Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Tứ Đế Luận [四諦論] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Tứ Đế Luận [四諦論] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.93 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.04 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Về Bốn Chân Lý

Kinh này có 4 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 |
Việt dịch: Thích Như Điển

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

I.1 Phẩm Tư Trạch (Thứ Nhất) I.1
Bát nhã khắp các pháp
Lòng từ nhiếp chúng sanh
Vô tướng nói chánh pháp
Đãnh lễ bậc trời người
Đại Thánh Chiên Diên luận
Nói lược nghĩa sâu xa
Đại đức, Phật Đà Mật
Rộng nói lời và nghĩa
Lần lượt tô bồi thêm
Rộng lược nghĩa tương xứng
Chơn lý, tướng hòa nhau
Ta thấy hai luận rồi
Liền bỏ chỗ rộng rãi
Nên tạo luận trung bình
Lợi ích nói người nghe
Chánh pháp được lâu bền
Nếu người thấu Tứ Đế
Bốn niềm tin khó động
Chẳng hề thấy mặt khác
Quyết lìa bốn đường ác
Cùng tám người, trời, thức
Sau tất đến chỗ khổ
Nên tạo luận Tứ Đế
Chẳng do chỗ muốn đủ
Duyên khởi nghĩa nhiều loại
Ý câu trước sau sẽ
Khó kia và ý nghĩa
Tổng biệt tướng cùng lý
Chứng nghĩa cùng thí dụ
Nương thuyết Tứ Đế nầy
Nguyện chúng sanh rõ biết
Được cõi trời, Niết bàn.
Thánh Đế có bốn. Đây là lời trong kinh và do nhơn gì duyên gì mà Đức Thế Tôn Như Lai nói kinh này? Vì sao Thánh Đế lại chỉ có bốn mà không hơn không kém? Sao nghĩa là Thánh và sao gọi là Đế? Hay lấy chữ Thánh để tạo ra chữ Đế chăng? Trước đó cả hai chẳng có tên là Thánh Đế, nếu nói Thánh nghĩa là Đế thì việc nầy chẳng phải. Lại có kinh nói rằng: Đế (chơn lý) chỉ có một chứ không bao giờ có hai. Sao lại có bốn nghĩa mà chẳng bị sai trái?
Lại có kinh nói rằng: Tất cả các pháp hành đều là khổ. Do vậy chỉ có hai Đế. Do đó mà nghĩa Tứ Đế chẳng đúng.
Lại nữa trong kinh Tăng Nhất nói: Sự an lập các pháp từ một đến hai cho đến nhiều. Vì sao ý nghĩa của Đế ấy lại riêng rẽ chẳng tăng hơn một? Lại nữa bốn tướng ấy lại chẳng giống nhau. Tại sao cùng một lúc mà được cùng thấy? Lại nữa Tứ tướng của Bà La Môn Đế cùng với Thánh Đế có nghĩa gì sai khác chăng? Tiếp nói kệ rằng:
Sao gọi Tứ Thánh Đế
Chẳng Đế, cảnh không có
Chỉ hai, tăng cùng thấy
Tịnh Thánh Đế khác gì?
Vì sao chư Phật ở trong Tứ Đế đều cùng chung một ý? Vì sao chỉ lấy Tứ Đế mà chư Phật cho là cao cả để nói? Vì sao lại cùng quán Tứ Đế làm cảnh? Trí huệ bình đẳng mà kết quả lại có sự sai biệt? Vì sao các vị A La Hán đối với Tứ Đế trí tuệ viên mãn chẳng dư mà không giống với chư Phật là được nhất thiết trí? Nếu không giống nhau vậy thì trong Tứ Đế có chỗ chẳng rõ. Nếu tất cả pháp đều ở trong Tứ Đế thì hơn hẳn xa Ba Diệp Thí Kinh; nên mau giải cứu. Nếu chẳng giải cứu thì sẽ có Ngũ Đế. Nếu không là Ngũ Đế thì các pháp khác đều là phi Đế. Nếu các khổ có bốn mà tên gọi Thánh Đế và lại nói: một sự khổ cũng đầy đủ là Thánh Đế rồi. Như thế thì kinh ấy tức chẳng cần nói nữa. Nếu thế thì Tứ Đế nên biết và nói là khổ. Nghĩa nầy thật chẳng đúng. Nếu biết một Đế lại biết các Đế khác nữa, mà sau đó còn nói thêm ba Đế nữa thì quả thật không cần thiết. Vì sao ở phía trước nói khổ đế mà chẳng nói nguyên nhơn trước cái quả ấy? Có gì sai khác giữa một và hai duyên sanh.
Vì sao nói Diệt Đế sau rồi tiếp theo mới đến Đạo Đế? Lại nói kệ rằng:
Một ý, quả ấy chơn,
Nhất thiết trí như lá,
Bốn khác một, chẳng dùng,
Đầu khổ nhơn duyên diệt.
Thánh Đế có bốn. Vì sao Đức Thế Tôn lại nói kinh nầy?
Đáp: Vì có các đệ tử muốn chứng Thánh đạo và trước đó ở nơi ngoại đạo đã thọ pháp tà, hoặc những việc hay làm của ngoại đạo như đạo không ở yên một chỗ, đạo hộ mệnh, đạo sai biệt, đạo lão Thanh Văn, đạo Tư Cù Đàm, đạo lấy cánh chim làm áo, đạo nước lạnh, đạo để tóc, đạo lửa, đạo khỏa thân v.v… Như vậy các đạo ấy mỗi mỗi đều rõ biết pháp ấy rồi và chỉ biết pháp của mình là chơn thật, chẳng có chân lý nào khác, chẳng sai quấy, chẳng chết, lấy đó làm kết quả; còn các pháp khác thì chẳng đúng. Nghe như thế rồi không có trí quyết đoán được và chẳng biết pháp nào là chơn thật và ai là chẳng đúng. Vì các đệ tử mà đối với Đế, phi Đế đã khởi lên vô minh hoặc làm Đế hiển thật. Do vậy mà Đức Phật đã nói ra kinh nầy. Ví như có người khoa trương loại đồ anh lạc giả và ở đây muốn làm cho thấy loại anh lạc thật.
Lại nữa có các pháp sai biệt; nên nói nghĩa như thế nầy. Kẻ bỏ tục xuất gia giữ tướng Sa Môn, ở nơi A Lan Nhã, hành pháp đầu đà, gặp ngay bạch pháp giảm thiểu tiền tài, thủ hộ tàm quý, chứng được giới đức, khống chế các căn, tôi luyện nội tâm để chiến đấu với thiền định. Những ai mà làm được như thế thì tự họ chính là những vị Sa Môn của ta. Vì những Sa Môn khởi lên tăng thượng mạn, cho nên ta làm cho thấy rõ được những Sa Môn chân thật vậy. Đối với trong chánh pháp thành vị Sa Môn đúng nghĩa, chẳng phải do làm nhiều như trong Kinh Sa Môn nói. Nếu có được như thế đầy đủ như đã nói trong kinh thì đây thật là pháp Sa Môn. Do quán Tứ Đế nên được thành lập. Chẳng phải do sự tu hành có tính cách thế gian làm cứu cánh để được lưu hành mà gọi là Sa Môn, như kệ khỏa thân nói.
Lại nữa ở đây miễn được chín nạn. Việc nầy đã có trước Phật, để cho xa lìa pháp nầy và lấy thiện căn, dầu thơm huân tập nơi tâm nầy và nơi con đường Thánh ấy là món ăn của ý, của việc làm đầy đủ thanh tịnh, nên đã cùng với Thánh Đế thông đạt và tâm siêng năng và làm cho khuất phục nơi Thánh Đế và được biết như là vị thuốc vậy. Do đó Đức Thế Tôn nói ra kinh nầy cũng giống như muốn trị bịnh thì vị thầy thuốc phải cho thuốc. Lại khi nghe con đường ác, khổ, thật khó sanh tâm nhẫn, tâm sợ hãi xa lìa và vì những người nầy mà hiển ra nhơn duyên để làm cho chẳng bị đọa lạc vào con đường ác, cho nên nói ra kinh nầy, vì sao vậy?
Vì lẽ khi bị sanh vào địa ngục thì các chúng sanh sáu phương đều bị lửa vây đốt cháy, thân thể bị nhắc lên giống như đốt sắt. Khi ra vào đều bị lửa vây chặt thiêu đốt thọ khổ. Lại có những người đói khát phải ăn hòn sắt nóng và uống nước đồng sôi hoặc bị chém, hoặc bị phanh thây, cưa chặt thành khúc chịu khổ; lại có chó dữ chim sắt mổ cắn ăn thịt. Hoặc thọ sanh vào ngạ quỷ, đói khát khổ sở thường hay theo thân. Cổ họng như kim châm hằng muốn ăn uống nhưng chung quy chẳng bao giờ no. Sự khát nước hành hạ muốn có nước nhưng do vì nghiệp đã tạo, đã đến gần sông rồi lại thấy tòan là nước sôi; hoặc thấy máu huyết phẩn dãi hôi thối đầy khắp, gặp cây có quả lại biến thành cây không trái. Như kệ nói rằng:
Nóng như trời mùa hạ,
Gió gặp sức lửa đốt,
Giọt mưa như thấm biển,
Che lấp như nung nấu.
Cho nên ngạ quỷ thọ khổ vô cùng. Hoặc sinh vào con đường súc sanh thường bị câm điếc và hay bị giết phá, cùng ăn thịt nhau rồi sanh ra sợ hãi nghi ngờ, tâm thường chẳng an, thọ khổ như vầy. Hoặc sinh Tu La óan kết sự keo kiệt, kiêu mạn và khi phạm thọ rồi thì chịu khổ. Đệ tử của Phật nghe sự khổ ở những đường ác rồi sợ bị đọa vào kia, do vậy muốn rõ biết Tứ Đế để chẳng bị đọa vào đó, là nhơn duyên nói ra kinh nầy. Cũng giống như người bị trôi vào biển liền dùng chiếc thuyền để cho và làm cho cứu được sự chết. Như trong kinh nói:
Nếu có chúng sanh nào đối với sự khổ nầy hay thấy như thật, liền được giải thoát bốn con đường ác và tất cả những sự khổ của sanh, già và bệnh. Lại nữa vì làm cho chúng sanh xa lìa năm loại tà, lời nói ngông cuồng. Một là có thể sanh vào đường ác; hai là theo việc làm của người xấu; ba là xa rời người hiền; bốn là hay phát khởi phiền não; năm là lấy việc dối trá làm chính. Vì làm cho thuyết kia được lợi ích các chúng sanh; nên có năm phần chánh ngữ. Một là tương ưng với cái đức của mình; hai là làm theo người hiền lương; ba là sanh ra các căn lành; bốn là làm cho xa rời rừng sanh tử chém giết nhau; năm là làm cho được an vui, lìa năm lời nói tà ngụy và thực hành được năm lời nói đúng đắn, cho nên nói ra kinh nầy. Giống như bỏ vật quý giả mạo lấy vật quý chân thật.
Như trong kinh nói: Đừng nói lời tà lời ác. Nếu chư Tăng tụ họp nên làm hai việc. Một là im lặng như Thánh; hai là nói năng chánh pháp như Thánh.
