Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lúc bấy giờ Địa Tạng Đại Bồ-tát bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Con quán thấy chúng sanh ở châu Thắng Kim, cử tâm động niệm, không chi là chẳng tội. Họ từ bỏ những lợi ích lành có được và đa số đều quên mất tâm nguyện ban đầu. Nếu gặp duyên ác thì niệm niệm tăng trưởng.
Những hạng người này như đi trong bùn lầy mà còn mang thêm đá nặng. Mỗi bước đi lại thêm khốn đốn và càng đi càng lún sâu hơn. Nếu họ gặp Thiện Tri Thức thì sẽ được phụ gánh bớt hoặc vác hết giùm. Bởi vị Thiện Tri Thức đó có sức mạnh. Ngài lại tương trợ giúp đỡ và khuyên bảo phải bước cho vững vàng. Nếu những người này đến được chỗ đất bằng phẳng thì họ phải tỉnh ngộ con đường hiểm ấy và đừng bao giờ đi vào đó nữa.
Bạch Thế Tôn! Những tập khí xấu ác của chúng sanh bắt đầu từ một tơ hào nho nhỏ rồi lần lần đến vô lượng. Khi những chúng sanh có tập khí như thế sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc nên vì họ mà tạo phước đức để giúp cho lộ trình ở phía trước. Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc tôn Kinh, hoặc cúng dường tượng Phật cùng tượng của chư thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật, Bồ-tát, Độc Giác và làm cho mỗi danh hiệu đều lọt vào căn tai của người sắp mạng chung hoặc làm nơi bổn thức nghe qua.
Nếu căn cứ vào quả báo chiêu cảm của những nghiệp ác mà những chúng sanh này đã tạo, thì họ chắc chắn phải đọa đường ác. Tuy nhiên, do nhờ quyến thuộc vì kẻ lâm chung mà tu nhân thánh đó, các tội như vậy thảy đều tiêu trừ.
Sau khi họ đã chết, nếu lại có thể trong 49 ngày tu tạo nhiều việc lành cho họ, thì có thể làm cho các chúng sanh đó vĩnh viễn xa lìa đường ác và được sanh vào cõi trời hay nhân gian để thọ hưởng an vui thù thắng vi diệu; quyến thuộc hiện tại cũng được vô lượng lợi ích.
Cho nên con nay ở trước Đức Phật Thế Tôn cùng thiên long bát bộ, người và phi nhân mà khuyên bảo các chúng sanh ở châu Thắng Kim: Vào ngày lâm chung cần phải cẩn thận, chớ giết hại và gây tạo duyên ác, cũng đừng bái tế quỷ thần, cầu thỉnh sơn tinh yêu quái.
Vì sao thế? Bởi các việc giết hại và cho đến bái tế đó không có một chút tơ hào năng lực lợi ích cho người mất, mà chỉ kết thêm duyên ác và chuyển thành thâm trọng hơn.
Giả sử ở đời vị lai hoặc hiện tại, họ có được phần thánh Quả và sẽ sanh trong cõi trời hay nhân gian, nhưng vì lúc lâm chung bị hàng quyến thuộc gây tạo nhân ác nên cũng khiến người mạng chung bị liên lụy và mắc lấy tai ương. Họ phải tự mình bào chữa biện luận và chậm sanh vào nơi an lành. Hà huống là người sắp mạng chung, lúc sống chưa từng có một chút thiện căn. Cho nên họ cứ y theo bổn nghiệp mà tự đọa đường ác. Hàng quyến thuộc nỡ nào làm tăng thêm nghiệp của người ấy. Đây ví như có một người từ phương xa đến. Người ấy đã nhịn đói đến ba ngày, mà phải vác đồ vật nặng hơn 100 ký. Hốt nhiên người ấy gặp một người láng giềng và họ nhờ vác thêm một ít đồ nữa. Do vậy mà chuyển thành nặng nề và thêm khốn đốn.
Bạch Thế Tôn! Con quán sát chúng sanh ở châu Thắng Kim, thậm chí ở trong giáo Pháp của chư Phật mà chỉ làm việc lành chừng bằng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, hay một hạt bụi, thì họ sẽ tự mình đều được sự lợi ích."
Khi nói lời ấy xong, trong Pháp hội có một vị trưởng giả tên là Đại Biện. Vị trưởng giả này từ lâu đã chứng Vô Sanh. Vì hóa độ chúng sanh trong mười phương nên hiện thân trưởng giả.
