói được ăn, khát được uống. Gặp lúc lộn-xộn, nghiêng ngả, Ngài cũng không biến sắc và cũng không nói-năng vội-vàng. Mùa Hạ không mở cửa sổ cho mát, mùa Đông không ngồi bên bếp lửa cho ấm. Một căn phòng vắng-vẻ, bụi phủ đầy bàn. Ngài thường nói: Tăng-sĩ, trong tâm không có kiến-thức cao-minh, xa rộng, bên ngoài thiếu thày nghiêm, bạn tốt, thì ít có vị thành đại-khí được!
Cho nên đương thời, ương-ngạnh như ngài Phù-Thiết-Cước[180], quật-cường như ngài Tú-Viên-Thông, cùng các vị khác đều kính phục, như gió lướt mà cỏ rạp xuống. Hai bậc đại-lão này, thực làm gương soi nghiệm cho hàng Tăng-sĩ nghìn đời vậy.
206.– TRỰC NGÔN
Ông Tử-Thiều cùng ngài Diệu-Hỷ, ngài Vạn-Am, ba người đến liêu của Bản Thủ-Tọa[181] hỏi thăm, vì Bản Thủ-Tọa bị bệnh. Tới đây, ngài Diệu-Hỷ nói: Người ở chốn lâm-hạ, thân có yên, sau mới học được đạo. Ngài Vạn-Am nói ngay rằng: Không phải, người muốn học đạo không nên đoái-tưởng đến thân mình. Ngài Diệu-Hỷ nói: Tới đây thăm bệnh, mà ông nói như vậy, có lẽ ông điên sao? Ông Tử-Thiều tuy trọng lời nói ngài Diệu-Hỷ, nhưng vẫn thích lời nói của ngài Vạn-Am là chính đáng.
207.– NHƯ Ý?
Ông Tử-Thiều hỏi ngài Diệu-Hỷ: Nay trụ-trì đem thực-hiện phương-pháp gì trước? Ngài Diệu-Hỷ nói: Yên-ổn chúng tăng bất quá cần tiền, gạo mà thôi. Khi ấy ngài Vạn-Am cũng đang ngồi ở đó, liền nói: Không phải. Suy-tính của thường-trụ hiện có, khéo lường của thường-trụ thu vào, không chi dùng lãng-phí mà chi dùng hợp đạo, thì tiền thóc không thiếu, việc gì phải lo. Song, đương kim trụ-trì chỉ cần được những Tăng-sĩ giữ đạo làm trước. Giả sử, trụ-trì có trí-mưu, gom góp được lương-thực ăn trong mười năm, mà ở dưới tòa mình không có Tăng-sĩ nào giữ đạo, thì như tiên-thánh thường nói: Ngồi ăn của tín-thí, ngửa mặt lên thẹn với long, thiên, ích gì cho trụ-trì! Ông Tử-Thiều nói: Thủ-Tọa nói rất chính-đáng. Ngài Diệu-Hỷ quay lại bảo ngài Vạn-Am: Cái gì cũng đều giống như ý ông chăng? Ngài Vạn-Am im lặng.
208.– THẬN TRỌNG
Vạn-Am-Nhan Hòa-Thượng[182] nói: Diệu-Hỷ tiên-sư khi mới trụ-trì chùa Kính-Sơn, nhân một buổi dạ-sam đem bàn-luận công việc các nơi và tôn-chỉ của Tào-Động-Tôn[183]. Hôm sau, Âm Thủ-Tọa nói với tiên-sư: Việc ra đời lợi sinh, vốn không phải là việc nhỏ. Muốn giúp vào việc chấn-hưng tôn-giáo, nên tùy thời để cứu tệ-bệnh, bất tất phải đem sự vui trước mắt ra mà bàn-luận. Hôm qua, Hòa-Thượng cùng các Tăng-sĩ, đem bàn luận việc các nơi, còn không thể nói càn được, huống là hôm nay lên Bảo-Hoa ngọc-tọa, tuyên-dương đại-pháp, mà xưng là thiện-tri-thức ư? Tiên-sư nói: Đêm qua là sự tình cờ, nói chuyện nhất thời mà thôi! Âm Thủ-Tọa nói: Cái học của thánh-hiền vốn ở thiên-tính, há có thể sơ-sót được sao? Tiên-sư cúi đầu tạ lễ, mà Thủ-Tọa vẫn còn nói mãi.
209.– HỌA HOẠN
Ngài Vạn-Am nói: Khi tiên-sư bị trục-xuất ra Hành-Dương[184], Liễu-Hiền Thị-giả[185] chép lời trục-xuất ấy, yết-thị ở trước Tăng-đường, các Tăng-sĩ có cảm-tưởng như mất cha mẹ, khóc lóc, sầu than, ăn ở không yên. Âm Thủ-Tọa tới trước phòng chúng nói: Họa-hoạn của kiếp người, không thể tránh khỏi. Nhưng nếu bình-sinh, Diệu-Hỷ tiên-sư như đàn bà, con gái, lủi-thủi ở địa-vị dưới, ngậm miệng không nói, thì sẽ không có sự việc như ngày nay. Huống chi chỗ tiên thánh ưng làm lại không phải ở chỗ ấy. Vậy các vị nghĩ làm gì cho đau khổ, hại mình! Xưa kia, ngài Từ-Minh, ngài Lang-Da, ngài Cốc-Tuyền[186], ngài Đại-Ngu[187] kết bạn, đi tham-học nơi ngài Phần-Dương[188], gặp lúc miền Tây-Bắc có giặc, triều-đình đang dụng-binh, các Ngài phải thay áo, lẫn vào trong đám quân đội ấy mà đi tới Phần-Dương. Nay từ Kính-Sơn tới Hành-Dương cách nhau không xa, đường xá không khó-khăn, núi sông không hiểm-trở, các vị muốn yết-kiến ngài Diệu-Hỷ khó gì, mà phải buồn phiền. Cả chúng đều im-lặng. Và, ngày mai theo nhau đi tới nơi ngài Diệu-Hỷ.
210.– ĐỊNH NGHIỆP
Ngài Vạn-Am nói: Khi tiên-sư dời Mai-Dương[189], trong hàng Tăng-sĩ có người bàn trộm. Âm Thủ-Tọa nói: Phàm, bình-luận về người, nên xét ở trong sự lỗi-lầm mà tìm ra chỗ không có lỗi-lầm mới phải, há lại xét trong chỗ không lỗi-lầm, tìm ra có lỗi-lầm là điều không hay. Nay không xét được tâm người lại ngờ cái hình thức của người, như thế, thì lấy gì an-ủi cho công-luận nơi tùng-lâm được! Vả lại đạo-đức tài-khí của ngài Diệu-Hỷ xuất ở thiên tính, lập-thân, hành sự của Ngài, chỉ theo việc nghĩa. Lượng-độ của Ngài vẫn hơn người. Nay định-nghiệp kìm-hãm như vậy, quyết định có đạo-lý trong ấy. Như thế, há không biết rằng đó là phúc của pháp-môn trong thời khác ư?
Những người được nghe lời của Âm Thủ-Tọa nói trên, từ đấy trở đi không còn nghị-luận nữa.
211.– TIẾP NGƯỜI
Âm Thủ-Tọa nói với ngài Vạn-Am: Gọi là thiện-tri-thức, phải rửa sạch tâm mình, đem pháp-độ chí công, chí chính, để tiếp nhận người bốn phương tới. Trong ấy, có những người giữ đạo-đức, nhân nghĩa, dù có chút hiềm-thù đi nữa, quyết-định cũng phải tiến-cử người ấy. Nhưng, đối với những người gian-tà, hiểm-bạc, dù có ơn riêng cũng phải xa tránh. Như vậy, khiến cho những người tới học, đều biết những chỗ mình cần học, cần giữ, cùng một lòng, cùng tu đức-hạnh, thì tùng-lâm an-ổn vậy.
212.– THIỆN HÀNH
Âm Thủ-Tọa lại nói: Phàm, trụ-trì, ai không muốn xây-dựng tùng-lâm, nhưng ít người làm chấn-hưng được đạo-pháp. Vì, các vị ấy quên đạo-đức, bỏ nhân-nghĩa, hủy pháp-độ mà dùng tư-tình nên như vậy!
Thành-thực nghĩ đến sự suy-tàn của pháp-môn, nên chính mình, nhường người, chọn người hiền giúp đỡ, khen ngợi bậc túc-đức, xa tránh kẻ tiểu-nhân, tiết kiệm nơi mình và ra ân-đức cho người sau đó, dùng người trông coi công việc hay hầu hạ, phải là những người đã gần các bậc lão-thành và xa tránh kẻ nịnh-hót. Hơn thế nữa, biết quí lời sàm-báng không xấu-xa, để tránh sự làm loạn của nhóm thiên-tà không tốt. Được như thế, có thể sánh bằng ngài Mã-Tổ, ngài Bách-Trượng và, có thể theo kịp ngài Lâm-Tế[190], ngài Đức-Sơn[191] vậy.