Lại nữa có những kẻ phàm phu họ tự chấp trước những dị biệt Đế như tôi chấp cái nầy là thật, kia chấp đó là sai. Do sự chấp trước nầy mà cùng nhau sinh sự, cũng giống như người mù xem voi. Vì muốn chỗ hơn không sai mà tranh luận, lại chẳng khởi lên sự điên đảo. Vì đây là Thánh Đế trí tuệ nên mới nói kinh nầy. Vì hiện bày ra ý nầy để cho những kẻ chấp trước, nói thường hay đoạn mà những người nầy sinh ra đấu tranh, khi người ấy thấy được Tứ Đế liền chẳng như thế vì rõ biết chỗ không rồi vậy. Như kinh Khư Đa Kha nói.
Lại nữa hay nương vào Thầy ở nơi vắng vẻ, thọ hạnh đầu đà, làm giảm thiểu nhu cầu, gìn giữ sáu căn, tiết giảm sự ăn uống; đầu, giữa, cuối đêm hay rõ vui và một lòng nghe, như chơn lý mà suy nghĩ nói năng đọc tụng lời chơn chánh. Ngồi ngay ngắn thiền định đếm hơi thở quan sát. Do nhơn duyên nầy mà luôn luôn được thành thục. Tâm địa nhẹ nhàng; hoặc sự giao động ít. Vì những người nầy làm cho rõ biết; nên nói kinh nầy, như người rõ biết thì cho thuốc thang làm lợi lạc. Vì chơn thật nghĩa, duy chỉ lấy trí căn, cốt chỉ làm cho rõ biết. Nên biết rằng đây là căn duyên của Bốn Thánh Đế. Như trong kinh đã vì sự rõ biết mà nói. Lại nữa vì phá Tư hoặc mà hiện ra hai phương tiện nên nói kinh nầy. Như kệ nói rằng:
Sanh khởi, diệt lìa sáng,
Nhiều loại chấp nơi tà,
Thấy gồm sáu hai loại,
Vô minh nơi nhân quả,
Bậc thánh rõ việc nầy,
Muốn hiện lý bất động,
Tạo ra duyên giải thoát,
Nên Phật nói kinh nầy.
Lại nữa ngay cả Phạm Thiên hay loài người, Bà Lợi hay Tu La, Rồng v.v.., cùng với các thần Dược Xoa, Diệm Ma v.v… Nếu chẳng thấy được Tứ Thánh Đế thì chẳng ra khỏi ngục tam giới như con tằm trong kén, luân chuyển trong sáu đường giống như bánh xe lăn vào chỗ tối tăm rồi lún sâu vào chỗ nguy hiểm gặp lửa đốt cháy chung quanh. Nếu rõ biết được Tứ Thánh Đế liền phá chỗ tối tăm vô minh, được trí sáng suốt, giải thoát khỏi bốn đường khổ, không còn bị trói buộc vào đó là do Tứ Thánh Đế nầy chơn thật, chẳng hai, chẳng điên đảo, chẳng đấu tranh, hay thành Như Lai, xuất thế hữu dụng nơi đời. Vì muốn hiểu rõ lý ấy mà nói kinh nầy. Luận chủ muốn hiểu Tứ Đế nghĩa không có gì sánh bằng; nên nói kệ rằng:
Biết ngoài Đế chẳng lìa,
Luật, lý hành hơn kia,
Chẳng thể độ sanh già,
Chết ưu bi biển lớn,
Đây là kẻ Thánh trí,
Tham sân tạo đấu tranh,
Kẻ trí cầu giải thoát,
Ngoài Đế không nên biết,
Nếu người rõ Thánh Đế,
Rõ biết đường tà ác,
Lìa nơi chỗ nhiễm độc,
Thường hành nơi bốn tâm,
Những khổ ở đầy khắp,
Giải thoát ngục tam giới,
Rõ biết cầu Niết Bàn,
Nên thấy rõ Thánh Đế.
Lại nói thêm kệ rằng:
Đệ tử và Sa Môn,
Xa lìa đường sợ hãi,
Sai trái cùng tà chấp,
Bậc Thầy phá hiển phàm.
Sao gọi là Thánh Đế? Tại sao chỉ có bốn mà không nhiều hơn lại cũng chẳng ít hơn?
Đáp: Câu hỏi nầy chẳng phải là hỏi. Vì tất cả nơi như thế đều vô cùng. Lại nữa do thân kiến, đoạn kiến, thường kiến, vô sự kiến và vì sự đối trị bốn loại nầy cho nên Thánh Đế chỉ nói bốn. Lại nữa vì để đối trị với bốn loại điên đảo nên nói Tứ Đế. Giống như Tứ Niệm Xứ. Lại nữa vì để xa lìa bốn việc tà chấp, bởi do chúng sanh có tất cả bốn loại tà chấp nên mới nói vậy. Những gì là bốn?
Đó là quả nhơn giải thoát phương tiện tà chấp; một là quả tà chấp. Ta thấy niệm ái nghiệp là chỗ sanh ra để các ấm giới nhập vào. Sự bất tịnh hôi thối giống như thây chó chết. Ba khổ đốt cháy rơi vào chỗ khổ. Vô thường cứng như kim cương cũng bị phá hoại. Ta và những gì thuộc về ta là kẻ tạo tác ra và kẻ thọ lãnh sự tạo tác ấy. Làm cho kẻ thọ nhận ấy là chỗ xa lìa và ở trong ấy chấp về thường, lạc, ngã, tịnh. Đây chính là chấp tà về kết quả. Vì để lìa khỏi sự chấp nầy nên nói Khổ Thánh Đế.
Hai là kẻ chấp tà vào nguyên nhơn. Nghĩa là Thế chủ, Phạm Vương, Tự Tại và con người cho rằng cùng lúc tự tánh nhất định tự nhiên và không có nguyên nhơn đời trước do thế nói rằng: Đất, nước, lửa, gió, lẫn hư không đều chẳng có. Đây là chẳng có nguyên nhơn không bình đẳng và chấp vào nhơn để làm sanh nhơn. Đây gọi là chấp vào nguyên nhơn tà. Vì để lìa khỏi sự chấp tà nầy cho nên nói Tập Đế.
Ba là chấp tà vào sự giải thoát. Trở về năm, nhập vào Tỳ Nữu thể lực (Visnu) rồi nhập vào không. Cho đến ở nơi thế tục không bị khổ, được tồn tại độc lập bên trên, lìa ngũ đức và quả tam định, rồi bỏ từ từ, rồi bỏ hẳn. Như thế là kẻ chấp vào sự giải thoát chẳng phải định chẳng phải vĩnh cữu gọi là chấp vào sự giải thoát. Vì để phá vào chấp nầy nên nói ra Diệt Đế.
Bốn là chấp vào phương tiện tà. Nghĩa là xa lìa ngũ trần, ăn uống, y phục, chỗ ngồi nằm, sinh sống v.v.., như gió, nước, hoa, quả, gốc, mầm, cành, lá, lúa gạo, dầu mè, phân bò, dùng những thứ nầy làm đồ ăn uống. Dùng vỏ cây hoặc cỏ hay da dê, lấy những thứ nầy trên mặt đất rồi lấy chày giả cho nhuyễn ra để nằm lên trên ấy; hoặc đầu chúc xuống chân đưa lên; hoặc tùy theo hướng của mặt trời mà hướng thân theo đó. Hay mặc áo ấm để lặn vào trong nước, rồi đi trên lửa, nước mà không chìm; nương vào thời tiết, nghiệp hết chứ không có nguyên nhơn. Do những việc làm nầy mà chứng được Niết Bàn. Đây có tên là chấp vào những phương tiện tà. Vì để lìa những sự chấp trước nầy nên nói về Đạo Đế. Nên có bốn việc vậy, mà từ đó nói về Tứ Đế. Giống như con đường Thánh.
Lại nữa vì để phân biệt pháp hy hữu nầy; nên Thánh Đế lại có bốn. Vì sao vậy? vì lẽ chúng sanh chấp vào ấm rồi nương vào chỗ chấp trước ấy. Nên nói khổ phải nên rõ biết mà chẳng có sự an vui thanh tịnh. Sự tham ái mất đi rồi, tức liền có sự tịch diệt. Cái khổ mất đi rồi thì sự ngã mạn cũng tịch diệt; nên phải đối trị với tâm khổ ấy. Bốn sự tu hành nầy làm cho vô minh mất đi và đạo chính là việc có thể đối trị lại với vô minh.
Lại nữa tất cả những người cầu giải thoát nếu diệt khổ sẽ được vui. Đây chính là điều quan trọng. Vậy phải diệt khổ ra sao? Lấy Tập mà diệt vậy. Được an vui là do tu đạo vậy. Đây chính là Thánh Đế vậy.
Kinh Luận Sư nói: Nếu người nào quán thấy sự sanh tử mà sợ hãi, quán Niết Bàn là công đức thì liền nhập vào chánh định vậy. Sự sanh tử sợ hãi nghĩa là sao?
Nghĩa là khi thọ sanh thì thức khởi lên theo. Thức nầy khởi lên là nguyên nhơn khiến xảy ra sự tham ái. Còn Niết Bàn công đức là sao?
Nghĩa là thức chẳng khởi lên niềm vui và thức nầy cũng chẳng khởi lên phương tiện. Tức đây là Thánh đạo; cho nên nói ra Tứ Đế. Lại nữa phân biệt thế và xuất thế nhơn quả, cho nên nói ra Tứ Đế. Lại nữa vì thông đạt bốn loại. Lại vì nương vào bốn loại nên nói ra Tứ Đế. Lại vì tướng riêng của bốn loại mà nói ra Tứ Đế.
Hỏi: Ý nghĩa của Thánh và nghĩa của Đế là thế nào?
Đáp: Thánh có Tám.
Một là tự tại. Nếu bị trói buộc vào kia tức chẳng tự tại. Đây tên là Bộc lệ (Nô bộc lệ thuộc), chẳng phải tên vì Thánh. Chư Phật và các vị đệ tử đối với tâm và pháp hai nơi tự tại. Cho nên gọi là Thánh.
Hai là chẳng tham ái nô dịch như hứa với người tự tại xuất gia.
Ba là hạt giống thánh phát sanh; nên gọi là Thánh nhơn, như sanh vào giòng giống Bà La Môn.
Bốn là sanh nơi Thánh địa. Đất nghĩa là chơn thật chẳng sanh, giống như sanh vào ở giữa đất nước.
Năm nghĩa là những việc làm lìa sanh tử; như Bà La Môn.
Sáu là chẳng hề lên xe sanh tử; như xả bỏ chẳng đắm trước.
Bảy là chẳng hề sanh nữa; giống như hạt giống lép.
Tám là cung kính để vãng sanh, là phước đức vậy; giống như các vị Hoàng Đế. Lại có bài kệ tán rằng:
Tự tại lìa tham nô,
Giống thánh sanh đất thánh,
Xa rời chẳng lên xe,
Chẳng sanh, sanh cung kính.
Còn Đế có bảy nghĩa:
Một là chẳng điên đảo nên nghĩa là Đế, giống như tướng của lửa.
Hai là thật nên nghĩa là Đế, giống như trong kinh nói.
Ba là chẳng thay đổi nên nghĩa là Đế
Bốn là chẳng phải hai việc làm, nên nghĩa là Đế. Giống như cây Đề Già Xà Ya Đạt Đa.
Năm là chẳng liền khởi, nên nghĩa là Đế. Từ trí nầy chẳng liền khởi lên, chẳng cùng với hỏa luân trí.
Sáu là chẳng sai khác nên nghĩa là Đế. Giống như nghiệp và các Thánh giới.
Bảy là văn nghĩa tương xứng, nên nghĩa là Đế. Vì sao vậy? Nghĩa là sự khổ ấy chính là nghĩa của khổ. Do bảy nghĩa nầy; nên có tên là Đế.