Lúc ấy ngài chắp tay cung kính và hỏi Địa Tạng Bồ-tát rằng:
"Thưa Đại Sĩ! Sau khi chúng sanh ở Nam châu Thắng Kim mạng chung, nếu hàng quyến thuộc lớn nhỏ của họ làm công đức, cho đến thiết dọn lễ chay, hoặc tạo các nhân lành, thì người chết này có được lợi ích lớn và giải thoát không?"
Ngài Địa Tạng đáp rằng:
"Này trưởng giả! Tôi nay nương uy lực của Phật mà sẽ lược nói về việc ấy cho hết thảy chúng sanh trong hiện tại cùng vị lai.
Này trưởng giả! Những chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai, vào ngày lâm chung mà họ nghe được danh hiệu của một vị Phật, danh hiệu của một vị Bồ-tát, hay danh hiệu của một vị Độc Giác, thì chẳng kể là có tội hay vô tội, họ thảy đều được giải thoát.
Nếu có người nam hoặc người nữ nào trong lúc sống đã không tu nhân lành mà còn tạo nhiều nghiệp tội, nhưng sau khi mạng chung, người ấy lại được hàng quyến thuộc lớn nhỏ tu tạo phước lợi cho họ, thì hết thảy thánh sự, người chết được một phần trong bảy phần công đức, còn sáu phần thuộc về người sống hiện đang tu tập. Vì thế cho nên, khi các thiện nam tín nữ ở hiện tại cùng vị lai nghe lời nói vừa rồi, thì hãy nên cố gắng tự tu hành, thời sẽ hưởng trọn phần công đức.
Đại quỷ vô thường sẽ chợt đến bất kỳ. Thần hồn vơ vẩn mịt mờ, chưa rõ là tội hay phước. Trong 49 ngày như ngây như điếc, hoặc họ ở tại các ty sở để biện luận về nghiệp quả. Sau khi thẩm định xong thì sẽ y theo nghiệp mà thọ sanh. Trong lúc chưa biết ra sao đó thì đã ngàn vạn lần sầu khổ. Hà huống là phải đọa các đường ác.
Khi người mạng chung này chưa được thọ sanh, họ ở trong 49 ngày luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục quyến thuộc tu tạo phước lực để hầu cứu vớt. Khi quá ngày ấy rồi, họ sẽ theo nghiệp mà thọ quả báo. Nếu là tội nhân thì phải trải qua trăm ngàn năm mà không có ngày được giải thoát. Còn nếu là người phạm năm tội vô gián, thì sẽ đọa vào đại địa ngục để chịu mãi những sự đau khổ trong ngàn vạn kiếp.
Lại nữa, trưởng giả! Sau khi các chúng sanh gây nghiệp tội như vậy mạng chung, hàng cốt nhục quyến thuộc hãy thiết dọn lễ chay để trợ giúp nghiệp đạo cho họ. Trước khi lễ chay hoàn mãn hoặc trong lúc chuẩn bị, thì nhớ đừng đổ nước gạo hoặc bỏ rau quả xuống đất. Cho đến các món ăn chưa dâng cúng cho Phật và chư Tăng thì chớ được ăn trước. Nếu có sai phạm về phần ẩm thực hoặc người tu tạo không chu đáo, thì người mạng chung này sẽ hoàn toàn không được trợ lực nào hết. Như họ có thể chu đáo và thanh tịnh trong việc phụng hiến thức ăn cho Phật và chư Tăng, thời người mạng chung sẽ được một phần trong bảy phần công đức.
Vì thế, trưởng giả! Các chúng sanh ở châu Thắng Kim, sau khi cha mẹ của họ hoặc cho đến hàng quyến thuộc đã qua đời, nếu có thể thiết dọn lễ chay để cúng dường và chí tâm khẩn cầu, thì những người như thế, kẻ sống người mất đều sẽ được lợi ích."
Khi nói lời ấy xong, Cung trời Tam Thập Tam có ngàn vạn ức nayuta quỷ thần ở châu Thắng Kim đều phát khởi Đạo tâm vô thượng. Trưởng giả Đại Biện đảnh lễ và lui ra. PHẨM 8: DIÊM VƯƠNG VÀ QUYẾN THUỘC TÁN THÁN
Lúc bấy giờ, trong dãy núi Thiết Vi có vô lượng quỷ vương và Diêm Vương Thiên Tử đều đến chỗ của Phật ở trời Tam Thập Tam.