213.– HẠNH PHÚC
Âm Thủ-Tọa nói: Thánh-nhân xưa sợ không có tai nạn. Nói tới đây, ngài tự-thẹn và nói: Thiên-đạo vô tư, há lại bỏ kẻ bất thiện này ư! Ông Phạm-Văn-Tử có nói: Chỉ có thánh-nhân, có thể là cả trong tâm và ngoài thân không có tai-hoạn. Mình không phải là thánh-nhân, ngoài thì yên mà trong thì lo. Người hiền-đạt xưa nay biết chỗ mình không thể tránh khỏi được, nên thường cẩn-thận mình trước và làm việc tự-phòng. Cho nên, trong kiếp sống của con người có chút lo lắng, nhọc-mệt chưa hẳn không phải là hạnh-phúc cho trọn đời! Vì, họa-hoạn, báng-nhục, dù vua Nghiêu vua Thuấn cũng không thể tránh được, huống là người khác!
214.– LOẠN QUẦN
Vạn-Am-Nhan Hòa-Thượng nói: Gần đây, thấy các tùng-lâm, tuyệt-nhiên không có bậc lão-thành. Có nơi đến ba trăm, năm trăm vị mà chỉ đặt một người lên làm chủ, còn nhiều người làm bạn. Người làm chủ không có chính kiến, chiếm cứ ngôi vị pháp-vương, rồi người đánh trùy, người vẫy phất, dối trá lẫn nhau mà thôi. Và, nếu có nói bàn gì, thì không bén vào sách vở. Đó là bởi không có các bậc lão thành.
Người ra đời lợi sinh, thay Phật tuyên-dương giáo-hóa, nếu không phải là những vị rõ tâm, suốt gốc, hiểu và làm hợp nhau, há dám làm việc ấy. Ví như có người xưng càn là đế-vương thì chỉ vời lấy tội tru-diệt mà thôi, huống là ngôi vị pháp-vương, dám lạm trộm sao!
Ôi, cách thời thánh-nhân càng xa, những người thuộc vào thủy-lạo-hạc[192] lại càng tung-hoành khiến cho nơi hoằng-pháp của tiên-thánh ngày càng chìm đắm, tôi muốn không nói có được không? Gặp lúc Vạn-Am-Nhan này ở yên, vô sự xin điều-trần một vài việc thương-phong, bại-giáo, làm hại rất nhiều cho Phật-pháp, lưu-bá trong tùng-lâm, để cho những người tới sau, tiến muộn, biết rằng bậc tiền-bối luôn luôn lo lắng, run sợ, đem tâm giữ gìn và truyền-bá đại-pháp như người đi trên băng tuyết, gươm giáo, chứ không phải để tạm cầu danh lợi! Ai biết tôi hay chê tôi, tôi không dám từ chối!
215.– LOẠN PHÁP
Ngài Vạn-Am nói: Cổ-nhân lên pháp-đường trước tiên đề ra cương-yếu đại-pháp, để thẩm-vấn đại-chúng. Học-giả lui tới thỉnh cầu pháp-ích, thì cổ-nhân hay dùng hình-thức vấn đáp. Người đời nay không thông hiểu đại-pháp, trá soạn bốn câu thơ lạc-vận gọi là điếu-thoại (lời nói chuyện giả trá để nhử người) và, một người bỗng nhiên ra trước chúng nhân, cao ngâm một bài cổ thi, gọi là mạ-trận (trận-thế cãi mắng nhau). Thực là, thô-tục xấu xa, đáng thương xót thay!
Tiền-bối nghĩ đến đại-sự sinh-tử, đối trước chúng-nhân quyết-đoán sự ngờ-vực. Hết ngờ-vực về lẽ sinh-tử, tất nhiên chân-lý phát-minh, thì không còn khởi tâm sinh-diệt nữa.
216.– THÙ TẠC
Ngài Vạn-Am nói: Khi có bậc tôn-túc đầy-đủ đức-hạnh, danh-vọng tới thăm tu-viện, chủ nhân lên tòa giới-thiệu, dùng những lời nói khiêm-cung trình-bày, cảm-tạ, quên sự tự-tôn, rất mực nhún nhường và tăng phần trang-trọng. Giới-thiệu xong, xuống tòa, chủ-nhân cùng Thủ-Tọa và đại-chúng ra lễ thỉnh vị tôn-túc ấy lên tòa thuyết-pháp, ngỏ hầu được nghe những lời pháp-yếu.
Cận đại, thấy nhiều nơi cũng làm ra vẻ ham chuộng cổ-pháp, bằng cách đem những bài công-án của cổ-nhân, để chúng-nhân phê-phán, gọi là khám-nghiệm thức-kiến người. Tha-thiết xin đừng manh nha tâm hơn thua ấy, có hại cho phong-hóa rất nhiều! Tiên-thánh vì pháp quên tình, đồng xây-dựng pháp-hóa, mà có ra sự thù xướng lẫn nhau, mong cho giáo-pháp được lâu dài, chứ không phải dung-dưỡng tâm sinh-diệt, hưng-khởi ác-niệm!
Lễ, cần lấy sự nhún-nhường làm chủ đích, nên phải suy nghĩ kỹ!
217.– TIẾP ĐÃI
Ngài Vạn-Am nói: Gần đây, thấy các vị: Sĩ, đại-phu, Giám ty, Quận-thú…, có phận sự vào núi, vị Tri-sự hay Thủ-Tọa sai thị-giả thưa lại với vị Trưởng-lão rằng: Ngày nay đặc-biệt có vị ấy tới, mong Ngài thăng tòa nghinh-tiếp. Và, đây là một tiết-mục quan-trọng, mong Ngài cần phải lưu ý và phải suy nghĩ kỹ!
Trong các sách vở xưa nay tuy có chép về việc các quan-chức tới tùng-lâm, nhưng đều là các hàng sĩ, đại-phu tới đây với mục-đích là thăm tìm bậc tri-thức mà thôi. Và, nhân khi tham-cứu xong, vị trụ-trì sẽ trình bày về việc ngoại-hộ Phật-giáo với ý niệm là làm rực rỡ chốn thiền-lâm. Nếu vị quan-chức nào đã là người trong Phật-giáo, thì nói vài ba câu chuyện thông thường trong nhà, để cho họ sinh tâm kính tín, như ông Quách-Công-Phụ, ông Dương-Thứ-Công[193] phỏng-vấn ngài Bạch-Vân, ông Tô-Đông-Pha[194], ông Hoàng-Thái-Sử[195] yết-kiến ngài Phật-Ấn. Các vị quan-chức trên đều coi như người trong nhà, tới tìm cầu đạo-pháp, há phải là những người cậy có địa-vị đặc-biệt, vô cớ đến đây, làm những việc hư-vọng để cho hàng thức-giả chê cười đâu!
218.– TỰ NHIÊN HƯƠNG
Ngài Vạn-Am nói: Cổ-nhân nhập-thất, trước tiên sai thị-giả treo bảng, báo cho đại-chúng biết. Treo bảng rồi, những người vì sinh-tử đại-sự mà tham-học, thì vui mừng hớn-hở xô tới, để mong cầu sự quyết-trạch.
Cận đại nhiều nơi, không cứ các vị già, bệnh, đều mong các Tăng-sĩ các nơi tới đông với mục-đích biểu-dương sự tận-thành-kính của chư phương mà thôi. Và, nếu ai không tới thì cho là bất kính. Sao các nơi trên không biết rằng hữu sạ tự-nhiên hương, hà tất phải dùng đến giới-hạn, danh-nghĩa chung để khu xử chúng? Nhân đó, vọng sinh ra tiết-mục, chủ khách bất an. Người chủ pháp nên nghĩ kỹ về vấn đề ấy!
219.– THIỀN LƯU
Ngài Vạn-Am nói: Sơ-Tổ Đạt-Ma nơi Thiếu-Lâm trao truyền cả y và pháp. Nhưng, đến đời Lục-Tổ Huệ-Năng thì không truyền y nữa và, chỉ lấy hành, giải tương ứng mà thôi. Do đó, đời đời truyền thừa gia-nghiệp, Tổ-đạo thêm sáng, con cháu đông-đúc. Sau ngài Đại-Giám tức Lục-Tổ, ngài Thạch-Đầu, ngài Mã-Tổ đều là đích-tôn, xiển-dương Thiền-đạo, thực ứng vào huyền-sấm của ngài Bát-nhã-đa-la: “Cần nhờ con cháu về sau thực hành” vậy. Huyền-ngôn, diệu-ngữ của hai Đại-sĩ trên, lưu bá khắp hoàn-khu. Và, những vị tiềm-phù, mật-chứng đạo-chỉ trên, thường thường xuất hiện[196].