Hỏi: Nếu dùng Thánh để gọi là Đế thì cả hai ở phía trước chẳng nên gọi là Đế. Lại nữa nếu nói Thánh Gia Đế nên gọi tên là Đế thì nghĩa nầy chẳng phải bất định sao?
Đáp: Đế chính là nhơn của Thánh, có thể sanh ra Thánh được. Ví như chỗ ở của Phạm Vương; cho nên gọi là Thánh Đế. Như trong kinh nói: Bốn điều đầy đủ ấy là Thánh và tương ưng với nghĩa ấy. Lại nữa Thánh nhơn cũng nói, cho nên gọi là Thánh Đế. Như vị Thầy chỉ đường, như trong kinh nói. Nếu là các Đức Như Lai thì phải dùng điều chơn chánh để nói và đều nói Tứ Thánh Đế.
Hỏi: Nếu các bậc Thánh nói thì gọi làThánh Đế; còn phàm phu nói thì gọi là phàm Đế sao?
Đáp: Do thần lực của Phật nói và thành lập lời dạy của Phật theo chánh giáo; nên chẳng phải là chân lý của kẻ phàm. Như Xá Lợi Phất thực hành nhơn duyên. Lại nữa vì các bậc Thánh rõ biết trứớc, giống như thuốc tiên. Lại nữa các bậc Thánh nương vào sự chân thật cho nên gọi là Thánh Đế.
Ví như thế để hỏi rằng phàm phu nương vào chỗ thấy không thật nghĩa, chẳng phải Thánh, chẳng phải đế sao?
Đáp: Với con mắt không thanh tịnh tức chẳng thể thấy, giống như người mù mà chọn của quý, như người mắt yếu mà xem mặt trăng. Kẻ phàm phu say cuồng chẳng thể thấy được. Đây ví như cỏ phủ trên đầu 100 con voi. Lại nữa do trí tuệ huân tập để luận bàn và lấy làm thể của Thánh; nên nói là Thánh Đế; giống như chim, rắn cùng gạo. Lại nữa như trong kinh nói: Vô thượng Thánh huệ chiếu soi; nên gọi là Thánh Đế.
Hỏi: Lại có kinh nói rằng Đế chỉ có một, chẳng có hai. Sao lại có đến bốn nghĩa mà chẳng phải sai trái?
Đáp: Dùng nghĩa chẳng trái ngược nên chỉ một phẩm loại không khác. Còn bốn ở đây ví như bốn sự trái ngược, lại do nghĩa của Đế mà ra. Một dùng cho Thánh đạo. Bốn dụ như từng phần của con đường. Lại thông qua các pháp tướng. Một dụ cho sắc tướng khác. Bốn dụ cho tứ đại. Lại nữa vô ngã, bình đẳng vậy. Một là vô ngã, tất cả đều bình đẳng, giống như đồng dị vậy. Lại nữa chẳng thay đổi khác. Nương vào tâm giải thoát để nói đế chỉ có một chứ không có hai. Vì sao vậy? Khổ và Thánh Đế đều có sự đổi khác như trong kinh nói. Tất cả những hữu vi, hư không là pháp bị hoại, thì một là chơn thật, không hoại tâm giải thoát. Như tướng biến đổi tương ưng, tất cả đều thật chẳng hư. Nghĩa của bốn ở đây cũng như thế. Cho nên Thánh Đế có bốn.
Hỏi: Lại có kinh nói: Tất cả các hành pháp đều khổ, duy chỉ hai Đế bốn nghĩa thì không thành?
Đáp: Đây là ý chỉ của phân biệt bộ nói. Tất cả các pháp hữu vi là vô thường, nên khổ. Chẳng phải do một nghĩa đế mà khổ. Vì muốn xa lìa điều nầy nên Đức Thế Tôn đã tu thanh tịnh phạm hạnh. Đây tên gọi là Khổ Đế.
Lại muốn nói rộng ra cho nên có bốn nghĩa chẳng khác. Lại có 3 loại khổ nói trong các kinh, tất cả các hữu phi đều nhiếp từng phần. Hữu vi khổ là nói đầy đủ phần như nương vào khổ khổ để nói về các loại khổ, khổ căn, khổ giới, khổ thọ v.v… nương vào sự hoại của hành khổ để nói, lại cũng như thế. Nương vào tất cả thọ để nói khổ. Nếu vô thường là khổ là nói tất cả hữu vi; hoặc nương vào hành khổ, để nói chỗ sanh khởi. Đây là khổ có sanh, là khổ do sắc sanh, tức là sự khổ sanh; hoặc nói đây là Khổ Đế, dùng nhiều ý để nói về khổ. Cho nên tất cả đều chẳng có chỗ sai khác. Lại nữa không thay đổi, nương vào Niết Bàn để nói tất cả hữu vi là do khổ khổ vậy, do khổ tướng tương ưng với nhau, nên nương vào nghĩa Tứ Đế chẳng chạy đâu cả.
Hỏi: Lại nữa trong Tăng Nhất nói an lập các pháp từ một cho đến hai và đến nhiều nữa. Vì sao nghĩa của Đế chỉ độc có một mà không hơn?
Đáp: Vì là nghĩa chơn thật vậy, chẳng phải điên đảo. Phật nói tất cả đều là chơn lý (Đế). Duy có một, hai, ba thì gọi là tăng; chứ Đế thì không tăng hơn một vì phân biệt Đế để quán nên nói có bốn. Vì an lập trí và tướng nên giống như Tứ Niệm Xứ, như phía trước nhơn duyên thành lập Tứ Đế. Nghĩa nầy nên biết, vì biết Thánh Đế nên là bốn. Biết khổ có nguyên nhơn, tức thấy được pháp. Như trong kinh nói: Nếu người nào rõ biết được mười hai duyên sanh tức là rõ biết pháp, thông đạt mười sáu tướng xuất thế đều do thấy rõ được chân lý vậy. Nhơn duyên cột chặt chính là nghĩa của vô thường, giống như nghe tiếng mà Nan Đà đã trãi qua sự chứng ngộ. Vô thường chính là khổ, mà khổ thì vô ngã, mà vô ngã chính là không. Người nào rõ biết điều nầy, ấy chính là rõ biết pháp, rành rẽ mười sáu tướng được tịch diệt và lìa khổ. Đây chính là nghĩa ấy. Thánh Đế có bốn, lại nói là tối thượng phẩm, chẳng cùng với cảnh giới của trí, cho nên không tăng hơn một.
Hỏi: Lại có bốn tướng chẳng giống nhau. Vì sao trong một lúc mà lại cùng thấy được?
Đáp: Do tướng vậy. Trong kinh nói do sự tu tập tưởng về vô thường, bạt trừ tất cả tham ái, đây là tưởng cảnh giới, tức chính là Khổ Đế. Tất cả sự tham ái chính là Tập Đế. Bạt trừ tất cả chính là Diệt Đế. Vô thường tưởng chính là Đạo Đế! Đây chính là nghĩa nầy vậy. Duy bốn chẳng đồng với một thì thấy được, lại do sự chọn lựa của tư tưởng mà có, như trong kinh nói: Nên tưởng về nguyên nhơn vô thường rồi chọn lựa năm ấm tham ái, chưa sanh liền được sanh, sanh rồi lại mất đi. Trong nầy ngũ ấm chính là Khổ Đế; sự tham ái chính là Tập Đế. Chưa sanh và diệt tức là Diệt Đế. Vô thường và sự chọn lựa chính là Đạo Đế. Đây là ý nghĩa vậy, nên một lúc mà thấy được bốn chân lý.
Lại nữa do quán về sự mất mát vậy. Như nương vào kinh để quán về kiết xứ là chỗ tổn thất của tham ái, tức là Diệt. Kết xứ chính là Khổ Đế. Tham ái chính là Tập Đế. Diệt tức là Diệt Đế. Quán về sự sai trái mất mát tức là Đạo Đế. Đây chính là nghĩa mà cùng lúc thấy được chơn lý. Lại nữa cùng một lúc thấy được chân lý cũng giống như lửa. Lửa có thể đốt cháy các vật, cùng lúc có thể đốt mà có thể chiếu sáng. Quán về Đế cũng lại như thế. Cái nầy sinh cái kia mất; mỗi mỗi tự tướng đều lìa diệt, chứng tu đồng tại một lúc.
Lại nữa giống như mặt trời có thể đốt cháy các vật; nhưng nhờ nước mà nuôi hoa và mỗi mỗi có tướng khác nhau. Sự đốt cháy ấy cùng lúc phá, dưỡng. Đây sự quán về chân lý cũng thế. Lại nữa giống như cây đèn. Cây đèn cũng có thể đốt cháy các vật mà khi cho dầu vào thì sáng lên và mỗi mỗi đều có tướng khác. Sự đốt cháy và chiếu sáng ấy cùng trong một lúc. Sự quán về chân lý cũng như vậy. Lại giống như chiếc thuyền. Thuyền có khả năng chuyên chở đến kia và chẳng giống tướng của vật. Nghĩa là bên nầy bên kia hai bờ vật đến vật đi. Cùng chuyên chở và cùng lìa khỏi ngay một lúc. Như vậy quán về chân lý lại cũng như thế.
Phân Biệt Bộ nói: Nếu tu khổ tướng, quán đạt tâm sanh diệt, sợ hữu vi, tu vô nguyện giải thoát môn. Nếu quán hữu vi, duy chỉ có sanh diệt, chẳng thấy những pháp khác, tu không giải thoát môn. Nếu quán tịch tịnh, chẳng thấy hữu vi và tướng sanh diệt thì tu vô tướng giải thoát môn. Trong đây tướng khổ chính là Khổ Đế. Tướng sanh tức là sự phiền não. Nghiệp, ấy chính là Tập Đế. Tướng diệt chính là Diệt Đế. Pháp nầy có thể làm cho tâm lìa tướng, thấy vô tướng. Đây chính là Đạo Đế. Nếu thấy pháp vô vi, yên lặng lìa sanh diệt thì bốn nghĩa thành một lúc. Điều khác nầy của vô vi tịch tịnh có tên là Khổ Đế. Do trừ được điều nầy nên pháp vô vi tịch tịnh đây gọi là Tập Đế. Pháp vô vi chính là Diệt Đế. Có thể quán điều nầy tịch tịnh và thấy vô vi. Đây chính là Đạo Đế, dùng nghĩa nầy vậy. Bốn tướng tuy khác biệt; nhưng cùng quán được trong một lúc. Phía sau sẽ so sánh nhiều hơn, bây giờ chẳng giải nhiều. Có bài kệ tán rằng:
Tướng chọn lựa sai trái (lầm lẫn)
Ví như lửa, đèn, thuyền
Tướng khổ ra khỏi cửa
Một lúc thấy Tứ Đế
Hỏi: Bà La Môn Đế và Thánh Đế có gì sai biệt nhau?
Đáp: Đức Thế Tôn chính là chơn Thánh, chơn Bà La Môn. Đế nầy chẳng có sự sai biệt, giống như Đế Thích cùng Thiên Đế vậy. Vả lại Bà La Môn Đế là nhiếp chỗ Đạo Đế. Thánh Đế là đạo quả đối trị và đạo cảnh giới là chỗ nhiếp. Lại nữa một hướng thiện là Bà La Môn Đế. Còn thiện ác vô ký chính là Thánh Đế. Lại nữa chỉ có Đạo là Bà La Môn Đế và Đạo quả chính là Thánh Đế.
