Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Long Thư Tăng Quảng Tịnh Độ Văn [龍舒增廣淨土文] »» Bản Việt dịch quyển số 5 »»

Long Thư Tăng Quảng Tịnh Độ Văn [龍舒增廣淨土文] »» Bản Việt dịch quyển số 5

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Long Thư Tăng Quảng Tịnh Độ Văn

Kinh này có 12 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
Việt dịch: Thích Hành Trụ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Đời Đông Tấn, ngài Pháp sư Huệ Viễn ban đầu xướng pháp tu Tịnh độ.
Trong bổn triều (triều vua đời nhà Tấn), có ông Vương Mẫn Trọng Thị Lang, và ông Dương Lục Cư Sĩ biên tập “Sự tích cảm ứng” kể ngoài (200) hai trăm truyện, đã khắc bản lưu truyền. Nay không kịp chép hết, chỉ chép sơ lược những người trì trai giữ giới và người bậc trung với bao nhiêu người tội ác, cùng người đương ở trong cảnh bệnh khổ mà có tu Tịnh độ, cũng đều đặng vãng sinh. Cộng kể ba mươi mấy truyện. Sở dĩ để phát giác tín tâm cho người tu Tịnh độ vậy.
ĐÔNG TẤN, HUỆ VIỄN PHÁP SƯ
Đời Đông Tấn, có ông Tăng tên Huệ Viễn người sinh trưởng tại đất Nhạn Môn, qua ở non Lô Sơn cùng ông Lưu Di Dân v.v…
Cả Tăng và tục hai trăm ba chục người kết làm bạn Liên Xã (hội tu Tịnh độ) nói Ngày kia gá sinh trong hoa sen vậy.
Ngài Huệ Viễn trừng tâm quán tưởng mới mười một năm (11) ba phen thấy tướng hảo Phật A Di Đà, thế mà ngài Huệ Viễn ngấm ngầm không nói. Sau tới năm mười chín (19) đêm 30 tháng 7, bỗng nhiên trước mặt thấy Đức A Di Đà Phật, thân to lớn đầy cả hư không, trong viên quang hóa ra vô số Phật, đức Quan Âm, đức Thế Chí hai vị Bồ Tát, đứng hầu hai bên. Lại thấy nước chảy, hào quang tỏa ra bốn ngã, mỗi ngã nước chảy lên rồi lại xuống, tự nhiên diễn nói ra tiếng nói giáo pháp khổ, không, vô thường và vô ngã. Như trong Kinh Thập Lục Quán nói. Khi đó Đức A Di Đà lại kêu ông Huệ Viễn mà bảo rằng Do vì sức bản nguyện của Ta, nên đến đây an ủi ngươi, ngươi sau 7 ngày nữa, sẽ sinh về nước của Ta.
Rồi ông Huệ Viễn ngó lại thấy ông Tăng là ông Phật Đà Da Xá, với ông Huệ Trì, cùng ông Đàm Thuận, đứng ở bên Phật. Bước tới xá ngài Huệ Viễn mà rằng Chí nguyện Pháp sư ở trước chúng tôi, vì sao về đây muộn vậy ? Huệ Viễn mắt thấy rõ ràng và để tâm nhớ kỹ, thuật lại cho các môn đồ (đệ tử) nghe và nói Ban đầu ta ở đây 11 năm, chuyên tu Tịnh độ ba phen thấy tướng Phật Di Đà rồi, nay lại thấy nữa đây, chắc ngày giờ ta sắp về Tịnh độ đã tới vậy.
Kế bữa sau cảm bệnh sơ qua trong 7 ngày rồi ngài quy tịch.