Sư-pháp nhiều, nên người học đạo không phải chuyên theo một pháp-môn nhất định. Vì vậy, nguồn dòng Tào-Khê – nơi ngài Lục-Tổ – chia thành năm phái[197]. Tuy đồ dùng vuông tròn khác nhau, nhưng thể của nước thì là một. Năm phái trên đều chuyên theo hóa-môn của phái mình, làm cho tiếng hay vang dội và, gia sức làm theo trách nhiệm của mình. Trong lúc nhàn rảnh, các Ngài nói một pháp-ngôn, ra một pháp-lệnh, là thu-thập được các học-giả, làm cho tùng-lâm hưng-thịnh, như thế không phải cẩu-thả mà có được! Bởi thế, có sự thù, xướng lẫn nhau, làm rõ nghĩa vi-diệu, mở rộng lý u-thâm, tùy thời, hoặc nén xuống, hoặc giương lên, đều là phụ giúp cho pháp-hóa. Những lời nói coi như vô-vị, như nấu vỏ cây làm canh, nấu đinh sắt làm cơm, cho hậu-bối nhai-nhắp, gọi là niêm-cổ[198]. Và, bắt đầu tụng lại lời cổ-nhân này từ Phần-Dương, Thiện-Chiêu Thiền-Sư, đến ngài Tuyết-Đậu[199] mở rộng diệu-âm, làm rõ ý-chỉ, mông mênh như biển không bờ.
Những tác-giả sau này cũng bắt chước làm theo ngài Tuyết-Đậu, không nhìn lại đạo-đức mình ra sao, mà chỉ chuyên dùng những lời, những câu văn-vẻ, màu-mè, mới mẻ, làm đẹp, khiến cho hậu-sinh, vãn-tiền không thể thấy được ý-chỉ hồn-thuần, đại-toàn của cổ-nhân.
Tôi đi thăm các nơi tùng-lâm và yết-kiến các vị tiền-bối, nếu nơi nào, tôi thấy không phải là ngữ-lục của cổ-nhân tôi không xem, không phải hiệu-lệnh của ngài Bách-Trượng tôi không làm. Như thế, đâu phải là tôi đặc-biệt hiếu-cổ, nhưng vì người đời nay, không đủ làm qui-pháp cho tôi noi theo! Tôi mong các bậc thông nhân, đạt sĩ hiểu ý tôi ở ngoài lời nói của tôi!
220.– THIÊN-KIẾN
Ngài Vạn-Am nói: Gần đây, thấy các Tăng-sĩ hay chấp thiên-kiến, không thông tình người, nhẹ tin những lời nói của người mà không thể kéo lại được và, lại thích những người nịnh mình. Thuận thì khen, trái thì xa. Nếu có vị nào mới hiểu biết được một chút hay nửa phần, lại bị những ác-tập ấy che lấp và cho đến lúc bạc đầu cũng không thành-đạt được gì, thì nhiều vậy.
221.– TAM HỌC
Ngài Vạn-Am nói: Tùng-lâm suy-vi đến nỗi các tà-thuyết bùng lên mạnh-mẽ. Họ nói: Giới-luật bất tất phải giữ. Định-tuệ bất tất phải tập. Đạo-đức bất tất phải tu. Ham muốn bất tất phải bỏ. Họ lại dẫn kinh Duy-Ma-Cật và kinh Viên-Giác làm chứng. Và, khen ngợi tham, sân, si, sát, đạo, dâm là phạm hạnh. Ôi, những lời nói ấy, không những làm hại cho tùng-lâm ngày nay, mà thực sự làm hại cho pháp-môn muôn đời vậy!
Tại khắp cõi đất của phàm-phu này, tham sân, ái-dục, nhân ngã, vô-minh, niệm niệm vin theo duyên trần, khác gì như vạc nước sôi, làm sao cho nó trong mát lại được. Tiên-thánh tất phải nghĩ nhiều về vấn-đề ấy, nên mới đặt ra tam học: Giới, Định, Tuệ để ngăn giữ, ngõ hầu làm cho tâm người có thể quay trở lại với chân-tâm. Nay, những kẻ hậu-sinh, vãn-tiến không giữ giới-luật, không tập định tuệ, không tu đạo-đức, chuyên đem sự học rộng, bàn giỏi, dao-động kẻ lưu-tục mà không có gì kéo trở lại được. Do đó, tôi quyết cho những lời nói ấy là làm hại cho muôn đời.
Chỉ những cao-sĩ hành-cước có chính-nhân, thường đem đại-sự sinh-tử biện-minh, giữ gìn thành-tín, là không bị những bọn ấy lôi kéo. Các vị ấy nói: Lời nói của họ không thể tin được, như phân của chim trẫm-độc, như nước của rắn độc uống. Các thứ ấy, còn không nên nghe thấy, trông thấy, huống là ăn uống ư? Bọn ấy thực là những kẻ giết người, không còn ngờ vực gì nữa. Những người hiểu biết tự-nhiên xa tránh chúng.
222.– CỔ PHONG
Ngài Vạn-Am nói: Đệ-tử ngài Thảo-Đường chỉ có ngài Sơn-Đường là có phong-cách của cổ-nhân. Khi ngài Sơn-Đường ở chùa Hoàng Long, ai trông coi việc gì hay đi công-cán cho tùng-lâm, đều phải giữ đầy-đủ uy-nghi. Trước tiên, tới nhà phương-trượng nhận lãnh sự dặn dò, sau đó, Ngài cho sắm sửa trà thang để thù-tiếp rồi mới đi làm việc. Nghi-lễ ấy, trước sau không thay đổi.
Trong chúng có Trí-Ân Thượng-Tọa, sửa việc minh-phúc, cầu siêu cho thân-mẫu, vô ý đánh rớt hai đồng tiền và, suốt hai ngày không tìm. Thánh-Tăng-Tài Thị-giả quét nhà thấy được, đem treo vào chỗ gắn thập-di-bài (nơi để cái thẻ bài, ai nhặt được của rơi, đem cất vào đó và, có ai mất thì đến nhận), cả chúng đều biết. Thế mới biết, vị chủ pháp thanh-tịnh, nên trên làm dưới bắt chước vậy.
223.– ĂN UỐNG
Ngài Vạn-Am giữ tính tiết-kiệm. Trong hàng Tăng-sĩ có người bàn trộm. Ngài Vạn-Am nghe được, nói: Buổi sáng ăn cao-lương mỹ-vị, buổi chiều chán món ăn không ngon, là thường tình của người. Các vị đã nghĩ đến đại-sự sinh-tử, cùng nhau tìm đến nơi tịch mịch này, nghĩ đến đạo nghiệp chưa xong, cách thời thánh-nhân đã xa, gắng sức tu-hành, há sáng, chiều chỉ nghĩ đến việc ăn uống ư?
224.– BÌNH LUẬN
Ngài Vạn-Am sẵn tính nhân-hậu, xử mình liêm-ước. Khi tầm thường Ngài nói ra một lời một câu nào thì lời gọn, nghĩa tinh, học rộng, nhớ dai, hỏi suốt đạo-lý, chứ không tạm ngưng hay theo càn lời nói của người. Khi Ngài cùng những người khác bình-luận cổ kim, thì như thân Ngài ở ngay thời-gian ấy, làm cho người nghe hiểu rõ như tự mắt trông thấy. Các Tăng-sĩ thường nói: Tham học suốt năm không bằng sự thu nhận được sự bàn luận của Ngài một ngày.
225.– BẤT NHIỄM
Ngài Vạn-Am nói với Biện-Thủ-Tọa[200]: Viên-Ngộ Sư-Ông có nói: Tăng-sĩ thời nay ít tiết-nghĩa, không liêm-sỉ và, bị các sĩ, đại-phu khinh rẻ nhiều. Vậy, các ông trong thời-gian khác sau này, thảng-hoặc không tránh khỏi được sự bao vây của những bọn người như những loại trùng có chân hay không chân, thì các ông luôn luôn phải cố gắng thực-hành trên qui-củ, thằng mặc, đừng chạy theo thế-lợi và nịnh người ra mặt. Họa-hoạn, sinh-tử đều gánh vác. Nhưng, nếu được như thế, tức là không ra ngoài cõi ma, mà vào cõi Phật vậy.
226.– VỪA Ý
Biện-Thủ-Tọa khi ra đời trụ-trì chùa Thê-Hiền ở Lư-Sơn Ngài thường mang theo mình một gậy trúc, mắc hai chiếc giày cỏ vào đó và đi qua đất Cửu-Giang. Đông-Lâm, Hỗn-Dung Trưởng-Lão[201] trông thấy thế, trách: Sư là mô-phạm của người. Cử chỉ của ông như thế, không những tự khinh mình, mà còn rất thất lễ đối với chủ-nhân. Biện Thủ-Tọa cười nói: Nhân-sinh lấy vừa ý làm vui, tôi có lỗi gì? Biện Thủ-Tọa nói xong, cầm bút viết bài kệ, để lại, rồi đi. Bài kệ như sau:
Vật vị Thê Hiền cùng,
Thân cùng đạo bất cùng.
Thảo-hài nanh tự hổ,
Trụ trượng hoạt như long.
Khát ẩm Tào-Khê thủy,
Cơ thôn lật cức bồng.
Đồng đầu, thiết ngạch hán,
Tận tại ngã sơn trung.
Phỏng-dịch:
Đừng bảo Thê-Hiền cùng,
Thân cùng đạo chẳng cùng.