Hỏi: Vì sao chư Phật ở nơi Thánh Đế đồng có một huệ?
Đáp: Vì thông đạt vô dư pháp và tướng bình đẳng vậy; giống như dùng mắt tịnh để quán sắc. Lại nữa chẳng thấy được pháp vậy, giống như lửa nhiệt cháy sáng. Việc nầy đối với thế gian là một huệ cùng chỗ chứng. Lại giống như tấm kiến chiếu rõ mà chư Phật thông đạt cả pháp giới. Rõ biết điều nầy tất cả hai đời công đức như hiện tại, giống như tấm kính có nhiều nước, nhưng mặt trăng chỉ hiện lên đó có một hình ảnh. Liền tán bài kệ rằng;
Hai người một không khác,
Đạo thiện quả có khác,
Vô dư, chứng thấy vậy,
Kiếng pháp đều giống huệ.
Hỏi: Vì sao chỉ dùng Tứ Đế mà chư Phật nói là cao cả hơn hết?
Đáp: Có thể mang chúng sanh ra khỏi biển sanh tử, giống như pháp xuất thế. Lại nữa chân lý ấy là tối thắng, giống như chân lý ấy hơn cả. Lại có thể nhiếp tất cả các pháp chơn thật. Giống như ví dụ hơn cả Đổ Ba Diệp. Lại giống như Phạm Thích sánh với chư Thiên chẳng thể thấy vậy. Niềm vui, sức lực của Tỳ Sưu Nữu Thiên (Visnu) rõ biết chưa hết, mà trí viễn hành của các tiên nhơn đã được. Lại nữa cũng có nghĩa là vô phân biệt trí cảnh giới. Lại hay rõ điều nầy tất cả công đức là chỗ trang nghiêm như Xá Lợi Phất và Đức Thế Tôn. Lại có nghĩa là đầy đủ. Do chỗ chẳng đồng; nên đây nói là công đức tối thắng! cho nên nói Tứ Đế là hơn cả.
Hỏi: Vì sao cùng quán Tứ Đế làm cảnh cho nên trí tuệ bình đẳng, mà cái quả lại có sự sai biệt?
Đáp: Chẳng phải do sự đồng cảnh cho nên trí tuệ cũng đồng. Ví dụ như định và tham dục. Lại nữa do trí huệ sai biệt cho nên quả ấy có sự khác nhau. Giống như do nghiệp lực sai biệt cho nên quả ấy có sự sai biệt. Lại vì tu theo con đường khác cho nên gặp quả chẳng giống nhau. Giống như hạt giống không giống nhau; nên kết quả cũng khác nhau. Lại nữa do sự quán khác nhau về thượng, trung, hạ phẩm nên gặt được quả không giống nhau.
Hỏi: Như A La Hán đối với Tứ Đế, trí độn ngoài ra chẳng khác với tất cả trí, tức là không sai biệt, nếu chẳng đúng thế thì ở nơi Tứ Đế có còn vô minh chăng?
Đáp: A La Hán chẳng rõ ngoài Tứ Đế, mà cảnh giới của chư Phật thì không có vô minh. Vì sao vậy? cho nên nói rằng: A La Hán là chẳng biết gì ngoài Tứ Đế. Chẳng có vô minh, như trong kinh Thắng Đổ Ba Diệp Dụ nói. Lại nữa đức Thế Tôn đã phán quyết rằng đối với khổ và Đế mà chẳng rõ; đó chính thị là vô minh. Chẳng rõ ngoài Tứ Đế bốn phần Bì Đà Bì Đà thì chẳng gọi là vô minh.
Lại nữa chánh đối với Đế, trí đối trị với phiền não; nên nói là vô minh; chẳng phải là chẳng biết tất cả trí. Bốn loại khác nói là vô minh. Vì sao vậy? Vì chính sự khổ một phần tương tục mỗi mỗi khác nhau, nương vào sanh tử trong vô thỉ. A La Hán lại chẳng thể thấy được tâm nầy. Như đã sanh rồi, do như thế nầy mà tăng thượng duyên, duyên vào nhau mãi cùng với tư duy, thiện ác vô ký v.v… Như thế nhơn là chỗ sanh và duyên vào để nhiếp lấy. Như tại đất nầy là Tích Vị.
Lại nữa tâm thứ hai cùng với tâm giữa sau, như phương pháp nầy bắt đầu từ sát na, La Bà Mâu Hưu Đa (Lava: chỉ một thời gian ngắn; 60 sát na là một hơi thở; 10 hơi thở là một La Bà); ngày đêm nữa tháng, một tháng thời tiết năm tháng, sanh biến và diệt đi, tự nối tiếp nhau mà A La Hán lại chẳng thể thấy, hà huống có thể thấy tất cả loại khổ. Chính cái khổ của mình ấy lại chẳng thấy, làm sao có thể thấy cái khổ của người khác được. Vì vậy A La Hán chẳng thể thấy tất cả trí cảnh giới. Trong Tứ Đế tổng quát hay riêng lẽ chẳng có vô minh.
Lại nữa nếu lìa Tứ Đế để đối trị vô minh thì ngoài cảnh giới của trí lại có các pháp khác tồn tại. Thanh văn cảnh giới có A La Hán lại cũng chẳng thể thấy. Như Xá Lợi Phất nói: Ta chẳng thấy có người trời mà chỉ có thể thấy biết ta. Nhập vào định quán và xưng tán ta, làm cho cái ta thoái khởi. Duy chỉ có Đức Thế Tôn gọi là tịch tịnh định, cho đến Mục Liên cũng chẳng thể giải là Xá Lợi Phất đã nhập đã khởi. Cho đến hóa độ cho Nan Đà Ya Bà La Môn và ngoài ra Sanh Ưu Bà Đề Xá, như thế trí tuệ biện tài, giải nói tu tập v.v.., họ đã chẳng thể được. Như Xá Lợi Phất, Ca Diếp Ba cũng lại như vậy. Cho nên lìa Tứ Đế để đối trị với vô minh thì đây gọi là phi trí. Đây không phải là vô minh.
Hỏi: Tất cả pháp, Tứ Đế đều nhiếp như trong kinh Thắng Đổ Ba Diệp Dụ, nên liền cứu giải; nếu chẳng cứu giải sẽ có Ngũ Đế. Nếu không có Ngũ Đế thì các pháp khác là phi đế chăng?
Đáp: Tự nhiên mất, rồi chẳng ra ngoài khỏi Đế và cảnh giới của thức vậy. Cho nên chẳng thể quán. Vì sao mà chẳng thể quán? Vì biết rằng pháp nầy chẳng thể hết và khổ hết, chẳng xa lìa sự mong cầu nơi ngoại đạo, chẳng thấy, chẳng thể động như cờ của Đế Thích. Nếu rõ được điều nầy, chẳng thể gọi là rõ biết vi tế. Cũng như bắn phá tóc cho đứt thì chẳng thể làm được. Cho nên chẳng liền tu học.
Lại nữa cũng có luận sư nói rằng: Tất cả pháp đều do tướng, mà tất cả nhập vào Đế để nhiếp. Tuy nhiên Bỉ Đà và Bỉ Đà Phần Túc Truyền Thế Bổn lượng phán hay luận Tăng Khứ Du Già Thật Quảng; Dục Trần Luận; Bi Thế Sư Luận; Y Phương Luận; Tướng Luận; Tóan số Luận; Thời Trí luận; Thú luận; Nga Vực luận; Minh luận; Ca Vũ Trang Nghiêm luận; Nhơn Vũ luận; Thiên Vũ luận; Thiên Tiên Vương Truyền Đẳng luận; Ngoại Đạo luận; thường làm những việc của ngoại đạo v.v.., cho đến 96 loại. Lại có những loại dùng đến cỏ thuốc, cây, gai v.v.., da cây, nhụy hoa, quả, lá cùng với sức lực và mùi vị thục đức v.v… Lại có thế gian bất khả tư nghì hy hữu, bốn loại biến dị lớn về nghiệp quả báo v.v… Có luận có thể phân biệt điều nầy. Phật nương vào luận nầy để nói Thắng Đổ Ba Diệp Dụ. Như thế các nghĩa chẳng vì ngươi mà nói; chẳng sanh ra công đức vậy, có thể tạo nên những nghi hoặc, tăng trưởng những pháp hữu vi. Cho nên chẳng nói, giống như thuốc độc lại gặp thuốc tăng thêm. Để phản bác lại các chú thuật huyễn hóa Bì Đa La Luận, vì làm tổn não kẻ khác mà Phật đã chẳng nói ngoài Tứ Đế nầy. Do đó mà không nói riêng.
Hỏi: Sao nói bốn khổ gọi là Thánh Đế mà cũng nói đầy những khổ là Thánh Đế? Như vậy thì những kinh ấy tức chẳng phải nói. Lại theo lời người thì đối với sự khổ có tên là khổ. Như thế thì nghĩa nầy chẳng đúng chăng?
Đáp: Kinh nầy dùng trí để nói Khổ Đế và không phân biệt các cảnh nên nói bốn việc. Lại nữa do cảnh giới an lập vậy; nên trí được thành lập, giống như sáu thức. Lại cũng do công năng vậy. Trí thể duy nhất, đại để là bốn. Như Tứ Chánh Cần, rõ biết cũng lại như thế. Lại nữa Tứ Thánh Đế rõ biết là tất cả. Đối với Tứ Đế quán, nói trí là hơn cả. Do nghĩa nầy mà nói rằng sự rõ biết như cảnh.
Lại nữa muốn rõ và quyết định xa lìa thì chính là công đức Tứ Đế. Tùy theo đó mà nói một khổ cũng đủ Thánh Đế cùng với nghĩa ấy giống nhau, rồi rõ nghĩa để nói. Khổ ấy chính là liễu nghĩa chân lý. Vì sao thế? Phật bảo Khổ Đế có tướng sanh và an lập nơi bốn loại để quán. Nếu chẳng phải như thế thì tuy chỉ có một quán, đó là sự tu tập. Nếu lấy kinh nầy để phân biệt các Đế thì tuy chỉ một đế mà là chỗ Đạo Đế; nghĩa là chẳng nói Đế vậy. Kinh nầy chẳng chứng được nghĩa nầy nên nương vào A Tỳ Đạt Ma và tạng luận để được thành lập.
Hỏi: Nếu rõ biết một đế lại rõ biết các Đế khác, như vậy nói thêm ba Đế sau, chẳng ra vô dụng sao?
Đáp: Ta chẳng nói thấy Khổ Đế tức thấy các đế khác, Ta nói cùng lúc thấy được Tứ Đế. Cùng lúc lìa bỏ, cùng lúc trừ khử, cùng lúc được, cùng lúc tu. Nói các Đế khác chẳng phải là vô dụng, giống như nói Khổ Đế, lại có thêm cảnh giới làm chỗ ngăn chia số lượng, như nói Đạo số lượng. Lại có bốn loại tùy theo sự hiểu biết về một, rồi liền thông qua Đế khác. Ví dụ như rõ biết một hạt gạo, liền rõ biết những hạt gạo khác. Cho nên Tứ Đế tất cả đều dùng như thế.