Nhắc lại đời ngài, tuổi còn thơ mà đã bác lãm kinh sử, và rất thông sách Lão, Trang. Nhân một hôm qua non Thái Hành, nghe ngài Đạo An Pháp sư giảng kinh Bát Nhã. Thoạt nhiên tỏ ngộ bèn nói Sách cửu lưu dị nghị đều là bả xác, chẳng bằng kinh Phật siêu thoát hơn. Nhân đây, Viễn xin xuất gia theo hầu ngài Đạo An học đạo, sau trở về non Lô Sơn ở tu trong đó 30 năm không ra khỏi núi, hưởng thọ 82 tuổi.
ĐỜI ĐÔNG TẤN, ÔNG LƯU DI DÂN
Ông Trình Chi tự Trọng Tư, hiệu Di Dân. Theo ngài Huệ Viễn đồng tu tịnh nghiệp chuyên ngồi thiền, thực hành pháp quán tưởng, mới nửa năm, trong khi ngồi thiền định thấy hào quang Phật chiếu sáng, lại thấy đất đều sắc vàng, ở tu trong núi 15 năm, chót lại trong lúc quán tưởng niệm Phật, thấy Phật A Di Đà thân vàng, thắm hào quang chiếu sáng duỗi cánh tay, đến trong nhà ông, ông Trình Chi vui mừng rơi lụy thưa rằng Hân hạnh được Như Lai vì con ma đảnh (rờ đầu) và y phục phủ trên đầu con, Phật liền đưa tay rờ đầu và dùng áo ca sa phủ trên mình ông.
Ngày kia trong khi quán tưởng niệm Phật, cũng lại thấy thân mình vào trong ao thất bảo đại trì, hoa sen xanh, trong, xem màu nước trong veo vắt, dường như không bờ mé, trong ao có một người, nơi đầu có viên quang (hào quang tròn) trước ngực có dấu hình chữ vạn chỉ nước trong ao mà rằng Nước bát công đức này, ngươi khá uống đi! Ông Trình Chi uống nước, ngọt thơm cả miệng. Bèn thức dậy còn biết mùi thơm của nước, phát hực mấy lỗ chân lông, ông bèn nói đây là duyên Tịnh độ ta đã đến vậy.
Chư Tăng trong hội Lô Sơn đều nhóm họp, ông Trình Chi tới trước tượng Phật đốt hương kê trên trán chúc rằng Con nhờ Đức Phật Thích Ca để kinh giáo lại, cho nên biết có Đức Phật A Di Đà. Vậy con nguyện đốt nén hương này, trước cũng dường Thích Ca Như Lai, kế cúng dường Phật A Di Đà, sau cúng dường trong hội Pháp Hoa, Phật và Bồ Tát chúng, cho đến mười phương Phật Bồ Tát chúng, cầu nguyện cho chúng hữu tình đồng sinh về Tịnh độ.
Chúc nguyện xong, cùng cả thảy nói lời từ biệt, quay mặt hướng Tây vững ngồi xếp bằng, ngậm miệng nín hơi quy tịch, tuổi thọ được 59.
ĐỜI ĐÔNG TẤN, ÔNG QUAN CÔNG TẮC
Ông Công Tắc là người trong hội Bạch Liên Xã, là hội tu Tịnh độ của ngài Huệ Viễn. Qua đời, người bạn của Tắc bắt được tin qua đất Đông Kinh, chùa Bạch Mã làm chay thất, siêu độ thấy cả cây rừng chùa am, đều ửng hiện sắc vàng, giữa hư không có tiếng kêu nói Ta là Quan Công Tắc đây, bấy lâu cầu nguyện vãng sinh về Cực Lạc bửu quốc, nay đã về đặng rồi nên ta trở lại đây báo tin cho người bạn biết. Nói rồi đi đâu mất, không thấy nữa.
ĐỜI TẤN, CHỨC HÀN LÂM HỌC SĨ
ÔNG TRƯƠNG KHẢN