Giày sô hăng tựa hổ,
Gậy chống quẫy như rồng.
Khát uống Tào-khê thủy,
Đói ăn hạt cỏ bồng.
Hạng đầu đồng, trán sắt,
Đều tại núi ta không!
Ngài Hỗn-Dung xem xong có sắc thẹn.
227.– PHÙ HOA
Ngài Biện-Công nói với ngài Hỗn-Dung: Rồng giả không làm được mưa, bánh vẽ làm sao khỏi đói. Tăng-sĩ, trong không có thực đức ngoài cậy hoa-sảo, như chiếc thuyền mục-nát, sơn phết màu-mè, sai người bù-nhìn chở. Thuyền này, khi để trên đất liền, thì tin rằng khả-quan, nhưng một ngày kia thả xuống sông hồ, gặp sóng gió, há không nguy sao?
228.– TẬN THÀNH
Ngài Biện-Công nói: Là bậc Trưởng-lão thay Phật tuyên-hóa, cốt ở chỗ đối với chúng, mình phải trong sạch, làm việc nên hết lòng thành-thực, không nên chọn lợi, hại, để tâm mình bị phân biệt. Tôi làm, quyết phải như thế còn thành hay không thành dù tiên-thánh cũng không thể quyết-định được, huống là tôi, làm sao có thể cẩu-thả cưỡng thành được!
229.– HÌNH-THỨC
Ngài Biện-Công nói: Ngài Phật-Trí[202] ở chùa Tây-Thiên, các Tăng-sĩ đều chăm lo về việc uy-nghi y phục tề-chỉnh. Nhưng, chỉ có ngài Thủy-Am[203] phú-tính hồn nhiên thanh-đạm, ăn mặc sơ-sài, mà vẫn ngang-nhiên ở trong chúng đông người, không một chút gì lo nghĩ. Ngài Phật-Trí thấy thế trách: Sao ông ăn mặc bừa-bãi thế? Ngài Thủy-Am thưa: Tôi không phải là không biết thụ-dụng, nhưng thực sự chỉ vì nghèo, không thể may sắm được. Nếu tôi có tiền, tôi cũng may một đôi áo lông bằng lông con chuột tuyết, để cùng dự vào làng lửa nóng, nhưng vì nghèo, nên không làm sao được. Ngài Phật-Trí cười. Ý hẳn, không thể cưỡng ép ông ấy được, liền thôi. Chú thích:
[140] Tuyết-Đường, Đạo-Hạnh Thiền-Sư ở núi Ô-Cự thuộc Cô-châu. Ngài họ Diệp ở Tấn-châu. Ngài nối pháp Phật-Nhãn-Viễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[141] Ngộ-Bản Hòa-Thượng người ở Giang-châu, nối pháp Đại-Tuệ Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[142] Thời vua Tống-Thái-Tôn, ông Trương-Hy-Nhan giữ chức Ấp-Tề ở Bình-Hương, ông Phạm-Diên-Linh giữ chức Điện-Trực. Ở trận-tiền gọi là Tiên-Phong, ở hậu quân gọi là Điện-Trực, đem binh qua Kim-Lăng. Ông Trương-Vịnh vâng mệnh nhà vua coi các việc tại Kim-Lăng. Ông Trương-Vịnh hỏi: Trên đường đi của Thiên-sứ có thấy quan-viên nào tốt không? Ông Phạm-Diên-Linh đáp: Hôm qua tôi đi qua Bình-Hương, tôi thấy có viên Ấp-Tề, Trương-Hy-Nhan là một quan-viên tốt. Ông Trương-Vịnh hỏi: Sao ông biết ông ấy tốt? Ông Phạm-Diên-Linh đáp: Tôi vào cảnh-giới ấy, tôi thấy kiều-lộ hoàn-mỹ, vườn ruộng rộng-rãi, ngoài đồng không thấy người làm ruộng lười biếng, ngoài chợ không có cờ bạc, đêm nghe trống canh phân-minh, nên tôi biết ở đấy có nền hành-chính tốt đẹp. Ông Vịnh nói: Ông Hy-Nhan vốn là người hiền, Thiên-sứ cũng là quan-viên tốt. Ngay hôm ấy, ông Vịnh tâu về triều, nhà vua khen và thăng ông Phạm-Diên-Linh làm Các-Hạ-Hầu và ông Trương-Hy-Nhan làm Phát-Vận Sứ. Ông Trương-Vịnh, tức Phục-Chi, phong là Định-Quốc-Công.
[143] Qui-Phong, Hối-Am, Huệ-Quang Thiền-sư ở Tín-Châu, là người ở Kiến-Ninh, nối pháp Tuyết-Đường, Hành-Cơ Thiền-Sư.
[144] Trường-Lư, Thả-Am, Thủ-Nhân Thiền-Sư ở Chân-châu. Ngài là người ở Việt-Chi, Thượng-Ngu. Ngài nối pháp Tuyết-Đường-Hành Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[145] Thiền-Đồng, Ứng-Am, Đàm-Hoa Thiền-Sư ở Minh-châu. Ngài họ Uông ở Kỳ-châu. Ngài nối pháp Hổ-Khâu-Long Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[146] Phổ-Vân, Tự-Viên Thiền-Sư ở quận Nam-Khang. Ngài họ Ung ở Miên-châu. Ngài nối pháp Cao-Am-Ngộ Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[147] Nhất-Tài-Tăng không rõ tiểu-sử. Nhưng có thể chỉ vào ngài Thủy-Am. Đương thời, ngài Nhất-Tài-Tăng giữ chức Thư-Ký: chức-vụ giữ các việc về văn-thư, sớ sách, từ-ngữ.
[148] Bạch-Dương, Pháp-Thuận Thiền-Sư ở Phủ-châu. Ngài họ Văn ở Miên-châu. Ngài nối pháp Phật-Nhãn-Viễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc. Đương thời ngài giữ chức Tạng-Chủ: chức-vụ trông coi về Đại-Tạng-Kinh.
[149] Thông-Ô-Đầu tức là Bắc-Sơn, Pháp-Thông Thiền-Sư ở Chân-châu. Ngài nối pháp Trường-Lư, Chân-Yết, Thanh-Liễu Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Thanh-Nguyên. Đương thời ngài giữ chức-vụ Tri-khách: chức-vụ trông coi về việc tiếp tân-khách.
[150] Qui-Tôn, Chân-Mục, Chính-Hiền Thiền-Sư ở quận Nam-Khang. Ngài họ Trần ở Đồng-châu. Ngài nối pháp Phật-Nhãn-Viễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc. Đương thời ngài giữ chức-vụ Duy-Na: Chức-vụ cương-duy tùng-lâm, trông coi hết thảy việc Tăng trong, ngoài.
[151] Phó-Tự: Chức-vụ giữ tiền bạc, vải lụa, gạo thóc và các sổ sách xuất nhập của thường-trụ.
[152] Song-Lâm, Đức-Dụng Thiền-Sư ở Vụ-Châu. Ngài họ Đái ở Bản-Quận. Ngài nối pháp Cao-Am-Ngộ Thiền-Sư. Đương thời ngài giữ chức Giám-Tự tức là chức-vụ quản-chưởng tất cả công việc trong chùa một cách tổng-quát.
[153] Dược-Sơn, Duy-Nghiễm Thiền-Sư ở Phong-châu. Ngài họ Hàn ở Phùng-châu. Ngài đắc pháp nơi Thạch-Đâu, Hy-Thiên Thiền-Sư thuộc đời thứ 2 của phái Thanh-Nguyên.
[154] Thiên-Hoàng, Đạo-Ngộ Thiền-Sư, ở Kinh-châu. Ngài họ Trương ở Đông-Dương, Vụ-châu. Ngài đắc pháp nơi Thạch-Đầu-Thiên Thiền-Sư, thuộc đời thứ 2 của phái Thanh-Nguyên.
[155] Đông-Lâm, Vạn-Am-Đạo-Nhan Thiền-Sư ở Giang-châu. Ngài họ Giải ở Đồng-châu. Ngài nối pháp Đại-Tuệ-Cảo Thiền-Sư.
[156] Đức-Quán tức Thế-Kỳ Thủ-Tọa, người ở Thành-Đô, đắc pháp nơi Phật-Nhãn-Viễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc. Phật-Nhãn-Viễn Thiền-Sư bảo Đức-Quán Thủ-Tọa thuyết-pháp, ngài cố từ và nói : Đây không phải là việc nhỏ, như kim vàng chích vào mắt, nếu sai một chút thì con ngươi mắt nổ. Nguyện đời-đời chỉ ở nơi học-địa, tự luyện mà thôi. Ngài Phật-Nhãn rất khen.
[157] Bội giác hợp trần: Trái đạo giác-ngộ, hợp với duyên trần.
[158] Gián-khí: Không ra làm việc đời nhưng gián-tiếp giúp đời.
[159] Phương-Thị-Giả tức Hòa-Sơn, Huệ-Phương Thiền-Sư, nối pháp Hoàng-Long-Tân Thiền-Sư thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc. Đương thời ngài giữ chức-vụ Thị-giả nơi Hoàng-Long.