Lại nữa khi nhập quán môn, khi quán về sự thủ ấm tức lìa xả ái niệm, như rõ biết oan gia. Sự chấp giữ về ấm chính là khổ đế. Ái niệm chính là Tập Đế. Lìa xả tức là Diệt Đế. Rõ biết chính là Đạo Đế. Nương vào khổ quán môn nghĩa nầy như vậy. Biết tham ái liền xả bỏ. Do đây mà khổ không sanh và tham ái chính là Tập Đế. Chỗ tham ái tức là Khổ Đế. Khổ không sanh chính là Diệt Đế. Rõ biết ấy là Đạo Đế. Nương vào Tập Đế để vào cửa quán như thế, khi rõ biết chính là tịch diệt rồi. Nếu người chứng được điều nầy thì vô minh liền diệt, hữu vi tham khát ấy liền tịch tịnh. Hữu vi tịch diệt tức là Diệt Đế. Ở đây chỗ lìa pháp tức là Khổ Đế, vô minh tham ái tức là Tập Đế. Rõ biết như thế là Đạo Đế. Nương vào Diệt Đế để vào cửa quán như thế, rõ biết pháp trợ đạo liền sanh tu tập. Phiền não chứơng và những sự sai khác liền xã. Do sự xả bỏ nầy mà có sanh. Trợ đạo chính là Đạo Đế. Có ấy tức Khổ Đế; phiền não nghiệp tức Tập Đế. Xả điều nầy và chẳng sanh chính là Diệt Đế. Nương vào cửa quán Đạo Đế như đây. Do quán về Đế nầy, tuy lại nói quán một mà cả những Đế khác nữa, chẳng phải là điều vô dụng.
Hỏi: Vì sao phía trước nói là Khổ Đế?
Đáp: Vì muốn diệt khổ mà tu quán Tứ Đế và người xuất gia sống đời phạm hạnh; nên trước nói về khổ. Lại nữa sanh, già, chết là những việc khổ không cùng, niệm niệm hằng bức bách. Hành nhơn quán điều nầy muốn thoát nguyên nhơn của sự khổ, giống như sư tử, những duyên bên ngoài chẳng thể chữa trị được, mà do thời tiết từ lâu xa là bệnh gốc vậy. Hành nhơn quán điều nầy rồi liền muốn khỏi nguyên nhân bệnh ấy. Giống như vị thầy thuốc thấy khắp trong ba cõi đều bị tai họa tật bệnh hòanh hành. Hành nhơn quán điều nầy liền cầu ra khỏi nguyên nhơn ấy. Giống như tìm cây độc; lại như hạt bụi mất đi, xa lìa sự ác và nương vào sự dừng lại vậy. Nơi nơi sợ hãi; cho nên trước nói về sự khổ.
Hỏi: Nếu chưa nói nguyên nhơn mà trước nói quả thì sao lại chẳng sai trái với mười hai duyên sanh?
Sanh là lần lượt, cái nhơn mười hai duyên sanh trước, sau đó có quả. Chọn lựa lần lượt. Đối với Tứ Đế trước là quả và nguyên nhân lại nói sau. Cho nên cả hai thuyết đều chẳng sai khác. Lại nữa trong quả lại có mê duyên làm nhơn cho quả vậy. Như kinh nói: Nếu đây có thì kia lại cũng vậy. Do sanh ở đây thì kia cũng sanh vậy. Lại trong nguyên nhân kia có mê duyên và quả theo nhơn ấy. Như trong kinh nói: Già, chết và hữu, pháp gì làm cho có? Do nghĩa nầy mà các hữu đều phá. Tất cả đều chẳng sai khác; chỉ nói nghịch thuận thôi. Hai thuyết chẳng đồng. Nói nghịch là duyên sanh. Đây gọi là Tứ Đế. Cho nên chẳng sai trái với mười hai duyên sanh.
Hỏi: Vì sao trước nói Diệt Đế sau đó mới nói Đạo Đế?
Đáp: Có hai loại nghĩa. Một là thuận và hai là nghịch. Như trong kinh nói: Giới thanh tịnh là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chính là huệ thanh tịnh; cho đến giải thoát tri kiến và minh giải thoát. Đây có tên là nói thuận còn nói ngược lại: Giải thoát chính là lấy sự lìa dục làm duyên. Lìa dục tức là xa lìa các duyên ác. Xa lìa tức là lấy sự thấy chơn thật làm duyên. Cho đến không lo lắng là do lấy giới thanh tịnh làm duyên vậy
Luận về bốn chân lý Phẩm Tư Trạch cứu cánh
I.2 Phẩm lược nói (Thứ Hai)
Hỏi: Tứ Đế lần lượt như thế nào?
Đáp:
Thô vụng chồng chất lên,
Nương đạo sợ ở quả,
Bịnh lửa, giận nương nhau,
Khát, độc gặp cảnh hại.
Muốn hiển thị cảnh giới thô nên nói về Khổ Đế. Nhận khổ tướng rồi và pháp nầy do nhơn gì sanh, như vậy mới nói về Tập. Pháp nầy hết rồi đi đâu, sau đó lần lượt mới nói về Diệt. Pháp nầy do nguyên nhơn gì mà được, rồi lần lượt nói về Đạo.
Lại nữa từ trong vô thỉ xuyên suốt như mắc lưới nên gọi là khổ. Cái gốc của sự khổ ấy gọi là Tập. Vĩnh viễn xa lìa cái gốc khổ ấy chính là Diệt. Hay đánh tan đi, nên gọi là Đạo. Quan trọng hơn hết là khổ chấp nhiều vào đó là Tập. Khi xả bỏ gọi là Diệt và khi diệt sự chấp ấy đi gọi là Đạo. Quan trọng hơn hết là khổ chấp nhiều vào đó là Tập. Khi xả bỏ gọi là Diệt và khi diệt sự chấp ấy đi gọi là Đạo. Lại nữa kết xứ gọi là khổ. Sự kết này gọi là Tập; sự kết ấy hết gọi là Diệt. Quán sát sự sai trái, ấy là Đạo. Sự chấp thủ lại cũng như vậy. Nương vào xứ gọi là khổ.
Thế gian phàm phu tuy do chỗ thủ ấm mà có chỗ hại, giống như khởi lên, nương vào và dính mắc, như nương vào chỗ oan gia xằng bậy cho là người thân. Nương vào chỗ ái cho là an, đây gọi là tập. Rồi do nguyên nhân nầy an vui ở ái dục, ở ba cõi ngục, chẳng cầu xuất ly, giống như người tù cuồng dại. Kẻ nào chẳng nương vào ái gọi là Diệt. Chẳng có nơi nào có thể nương vào để dừng được như trong kinh Cù Đề nói. Hay diệt nương vào ái, ấy là Đạo. Quán sự nương vào sai trái giống như quán nhà cháy.
Lại nữa sáu đường đều là khổ, chẳng có gì làm vui, giống như chỗ dơ uế. Nghiệp phiền não gọi là Tập. Vì là nguyên nhơn của Đạo. Lìa con đường ấy chính là Diệt. Chẳng có sự giả dối gọi là vật. Giống như lửa hết như kinh Thô Đầu nói: Hay dẫn ra khỏi là đường. Đường ấy gọi là Đạo. Như kinh Bà La Kha Ma Vương nói: Sự sợ hãi gọi là khổ. Ngã ái chính là Tập. Vô úy xứ chính là Diệt. Bên trên thật vui và chuyển đến chỗ vô úy ấy là Đạo.
Lại nữa những việc làm ấy là khổ. Nguyên nhân của sự việc ấy là Tập. Diệt trừ nguyên nhân ấy chính là Diệt. Hay làm tan đi, chính là Đạo. Lại nữa giống như quả, ấy là khổ; giống như hạt, ấy là tập; giống như hạt hoại đi, ấy là Đạo. Lại nữa sự khổ giống như bệnh. Tập chính là nguyên nhân của bệnh. Diệt chính là hết bệnh và Đạo chính là thuốc thang trị liệu. Lại nữa khổ giống như lửa; Tập giống như rơm; Diệt giống như lửa hết; Đạo chính là cái nhơn của lửa không còn nữa. Lại giống như óan hờn là khổ. Kết hận với nhau gọi là Tập. Trừ sự kết hận kia ấy là Diệt. Hay trừ được nguyên nhơn kia, ấy là Đạo. Giống như sự nương vào chính là khổ. Giống như bụi trần chính là Tập. Trần ấy thanh tịnh, ấy là Diệt. Nguyên nhơn của sự thanh tịnh, ấy là Đạo.
Lại nữa khổ chính là sự tích chứa. Tập chính là sự tham lam. Diệt ấy là lìa sự tham và Đạo chính là của cải. Lại nữa khổ giống như sự thiêu đốt. Tập giống như nguyên nhân của sự thiêu đốt. Diệt chính là sự mát mẻ. Đạo chính là sự thanh lương trọn vẹn. Lại nữa khổ như chất độc phát ra. Tập Đế chính là chất độc. Diệt ấy như dứt độc và Đạo chính là A Già Đà (Agada: bất tử dược).
Lại nữa khổ như là sự bức não. Tập chính là sự não hại. Đạo chính là cái nhơn của việc lìa xa sự não hại ấy. Lại nữa khổ như sự sát hại. Tập giống như có thể làm hại. Diệt như lìa sự sát hại. Đạo chính là cái nhơn của sự sát hại đã lìa xa. Lại nữa khổ là việc biết cảnh. Tập nên trừ; Diệt nên được. Vì ba sự nầy nên tu Thánh Đạo. Lần lượt như đây, Tứ Đế thể tướng ra sao, có kệ rằng:
Giống chơn lý đủ phẩm,
Tướng hữu vi, ảnh, thức,
Hư vọng tất cả ba,
Hóa ra đến mười hai.
Cũng có những pháp sư nói rằng thật ra có Nhị Đế. Sự sanh ra là do cái quả của tham ái; nên gọi tên là chơn khổ. Đạo là kết quả của nghiệp, gọi tên là Tợ khổ. Nguyên nhơn của việc sanh là sự tham ái; nên có tên là chơn tập. Vướng mắt vào sáu đường nghiệp báo là Tợ Tập. Khi nguyên nhơn sanh của ái hết thì gọi là Chơn Diệt. Nguyên nhơn của lục đạo hết thì gọi là Tợ Diệt. Hay diệt cái nguyên nhơn sanh ra có, có chánh trí; ấy là chơn đạo. Giới và phương tiện có thể làm cho lìa nguyên nhân ở đường ác thì gọi đây là Tợ Đạo.
Lại nữa Lý Túc luận sư nói: Thức chính là chơn khổ và cùng tương ưng với sắc nầy nên lại có tên là khổ. Tự ái có tên là Chơn Tập và tương ưng với nghiệp nầy nên lại có tên là Tập. Yêu bởi chính mình biết thì gọi là chơn Diệt. Do sự diệt tận nầy và không còn nữa nên gọi tên là Diệt. Chánh kiến có tên là Đạo. Nếu mà cái nầy chẳng sanh thì cũng chẳng diệt. Do sự sanh nầy nên lại có tên là Đạo.
Lại Giả Danh Bộ nói: Đế (chân lý) có ba loại. Một là phẩm khổ; hai là phẩm đế và ba là Thánh Đế. Khổ phẩm nghĩa là sự bức não làm tướng khổ. Thánh Đế nghĩa là: Sự khổ nầy có một vị. Tập phẩm nghĩa là tham ái tập; phẩm đế nghĩa là lấy chỗ sanh làm tướng. Tập Thánh Đế là Tập nhứt vị. Diệt phẩm nghĩa là Sa Môn quả. Diệt Thánh Đế lấy một vị làm tướng. Đạo phẩm nghĩa là Bát Thánh Đạo. Đạo Đế có nghĩa là tướng lìa chơn thật. Đạo Thánh Đế lấy một vị làm tướng.