Các vị ấy là:
- Ác Độc Quỷ Vương, - Đa Ác Quỷ Vương, - Đại Tranh Quỷ Vương, - Bạch Hổ Quỷ Vương, - Huyết Hổ Quỷ Vương, - Xích Hổ Quỷ Vương, - Tán Ương Quỷ Vương, - Phi Thân Quỷ Vương, - Điện Quang Quỷ Vương, - Lang Nha Quỷ Vương, - Thiên Nhãn Quỷ Vương, - Đạm Thú Quỷ Vương, - Phụ Thạch Quỷ Vương, - Chủ Hao Quỷ Vương, - Chủ Họa Quỷ Vương, - Chủ Thực Quỷ Vương, - Chủ Tài Quỷ Vương, - Chủ Súc Quỷ Vương, - Chủ Cầm Quỷ Vương, - Chủ Thú Quỷ Vương, - Chủ Mị Quỷ Vương, - Chủ Sản Quỷ Vương, - Chủ Mạng Quỷ Vương, - Chủ Tật Quỷ Vương, - Chủ Hiểm Quỷ Vương, - Tam Mục Quỷ Vương, - Tứ Mục Quỷ Vương, - Ngũ Mục Quỷ Vương, - Kỳ-lợi-thất Vương, - Đại Kỳ-lợi-thất Vương, - Kỳ-lợi-xoa Vương, - Đại Kỳ-lợi-xoa Vương, - A-na-tra Vương, - Đại A-na-tra Vương, - và các đại quỷ vương khác như thế.
Mỗi vị cùng với trăm ngàn các tiểu quỷ vương cư ngụ khắp châu Thắng Kim, vị nào chức nấy và có chủ quyền tự trị riêng.
Các vị quỷ vương này và Diêm Vương Thiên Tử nương uy thần của Phật cùng uy lực của Địa Tạng Đại Bồ-tát, họ thảy đều đến trời Tam Thập Tam và đứng qua một bên.
Lúc bấy giờ Diêm Vương Thiên Tử quỳ gối phải, chắp tay, và bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Nay chúng con và các vị quỷ vương nương uy thần của Phật cùng uy lực của Địa Tạng Đại Bồ-tát mới có thể đến trời Tam Thập Tam dự đại hội này. Do nhân ấy, chúng con cũng sẽ được các lợi ích lành. Con nay có một hoài nghi nhỏ mong được thưa hỏi Thế Tôn. Kính mong Thế Tôn từ bi tuyên nói."
Phật bảo Diêm Vương Thiên Tử:
"Ông hãy cứ hỏi. Ta sẽ thuyết giảng cho ông."
Lúc ấy Diêm Vương Thiên Tử chiêm ngưỡng và đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngoảnh nhìn Địa Tạng Bồ-tát và bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Con quán sát Địa Tạng Bồ-tát ở trong sáu đường đã dùng trăm ngàn phương tiện cứu độ chúng sanh tội khổ, không chút từ nan mệt mỏi. Vị đại Bồ-tát này có những sự thần thông chẳng thể nghĩ bàn như thế. Nhưng vì sao các chúng sanh vừa thoát khỏi tội báo, chẳng bao lâu thì lại đọa đường ác?
Bạch Thế Tôn! Địa Tạng Bồ-tát này đã có thần lực không thể nghĩ bàn như thế. Cớ sao chúng sanh không y theo và ở chốn lành để được giải thoát vĩnh viễn? Kính mong Thế Tôn hãy thuyết giảng cho con."
Phật bảo Diêm Vương Thiên Tử:
"Chúng sanh ở Nam châu Thắng Kim có tâm tánh cang cường, khó điều khó phục. Suốt trăm ngàn kiếp, vị đại Bồ-tát này luôn mãi cứu vớt các chúng sanh như vậy, khiến họ sớm được giải thoát. Những người mắc tội báo đó, cho đến phải đọa đường ác kinh hoàng, Bồ-tát cũng dùng sức phương tiện mà bạt trừ căn bổn nghiệp duyên và làm cho họ tỏ ngộ các việc của đời trước. Nhưng chúng sanh ở châu Thắng Kim này đây bị tập khí ác kết chặt nặng nề, thoáng vừa ra khỏi lại quay trở vào, nên làm lao nhọc Bồ-tát phải trải qua số kiếp rất lâu mới độ thoát.
Ví như có người quên mất nhà của mình và đi lạc vào con đường hiểm. Trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ tiệp tật cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, và bò cạp. Người bị lạc này ở trong hiểm đạo, chẳng mấy chốc liền gặp ngay các thứ độc ấy. Giả sử lúc đó có một vị Thiện Tri Thức biết nhiều phép thuật và khéo giải trừ các thứ độc đó, bao gồm cả quỷ tiệp tật và các loài ác độc khác.
Khi hốt nhiên gặp kẻ lạc lối đang muốn tiến vào hiểm đạo, ngài vội bảo rằng:
'Ôi trời, ông bạn! Do duyên sự gì mà vào con đường ấy? Ông có phép thuật lạ gì mà có thể chế phục được các thứ độc hại đó chăng?'
Người lạc đường này chợt nghe lời ấy thì mới biết là hiểm đạo nên liền lui lại và cầu ra khỏi con đường đó. Vị Thiện Tri Thức nắm tay dìu dắt và dẫn họ ra khỏi con đường hiểm, hầu thoát khỏi các thứ ác độc để đến nơi an lành và làm cho họ được an vui.
Rồi ngài bảo rằng:
'Này người lạc đường! Từ nay về sau chớ đi vào con đường đó. Ai mà vào rồi thì khó mà ra khỏi và còn nguy hại đến tánh mạng nữa.'
Người lạc đường đó sanh lòng cảm kích ân trọng.
Lúc sắp từ biệt, vị Thiện Tri Thức lại căn dặn thêm:
'Nếu gặp người thân quen cùng những người đi đường khác, hoặc nam hay nữ, thì bảo cho họ biết rằng, con đường này có nhiều thứ độc ác, vào đó rồi sẽ mất cả tánh mạng đấy. Ông hãy khiến cho họ đừng tự vào chỗ chết.'
Cũng như vậy, Địa Tạng Bồ-tát với lòng đại từ bi và luôn cứu vớt chúng sanh tội khổ, khiến cho họ sanh vào cõi trời hay nhân gian để thọ hưởng an vui vi diệu.
Một khi những người tội đó biết sự khốn khổ của nghiệp đạo, thì lúc được thoát ra, họ vĩnh viễn sẽ chẳng còn trở vào lại. Họ cũng như người lạc đường sa vào hiểm đạo. Khi gặp Thiện Tri Thức, họ liền được tiếp dẫn ra khỏi và vĩnh viễn sẽ không đi vào chỗ ấy nữa.
Khi thấy người khác, họ khuyên đừng có vào và nói rằng:
'Tôi lúc xưa do bị mê lầm nên mới lạc vào đó. Nay đã được ra khỏi nên sẽ không bao giờ trở lại. Nếu còn giẫm bước vào thì cũng còn bị lạc ngay, và vẫn chẳng biết đó là con đường hiểm mà mình đã từng bị lạc qua, hoặc có thể phải bị mất cả tánh mạng.'
Điều này cũng giống như khi chúng sanh sa đọa đường ác. Địa Tạng Bồ-tát dùng sức phương tiện để khiến cho họ giải thoát và sanh trong cõi trời hay nhân gian, nhưng thoáng chốc họ lại đọa vào nữa. Nếu nghiệp báo kết chặt thâm trọng thì họ vĩnh viễn sẽ ở chốn địa ngục và không bao giờ được ra khỏi."
Lúc bấy giờ Ác Độc Quỷ Vương chắp tay cung kính và bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Quỷ vương chúng con ở châu Thắng Kim, số ấy đông vô lượng. Hoặc làm lợi ích người hay tổn hại người, ai nấy đều khác nhau. Do nghiệp báo nên quyến thuộc chúng con du hành qua các thế giới, làm ác thì nhiều mà làm thiện lại quá ít. Tuy vậy, nhưng nếu chúng con đi qua sân nhà ai hoặc thành thị xóm làng, vườn tược phòng xá, hoặc có kẻ nam người nữ nào tu hành việc lành chừng bằng cọng lông sợi tóc, cho đến chỉ treo một tràng phan hay một lọng che, dùng chút hương ít hoa mà cúng dường tượng Phật cùng tượng của Bồ-tát, hoặc chuyển đọc tôn Kinh, thắp hương, cúng dường một câu hay một bài kệ, thì quỷ vương chúng con sẽ lễ kính người này như chư Phật quá khứ, hiện tại, cùng vị lai. Chúng con lại sai các tiểu quỷ có uy lực lớn cùng thần thổ địa mà hộ vệ họ, khiến cho các việc ác, tai họa, ác bệnh, hoặc bệnh bất ngờ, cho đến những sự không như ý còn chẳng hề đến gần nhà và các nơi xung quanh. Hà huống là lọt vào đến cửa."
Đức Phật ngợi khen quỷ vương rằng:
"Lành thay, lành thay! Các ông cùng với Diêm Vương có thể ủng hộ các thiện nam tín nữ như thế, thì Ta cũng sẽ bảo Phạm Vương và Đế Thích hộ vệ các ông."
Khi nói lời ấy xong, trong Pháp hội có một quỷ vương tên là Chủ Mạng, bạch với Đức Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Do bổn nghiệp duyên mà nay con làm chủ về nhân mạng ở châu Thắng Kim. Khi sanh khi tử đều do con làm chủ. Bổn nguyện của con thì rất muốn làm lợi ích, nhưng chúng sanh không hội ý con nên khiến cho lúc sanh tử đều không được an ổn.
Vì sao thế? Người ở châu Thắng Kim khi vừa mới sanh, không kể là nam hay nữ, hoặc lúc gần sanh, thì chỉ nên làm việc lành để tăng thêm lợi ích cho nhà cửa. Như vậy tự nhiên sẽ khiến cho thần thổ địa vô cùng hoan hỷ mà ủng hộ cả mẹ lẫn con đều được nhiều an vui và quyến thuộc cũng được lợi ích. Hoặc khi đã sanh rồi, thì cẩn thận chớ giết hại để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản phụ, cùng nhóm họp hàng quyến thuộc lại để uống rượu, ăn thịt, ca hát, và âm nhạc ầm ĩ. Bởi các việc như thế sẽ có thể khiến cho cả mẹ lẫn con chẳng được an lạc.
Vì sao thế? Bởi đương lúc sanh nở khó khăn ấy, có vô số ác quỷ cùng sơn tinh yêu quái muốn tới ăn máu tanh. Chính con đã sớm sai các thần linh của nhà cửa phải bảo hộ người mẹ và đứa con để khiến họ an vui và được lợi ích. Những người này khi thấy sự an vui thì nên cùng nhau tạo phước để báo đáp các thần thổ địa. Trái lại, nếu họ giết hại và tụ tập quyến thuộc, thì do bởi lẽ này, hễ phạm tai ương thời phải tự lãnh thọ; người mẹ và đứa con đều sẽ tổn hại.
Lại nữa, khi người ở châu Thắng Kim sắp mạng chung, chẳng kể là thiện hay ác, con đều không muốn cho người mạng chung đó bị lạc vào đường ác. Hà huống là người ấy tự tu căn lành và sẽ làm tăng thêm uy lực của con. Những người làm thiện ở châu Thắng Kim đến lúc lâm chung cũng còn có trăm ngàn quỷ thần trong đường ác, hoặc biến làm cha mẹ, cho đến hàng quyến thuộc và dẫn dắt người chết khiến sa đọa đường ác Huống chi là người vốn đã tạo ác.
Bạch Thế Tôn! Những kẻ nam người nữ ở châu Thắng Kim đến lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội. Họ không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều chẳng còn thấy nghe gì nữa. Hàng quyến thuộc của họ nên làm sự cúng dường rộng lớn, chuyển đọc tôn Kinh, niệm danh hiệu của Phật và Bồ-tát. Những duyên lành như vậy mới có thể khiến cho người chết xa lìa các đường ác, và chúng ma quỷ thần đều phải thoái lui.
Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh khi sắp mạng chung, nếu họ nghe được danh hiệu của một vị Phật, danh hiệu của một vị Bồ-tát, hoặc một câu hoặc một bài kệ trong Kinh điển Đại Thừa, thời con quán sát thấy hạng người ấy, chỉ trừ năm tội vô gián và các tội giết hại, còn những nghiệp ác nho nhỏ đáng phải đọa đường ác thì sẽ liền giải thoát."
Phật bảo Chủ Mạng Quỷ Vương:
"Ông vì lòng đại từ nên mới có thể phát đại nguyện như thế để cứu hộ chúng sanh trong lúc sanh tử. Vào đời vị lai, nếu có kẻ nam người nữ nào đến thời điểm sanh tử, thì ông chớ quên lời nguyện đó và hãy khiến họ giải thoát, để có được niềm an lạc vĩnh viễn."
Quỷ