[160] Viên-Thông, Pháp-Tú Thiền-Sư, chùa Pháp-Vân ở Biện-lương. Ngài họ Tân ở Lũng-Thành, Tần-châu. Ngài nối pháp Thiên-Y-Hoài Thiền-Sư, thuộc đời thứ 11 của phái Thanh-Nguyên.
[161] Viên-Chiếu, Tôn-Bản Thiền-Sư ở chùa Tuệ-Lâm, Đông-Kinh. Ngài họ Quản ở Vô-Tích, Thường-châu. Ngài nối pháp Thiên-Y-Hoài Thiền-Sư, thuộc đời thứ 11 của phái Thanh-Nguyên.
[162] Thảo-Đường, Thiện-Thanh Thiền-Sư ở phủ Long-Hưng. Ngài họ Hà ở Nam-Ung-Châu. Ngài nối pháp Hoàng-Long, Tử-Tâm Thiền-Sư thuộc đời thứ 13 của phái Nam-Nhạc.
[163] Thái-Dương, Bình Thị-giả xưa kia đã tham học ở nơi ngài Minh-An lâu năm. Tuy hiểu hết được tôn-chỉ, nhưng chưa thoát khỏi lẽ sinh-diệt, hay kìm hãm người đồng hàng và ghét người hơn mình. Khi ấy ở trong chúng có ngài Lang-Da, Quảng-Chiếu và ngài Công-An, Viên-Giám. Một hôm, hai ngài nói: Ở đây có Bình Thị-giả là người thông minh. Tự-nhiên, Ngài Minh-An lấy tay vỗ vào ngực nói: Chỗ này không tốt. Minh-An lại lấy ngón tay chỉ ra đầu đường Tam-Soa nói: Bình Thị-giả sau đây sẽ chết tại chỗ này. Sau đó, ngài Minh-An mất đi di-chúc rằng: “Thi thể ta trong mười năm không có gì bị khó-khăn, nhưng sau sẽ bị Thái-Dương đập vỡ”. Môn-nhân lo sợ! Sau Bình Thị-giả ở chùa Thái-Dương, chợt nghĩ: Linh cốt của Tiên-sư ta để phải nơi phong-thủy không lợi, nên lấy lên đốt. Các bậc kỳ-túc trong Sơn Môn can gián ông Bình vẫn không nghe và nói: Nơi ấy đối với tôi có phương hại. Nói rồi, ông Bình phá tháp ra, thấy dung-nhan Minh-An Thiền-Sư vẫn như khi còn sống. Ông Bình chất củi đốt vẫn không cháy. Chúng đều kinh sợ. Ông Bình lấy búa bổ sọ, cho thêm dầu củi vào đốt, tự-nhiên cháy hết. Chúng-nhân đem việc ấy trình lên quan. Quan xử về tội bất hiếu, phải trở về thế-tục. Sau này, ông Bình tự xưng là Hoàng-Tú-Tài vào yết-kiến ngài Lang-Da, ngài Lang-Da nói: Xưa kia ông là Bình Thị-giả, nay đổi là Hoàng-Tú-Tài. Khi tôi ở Thái-Dương đã biết việc làm của ông. Tôi không dám tiếp nhận ông. Ông Bình lại đến yết-kiến ngài Công-An. Ngài Công-An cũng từ chối. Ông Bình bị lưu-lãng, không nơi nương-tựa và sau bị trùng cắn chết ở đầu đường Tam-Soa. Thực đúng như di chúc ngài Minh-An nói trước.
[164] Đạo-Trường, Pháp-Như Thiền-Sư ở châu An-Cát. Ngài họ Từ ở Cù-châu. Ngài nối pháp Vân-Cái, Thủ-Trí Thiền-Sư, thuộc đời thứ 13 của phái Nam-Nhạc.
[165] Không Thủ-Tọa tức Tính-Không Thiền-Sư, nối pháp Hoàng-Long, Ngộ-Tân Thiền-Sư.
[166] Tuyết-Phong, Nghĩa-Tồn Thiền-Sư. Ngài họ Lỗ ở Nam-An và nối pháp Đức-Sơn, Tuyên-Giám Thiền-Sư, thuộc đời thứ 5 của phái Thanh-Nguyên.
[167] Vân-Môn, Vân-Yển Thiền-Sư. Ngài họ Trương ở Gia-Hưng. Ngài nối pháp Tuyết-Phong, Nghĩa-Tồn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 6 của phái Thanh-Nguyên.
[168] Hoàng-Long, Sơn-Đường, Đạo-Trấn Thiền-Sư ở phủ Hưng-Long. Ngài họ Triệu ở Kim-Lăng. Ngài nối pháp Lộc-Đàm-Thiện Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc.
[169] Bàng Cư-sĩ tức là ông Bàng-Uẩn, tự Đạo-Huyền Cư-sĩ ở Tương-châu. Ông là người ở Hành-Dương, đắc pháp nơi ngài Mã-Tổ. Ông có trình bài kệ như sau:
i. Đãn tự vô tâm ư vạn vật,
ii. Hà phương vạn vật thường vi-nhiễu.
iii. Thiết ngưu bất phạ sư-tử hống,
b. Cáp tự mộc-nhân kiến hoa điểu.
i. Mộc-nhân bản-thể tự vô tình,
ii. Hoa điểu phùng nhân diệc bất kinh.
iii. Tâm, cảnh như-như chỉ giá thị!
iv. Hà lự Bồ-đề-đạo bất thành!
c. Phỏng dịch:
i. Mình và vạn vật tự làm thinh,
ii. Vạn vật còn chi quấy nhiễu mình.
iii. Trâu sắt chẳng lo sư-tử rống
iv. Chim hoa, người gỗ dửng-dưng tình.
v. Thể trong người gỗ tự-vô-tình,
vi. Người gỗ chim hoa gặp chẳng kinh.
vii. Tâm, cảnh như-như là thế ấy!
viii. Lo gì Giác-đạo lại không thành!
[170] Hàn-Công tên là Câu, tự là Tử-Thương, làm quan Thượng-Thư và hỏi đạo nơi ngài Sơn-Đường.
[171] Thời vua Cao-Tôn nhà Nam-Tống, niên-hiệu Thiệu-Hưng năm đầu, Lý-Thành nổi loạn, tụ-tập khắp nơi trong vùng Triết-Giang. Đảng giặc này có hơn mười vạn người, đánh chiếm hơn mười châu vùng Giang, Hoài, tự hiệu là Lý Thiên-Vương. Đi cướp bóc vùng Tương-Dương, bị Nhạc-Phi đánh bại, nhảy xuống sông chết rất nhiều. Và, Lý-Thành chạy vào đất Kim. Từ đấy vùng Tương, Hán được bình yên.
[172] Thạch-Đình, Dã-Am, Tổ-Tuyền Thiền-Sư ở phủ Long-Hưng. Ngài nối pháp Đại-Tuệ-Cảo Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[173] Nguyên Thủ-Tọa tức Chiêu-Giác, Đạo-Nguyên Thiền-Sư, nối pháp Phật-Quả-Cần Thiền-Sư, thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[174] Trà-tỳ là tiếng Phạn, Trung-Hoa dịch là “Phần thiêu” nghĩa là vị Tăng khi mất đem hỏa-táng thi-thể.
[175] Đại-Qui, Phật-Tính, Pháp-Thái Thiền-Sư ở Đàm-Châu. Ngài họ Lý ở Hán-Châu. Ngài nối pháp Phật-Quả-Cần Thiền-Sư thuộc đời thứ 15 của phái Nam-Nhạc.
[176] Phật-Nhật, Siêu-Nhiên, Văn-Tổ Thiền-Sư ở phủ Lâm An, nối pháp Thiên-Y-Hoài Thiền-Sư, thuộc đời thứ 11 của phái Thanh-Nguyên.