Lại Phân Biệt Bộ nói: Tất cả hữu vi đều là khổ. Vì do vô thường vậy. Chẳng phải đế đầu nên khổ; vì lìa điều nầy; nên đối với Thế Tôn là chỗ tu hành phạm hạnh. Đây là Khổ Thánh Đế. Tất cả nguyên nhơn đều là Tập, lấy chỗ hay sanh vậy. Chẳng phải Nhị Đế nên gọi là Tập vì chẳng dứt bỏ điều nầy. Đối với Đức Thế Tôn, chỗ tu tịnh phạm hạnh. Đây là Tập Thánh Đế. Tất cả các pháp hữu vi tịch tịnh lìa khỏi, ấy gọi là Diệt. Là do sự tịch tịnh vậy. Chẳng phải đệ tam đế nên gọi là Diệt. Vì chứng được diệt nầy. Đối với Đức Thế Tôn, đây là chỗ tu tịnh phạm hạnh. Đây là Diệt Thánh Đế. Tất cả thiện pháp đều là đạo, vì có thể làm cho xuất ly. Chẳng phải đệ tứ đế nên là Đạo. Vì huân tập ở Đạo (con đường) nầy. Đối với Thế Tôn là chỗ tu tịnh phạm hạnh. Nên có tên là Thánh Đế.
Lại nói: Sự chấp tướng là phiền não. Phiền não và thuộc về phiền não khởi lên nghiệp; nên có tên là Tập. Từ đây có hữu và hữu nầy gọi là Tập Thánh Đế. Có sanh gọi là Khổ Thánh Đế. Như điều nầy thì từ đệ nhị đế sanh ra đệ nhứt đế. Nếu tâm xả ly chấp tướng và đạt được cảnh giới vô tướng. Do nguyên nhân nầy mà phiền não, thuộc về phiền não khởi lên sự dứt trừ nghiệp. Do sự đoạn trừ nầy nên lại chẳng còn nhân duyên, hữu lại chẳng thể sanh. Sự chẳng sanh ra nầy gọi là Diệt Thánh Đế. Pháp nầy có thể làm cho tâm xả ly chấp tướng và chứng vào cảnh giới vô tướng. Sự thấy chân chính nầy gọi là Diệt Đạo Thánh Đế. Cũng giống như chấp tướng vào hình ảnh rồi vọng phân biệt Đạo cũng như thế.
Như trong Phân Biệt luận nói: Thế Tôn chẳng nương vào tất cả sự khổ nên giả nói là Khổ Đế cũng giống như để hiển thị quả vô ký nên chấp thủ vào ấm, tánh, thể, tướng vậy. Ở đây, giả nói là Khổ Đế. Giả nói khổ là nhơn của pháp. Vì xa rời điều nầy vậy. Đối với Đức Thế Tôn là chỗ tu tịnh phạm hạnh. Đây là chơn Khổ Đế. Chẳng nương vào tất cả. Nguyên nhơn giả nói là Tập Đế. Vì muốn để hiển thị điều có thể giả sanh về nhơn, tánh, thể, tướng; nên giả nói về Tập Đế. Giả nói về tập về nguyên nhơn về pháp, vì muốn đoạn điều nầy.
Đối với Đức Thế Tôn là chỗ tu hành tịnh phạm hạnh. Đây là chơn Tập Đế. Chẳng nương vào tất cả Diệt, giả nói là Diệt Đế. Vì muốn hiển thị sự luân chuyển của Đạo về đoạn, tánh, thể, tướng vậy. Nên giả nói về Diệt Đế. Giả nói Diệt, nguyên nhơn và pháp vì chứng đến ấy vậy. Đối với Đức Thế Tôn là chỗ tu hành thanh tịnh phạm hạnh. Đây là chơn Diệt Đế. Chẳng nương vào tất cả Đạo; nên giả nói về Diệt Đế. Vì để hiển thị về việc luân chuyển của đoạn, tánh, thể, tướng nên giả nói Đạo Đế, nguyên nhơn và pháp. Vì tu điều nầy vậy. Đối với Đức Thế Tôn là chỗ tu hành tịnh phạm hạnh. Đây là chơn Đạo Đế.
Lại nơi tạng luận nói: lược nói về khổ có hai loại. Một là tắng hội và hai là ái ly. Đây là mỗi mỗi xứ; một thuộc về thân; hai thuộc về tâm; nhơn và ái là ba loại tức thành ba khổ. Tập Đế lại có ba. Ái kiến và nghiệp. Ái kiến hai sự mê hoặc gọi là hậu Diệt. Do đây mà có nghiệp nầy. Thô Diệu Tập Đế lại có ba. Một là thấy một nơi hoặc diệt; hai là muốn một nơi hoặc diệt; ba là có một nơi hoặc diệt. Đạo Đế lại có ba. Một là thấy đạo; hai là tu đạo và ba là thành thủ đạo. Ba nầy tức là ba cái gốc. Lại nói: Khổ chính là tướng của sự bách não. Tập chính là tướng sanh. Diệt chính là tướng tịch tịnh. Đạo chính là tướng có thể xuất ly. Lại nói: khổ chính là tướng hữu. Tập chính là có thể của tướng hữu; diệt chính là lìa tướng. Đạo chính là việc có thể lìa tướng.
I.3 Phẩm Phân Biệt Khổ Đế (Thứ Ba)
Thế nào là khổ đế? Lược nói như thế rồi, bây giờ lại phân biệt rộng ra sao? Trong những sự khổ tu tập ấy sao lại nói sanh làm đầu? vì sao có tướng sanh? Vì sao có việc sanh? Vì sao sanh duyên sanh? Vì sao khổ? Nếu sanh là khổ có ba loại, thì nghĩa của niềm vui sanh khởi lại chẳng thành sanh và khởi khác nhau như thế nào? A La Hán ngũ ấm chưa diệt, làm sao nói là sự sanh đã hết? Sao lại già? Thế nào là tướng của già? Việc chết ra sao? Duyên do của sự chết là gì? Vì sao lão khổ? Tướng của răng rụng chẳng đều khắp thì có khổ và chẳng phải chẳng đều! Vì sao nói già là Khổ Thánh Đế? Hữu vi chẳng trụ và niệm niệm sanh diệt. Sao lại có già? Có kệ tán rằng:
Phân biệt đầu bốn, sanh
Khổ ba cùng sai biệt
Hết bốn, gìa cùng khổ
Răng rụng và niệm diệt
Sao lại bệnh? Những gì là tướng của bệnh? Vì sao lại bệnh duyên? Sao lại bệnh khổ? Nếu do bệnh mà thân thường khổ, vì sao lại chẳng sai khác kệ nầy?
Chẳng bệnh, lợi thứ nhất
Biết đủ, hơn cả tiền
Chẳng nghi là thấy rõ
Niết Bàn, vui chẳng sánh
Ở cõi trời không bệnh thì tất cả chúng sanh lấy bệnh làm pháp. Lời nói nầy hợp với chánh đạo. Nói rằng bệnh là nghiệp quả, mà nghiệp quả khổ, chẳng phải là Khổ Thánh Đế. Phật nói khổ ấy chính là bệnh. Lại nói kệ rằng đói khát là bệnh thứ nhất. Như điều nầy thì hai thuyết khác nhau những gì? Vì sao lại chết? Vì sao là tướng chết? Thế nào là việc chết? Duyên nào đưa đến chết? Sao lại là tử khổ? Phóng dật tử, phá giới tử, sanh duyên tử; hai điều nầy khác nhau chăng? Lại nói có giác, vô giác tử: có hối, vô hối tử; có phóng dật, vô phóng dật tử; có đắm trước, vô đắm trước tử; có điều phục, chẳng điều phục tử; thiểu phần điều phục tử. Nghĩa nầy như thế nào? Ngũ ấm niệm niệm tự diệt. Cái hại kia và sự chết vì sao thành được?
Vì sao lại óan tắng hội? Vì sao có việc ghét nhau mà phải gặp nhau? Vì nhân duyên gì mà ghét nhau lại là khổ? Những loại ghét nhau có tụ lại chăng? Vĩnh viễn chẳng lìa nhau. Nghĩa nầy rõ biết.
Vì sao sự yêu mến lại chia lìa? Tướng của sự chia lìa như thế nào? Vì sao việc yêu thương nhau mà lại chia lìa? Vì nhân duyên gì mà yêu thương nhau lại chia lìa? Vì sao sự chia lìa khi yêu thương nhau là khổ? Sự già nua tụ hội lại tức là gặp gỡ ghét nhau. Khi còn trẻ bị chia lìa tức yêu thương nhau mà bị chia ly, liền nói là sự óan tắng và ái đều ly biệt.
Vì sao lại chẳng nói nữa và nói về chỗ cầu không được là thế nào? Tướng của sự cầu không được như thế nào? Thế nào là việc cầu chẳng được? thế nào là nhơn duyên cầu chẳng được? Vì sao cầu chẳng được lại khổ? Dục trần tức là khổ mà được nó cũng là khổ. Cầu không được thế nào mà khổ? Vì nhân duyên gì mà cầu chẳng được? Sao lại giản lược nói ngũ thú, ấm là khổ? Những gì là tướng của các ấm? Ấm có nghĩa là gì? Sắc thức nầy có giống với tướng hữu vi? Sao lại nói ngũ ấm và thủ ấm có gì sai khác? Vì sao nói thủ ấm là khổ ấm? chẳng gọi khổ ấm nghĩa ấy ra sao? Tùy theo sự thấy đúng một cái khổ rồi, tức rõ biết khổ đế. Đâu cần gì phải nói rộng về các tướng khổ làm chi? Trong Kinh lại chẳng nói sắc lạc lại là chỗ khổ, mà thủ ấm là khổ, trải qua tức sai trái. Vì sao kinh nầy riêng nói giản lược và ngoài kinh nầy ra thì nói sắc là khổ cho đến thức khổ và thủ ấm? lại vì nhơn duyên gì mà khổ? Nói nghĩa tổng quát như thế nào?
Hỏi: Thế nào là khổ đế? Lược nói như thế rồi. Vì sao lại rộng nói phân biệt nữa?
Đáp: Có những đệ tử vui nghe nói chánh giáo giản lược, ví như Ngài Xá Lợi Phất có trí tuệ khai mở nên dễ thọ nhận giáo hóa. Cho nên nói lược. Còn những đệ tử khác lại thích nghe nói rộng như Nan Đà và Phất Ca Bà v.v… Vì trí phân biệt rộng cho nên nói rộng ra. Rồi lần lượt các đệ tử có sức mạnh siêu việt như Ngài Đại Ca Diếp và để cho căn lành tăng trưởng nên đã lược nói. Vì duyên lực yếu như Sa Đề và vì chưa tăng trưởng căn lành nên phải nói rộng ra. Lại nữa lợi căn như Ương Quật Ma Ra thì người nói giản lược lại. Còn thuần căn thọ hóa như rắn kia thì phải nói rộng ra.
Lại nữa đa văn đệ tử như A Nan có thể giữ gìn nghe ngóng và chứa nhóm; nên nói lược. Trong khi đó những đệ tử ít nghe hiểu như Chu La Bàn Đà, trí huệ yếu kém; nên phải nói rộng ra. Lại nữa chính lời của bậc Thánh hơn cả các đức như Ly Bà Đa, như Siển Na lại chưa vào nội quán; nên vì đó mà phải nói rộng ra.
Hỏi: Đối với việc khổ ấy tại sao bắt đầu bằng sự sanh ra?