Ông Trương Khản lúc bình sinh làm việc tích thiện, tín trọng đạo Phật, vái tụng chú Đại Bi Đà la ni mười vạn biến để nguyện sinh về Tây phương. Khi tụng vừa xong, tuổi quá lục tuần (60), thoạt nghe trong mình có bệnh cảm, nắm tay lần chuỗi, miệng niệm Phật A Di Đà. Liền nói với người rằng Tây phương Tịnh độ hiện ở giữa căn nhà phía Tây kia, Đức Phật A Di Đà ngồi trên tòa sen. Thằng cháu của tôi là “Ông Nhi” ở trong ao thất bảo hoa sen, trên đất vàng toàn bằng Kim Sa, lễ Phật vui mừng.
Nói rồi giây lát, niệm Phật mà qua đời, “Ông Nhi” là tên thằng cháu của Khản mới 2, 3 tuổi mà qua đời được vãng sinh trong ao thất bảo vậy.
ĐỜI TỐNG, ĐẤT GIANG LĂNG
ÔNG TĂNG TÊN ĐÀM GIÁM

Ông Đàm Giám, tu hành thận trọng, thường nguyện thân này được về nước An dưỡng (Tịnh độ) được thấy Phật A Di Đà. Cho nên mỗi khi ông làm được chút lành chi, đều hồi hướng cầu sinh về Tịnh độ. Một ngày nọ, trong khi ông đương ngồi thiền định thấy Phật A Di Đà đem nước rải trên mặt nói rằng Ta rửa trần cấu cho ngươi, sạch tâm niệm ngươi, cùng thân nghiệp, khẩu nghiệp ngươi đều được nghiêm tịnh. Rồi ở trong bình lấy ra một bông sen đưa cho ông cầm.
Đàm Giám khi xuất định, thuật lại cho chúng Tăng trong chùa nghe và tỏ lời từ biệt. Rồi thì đêm thanh, thoắt một mình đi dưới mái hiên, tay lần chuỗi niệm Phật A Di Đà gần đến canh năm tiếng niệm càng khuya càng lớn.
Kịp đến sáng y theo lệ thường các đệ tử đến hầu hạ và thăm hỏi, thì thấy ông ngồi kiết già không cục cựa, xúm lại gần xem thời ông đã thị tịch còn hơi nóng nóng.
ĐỜI NAM TỀ ĐẤT DƯƠNG ĐÔ
ÔNG TĂNG TÊN HUỆ TẤN

Ông Huệ Tấn ngoài 40 tuổi, nguyện tụng Kinh Pháp Hoa, mới cầm quyển kinh, bắt sinh bệnh, ông vái cầu nguyện tả một trăm bộ Pháp Hoa để sám hối nghiệp chướng, xin tiền mua giấy tả kinh vừa xong thì là bệnh ông vừa hết.
Ông nguyện đem công đức tả kinh hồi hướng sinh về Tịnh độ. Bỗng nhiên giữa thinh không có tiếng rằng Việc ngươi làm đã xong, nguyện ngươi cũng đã toại sinh về Tịnh độ kia, chẳng phải ngươi chớ ai!
Huệ Tấn nói Tôi không dám mong cầu bậc thượng phẩm, miễn được về bậc hạ phẩm, cũng được bậc bất thối chuyển vậy.
Khi ấy đời Tề Ninh niên hiệu thứ 3, ông Tấn không bệnh mà tự nhiên qua đời hưởng thọ được 80 tuổi.
TRIỀU HẬU NGỤY XỨ BÍCH CỐC
ÔNG TĂNG TÊN ĐÀM LOAN

Ông Đàm Loan, trước gặp ông Đào Ẩn Quân trao cho kinh tiên 10 quyển. Loan vui mừng tự đắc, tưởng là phép thần tiên chắc đặng vậy.
Sau gặp ông Tăng Bồ Đề Lưu Chi, vấn nạn rằng Đạo Phật có đặng trường sinh không ? Và có được khỏi già và khỏi chết không ?
Lưu Chi đáp Trường sinh bất tử chính là đạo Phật ta vậy. Nói xong liền lấy đưa cho ông quyển Kinh Thập Lục Quán nói rằng Ngươi khá đọc quyển kinh này, thời không còn đi lại trong ba cõi, không còn lui tới trong sáu đường sang trọng, nhục vinh, mất còn, họa phước, nên hư, không với có không còn dính mắc, đó là trường thọ vậy. Trường thọ có số kiếp thạch vậy, có số hà sa vậy. Song số kiếp thạch và hà sa còn có hạn lượng, chớ số thọ mạng của người đã sinh Tây phương không bao giờ cùng tận. Đấy là phép trường sinh bất tử của họ Kim Tiên (Đức Phật) ta vậy.
Ông Đàm Loan càng thâm tín liền đốt kinh Tiên, mà chuyên tu theo Kinh Thập Lục Quán. Dù thời gian thấm thoát trải qua cơn trời lạnh rét, nắng chang dời đổi, tật bệnh ráp thân, cũng không lúc nào là lúc thối chí ngã lòng và giải đãi. Chúa nước Ngụy thương chí hướng của ông, lại khen ông là người biết tự hành hóa tha, lưu truyền pháp môn Tịnh độ rất rộng, bèn tặng hiệu ông là Thần Loan.
Thần Loan ngày kia bảo các kẻ đệ tử ông rằng Khổ trong địa ngục, các ngươi chẳng khá đừng chẳng sợ, nghiệp lành nơi chín phẩm sen, chẳng khá đừng chẳng tu (là tu). Nhân đó ông bảo các đệ tử cao tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật.
Thần Loan quay mặt về hướng Tây nhắm mắt cúi đầu mà qua đời, khi đó cả Tăng và ngươi tục đồng nghe những tiếng âm nhạc, từ góc trời phía Tây thổi tới, giây lâu mới dứt.
ĐỜI TÙY TẠI CHÙA KHAI GIÁC CÓ
ÔNG TĂNG TÊN ĐẠO DŨ

Ông Đạo Dũ niệm danh hiệu Phật A Di Đà lên cốt Phật bằng cây Chiên đàn bề cao ba tấc, xong rồi ông chết, trong bảy ngày tỉnh lại thuật nói.
Trong khi thấy Phật A Di Đà, Ngài hỏi Tại sao ngươi tạo tượng ta rất nhỏ thế ?
Tôi bạch Tâm tưởng lớn thời lớn, tâm tưởng nhỏ thời nó nhỏ. Nói dứt lời, tượng kia lớn đầy khắp cả hư không.
Phật lại bảo Ngươi trở về bổn quốc dùng nước thơm tắm rửa, ngày mai, chừng giờ sao mai mọc Ta đến rước ngươi. Kịp đến giờ, quả nhiên thấy các ông hóa Phật đến rước, hào quang sáng chiếu đầy nhà, chúng nhân ai nấy đều nghe và thấy ông Đạo Dũ qua đời. Nhằm thời niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 8.
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT KINH SƯ
ÔNG TĂNG TÊN THIỆN ĐẠO

Ông Thiện Đạo, trong niên hiệu Trinh Quán thấy hội tu Tịnh độ cửu phẩm của ngài Tây Hà Xước Thiền lập. Ông xin vào tu tập, cần lao khổ hạnh, như cứu lửa cháy đầu. Mỗi khi ông vào điện lễ Phật, chắp tay quỳ gối, hết lòng niệm Phật. Nếu không phải kiệt lực, thời ông chưa nghỉ. Dù mùa trời lạnh, ông cũng lại niệm cho tháo mồ hôi mới chịu. Để nêu tấm lòng chí thành của ông hy sinh với Phật.
Lúc ra ngoài, liền vì chúng nhân giảng nói pháp môn Tịnh độ, không hề tạm bỏ những việc làm có lợi ích, tuổi ngoài 30, không bao giờ có chút ngủ nghỉ.
Tu theo pháp Ban Châu (niệm Phật đứng), pháp Hành Đạo (đi niệm), và pháp lễ Phật (vừa lạy vừa niệm). Cùng pháp Phương Đẳng (niệm Phật được chánh định).
Có chỗ nói pháp Ban Châu là cả ba nghiệp thân, khẩu, và ý không gián đoạn và đều được thanh tịnh niệm Phật.
Ông dùng mấy pháp niệm đây, để làm trách nhiệm cho mình giữ gìn hạnh không phạm, không ngó tới nữ nhân, không cầu danh lợi, xa bặt các sự lý luận.
Mỗi khi làm Phật sự, lấy sự tịnh thân để cúng dường. Những ẩm thực, y phục có dư, đem hộ cho kẻ thiếu, có món ăn ngon, nhũ, lạc, đề hỗ, ông nhường lại không dám uống. Ai có cho tiền thời mua giấy tả kinh (A Di Đà) trên 10 muôn bộ. Họa ảnh tượng cõi Tịnh độ trên 300 bức.
Thấy chùa hư tháp sập đều tu bổ, thắp đèn cúng Phật nối ánh sáng hằng năm không tắt, ba y (y ngũ, y thất, và y đại). Bình bát, tự mình xếp và rửa, tự đầu chí cuối y như vậy không thay đổi, chẳng cùng với chúng đồng đi, vì ngừa có những khi nói qua việc đời, khuyết phạm chánh hạnh, lần hồi truyền pháp môn Tịnh độ cho người tu vô số.
Khi đó có người đến hỏi Người lành niệm Phật sinh về Tịnh độ, sự ấy có thật không ?
Đáp Như người niệm toại chí nguyện người. Nói rồi ông liền niệm Nam mô A Di Đà Phật một tiếng, tự nhiên trong miệng phóng ra một đường hào quang. Niệm 10 tiếng, nhẫn đến 100 tiếng hào quang cũng y như vậy.
Ông thường dùng bài kệ này khuyến hóa người đời tu. Kệ rằng
Tiệm tiệm kê bì hạt phát,
Khan khan hành bộ lung chung.
Giả nhiên kim ngọc mãn đường,
Nan miễn duy tàn lão bệnh.
Nhậm thị thiên ban khoái lạc
Vô thường chung thị đáo lai.
Duy hữu kinh lộ tu hành.
Đảnh niệm A Di Đà Phật.
Dịch nghĩa
Lần lần tóc bạc da gà,
Chân đi lóng cóng bộ là cò ma.
Dầu cho vàng, ngọc đầy nhà,
Khó mà tránh khỏi cái già bệnh suy
Dầu cho nghìn món vui gì ?
Vô thường rốt cuộc cũng thì bỏ đi.
Chỉ có đường tắt tu trì.
Một câu A Di Đà Phật ấy thì đem theo.
Nhắc lại vua Cao Tôn thấy ông tu hành tinh tấn, từ thỉ chí chung không hề thối chuyển, mỗi khi niệm Phật trong miệng thường bay ra những đạo hào quang làm cho dân chúng trong đất Tràng An (thành vua) đều bắt chước làm theo. Tỏ ra đời là một cảnh thái bình. Vua mừng khen tặng và ban hiệu chùa ông là Quang Minh Tự.
Có chỗ nói Ông Thiện Đạo tức là Đức Phật A Di Đà hóa thân. Và có chỗ nói Hậu thân (thân đời sau) ông Thiện Đạo tức là ngài Pháp Chiếu Đại Sư vậy.
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT THÁI CHÂU
ÔNG TĂNG TÊN HOÀI NGỌC

Ông Hoài Ngọc, nhất sinh tu tịnh nghiệp (niệm Phật) gần 40 năm. Thời kỳ vua Thiên Bửu tức vị năm đầu. Trong khi ông Ngọc đương niệm Phật, thoạt thấy cảnh Tây phương các vị Thánh chúng đông đến hằng hà sa số, trong đó có một người, tay bưng ngân đài (đài bạc) đến trước đưa cho ông Hoài Ngọc. Ngọc nói Như tôi đây, bổn vọng (ý muốn) cái kim đài (đài vàng). Vì sao hôm nay ngân đài đến đây ? Nói rồi, ngân đài ẩn mất, người bưng đài cũng ẩn.
Từ đấy ông Ngọc càng gia công tinh tấn khổ hạnh đến 21 ngày, người trước bưng kim đài đến bảo rằng Do pháp sư tinh cần khổ hạnh, nên đặng sinh lên bậc thượng phẩm. Lại nói Sinh bậc thượng phẩm ắt trước thấy Phật, vậy ngài ngồi yên, đợi chút Phật Ngài đến. Chưa bao lâu dị quang (hào quang lạ) chiếu sáng cả nhà. Lại ba ngay sau, hào quang lạ lại phát ra nữa. Hoài Ngọc nói Nếu nghe mùi hương lạ đây, chắc là báo thân ta đã mãn. Liền cầm bút đề bài kệ như vầy
Thanh tịnh kiến khiết vô trần cấu.
Liên hoa hóa sinh vi phụ mẫu.
Ngã kim thập kiếp tu đạo lai.
Xuất thị Diêm phù yểm chung khổ.
Nhất sinh khổ hạnh siêu thập kiếp.
Vĩnh ly Ta bà quy Tịnh độ.
Nghĩa là
Sáng suốt trong sạch không nhơ bợn.
Hoa sen hóa sinh là cha mẹ.
Ta đã mười đời tu đến nay.
Sinh cõi Diêm phù nhàm các khổ.
Một đời khổ hạnh vượt mười kiếp.
Hằng lìa Ta bà về Tịnh độ.
Viết kệ xong, hương lạ bốn phía bay lại. Đệ tử có người thấy Phật, thấy hai vị Bồ Tát đồng ngồi đài vàng, một bên đài, có nghìn trăm vị hóa Phật, từ góc trời phía Tây giáng xuống tiếp rước ông Hoài Ngọc. Hoài Ngọc hết lòng cung kính chắp tay vui vẻ, lên ngồi kim đài theo Phật đi về nước An dưỡng một giây.
An dưỡng tức là nước Cực Lạc. Hào quang lạ tức là bấy lâu chưa từng thấy hào quang Phật, bấy giờ mới thấy nên gọi hào quang lạ.
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT PHÂN CHÂU ÔNG TĂNG
TÊN KHẢI PHƯƠNG VÀ VIÊN QUẢ

Ông Khải Phương và ông Viên Quả là hai vị Pháp sư, chuyên tâm quán tưởng Tịnh độ. Kế năm tháng, trong khi quán tưởng, đồng biết thân mình đến ao thất bảo đại trì. Trong ao có tấm màn báu lớn, thân hai ông liền vào trong ấy, thấy đức Quan Âm và Thế Chí, hai vị Bồ Tát đang ngồi trên hai bửu tòa đài Liên Hoa, còn dưới tòa có nghìn vạn hoa sen đầy dẫy.
Đức Phật A Di Đà từ hướng Tây lại ngồi trên một cái hoa sen rất lớn, cả phóng hào quang chiếu suốt mười phương. Ông Khải Phương và ông Viên Quả lễ Phật và bạch Phật Thưa Đức Đại Từ! Giả sử chúng sinh cõi Diêm phù (cõi Ta bà), này y theo kinh dạy niệm Phật có được sinh về đây không ?
Phật dạy Như niệm danh hiệu Ta đều đặng sinh về nước Ta, không có một người nào là người niệm Phật, mà không sinh về được bao giờ.
Hai ông Khải Phương và Viên Quả lại thấy quốc độ kia, đất đai bằng phẳng, tràng báu lưới ngọc trên dưới xen pha. Lại có một ông Tăng, từ xa đi lại bảo Khải Phương và Viên Quả rằng Ta đây là Pháp Tạng vậy (tiền thân Phật Di Đà). Bởi do nguyện đời trước của ta nên nay đến đây rước hai nhà ngươi.
Khải Phương và Viên Quả, cũng cứ ngồi trên xa báu đi tới trước, lại biết thân mình ngồi trên hoa sen báu. Lại nghe Phật Thích Ca và đức Văn Thù Bồ Tát, khen ngợi cõi Tịnh độ. Đi tới trước, lại có một bửu điện rất lớn. Điện ấy có ba cấp đường bằng ngọc. Cấp đường thứ nhất toàn người thế tục đi. Cấp đường thứ hai Tăng và tục phân nửa (nửa Tăng nửa tục). Bước qua cấp đường thứ ba duy có Tăng chứ không có tục. Đức Phật chỉ đó mà bảo hai ông Khải Phương và Viên Quả rằng Phong cảnh đây, để dành cho những chúng sinh cõi Diêm phù đề (cõi Ta bà), người nào niệm Phật, thời sinh về ở đây. Vậy hai người hãy tự gắng.
Bấy giờ Khải Phương, Viên Quả trực giác thức dậy (xuất định), kể chuyện cho các đồ đệ (đệ tử) nghe sự tích này. Qua 5 ngày sau, hai ông không bệnh tự nhiên nghe tiếng chuông, thế mà các người khác không nghe. Ông Khải Phương và Viên Quả nói Tiếng chuông ấy là cái việc của ta, nói rồi vui vẻ trong giây lát hai ông đồng lâm chung một lượt (vì đồng một tịnh nghiệp).
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT CHÂN CHÂU
ÔNG TĂNG TÊN TỰ GIÁC

Ông Tự Giác, do có phát nguyện mà được đức Quán Thế Âm Bồ Tát, dẫn ông đến yết kiến Phật Di Đà. Bấy giờ ông Tự Giác tự mừng thầm mình có nhân duyên với đức Đại Bi hóa độ. Liền đi xin tiền đúc tượng đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, bề cao 49 thước (49m) dựng chùa thờ đó. Lời chúc nguyện đã thành tựu.
Đêm đó canh ba thoạt có hai đạo hào quang kim sắc (sắc vàng), ông thấy Đức Phậ