[177] Lượng-Tọa-Chủ người Tây-Thục. Ngài ham giảng kinh luận. Nhân tham học nơi ngài Mã-Tổ, phát-minh được đại-sự, vào ẩn trong núi Tây-Sơn, thuộc Hồng-Châu và không ai biết tin-tức gì. Khoảng niên-hiệu Chính-Hoà thời Bắc-Tống, có Hùng Tú-Tài vào núi Tây-Sơn chơi, qua chùa Thúy-Nham thăm Tư-Văn Trưởng-lão. Ngài Tư-Văn cùng Hùng Tú-Tài cùng là người Bà-Dương, nên ngài cho hai lực-sĩ cáng Hùng Tú-Tài đi thăm núi. Trải qua những hang-hốc cỏ cây rậm-rạp, ông chợt thấy một vị Tăng, dung-mạo cổ-phong, thần-thái thanh-nhã, mi dài, đầu bóng, mặc áo lá, ngồi trên bàn đá như hình-dáng ngài Phật-Đồ-Trừng vẽ trên vách vậy. – Phật-Đồ-Trừng người Tây-Vực (Ấn-Độ), cạnh nách tay trái có một lỗ hổng, chu-vi độ 4,5 tấc, ngài thường lấy lụa lấp lại. Sau khi độ cơm xong, ngài tới bên sông, rút ruột, dạ dày ra rửa sạch, rồi lại cho vào, đêm thì bỏ lụa ra, khi đọc kinh thì ánh sáng soi khắp nhà. – Hùng Tú-Tài tự nhủ rằng: Thời nay không có vị Tăng như thế, ta thường nghe có Lượng Tọa-Chủ, ẩn ở núi Tây-Sơn, có lẽ đây là Lượng Tọa-Chủ. Nói rồi, cáng chậm-chạp tới trước vị Tăng kia hỏi: Có phải ngài là Lượng Tọa-Chủ không? Vị Tăng kia lấy tay chỉ về phía Đông. Hùng Tú-Tài cùng hai lực-sĩ theo tay đi về hướng Đông. Một lúc, ngoái lại trông, thì không thấy vị Tăng kia nữa. Lúc đó, trời mưa bay vừa tạnh, Hùng Tú-Tài tới chỗ bàn đá ấy coi, thì hãy còn khô. Hùng Tú-Tài trông bốn phía rồi thở dài: “Duyên xưa không dày, tuy gặp, nhưng không gặp”.
[178] Ẩn-Sơn tức Long-Sơn Thiền-Sư ở Đàm-Châu. Ngài cũng tham học nơi ngài Mã-Tổ, phát-minh tâm-yếu, sau ẩn vào Long-Sơn. Một hôm ngài Động-Sơn cùng với Mật-Sư-Bá đi chơi núi. Các ngài thấy dưới dòng khe có lá rau, cho là có đạo-nhân ở trong vùng này chăng? Các ngài rẽ cỏ, ven khe, đi chừng 6, 7 dặm, chợt thấy Long-Sơn Thiền-Sư ở trước am. Ngài Long-Sơn liền hỏi: Núi này không có đường vào, Xà-lê từ đâu tới? Ngài Động-Sơn đáp: Nếu không có đường vào, sao Hòa-Thượng vào đây được? Đáp: Tôi không theo mây nước mà lại đây. Hỏi: Hòa-Thượng ở núi này được bao lâu rồi? Đáp: Không dính đến xuân thu. Hỏi: Núi này ở trước hay Hòa-Thượng ở trước? Đáp: Không biết. Hỏi: Sao lại không biết? Đáp: Tôi từ nhân, thiên lại đây. Hỏi: Hòa-Thượng được đạo-lý gì mà ở núi này? Đáp: Tôi thấy hai con trâu bùn đánh nhau và cùng vào biển cả, nay không biết tin-tức gì. Ngài Động-Sơn mặc Ca-sa lễ ngài Long-Sơn rồi hỏi: Thế nào là chủ trong chủ? Đáp: Suốt năm không ra khỏi cửa. Hỏi: Thế nào là chủ trong khách? Đáp: Núi xanh che mây trắng. Hỏi: Chủ khách cách nhau bao nhiêu? Đáp: Sóng trên nước trường-giang. Hỏi: Khách, chủ tương-kiến có câu gì nói? Đáp: Thanh-phong phất bạch-vân. Ngài Động-Sơn từ biệt rút lui. Ngài Long-Sơn thuật bài kệ:
1. Tam gian mao ốc tòng lai trụ,
2. Nhất đạo thần-quang vạn cảnh nhàn.
3. Mạc bả thị phi lai biện ngã,
4. Phù-sinh xuyên-tạc bất tương can.
b. Phỏng dịch:
1. Ba gian nhà cỏ trước nay an!
2. Một đạo thần-quang vạn cảnh nhàn!
3. Phải trái đừng đem bàn bạc rộn!
4. Phù-sinh xuyên-tạc chẳng liên-can!
c. Từ đó, ngài đốt am, ẩn vào trong núi, không biết ở chỗ nào nữa, nên gọi là Ẩn-Sơn.
[179] Quận-Vương, Triệu-Lệnh-Căng, tự Biểu-Chi, hiệu Siêu-Nhiên Cư-sĩ, làm quan tại quận Nam-Khang, học đạo nơi Viên-Ngộ-Cần Thiền-Sư.
[180] Phù-Thiết-Cước tức Trường Lư, Ưng-Thiên, Vĩnh-Phù Thiền-Sư nối pháp Lặc-Đàm, Hoài-Trừng Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Thanh-Nguyên. Tính ngài cương-ngạnh không hay chiều-chuộng nhân-tình và hay du-lịch, nên tùng-lâm đặt tên là Phù-Thiết-Cước. Một hôm ngài đi hành-cước, vào nghỉ tại một quán trọ, bà chủ quán này bắt con gái làm tình với ngài, nhưng suốt đêm ngài ngồi kết già. Cô kia chịu hàng, trở vào nói với mẹ. Người mẹ nói: Thực là Phật-tử vậy.
[181] Bản Thủ-Tọa tức Bác-Sơn, Ngô-Bản Thiền-Sư.
[182] Đông-Lâm, Vạn-Am, Đạo-Nham Thiền-Sư ở Giang-châu. Ngài họ Tiên-Vu ở Đồng-Xuyên. Ngài nối pháp Đại-Tuệ Thiền-Sư.
[183] Tào-Động tức Tào-Sơn, Bản-Tịch Thiền-Sư ở Phủ-châu, nối pháp Động-Sơn Lương-Giới Thiền-Sư. Khi ngài dời Động-Sơn vào Tào-khê lễ tháp Tổ, về tới Cát-Thủy ở Cát-châu, chúng-nhân nghe tên ngài, thỉnh ngài khai pháp. Ngài nghĩ đến Tào-khê, nên chỗ cư-xử của ngài, đều đặt hiệu là "Tào". Đạo-pháp của Động-Sơn, đến đời ngài phát-triển mạnh, chư phương suy-tôn, nên gọi là Tào-Động-Tôn.
[184] Đời Tống-Cao-Tôn, niên-hiệu Thiệu-Hưng năm thứ 7, ngày 11 tháng 7, nhà vua ban sắc chỉ bổ ngài Diệu-Hỷ trụ-trì chùa Năng-Nhâm ở Kính-Sơn. Đến năm Thiệu-Hưng thứ 11, ông Trương-Cửu-Thành, tự Tử-Thiều cùng các vị đại-phu khác đến yết-kiến, bàn về câu chuyện cách vật. Ngài Diệu-Hỷ nói: Các ông chỉ biết cách-vật mà không biết vật-cách. Các ông kia không hiểu sao, hỏi lại, ngài Diệu-Hỷ nói: Các ông xem tiểu-thuyết, không thấy nhà Đường có An-Lộc-Sơn làm phản à! An-Lộc-Sơn, trước làm Quận-Thú Lương-châu, có vẽ một bức tranh, vẫn còn lưu lại. Khi vua Đường-Minh-Hoàng đi sang Thục qua đây, nhà vua thấy bức tranh ấy, giận, sai bày tôi lấy gươm chém cổ bức tranh ấy, đầu rơi xuống đất, thì tự-nhiên An-Lộc-Sơn ẩn ở trong núi, lúc ấy, đầu cũng rơi xuống đất. Ông Trương-Cửu-Thành nghe tới đây tỉnh-ngộ. Ngài Diệu-Hỷ trọng sự tỉnh-ngộ ấy, lại nói chuyện thêm về Thần-Tý-Cung. Tần-Cối nghe được chuyện Thần-Tý-Cung, ngờ là có gian-ý làm phản, liền tâu lên nhà vua. Nhà vua đày ngài Diệu-Hỷ ra huyện Hành-Dương, thuộc phủ Hành-châu. Và, ông Trương-Cửu-Thành bị biếm chức xuống làm Quận-Thú Nam-Khang.
[185] Liễu-Hiền Thị-giả, nối pháp Đại-Tuệ Thiền-Sư.
[186] Đại-Đạo, Cốc-Tuyền Thiền-Sư ở am Ba-Tiêu, núi Nam-Nhạc. Ngài người Tuyền-châu, nối pháp Phần-Dương-Chiêu Thiền-Sư, thuộc đời thứ 10 của phái Nam-Nhạc.
[187] Đại-Ngu-Sơn, Thủ-Chi Thiền-Sư ở Thụy-châu và nối pháp ngài Phần-Dương.
[188] Phần-Dương tức Phần-châu, Thái-Tử-Viện, Thiện-Chiêu Thiền-Sư. Ngài họ Du ở Thái-Nguyên. Ngài nối pháp Thủ-Sơn-Niệm Thiền-Sư, thuộc đời thứ 9 của phái Nam-Nhạc.
[189] Ngài Diệu-Hỷ bị trục-xuất ra Hành-Dương, ngài làm ba quyển Chính-pháp nhãn-tạng, bị người sàm-tấu, lại phải trục xuất đến huyện Mai-Dương, thuộc phủ Triều-châu (Quảng-Đông). Không bao lâu, ngài lại được mặc áo đạo lại. Các nơi mời ngài trụ-trì, ngài đều không nhận. Niên-hiệu Thiệu-Hưng năm thứ 20, nhà vua sắc chiếu ngài trụ-trì chùa A-Dục-Vương (Minh-châu). Năm thứ 28, nhà vua lại sắc chiếu ngài trở lại trụ-trì chùa Kính-sơn. Đến ngày mồng một tháng tám năm đầu niên-hiệu Long-Hưng đời vua Hiếu-Tôn ngài thị tịch.
[190] Lâm-Tế-Viện, Nghĩa-Huyền Thiền-Sư ở Chấn châu. Ngài họ Hình ở Nam-Hoa, Tào-châu. Ngài nối pháp Hoàng-Bá, Hy-Vận Thiền-Sư, thuộc đời thứ 4 của phái Nam-Nhạc.
[191] Đức-Sơn, Tuyên-Giám Thiền-Sư ở Đỉnh-châu. Ngài họ Vấn ở Giản-châu. Ngài nối pháp Long-Đàm, Sùng-Tín Thiền-Sư thuộc đời thứ 4 của phái Thanh-Nguyên.
[192] Thủy-lạo-hạc: Con hạc lội trong vùng nước lụt. Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, Đại-Đức A-Nan tới thăm Trúc-Lâm tinh-xá. Ngài nghe thấy một vị Tỳ-Khưu tụng bài kệ: “Nếu người sống trăm tuổi, không thấy thủy-lạo-hạc, chẳng bằng sống một ngày, mà được trông thấy nó”. Đại-Đức A-Nan nghe rồi, buồn than: Mắt thế-gian diệt, làm sao chóng vậy! Chư ác phiền-não, sao sinh-khởi vậy! Trái với thánh-giáo, tự sinh vọng diệt, không có tuệ minh, thường trong si-ám, lưu chuyển sinh-tử, mãi mãi không thôi! Than rồi, ngài bảo vị Tỳ-Khưu kia: Bài kệ ấy không phải là lời Phật nói không nên tu hành theo. Ông nên biết, có hai loại người báng Phật: Một là loại người tuy nghe nhiều, nhưng sinh tà-kiến. Hai là loại người hiểu nghĩa sâu, nhưng điên-đảo nói càn. Người thuộc về hai loại trên, không những tự hủy thương mình, mà còn không thể khiến người ta ra khỏi ba đường ác. Ông nên nghe tôi nói lại bài kệ của đức Phật như sau: “Nếu người sống trăm tuổi, không biết pháp sinh diệt, không bằng sống một ngày, mà hiểu được pháp ấy”. Vị Tỳ-Khưu kia về trình lại với thày. Thày vị kia nói: Ngài A-Nan già yếu, nói năng sai lầm, không nên tin, cứ tụng như cũ! Lần sau, Đại-Đức A-Nan lại nghe thấy vị Tỳ-Khưu kia tụng như trước, ngài hỏi duyên cớ, vị Tỳ-Khưu kia trình bày rõ các việc. Đại-Đức A-Nan suy nghĩ và than thở. (Đoạn văn này trích trong truyện A-Dục-Vương).
[193] Ông Dương-Thú-Công, làm quan đến Lễ-Bộ. Ông thích Phật-giáo. Ông tham học qua 12 vị tri-thức, nhưng không rõ được ý chỉ. Sau nghe đạo-phong ngài Bạch-Vân, ông đến xin làm thiền, hỏi đạo và sau liễu-ngộ.
[194] Ông Tô-Đông-Pha đến Kim-Sơn gặp ngài Phật-Ấn, gặp lúc ngài Phật-Ấn cùng học-đồ nhập thất. Ngài Phật-Ấn nói: Ở đây không có giường chõng gì cả. Ông Tô-Đông-Pha nói: Tạm mượn tứ đại của ngài làm giường ngồi. Ngài Phật-Ấn nói: Sơn tăng này hỏi một câu nếu đáp được, xin mời ngồi và nếu không đáp được, ông phải cởi bỏ cân đai để lại đây. Ông Tô-Đông-Pha vui vẻ nhận. Ngài Phật-Ấn hỏi: Ông bảo mượn tạm tứ-đại của Sơn tăng làm giường ngồi, giả như, tứ-đại của Sơn-Tăng này vốn không, 5 uẩn không phải có, thì ông ngồi vào chỗ nào? Ông Tô-Đông-Pha không đáp được. Ngài Phật-Ấn sai thị giả cởi lấy đai ngọc của ông Tô-Đông-Pha để lại và, tặng một áo đụp. Ông Tô-Đông-Pha tỉnh-ngộ và trình một bài kệ:
a. Bệnh cốt nan kham ngọc đái vi,
b. Độn-căn nhưng lạc tiễn phong ky.
c. Dục giao khất thực Ca-cơ-viện,
d. Cố dữ vân sơn cựu nạp-y.
e. Phỏng dịch:
f. Đai ngọc mang sao, mắc bệnh xương!
g. Căn cùn nhưng rụng máy tên buông!
h. Ca-cơ-viện nọ xin ăn nhỉ?
i. Mây núi thênh-thang áo đụp quàng!
[195] Ông Hoàng-Thái-Sử thấy ngài Phật-Ấn ngồi trên thiền-sàng liền hỏi: Sau khi đức Phật nhập diệt ở Song-Lâm rồi thì ai làm Phật? Hải Ấn phát quang minh thì Ấn ấy là ai? Ngài Phật-Ấn đáp: Trái Đông-qua ở Giang-Nam là giống ở Giang-Bắc, trái Tây-qua ở Giang Bắc là trồng ở Giang-Bắc. Ông Hoàng-Thái-Sử không nói gì.
[196] Huyền Sấm: Đạt-Ma Đại-Sư là Sơ-Tổ Thiền-Tôn ở Trung-Hoa. Sau khi ngài đắc pháp nơi ngài Bát-Nhã-Đa-La, ngài có hỏi ngài Bát-Nhã-Đa-La: Sau này, con nên đến nước nào để làm Phật-sự? Ngài Bát-Nhã Đa-La nói: Ông tuy đắc pháp nhưng chưa đi xa được, ông hãy ở yên miền Nam Thiên-Trúc (Ấn-Độ), đợi sau khi tôi thị-tịch 67 năm, khi đó ông sẽ đi sang đất Chấn-Đán (Trung-Hoa), mà truyền-bá đại-pháp. Ông cần trực-tiếp với bậc thượng-căn. Ông nên cẩn-thận đừng đi xa và, khi bị suy ở nơi mặt trời lặn. Hỏi: Nơi ấy có Đại-Sĩ nào lãnh-thụ được pháp-khí không? Đáp: Nơi ông giáo-hóa, những người được đạo giác-ngộ, nhiều không đếm xiết. Sau khi tôi diệt-độ 67 năm, nước ấy có nạn, ông không nên ở lại. Nước ấy ưa làm công-đức hữu-vi, mà không thấy được Phật-lý. Ông hãy nghe bài kệ sau đây:
a. LỘ HÀNH KHÓA THỦY PHỤC PHÙNG DƯƠNG (đường đi qua nước lại gặp dê). Lộ hành khóa thủy: Chỉ cho việc gặp vua Lương Vũ Đế tên là Diễn. Phục phùng dương: Chỉ vào vua Ngụy-Vũ-Đế người đất Khương.
b. ĐỘC TỰ THÊ THÊ ÁM ĐỘ GIANG (Một mình rầu rầu ngầm qua sông). Câu này chỉ vào việc ngài Đạt-Ma mang một chiếc giầy, đi trên một cái bè lau qua sông để về Ấn-Độ.
c. NHẬT HẠ KHẢ LÂN SONG TƯỢNG MÃ (Mặt trời lặn, đáng thương hai con voi và ngựa). Nhật hạ: Chỉ cho kinh-đô Lạc-Dương (mặt trời lặn). Song tượng mã: Chỉ cho vua Lương-Vũ-Đế và vua Ngụy-Vũ-Đế.
d. NHỊ CHÂU NỘN QUẾ CỬU XƯƠNG XƯƠNG (Hai cây quế non xanh mườn mượt mãi). Đây là chỉ cho tôn Lâm-Tế và tôn Tào-Động.
e. Ngài Bát-nhã-đa-la lại nói: Sau 150 năm có một tai nạn nhỏ, nghe bài kệ của ta sau đây:
f. TÂM TRUNG HỮU CÁT NGOẠI ĐẦU HUNG (Trong tâm tốt, ngoài đầu xấu). Tâm trung hữu cát: Chỉ cho chữ Chu, tức là nhà Chu (vì chữ Chu, bên trong có chữ Cát: tốt). Ngoại đầu hung: Chỉ về vua Chu-Vũ diệt Tăng.
g. XUYÊN HẠ TĂNG PHÒNG DANH BẤT TRUNG (Dưới sông, Tăng-phòng gọi là vậy nhưng bên trong không có gì). Xuyên hạ: Chỉ cho Thái-Hồ huyện. Tăng phòng danh bất trung: chỉ cho Ty-Không-Sơn).
h. NHƯỢC NGỘ ĐỘC LONG SINH VŨ TỬ (Nếu gặp con rồng độc sinh ra con nhà võ). Nhược ngộ độc long: Chỉ cho vua Minh-Đế là con vua Vũ-Vương. Sinh vũ-tử: Chỉ cho vua Vũ-Đế.
i. HỐT PHÙNG TIỂU THỬ TỊCH VÔ CÙNG (Bỗng gặp con chuột nhỏ, làm vẳng-lặng lâu đến vô cùng). Hốt phùng tiểu-thử: Chỉ cho năm Tý sinh vua Tuyên-Đế, đại-hưng Phật-pháp. Tịch vô cùng: Nhà Chu bị Dương-Kiên diệt, lập nên nhà Tùy.
j. Ngài Bát-nhã-đa-la lại nói: Về sau chốn lâm-hạ thấy một người được đạo-quả, hãy nghe bài kệ của ta sau đây:
k. CHẤN-ĐÁN TUY KHOÁT VÔ BIỆT LỘ (Nước Chấn-Đán (Trung-Hoa) tuy rộng nhưng không có con đường nào khác biệt). Toàn câu này chỉ vào ngài Mã-Tổ, Đạo-Nhất.
l. YẾU GIẢ NHI-TÔN CƯỚC HẠ HÀNH (Cần nhờ con cháu dưới chân (về sau) thực-hành). Toàn câu này chỉ vào ngài Thạch-Đầu.
m. KIM KÊ GIẢI HÀM NHẤT LẠP TÚC (Gà vàng bỏ ngậm một hạt thóc). Câu này là chỉ ngài Nam-Nhạc-Nhượng người ở huyện Kim-Kê.
n. CÚNG-DƯỜNG THẬP PHƯƠNG LA-HÁN TĂNG (Cúng-dường các vị La-Hán Tăng ở mười phương). Câu này chỉ vào ngài Mã-Tổ ở chùa La-hán, huyện Thập-phương, thuộc Tứ-Xuyên.
[197] Năm phái: (Ngũ phái). Nhưng thường gọi là Năm nhà (Ngũ gia): Thiền-tôn Trung-Quốc từ Sơ-Tổ Đạt-Ma truyền đến ngài Tuệ-Khả, ngài Tăng-Sán, ngài Đạo-Tín, ngài Hoằng-Nhẫn là vị Tổ thứ năm của Thiền-tôn thì phân làm hai: Bắc-tông ngài Thần-Tú và Nam-tông ngài Huệ-Năng. Bắc-tông truyền bá tại phương Bắc Trung-Hoa, không phân ra tông-phái gì nữa. Nhưng Nam-tông truyền bá tại phương Nam Trung-Hoa thì tôn ngài Huệ-Năng là vị Tổ thứ 6 của Thiền-tôn Trung-Hoa. Và, sau ngài Huệ-Năng lại phân ra hai phái: phái Nam-Nhạc và phái Thanh-Nguyên. Hai phái này lập thành năm nhà (Ngũ gia) hay bảy nhà (thất gia) là: 1.- Qui-Ngưỡng-tôn. 2.- Lâm-Tế-tôn. 3.- Tào-Động-tôn. 4.- Vân-Môn-tôn. 5.- Pháp-Nhãn-tôn. Và, thêm phái ngài Hoàng-Long, phái ngài Dương-Kỳ là bảy nhà. Nay ghi rõ thứ tự như sau:
a. Lục-Tổ Huệ-Năng truyền cho hai vị:
b. 1.- Nam-Nhạc, Hoài-Nhượng Thiền-Sư
c. 2.- Thanh-Nguyên, Hành-Tư Thiền-Sư.
d. A.- Ngài Nam-Nhạc truyền xuống ngài Mã-Tổ Đạo-Nhất. Ngài Mã-Tổ Đạo-Nhất truyền xuống ngài Bách-Trượng Hoàng-Hải. Ngài Bách-Trượng truyền xuống hai ngài:
e. a)- Qui-Sơn Linh-Hựu. Ngài Qui-Sơn Linh-Hựu truyền xuống ngài Ngưỡng-Sơn Tuệ-Tịch và ngài Ngưỡng-Sơn Tuệ-Tịch lập ra Qui-Ngưỡng-tôn.
f. b)- Hoàng-Bá Hy-Vận. Ngài Hoàng-Bá Hy-Vận truyền xuống ngài Lâm-Tế Nghĩa-Huyền, và ngài Lâm-Tế Nghĩa-Huyền lập ra Lâm-Tế-tôn.
g. B.- Ngài Thanh-Nguyên Hành-Tư truyền xuống ngài Thạch-Đầu Hy-Thiên. Ngài Thạch-Đầu Hy-Thiên truyền cho hai ngài:
h. a)- Ngài Dược-Sơn Duy-Nghiễm. Ngài Dược-Sơn Duy-Nghiễm truyền xuống ngài Vân-Nham Đàm-Thạnh. Ngài Vân-Nham Đàm-Thạnh truyền xuống ngài Động-Sơn Lương-Giá và ngài Động-Sơn Lương-Giá lập ra Tào-Động-tôn.
i. b)- Ngài Thiên-Hoàng Đạo-Ngộ. Ngài Thiên-Hoàng Đạo-Ngộ truyền xuống ngài Long-Đàm Sùng-Tín. Ngài Long-Đàm Sùng-Tín truyền xuống ngài Đức-Sơn Tuyên-Giám. Ngài Đức-Sơn Tuyên-Giám truyền xuống ngài Tuyết-Phong Nghĩa-Tồn. Ngài Tuyết-Phong Nghĩa-Tồn truyền xuống ngài Vân-Môn Văn-Yển và ngài Vân-Môn Văn-Yển lập ra Vân-Môn-tôn. Và, cũng ngài Tuyết-Phong Nghĩa-Tồn truyền cho ngài Huyền-Sa Sư-Bị. Ngài Huyền-Sa Sư-Bị truyền xuống ngài La-Hán Quế-Thâm. Ngài La-Hán Quế-Thâm truyền xuống ngài Thanh-Lương Văn-Ích và ngài Thanh-Lương Văn-Ích lập ra Pháp-Nhãn-tôn.
j. Trên đây là nguyên-ủy thành lập 5 tông phái hay gọi là 5 nhà của Thiền-Tôn Trung-Quốc. Và, có chỗ còn kể thành 7 nhà tức thêm hai nhà nữa như sau:
k. Ngài Lâm-Tế Nghĩa-Huyền truyền xuống ngài Hưng-Hóa Tồn-Tưởng. Ngài Tồn-Tưởng truyền xuống ngài Nam-Viện Tuệ-Ngung. Ngài Tuệ-Ngung truyền xuống ngài Phong-Huyệt Diên-Chiểu. Ngài Diên-Chiểu truyền xuống ngài Thủ-Sơn Tỉnh-Niệm. Ngài Tỉnh-Niệm truyền xuống ngài Phần-Dương Thiện-Chiêu. Ngài Thiện-Chiêu truyền xuống ngài Thạch-Sương Sở-Viên. Ngài Thạch-Sương Sở-Viên truyền xuống cho hai vị:
1. Ngài Hoàng-Long Tuệ-Nam lập thành phái Hoàng-Long.
2. Ngài Dương-Kỳ Phương-Hội lập thành phái Dương-Kỳ.
[198] Niêm cổ: Nhặt lấy và đem ra những bài kệ-tụng của cổ-nhân để giải-thích thêm.
[199] Tuyết-Đậu, Trọng-Hiển Thiền-Sư ở Minh-Châu. Ngài họ Lý ở Toại-châu. Ngài nối pháp Trí-Môn, Quang-Tộ Thiền-Sư, thuộc đời thứ 9 của phái Thanh-Nguyên.
[200] Biện Thủ-Tọa tức Đại-Biện Thiền-Sư ở chùa Chiêu Giác, phủ Thành-Đô, nối pháp Đại-Qui-Thái Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
[201] Đông-Lâm, Hỗn-Dung Trưởng-Lão tức Phổ-Dung Thiền-Sư. Ngài là người ở Phúc-Châu, đắc-pháp nơi Ngũ-Tổ-Diễn Thiền-Sư, thuộc đời thứ 14 của phái Nam-Nhạc. Khi ngài làm Tri-Tạng ở nơi ngài Ngũ-Tổ-Diễn, ai đến, ngài cũng tiếp chuyện bằng tiếng xứ Mân và tụng lời thật quê, nên người ta đặt tên ngài là Hỗn-Dung.
[202] Phật-Trí-Dụ Thiền-Sư ở chùa Dục-Vương, phủ Khánh-Nguyên, dòng dõi Ngô-Sở-Vương. Ngài nối pháp Viên-Ngộ-Cần Thiền-Sư.
[203] Tịnh-Từ, Thủy-Am, Đoan-Nhất Thiền-Sư ở phủ Lâm-An. Ngài họ Mã ở Vụ-Châu. Ngài nối pháp Phật-Trí-Dụ Thiền-Sư, thuộc đời thứ 16 của phái Nam-Nhạc.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.119.118.210 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.