Đáp: Vì khổ bắt đầu nên già, bệnh chết gồm các khổ ấy sanh ra trước. Ví dụ như chẳng giận hờn thì đối với thế, xuất thế pháp vẫn lấy giới làm đầu, giống như lão, bệnh, tử vậy. Lại nữa do có thể sanh; nên khi sanh rồi thì có lão, bệnh, tử. Có thể làm cho thân căn và tâm bị hại, giống như lửa và khi lửa đã thuần thì cơ thể thiêu cháy, đốt sáng v.v… Chẳng phải chẳng có lửa sanh lại cũng như điều nầy, do vậy mà nói trước. Lại chẳng xa lìa vậy. Giả sử chúng sanh được lìa già, bệnh thì quyết cũng chẳng lìa sanh. Vì hành khổ vậy. Đây chính là sự thọ quả. Đạo là chỗ để trị, cho nên nói việc sanh trước.
Lại nữa bình đẳng khác nhau nên tất cả chúng sanh đồng thọ sanh và có hại, giống như vô thường sát quỷ. Lại nữa tùy theo tất cả các phần vậy. Sự sanh là biến vô minh thành ra mười hai phần, giống như sữa độc lại biến khắp 3 cõi. Sự sanh ấy cũng khắp tam giới như bò, cùng và khác nhau; cho nên nói sự sanh trước. Lại nữa do khổ căn nên sự sanh chính là gốc của sự khổ. Như trong kinh nói: Tất cả các sự khổ do sanh làm căn bản, lấy sanh làm nguyên nhơn, như Kinh đã giải rộng; cho nên nói sanh trước. Lại nói kệ rằng:
Khổ, đầu tiên chẳng lìa,
Sai biệt tùy có chia,
Khắp tam giới gốc khổ,
Cho nên nói sanh trước.
Vì sao lại là sanh?
Đáp kệ rằng:
Sanh năm kinh cùng nói
Được ấm, đầu theo tâm
Sanh phần cùng các bạn
Thai lập với 5 loại:
Giải thích: Như tạng kinh A Tỳ Đạt Ma trong luận học có mười hai nhân duyên sanh. Ở trong luận Tâm Tư Trạch công nói rộng về việc sanh như thế nên biết. Lại nữa nghiệp tăng trưởng là do con mắt làm bạn với những vật và tiếp theo là sanh ra pháp nhơn duyên, tụ tập lại rồi được các loại xứ của chúng sanh, được ấm, nhập, giới.v.v... Đây gọi là sanh. Lại nữa lúc mới sanh thì thức thọ sanh trước. Đây gọi là sanh như trong kinh nói do thức nhập vậy. Danh sắc hòa hợp nên lần lượt nói sanh. Thức sơ khởi gọi là sanh. Các luận sư khác nói: Đầu tiên sanh thức và các việc khác đầy đủ khởi lên sau. Đây gọi là sanh.
Lại nữa sanh có nhiều loại. Nghĩa là Kha la và sự thành lập bào thai có sự sai khác, cho đến thai nhi sanh ra như trong kinh Thọ Sanh nói: Lại nữa sanh có 5 loại như kệ nói rằng:
Được pháp thánh gọi sanh
Bào thai tánh thành người
Tụ, giống, khác là có
Chỉ có tên là sanh
Giải thích: Được Thánh pháp gọi là sanh, như trong kinh nói. Rồi miễn vô vị từ miệng ta sanh, khí có rồi sanh ra Thánh pháp và luật. Như trong kinh Ương Quật Ma La nói. Lại nói ở nơi thai gọi là sanh (Sự sống). Nghĩa là Kha La La Át Phù Đà Già Ha Na, giống như hạt mầm của cây vậy. Lại khi có giống tánh trí gọi là sanh, như vàng quý và sát lợi sanh ra. Lại nữa chỗ tụ hội giống và khác loại gọi là sanh. Hình tướng có khác, nghĩa là như người , voi, ngựa . v.v. giống như Bà La Đa La và cây. Lại có tên là sanh. Nghĩa là ấm, nhập giới và hữu. Đây gọi là sanh. Như nói có hoa có hạt. Luận này chỉ nói hữu vi sanh. Vì sao vậy ? Cái gốc là quả của sự tham ái vậy cho nên nói chỉ sự có ấy gọi là sanh. Vì sao lại có tướng sanh ? Vì sao lại có việc sanh ? Vì sao lại có sanh duyên ?
Hỏi: Có hiện thị tướng sanh, đủ loại khổ làm sự nghiệp và hữu vi sanh duyên. Thế nào là khổ ?
Đáp: Ba khổ giống như lửa đốt cháy. Đây là ái sanh xứ, chẳng phải là ái lạc, chẳng phải là quả phước hạnh. Hợp lại giống nhau và khác nhau. Những sự khổ và làm chỗ thiêu đốt, chỗ thọ sanh ấy là do ái lạc. Đây là quả phước hạnh. Tụ hợp lại giống và khác loại rồi hoại khổ hữu và chỗ thọ sanh bất động hành quả. Tụ hợp lại giống và khác loại hành khổ là chỗ hữu đốt, giống như lửa ngoài đồng đốt cháy cây lớn. Cho nên mới sanh là khổ.
Lại nữa những sự khổ ấy nương vào nhau nên có sanh thân tâm và các khổ là chỗ nương vào Tập. Chẳng phải là lúc chẳng sanh, giống như chỗ bụi bặm tốt tươi làm chỗ cho tiên nương vào ở. Lại ấm nhập giới và hữu, hiển bày nên gọi là sanh xứ. Xứ sanh rồi lại phá, rồi phân tán chia cắt rơi rớt làm cho khổ và sanh xuống giống nhau, lấy vô thường, oán, chẳng có thứ lớp. Như cảnh của vua chúa và chén bát. Cho nên nói sanh là khổ.
Lại nữa sanh là chứa các sự khổ, ưu bi khổ sanh chẳng phải là gốc gác của việc tốt, mà lão tử, nhân duyên là bệnh phát khởi đau đớn các loại và việc ác nương náu vào để quậy phá cho hư hoại. Đây chính là cửa thành của tật bệnh và sự oán hờn như kho chứa, phiền não chất đầy. Sự sanh này sẽ vào chỗ tối tăm, chẳng phải ánh đèn có thể tự được, vào nơi hầm sâu khó ra. Không lửa mà lửa thiêu. Sự oán hờn này khó rõ. Đây chính là nền tảng chẳng nghi ngờ. Ở đây bệnh không có thuốc chữa. Đây là sự trói buộc chẳng buông tha, như rừng rậm chẳng lối đi và không có ánh sáng chiếu, con trai vui mừng, người trí huệ thì bàng hoàng. Vui ấy ấy là do chỗ ái. Chư Phật và chư đại Bồ Tát nhân ấy mà hướng đến lòng đại bi, kẻ có học sẽ lìa xa, kẻ vô học (A La Hán) sẽ dứt sạch. Chư Phật rõ biết, nên nói rằng khổ. Cho nên nói sự sanh ra chính là sự khổ.
Lại nữa khi thai nhi hình thành chính là khổ. Lúc thọ sanh thì trắng đỏ hòa hợp rồi có thức và thọ nhận cái khổ của sự tạp uế rồi Kha La La Át Phù Đà Già Na làm cửa ngõ để chuyển khổ và thành sự khổ, như mụt chín mùi là khổ, rồi từ đó sanh ra thân này, thọ những sự khổ não bức bách. Khổ ấy như một nhà lớn mà ở trong bào thai. Lúc nằm trong ấy sự khốn khổ giống như kẻ có tội, trên dưới đều bị vây chặt như tù. Do mẹ ăn uống thất thường rồi đi đứng chạy nhảy bơi lội trong nước, thai nhi nằm trong ấy chịu đau đớn. Do chỗ ăn uống sai trái mà đứng đi thay đổi, tứ chi không đều, thọ các loại khổ. Giống như phạm pháp luật nhà vua và thọ các cực hình. Cho nên gọi sanh là khổ, khi ra khỏi thai thì thân này mềm mại và tâm như cây chuối, cửa mình đau đớn như xe thiếu dầu, thọ nhận quá sức khổ đớn.
Lại nữa khi mới chào đời thân như cây cỏ, tay chân non nớt, múa may thật là khổ sở. Cho nên nói sanh là khổ. Nếu sanh là khổ thì 3 loại vui, sanh nghĩa tức chẳng thành?
Đáp: Vì nghiệp phân biệt quả báo si khác vậy. Vì an trú nơi tam giới sai bệit vậy. Vì hiển thị có 3 thọ vậy. Do đây nên biết, ba thọ lạc, sanh, hành, khổ sở nhiếp với nhau nên đây nói là Khổ Đế. Khổ là chỗ bức bách, khổ có nhiều loại. Cho nên sanh ấy chính là khổ. Lại nữa có phước, hạnh, quả, nên có 3 niềm vui sanh như kệ nói rằng:
Phước đức quả báo vui,
Tùy ý được thành tựu,
Liền được tối tịch tịnh,
Như nguyện Bát Niết Bàn.
Vô thường ác độc tạp nhạp cho nên sự khổ ấy cũng giống như các thức ăn tạp nhạp độc hại. Tuy rằng có đầy đủ trăm vị sắc, hương, xúc tốt đẹp, nhưng nếu ăn vào chắc chắn sẽ gặp quả báo chết mất và tất cả chúng sanh đều đã chết như thế. Vì sự vô thường tạp nhạp độc hại cho nên nói là khổ. Lại nữa vì lúc sanh vui ở nơi niềm vui nên nói vui sanh, nhưng khi sự an ổn khi sanh này hoại đi rồi, lại chuốt lấy khổ. Thánh nhơn xa lìa điều hoại khổ này như phải gặp phẩn hôi. Cho nên nói sanh là khổ. Sự sanh ấy khởi lên khác nhau như thế nào ?
Đáp: Sự hóa sanh được gọi là khởi đầu, ngoài ra còn 3 tên gọi khác nhau để chỉ cho việc sanh. Lại nữa nhập thai cũng gọi là sanh. Khi sanh ra khỏi thai gọi là khởi. Lại nữa sự sanh ấy có tính cách lần lượt nên gọi là sanh. Một lúc sự sanh đầy đủ gọi là khởi. Trong tạng luận nói rằng: Sự sanh phụ thuộc vào thức và gửi gấm hạt gống ấy vào thai. Sự khởi lên thuộc về nghiệp, có thể phân tán thức ấy đi vậy. A La Hán chưa diệt ngũ ấm. Vì sao nói sự sanh đã hết ?
Đáp: Có sự diệt cho nên nói sự sanh đã tận. Lại nữa do nhân duyên diệt, sự sanh này sau đó chẳng có pháp sanh nên nói là sự sanh đã tận. Ví như do sự tham ái diệt cho nên nói Khổ Đế diệt. Lại nữa vì để bạt trừ gốc rễ của sự sanh, nên nói là đã hết rồi, cũng giống như cây kia đã chặt gốc vậy. Tuy đầy hoa lá nhưng lại nói là đã hết. Sự hết sanh cũng lại như thế. Lại nữa vì tương lai sẽ hết cho nên nói rằng sự sanh đã tận, cũng giống như từ trên đỉnh núi quăng một cái ly xuống. Tuy ly chưa xuống chân núi; nhưng nói rằng ly kia bị vở. Sự sanh chấm dứt cũng giống như vậy, cho nên nói A La Hán sự sanh đã hết. Vì sao lại có già ?
Đáp: Đó là sự đánh mất đi sự trẻ trung và dần dần tứ đại suy mòn hao tổn, các hành đều thay đổi, thân thể già nua, hình thù thô xấu, các căn suy nhược, những sự nhớ biết và việc làm khó chủ động, có ý hướng đến sự chết, nên đây gọi là già. Lại nữa những căn nhỏ nhín biến khắp trong người, sau đó dần dần biến thể hư hoại. Pháp này có tên là già. Vì sao vậy? Khi già thì răng cỏ đều rụng đi, da thịt có hàng trăm sự biến đổi, tóc tai lại bạc trắng và bốn chất lớn bắt đầu suy nhược, các căn không còn sức lực nữa, hình hài thì biến thể và có những cử chỉ chẳng an. Đối với tâm thì hay quên mất những ký ức hiểu biết rộng rãi, lưng lại còng, các bộ phận khác của thân yếu đuối, biểu hiện cho tuổi trung niên không còn nữa và đã hiện tướng hoại dần.
Lại nữa sự già có hai loại; một là tùy theo sự suy giảm; hai là cơ thể nương vào sự suy giảm. Một là tùy theo sự suy giảm nghĩa là những máu thịt xương cốt đều giảm dần, do sự đi xuống ấy có thể thấy tướng mà biết kết quả. Nghĩa là sự đi đứng chậm rãi và tới lui khó khăn, tất cả đều giảm thiểu mất mát. Hai là có thể nương vào sự suy giảm, nghĩa là mắt, tai và sự thấy nghe không còn rõ ràng nữa. Do sự chẳng rõ ràng này mà thấy rõ cái quả ấy. Sự nhớ nghĩ hiểu biết đều mất dần, tâm địa thay đổi và luôn có sự mất mát đi kèm. Như trong các kinh và luận tạng về luận mười hai duyên sanh đã nói rộng. Đây gọi là sự già nua. Vì sao lại có tướng già? Thế nào là việc già và nhân duyên của sự già là gì?
Đáp: Do sự đi xuống thay đổi băng hoại cho nên nói là tướng già,mất đi sự lành mạnh của thanh niên, khó khăn đi đứng lui tới và các việc xấu ác lại đến. Đây gọi là việc già. Ấm giới xâm nhập vào sự sống. Đây gọi là nhơn duyên của sự già, sự già này lại vì lo rầu vậy. Thế nào gọi là lão khổ ?
Đáp: Sự già nua này có thể sanh ra các tướng xấu ác rồi đoạt mất sự dễ thương cũng như sức lực rồi dần ký ức, sự hiểu biết đến sự tử vong, như phạm pháp vua và bị gia hình vào tai mũi vậy. Sự già nua cũng lại như thế. Cho nên nói già là khổ. Lại nữa chúng sanh rõ biết về sức mạnh của các căn có thể làm chỗ nương tựa của thức và trí, nhưng không còn xúc nữa, vì sự già mỗi ngày cướp đoạt đi, như lúc nóng mặt trời giải thoát năm sự che lấp nên có ánh sáng và sự đề kháng của nước cạn dần và tất cả đều khô cằn. Sự già cũng như thế. Cho nên nói già là khổ. Lại nữa sự già ấy làm cho sắc hình tiều tụy có thể đọat mất cái dễ thương rồi làm cho giảm thiểu sự trai trẻ và chẳng có gì vui, thể lực càng ngày càng già yếu và sự kham nhẫn kém dần. Sự suy nghĩ ấy bị giảm thiểu; các căn yếu đi và chẳng mạnh lại được. Ví như nữ La Sát hút hết tinh khí, khiến cho phải chết. Cho nên nói già là khổ.
Lại nữa thân nầy lúc trẻ đẹp như hoa sen dễ thương; Sắc hình đoan chánh, lịch duyệt bởi mắt hoặc tên kia. Còn sự già nua ví như hạt sương biến đổi lăn vào phá hoại mắt, tâm làm cho người kia chẳng còn lịch duyệt nữa và trở nên xấu tệ. Cho nên nói già là khổ. Lại nữa có thể làm hoại thân nầy và cả sự nhớ nghĩ cũng như trí tuệ; cho nên nói già là khổ. Do thân nầy thay đổi vậy. Sự đi, đứng, nằm, ngồi thật khó khăn chẳng tự tại. Do các căn thay đổi vậy. Sự thấy nghe, ngửi, nếm, xúc v.v.., đều chẳng rõ ràng.
Lại có thuyết nói: Ta nghe chẳng rõ, sự hoại ấy giống như đứa con trai do sự nhớ nghĩ bị hoại cho nên sự việc chẳng nhớ được và chẳng thể nói về sự thấy và chẳng biết gốc gác gì cả. Cho nên nói già là khổ, giống như hành tướng. Lại như Bạt Tu Phất Bộ nói: Hữu vi các pháp thật có sự giảm thiểu về sự sống. Sự sống nầy có thay đổi. Tướng hữu vi nầy nói là già. Như trong kinh nói: Thân nầy được tồn tại trăm năm; hoặc nói có 4 thức trụ. Do lấy nghĩa nầy mà gọi là già. Nếu trong kinh nói: Thân nầy được tồn tại trăm năm; hoặc nói có 4 thức trụ. Do lấy nghĩa nầy mà gọi là già. Nếu pháp hữu vi thật niệm niệm diệt thì lúc trẻ trung chẳng thành tựu và lại chẳng có mệnh căn. Vì sao gọi là bệnh?
Đáp: Vì thân căn kia không giống nhau ở sự sinh trưởng. Do sự khác nhau không giống nhau trong khi sống; cho nên nói rằng thân bệnh. Nếu bình đẳng thì đã chẳng bệnh như Đức Phật đã nói với Nhơn Xà Bà rằng: Thân thể của Như Lai cho đến nay đều bình đẳng. Lại nữa tự tánh lại hổ tương khác nhau, chẳng có thức nào ân dưỡng và ở thân nầy trùng độc nổi lên; cho nên gọi là bệnh. Lại nữa bịnh có hai loại; một là thân và hai là tâm.
Thân bệnh lại có hai loại. Một là nguyên nhân sai biệt nên gọi là duyên bên trong khởi lên. Hai là nguyên nhơn khác bức bách xúc chạm; nên gọi là chỗ nguyên nhơn, nên có sự sai biệt. Có nhiều loại khác nhau nên gọi là sai biệt. Nghĩa là bệnh lậu, đậu mùa, bệnh vàng da, ung thư, ghẻ lỡ, cục u trong bụng, sốt rét, phong, cuồng v.v… có nguyên nhơn khác nhau, nghĩa là do đờm gió chiếm ngự mà chia ra nhiều bệnh; hoặc đơn, hoặc kép, hoặc cả ba hay bốn như thế đờm ấy tạo ra 62 loại bịnh. Ấy là do nhơn và xứ sai biệt. Nghĩa là đầu, mắt, tai, cổ, tim v.v… Đây gọi là thân bịnh. Nếu giải rộng ra có 404 bệnh.
Còn tâm bịnh thì do nguyên nhơn tà vọng khởi lên. Nghĩa là do sự ưu não và bệnh nầy lại cũng có 2 loại. Một là duyên vào cảnh bên trong, gọi là nội môn hoặc; hai là duyên bên ngoài làm cảnh gọi là ngoại môn hoặc. Do gọi nơi nguyên nhơn nên có sự sai biệt vậy. Phẩm loại thì đa dạng nên gọi sai biệt vậy. Nghĩa là sân, mạn, si, kiến, nghi, diểm khúc, khi cuống (lừa dối) v.v.., nguyên nhân sai biệt. Nghĩa là tướng thanh tịnh mất đi, tướng có không và nguyên nhơn là vì tâm bệnh lấy làm tướng. Nơi chốn sai biệt; nghĩa là căn và lục trần, như trong kinh nói: Yêu về hình tướng cho đến yêu pháp. Trong đây có chỗ rõ ràng hay nói về thân bịnh mà chẳng nói về tâm bịnh.
Tướng bịnh như thế nào? Việc bệnh ra sao? Thế nào là bịnh duyên?
Đáp: Bịnh có nghĩa là tướng của thân bị bức não: Khổ lo ấy là sự việc. Chỗ gốc gác không điều hòa ấy là duyên.
Tại sao bịnh lại khổ?
Đáp: Người thế gian thông minh tùy theo chỗ mình ham muốn mà tạo tác ra. Do bệnh tật cho nên cũng chẳng thành tựu và sai điều ao ước nên khổ. Cho nên tật bệnh có thể là nguyên nhơn của sự khổ. Như nguyên nhơn của sự thiêu đốt là lửa; nguyên nhơn của ánh sáng là mặt trời, già chết lại cũng như thế có thể làm hại nơi gốc nên nói bịnh là khổ. Cũng giống như cỏ cây tự sanh rồi tự thọ, có hại mạng dễ dàng và làm cho tuổi thọ lại mất đi, như lửa độc đốt cháy, vậy nên nói bịnh khổ.
Lại nữa khổ khổ lại ràng buộc vào nhau rồi sanh ra tiếp tục chúng sanh chẳng thể nhẫn thọ, giống như voi con bị rơi vào lửa rừng vậy. Vì thế cho nên bịnh là khổ. Lại chẳng được tự tại, khi người gặp bịnh thì 4 oai nghi và tư tưởng đều chẳng tự tại. Thân nầy mỏi mệt chẳng thể làm gì được, giống như người gỗ, bế các căn lại cũng giống như là người chết rồi vậy. Khi người gặp bịnh lại chẳng chịu đựng được bịnh, muốn lửa độc vây đốt để bỏ thân, ví như Đà Ni Kha La Hán. Lại thêm dùng tất cả những phương tiện nhưng chẳng trị liệu được, mạng ấy tất chết. Cho nên nói bịnh là khổ, giống như Át Đệ tiên nhơn bệnh kiết lị uống thuốc nóng; ấy là chỗ giận dỗi tánh bức bách thôi thúc lại khởi lên. Vì vô minh dày đặc vậy. Do trí tuệ không vững; nên đây là nguyên nhơn của sự khổ lấy làm thể. Nương vào chỗ bất an cho nên chẳng biết và đọa lạc vào chỗ lãng quên. Do sự hiểu biết sự loại vậy. Tuyển chọn, bỏ lấy làm chỗ xa rời; chẳng biết việc nầy chẳng phải việc khác, giống như người ngu. Đây là ý nghĩa vậy. Cho nên nói già là khổ.
Như Đại Đức Phật Đà Mật nói: Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng vô số kiếp, sanh trưởng căn lành, đầy đủ thập lực, có 10 tự tại, thắng phá tứ ma, được tứ vô úy, bình đẳng hay thấy tất cả phương tiện, giống như trăng mùa thu tròn đầy dễ ngắm. Có thân thể kiên cố Na La Diên, tràn đầy nơi thân, còn trong hình thức da dẽ tướng già xâm phạm, tổn hại. Cho nên nói già là khổ. Ý nghĩa nầy Phật đã nói cho Tỳ kheo Ưu Đà Di nghe tại nước A La Tì. Nương vào lời Phật để nói kệ rằng:
Già, ác ngươi rõ biết,
Làm xấu, sắc tốt đẹp,
Tâm nầy rõ các tâm,
Luận về Bốn chân lý.

« Kinh này có tổng cộng 4 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Về mái chùa xưa


Phúc trình A/5630


Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng


Một trăm truyện tích nhân duyên (Trăm bài kinh Phật)

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.139.85.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập