Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Tín Lực Nhập ấn Pháp Môn Kinh [信力入印法門經] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Tín Lực Nhập ấn Pháp Môn Kinh [信力入印法門經] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.71 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.82 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Tín Lực Nhập Ấn Pháp Môn

Kinh này có 5 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 |
Việt dịch: Thích Nữ Như Phúc

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Thế tôn ở nơi cảnh giới của Như Lai đã trú trì, cách đạo tràng vắng lặng không xa, là nơi thành tựu nhiều thiện căn và phước đức của pháp điện Phổ Quang.
Nơi bình đẳng bao dung không phân biệt,
Nơi đầy đủ vô lượng công đức.
Nơi làm bằng Kim cang bền chắc.
Nơi ổn định bền vững không thể hoại diệt.
Nơi trang nghiêm bằng những loại hoa và tất cả ngọc ngà châu báu.
Nơi trang nghiêm bằng những châu báu rực rỡ, sáng ngời, không còn những nhơ bẩn.
Nơi thị hiện của ngọc báu lớn Bảo hải, có vô lượng ánh sáng vĩ đại.
Nơi sanh ra ngọc báu và mưa lưới báu như ý không cùng tận.
Nơi trang nghiêm bằng cành cây ngọc và những loại hoa xoay vòng như bánh xe.
Nơi xen lẫn lưới ngọc báu và tất cả hoa thơm.
Nơi thể hiện sự phấn tấn trụ trì của chư Phật đối với tất cả chúng sanh.
Nơi tốt đẹp nhất trong các thế giới.
Nơi phát sanh tất cả ngọc vô cấu, có năng lực thị hiện trang nghiêm khắp thế giới chư Phật.
Đạo tràng trang nghiêm, vắng lặng là nơi tích tụ, tăng trưởng và có tính chất phát sanh ngọc báu Đại tỳ lưu ly.
Nơi có lan can bằng như ý bảo vương.
Nơi dùng trân châu báu như ý làm lưới trang nghiêm.
Nơi dựng lên phan lọng phước báu và những loại linh báu xen lẫn trang nghiêm.
Nơi dùng Ưu trà già kiên cố chiên đàn trải trên đất.
Nơi được che phủ bằng lưới Tự tại như ý bảo vương.
Nơi được giăng bằng lưới cây ngọc báu chúa Đại hải trụ trì thanh tịnh trang nghiêm Phổ Quang.
Nơi đặt bàn đẹp bằng ngọc báu chúa Sư tử mao.
Nơi trang nghiêm lầu gác và các loại cửa bằng ngọc báu chúa Sư tử tòa tràng.
Nơi trang hoàng tràng phan bảo cái bằng những loại châu báu tốt đẹp.
Nơi tập hợp những loại hoa tươi đẹp nhất cõi nhân thiên, như hoa: Mạn đà la, Ma ha mạn đà la, Mạn thù sa, Ma ha mạn thù sa, Uất già, Ma ha Uất già, Chất ca la, Ma ha Chất ca la, Tu ma na, Bà sư ca, Đa la ni, Bà la vệ đa la ni, Cực diệu hương, Đà sư ca ly ca, Thiên tu ma na, Ưu bát la, Ba đầu ma, Câu vật đầu, Phân đà lợi... Các loại hoa trang nghiêm nơi tòa sư tử không bị sự trở ngại nào.
Nơi trú xứ này, đức Thế tôn thanh tịnh, trí tuệ tốt đẹp, được thành tựu viên mãn hạnh vô nhị, đạt đến các pháp cứu cánh vô tướng, y nơi sự hành đạo của chư Phật mà hành đạo, được nơi bình đẳng của tất cả chư Phật. Đạt đến nơi hoàn toàn không chướng ngại, đắc pháp luân bất thối chuyển, được đến cảnh giới không thể hàng phục, được chỗ sai biệt bất tư nghì, được bình đẳng ba đời, được sự không chướng ngại thời quá khứ, tương lai của các thế gian, được trí vô ngại tất cả pháp, được trí viên mãn tất cả hạnh, được trí vô ngại đối với tất cả chư Như Lai, được pháp thân vô phân biệt, đạt đến tận cùng cảnh giới của Phật, đạt đến cứu cánh giải thoát vô ngại không khác biệt của chư Phật Như Lai, đạt đến địa vị Phật bình đẳng không thiên lệch, đạt đến tự nhiên trí của chư Phật rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, không có bờ bến và tất cả nghiệp của chư Phật Như Lai đã tạo tác không ngưng nghỉ. Có thể chuyển pháp luân bất thối tận cùng tất cả kiếp đời vị lai và có thể thị hiện kho tàng trang nghiêm trí vô chướng ngại. Đạt đến sự nương tựa nhất thiết trí và nhất thiết chủng không có sai khác.
Nơi mười phương thế giới trong tất cả thời gian đều thị hiện từ nơi trời Đâu Suất hạ sanh, rồi xuất gia thực hành khổ hạnh, đến đạo tràng chinh phục giặc ma, chứng đại Bồ-đề, chuyển bánh xe pháp, thị hiện Niết-bàn, trụ trì pháp Phật. Cho đến lúc pháp diệt, khéo thị hiện cùng bất khả thuyết ức na do tha trăm ngàn vạn các vị đại Bồ tát số nhiều như vi trần tập họp nơi mười cõi Phật.
Tất cả các vị đại Bồ tát đó đều chứng đắc Thủ lăng nghiêm định phấn tấn tam muội và được thành tựu vô lượng pháp hạnh khởi đà la ni môn. Thế giới không có Phật, khéo thị hiện vô lượng chư Phật, có thể làm thanh tịnh các thế giới nhiễm ô. Có vô lượng vô số trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Thích đề hoàn nhơn, Đại phạm thiên vương, Hộ thế tứ vương, nhân và phi nhân...
Bấy giờ, đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục tề chỉnh, gối phải sát đất, chấp tay hướng về đức Phật, thưa:
- Bạch đức Thế tôn! Cúi xin Ngài vì các đại Bồ tát mà dạy pháp địa thanh tịnh thứ nhất để họ đạt được vô lượng sự an ổn không sợ hãi.
Đức Phật bảo đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử:
- Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp làm cho thanh tịnh hoan hỷ địa thứ nhất để được vô lượng sự an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi tâm một vị, thế nên sanh tâm an ổn. Vì làm cho người khác trụ nơi tâm một vị nên khởi tâm an ổn. Gọi tâm một vị nghĩa là chánh tâm. Gọi chánh tâm nghĩa là tin thiện căn thù thắng mỗi mỗi khác nên không sai khác.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ tâm tăng thượng nên sanh tâm an ổn. Vì làm cho người khác trụ tâm tăng thượng nên khởi tâm an ổn. Gọi tâm tăng thượng nghĩa là trực tâm. Gọi trực tâm nghĩa là có thể giữ sự thắng tấn hạnh lớn rốt ráo của chư Phật Như Lai, nên quán các pháp.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi tâm cung kính nên sanh tâm an ổn. Vì làm cho người khác trụ nơi tâm cung kính nên khởi tâm an ổn. Gọi tâm cung kính nghĩa là chánh tín. Gọi chánh tín nghĩa là tin nghiệp căn bản của bát-nhã.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi tâm hoan hỷ nên sanh tâm an ổn. Vì làm cho người khác trụ nơi tâm hoan hỷ nên khởi tâm an ổn. Tâm hoan hỷ nghĩa là thân tâm hoàn toàn vắng lặng.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã trụ nơi nghiệp ma và nghiệp Phật mà trí không sai khác nên sanh tâm an ổn. Vì làm cho người khác trụ nơi nghiệp ma và nghiệp Phật mà trí không sai khác nên khởi tâm an ổn. Nghiệp ma và nghiệp Phật nghĩa là có thể sanh khởi tất cả các tà kiến điên đảo. Từ nơi các tà kiến sanh khởi nghiệp ma, nên các nghiệp ma này cùng nghiệp Phật địa không có sai khác. Vì sao? - Vì nghiệp ma và nghiệp Phật địa không có sai khác. Vì thể của nghiệp ma tức là thể của nghiệp Phật địa cho nên không khác nhau.
Văn Thù Sư Lợi! Đây gọi là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này thì có thể thanh tịnh, hoan hỷ địa thứ nhất và được vô lượng sự an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được vô lượng sự an ổn không sợ hãi. Đó là:
1/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi không tà kiến không sai biệt, nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí không tà kiến không sai biệt nên sanh tâm an ổn. Trí không tà kiến không sai biệt nghĩa là thể của tà kiến tức thể của trí Không. Sự tạo tác tà kiến tức sự tạo tác của trí Không. Vì sao? - Vì sự tạo tác của trí Không chẳng khác sự tạo tác của tà kiến. Sự tạo tác của tà kiến chẳng khác sự tạo tác của trí Không. Vì thể của trí Không chẳng khác thể của tà kiến. Thể của tà kiến chẳng khác thể của trí Không. Tức thể của tà kiến và sự tạo tác tà kiến là không, nên trí Không nương vào thể tà kiến và sự tạo tác tà kiến kia. Vì tất cả pháp Không không thủ không xả khác nhau.
2/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi sai biệt không khác với không sai biệt nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí sai biệt không khác với không sai biệt nên sanh tâm an ổn. Trí sai biệt không khác với không sai biệt, nghĩa là thể sai biệt tức thể không sai biệt. Vì sao? - Vì thể không sai biệt chẳng khác thể sai biệt. Thể sai biệt chẳng khác thể không sai biệt. Tức thể sai biệt vì không sai biệt nương vào thể sai biệt và trí không sai biệt nên tất cả pháp vô sai biệt.
3/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi tăng thượng không khác với không tăng thượng nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí tăng thượng không khác với không tăng thượng nên phát khởi tâm an ổn. Trí tăng thượng không khác với không tăng thượng, nghĩa là thể tăng thượng tức thể không tăng thượng. Vì sao? - Vì thể không tăng thượng chẳng khác thể tăng thượng. Thể tăng thượng chẳng khác thể không tăng thượng. Tức thể tăng thượng, không tăng thượng nương vào trí không tăng thượng và thể tăng thượng kia, vì tất cả pháp không tăng thượng.
4/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã đợc trí trụ nơi điên đảo không khác với không điên đảo nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí điên đảo không khác với không điên đảo nên phát khởi tâm an ổn. Trí điên đảo không khác với không điên đảo nghĩa là thể điên đảo tức thể không điên đảo. Vì sao? - Vì thể không điên đảo chẳng khác thể điên đảo. Thể điên đảo chẳng khác thể không điên đảo, tức thể điên đảo không điên đảo nên nương vào trí không điên đảo và thể điên đảo kia, vì tất cả pháp không điên đảo.
5/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi thủ xả không khác với không thủ không xả nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí thủ xả không khác với không thủ không xả nên phát khởi tâm an ổn. Trí thủ xả không khác với không thủ không xả, nghĩa là thể của thủ xả tức thể của không thủ không xả. Vì sao? - Vì thể không thủ không xả chẳng khác thể thủ xả. Thể của thủ xả chẳng khác thể của không thủ không xả, tức thể của thủ xả và không thủ không xả nương vào trí không thủ không xả và thể của thủ xả kia, nên tất cả pháp không thủ không xả.
Văn Thù Sư Lợi! Đó là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này thì có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được nhiều an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được vô lượng an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi hữu vi, không khác với vô vi nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí hữu vi không khác với vô vi nên phát khởi tâm an ổn. Trí hữu vi không khác với vô vi, nghĩa là thể của hữu vi tức thể của vô vi. Vì sao? - Vì thể của vô vi chẳng khác thể của hữu vi. Thể của hữu vi chẳng khác thể của vô vi. Tức thể của hữu vi là vô vi nương vào trí vô vi và thể của hữu vi kia, nên tất cả pháp vô vi. Vì sự là không sai biệt.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi sự, không khác với vô sự nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí sự, không khác với vô sự nên phát khởi tâm an ổn. Trí sự không khác với vô sự, nghĩa là thể của sự tức thể của vô sự. Vì sao? - Vì thể của vô sự chẳng khác thể của sự. Thể của sự chẳng khác thể của vô sự. Vì thể của sự tức là vô sự, nương vào trí vô sự và thể của vô sự, nên tất cả pháp vô sự.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi y chỉ, không khác với không y chỉ nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí y chỉ không khác với không y chỉ nên phát khởi tâm an ổn. Trí y chỉ không khác với không y chỉ, nghĩa là thể của y chỉ tức thể của không y chỉ. Vì sao? - Vì thể không y chỉ chẳng khác thể y chỉ. Thể y chỉ chẳng khác thể không y chỉ. Tức thể y chỉ và y chỉ nương vào trí không y chỉ và thể y chỉ kia, nên tất cả pháp không y chỉ.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi quán không, khác với không quán nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí quán không khác với không quán nên phát khởi tâm an ổn. Trí quán không khác với không quán, nghĩa là thể của quán tức thể của không quán. Vì sao? - Vì thể không quán chẳng khác thể quán, và thể của quán chẳng khác thể không quán. Thể quán tức là không quán, nên nương vào trí không quán và thể của quán mà tất cả pháp không quán.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi đối trị, không khác với không đối trị, nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí đối trị không khác với không đối trị nên phát khởi tâm an ổn. Trí đối trị không khác với không đối trị, nghĩa là thể của đối trị tức thể của không đối trị. Vì sao? - Vì thể của không đối trị chẳng khác thể của đối trị. Thể của đối trị chẳng khác thể của không đối trị. Tức thể của đối trị và không đối trị nương vào trí không đối trị và thể của đối trị kia, nên tất cả pháp không đối trị.
Văn Thù Sư Lợi! Đây gọi là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được vô lượng an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp, có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng sự an ổn không sợ hãi. Đó là:
1/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi tướng, không khác với vô tướng nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí tướng không khác vô tướng, nên phát khởi tâm an ổn. Trí tướng không khác với vô tướng, nghĩa là thể của tướng tức thể vô tướng. Vì sao? - Vì thể vô tướng không khác thể tướng. Thể tướng không khác thể vô tướng. Tức thể tướng là vô tướng, nương vào trí vô tướng của thể tướng kia nên tất cả pháp vô tướng.
2/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi thật, không khác với trí không thật, nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí thật, không khác với trí không thật, nên phát khởi tâm an ổn. Trí thật không khác với trí không thật, nghĩa là thể của thật tức thể không thật. Vì sao? - Vì thể không thật chẳng khác thể thật. Thể thật chẳng khác thể không thật. Tức thể thật là không thật, nương vào trí không thật của thể thật kia nên tất cả pháp không thật.
3/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi nhị, không khác với bất nhị, nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí nhị, không khác với bất nhị, nên phát khởi tâm an ổn. Trí nhị không khác với bất nhị, nghĩa là thể của nhị tức thể của bất nhị. Vì sao? - Vì thể của bất nhị chẳng khác thể của nhị. Thể của nhị chẳng khác thể bất nhị. Tức thể của nhị là bất nhị, nương vào trí bất nhị của thể nhị kia, nên tất cả pháp bất nhị.
4/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi sắc, không khác với vô sắc, nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí sắc không khác vô sắc, nên phát khởi tâm an ổn. Trí sắc không khác với vô sắc, nghĩa là thể của sắc tức thể vô sắc. Vì sao? - Vì thể vô sắc chẳng khác thể sắc. Thể sắc chẳng khác thể vô sắc. Tức thể của sắc là vô sắc, nương vào trí vô sắc và thể của sắc kia nên tất cả pháp vô sắc.
5/ Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi thế gian, không khác với Niết-bàn, nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi thế gian không khác với Niết-bàn, nên phát khởi tâm an ổn. Trí thế gian không khác với Niết-bàn, nghĩa là thể của thế gian tức thể Niết-bàn. Vì sao? - Vì thể của Niết-bàn chẳng khác thể thế gian. Thể của thế gian chẳng khác thể Niết-bàn. Tức thể của thế gian là Niết-bàn, nương vào trí Niết-bàn và thể của thế gian kia nên tất cả pháp Niết-bàn.
Văn Thù Sư Lợi! Đó là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng sự an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng sự an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi chướng ngại không khác với không chướng ngại, nên tâm sanh an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí chướng ngại không khác với không chướng ngại, nên phát khởi tâm an ổn. Trí chướng ngại không khác với không chướng ngại, nghĩa là thể của chướng ngại tức thể không chướng ngại. Vì sao? - Vì thể không chướng ngại chẳng khác thể chướng ngại. Thể chướng ngại chẳng khác thể không chướng ngại. Tức thể chướng ngại vì không chướng ngại, nương vào trí không chướng ngại và thể chướng ngại kia nên tất cả pháp không chướng ngại.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi chấp trước không khác với không chấp trước, nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí chấp trước không khác với không chấp trước, nên phát khởi tâm an ổn. Trí chấp trước không khác với không chấp trước, nghĩa là thể của chấp trước tức thể của không chấp trước. Vì sao? - Vì thể không chấp trước chẳng khác thể chấp trước. Thể chấp trước chẳng khác thể không chấp trước. Tức thể chấp trước là không chấp trước, nương vào trí không chấp trước và thể chấp trước kia nên tất cả pháp không chấp trước.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi trí, không khác vô trí nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí không khác vô trí, nên phát khởi tâm an ổn. Trí trí không khác với vô trí, nghĩa là thể của trí tức thể vô trí. Vì sao? - Vì thể vô trí không khác thể trí. Thể trí không khác thể vô trí. Thể trí tức là vô trí, nương vào trí vô trí và thể trí kia nên tất cả pháp vô trí.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi hữu, không khác với trí vô, nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí hữu không khác trí vô, nên phát khởi tâm an ổn. Trí hữu không khác trí vô, nghĩa là hữu thể tức vô thể. Vì sao? - Vì vô thể không khác hữu thể và hữu thể không khác vô thể. Thể hữu tức vô, nương vào vô trí hữu thể nên tất cả pháp là không.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi thức, không khác với vô thức nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí thức không khác với vô thức, nên phát khởi tâm an ổn. Trí thức không khác với vô thức, nghĩa là thể của thức tức thể của vô thức. Vì sao? - Vì thể vô thức chẳng khác thể thức. Thể thức không khác thể vô thức. Tức thể thức là vô thức, nương vào trí vô thức của thể thức kia nên tất cả pháp vô thức.
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các vị đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng sự an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng sự an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi danh, không khác với vô danh nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí danh không khác vô danh nên phát khởi tâm an ổn. Trí danh không khác với vô danh, nghĩa là thể của danh tức thể vô danh. Vì sao? - Vì thể vô danh chẳng khác thể danh. Thể danh chẳng khác thể vô danh. Thể danh tức là vô danh, nương vào trí vô danh và thể danh đó nên tất cả pháp vô danh.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi ngã, không khác với vô ngã nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí ngã không khác với vô ngã, nên phát khởi tâm an ổn. Trí ngã không khác với vô ngã, nghĩa là ngã thể tức vô ngã thể. Vì sao? - Vì vô ngã thể chẳng khác ngã thể. Ngã thể chẳng khác. vô ngã thể, tức ngã thể là vô ngã thể, nương vào trí vô ngã và ngã thể đó nên tất cả pháp vô ngã.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi nhân duyên hòa hợp tác, không khác với vô nhân duyên hòa hợp tác nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí nhân duyên hòa hợp tác, không khác với vô nhân duyên hòa hợp tác, nên phát khởi tâm an ổn. Trí nhân duyên hòa hợp tác không khác với vô nhân duyên hòa hợp tác, nghĩa là thể của nhân duyên hòa hợp tác tức thể vô nhân duyên hòa hợp tác. Vì sao? - Vì thể của vô nhân duyên hòa hợp tác chẳng khác thể của nhân duyên hòa hợp tác. Thể của nhân duyên hòa hợp tác chẳng khác thể của vô nhân duyên hòa hợp tác. Tức thể của nhân duyên hòa hợp tác và vô nhân duyên hòa hợp tác nương vào trí vô nhân duyên hòa hợp tác và thể nhân duyên hòa hợp tác nên tất cả pháp đều vô nhân duyên hòa hợp tác.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi biệt tướng không khác với vô biệt tướng nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí biệt tướng không khác với vô biệt tướng nên phát khởi tâm an ổn. Trí biệt tướng không khác với vô biệt tướng, nghĩa là thể của biệt tướng tức thể của vô biệt tướng. Vì sao? - Vì thể vô biệt tướng chẳng khác thể biệt tướng. Thể biệt tướng chẳng khác thể vô biệt tướng. Tức thể biệt tướng và vô biệt tướng nương vào trí vô biệt tướng và thể biệt tướng kia nên tất cả pháp vô biệt tướng.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi văn tự không khác với không văn tự nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí văn tự không khác với không văn tự, nên phát khởi tâm an ổn. Trí văn tự không khác với không văn tự, nghĩa là thể của văn tự tức thể của không văn tự. Vì sao? - Vì thể không văn tự chẳng khác thể văn tự. Thể văn tự chẳng khác thể không văn tự. Tức thể văn tự là không văn tự, nương vào trí không văn tự và thể văn tự kia nên tất cả pháp không văn tự.
Văn Thù Sư Lợi! Đó là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được nhiều sự an ổn và không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được vô lượng an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi kiêu mạn không khác với không kiêu mạn nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí kiêu mạn không khác với không kiêu mạn, nên phát khởi tâm an ổn. Trí kiêu mạn không khác với không kiêu mạn, nghĩa là thể của kiêu mạn tức thể của không kiêu mạn. Vì sao? - Vì thể không kiêu mạn chẳng khác thể kiêu mạn. Thể kiêu mạn chẳng khác thể không kiêu mạn. Tức thể kiêu mạn vì không kiêu mạn, nương vào trí không kiêu mạn và thể kiêu mạn kia nên tất cả pháp không kiêu mạn.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi tự ca ngợi không khác với không tự ca ngợi nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí tự ca ngợi không khác với không tự ca ngợi, nên phát khởi tâm an ổn. Trí tự ca ngợi không khác với không tự ca ngợi, nghĩa là thể của tự ca ngợi tức thể của không tự ca ngợi. Vì sao? - Vì thể không tự ca ngợi chẳng khác thể tự ca ngợi. Thể tự ca ngợi chẳng khác thể không tự ca ngợi. Tức thể tự ca ngợi vì không tự ca ngợi, nương vào trí không tự ca ngợi và thể tự ca ngợi kia nên tất cả pháp không tự ca ngợi.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi không liễu nghĩa vì không khác với liễu nghĩa nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí liễu nghĩa không khác với không liễu nghĩa nên phát khởi tâm an ổn. Trí liễu nghĩa không khác với không liễu nghĩa, nghĩa là thể của bất liễu nghĩa tức liễu nghĩa. Vì sao? - Vì thể liễu nghĩa chẳng khác thể bất liễu nghĩa và thể bất liễu nghĩa chẳng khác thể liễu nghĩa. Tức thể bất liễu nghĩa là liễu nghĩa, nương vào trí liễu nghĩa và thể bất liễu nghĩa kia nên tất cả pháp đều liễu nghĩa.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi nhân pháp không khác với không nhân pháp nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí nhân pháp không khác không nhân pháp, nên phát khởi tâm an ổn. Trí nhân pháp không khác với không nhân pháp, nghĩa là thể của nhân pháp tức thể của không nhân pháp. Vì sao? - Vì thể không nhân pháp chẳng khác thể nhân pháp, và thể nhân pháp chẳng khác thể không nhân pháp, tức thể nhân pháp là không nhân pháp, nương vào trí của không nhân pháp và thể nhân pháp kia nên tất cả pháp không nhân pháp.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi tà kiến không khác với chánh kiến nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi tà kiến không khác với chánh kiến nên phát khởi tâm an ổn. Trí tà kiến không khác với chánh kiến, nghĩa là thể của tà kiến tức thể của chánh kiến. Vì sao? - Vì thể tà kiến chẳng khác thể chánh kiến. Thể chánh kiến chẳng khác thể tà kiến. Tức thể tà kiến là chánh kiến, nương vào trí của chánh kiến và thể của tà kiến kia nên tất cả pháp chánh kiến.
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng sự an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được nhiều sự an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi không bình đẳng không khác với bình đẳng nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi không bình đẳng không khác với bình đẳng, nên phát khởi tâm an ổn. Trí không bình đẳng không khác với bình đẳng, nghĩa là thể của không bình đẳng tức thể của bình đẳng. Vì sao? - Vì thể của bình đẳng chẳng khác thể không bình đẳng. Thể không bình đẳng chẳng khác thể bình đẳng. Tức thể không bình đẳng là bình đẳng, nương vào trí bình đẳng và thể không bình đẳng kia nên tất cả pháp bình đẳng.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi biên, không khác với vô biên nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí biên không khác với vô biên, nên phát khởi tâm an ổn. Trí biên không khác với vô biên, nghĩa là thể của biên tức thể của vô biên. Vì sao? - Vì thể của vô biên chẳng khác thể biên. Thể biên chẳng khác thể vô biên. Tức thể biên là vô biên, nương vào trí của vô biên và thể biên kia nên tất cả pháp vô biên.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi tri khả tri không khác với trí nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi tri khả tri không khác với trí, nên phát khởi tâm an ổn. Tri khả tri không khác với trí, nghĩa là thể của tri khả tri tức là thể của trí. Vì sao? - Vì thể của trí chẳng khác thể của tri khả tri. Thể của tri khả tri chẳng khác thể của trí. Tức thể tri khả tri là thể trí, nương vào trí của thể tri khả tri kia để có về trí nhất thiết pháp.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi thủ không khác với không thủ nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác được trí trụ nơi thủ không khác với không thủ, nên phát khởi tâm an ổn. Trí thủ không khác với không thủ, nghĩa là thể của thủ tức thể của không thủ. Vì sao? - Vì thể của không thủ chẳng khác thể của thủ. Thể của thủ chẳng khác thể không thủ. Tức thể thủ là không thủ, nương vào trí không thủ và thể thủ kia nên tất cả pháp không thủ.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi tu hành không khác với không tu hành, nên sanh tâm an ổn; làm cho người khác trụ nơi trí tu hành không khác với không tu hành nên phát khởi tâm an ổn. Trí tu hành không khác với không tu hành, nghĩa là thể của tu hành tức thể không tu hành. Vì sao? - Vì thể tu hành chẳng khác không tu hành. Thể không tu hành chẳng khác thể tu hành. Tức thể là tu hành là không tu hành, nương vào trí không tu hành và thể tu hành kia nên tất cả pháp không tu hành.
Văn Thù Sư Lợi! Đó là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tinh hoan hỷ địa, được vô lượng an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được nhiều sự an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi phi trung đạo không khác với trung đạo nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí phi trung đạo không khác với trung đạo, nên phát khởi tâm an ổn. Phi trung đạo không khác với trung đạo, nghĩa là thể của phi trung đạo tức thể của trung đạo. Vì sao? - Vì thể của trung đạo chẳng khác thể phi trung đạo. Thể phi trung đạo chẳng khác thể trung đạo. Tức thể phi trung đạo là trung đạo, nương vào trí trung đạo và thể của phi trung đạo kia nên tất cả pháp trung đạo.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi phi hư không, không khác với hư không nên sanh tâm an ổn; làm cho người khác trụ nơi trí phi hư không không khác hư không, nên phát khởi tâm an ổn. Trí phi hư không không khác với hư không, nghĩa là thể của chẳng phải hư không tức thể của hư không. Vì sao? - Vì thể hư không chẳng khác thể chẳng phải hư không. Thể chẳng phải hư không chẳng khác thể hư không. Tức thể chẳng phải hư không là hư không, nương vào thể của phi hư không và hư không trí nên biết tất cả pháp hư không.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi bình đẳng chẳng phải con của thạch nữ không khác với bình đẳng con của thạch nữ nên sanh tâm an ổn; làm cho người khác trụ nơi trí bình đẳng chẳng phải con của thạch nữ không khác bình đẳng con của thạch nữ, nên phát khởi tâm an ổn. Trí bình đẳng chẳng phải con của thạch nữ không khác với bình đẳng con của thạch nữ, nghĩa là thể chẳng phải con của thạch nữ bình đẳng tức thể con của thạch nữ bình đẳng. Vì sao? - Vì thể con của thạch nữ bình đẳng chẳng khác thể chẳng phải con của thạch nữ bình đẳng. Thể chẳng phải con của thạch nữ bình đẳng chẳng khác với thể con của thạch nữ bình đẳng. Tức thể chẳng phải con của thạch nữ bình đẳng vì con của thạch nữ bình đẳng, nương vào trí con của thạch nữ bình đẳng và thể chẳng phải con của thạch nữ bình đẳng kia nên tất cả pháp con của thạch nữ bình đẳng.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi chẳng phải quáng nắng không khác với như quáng nắng nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí chẳng phải quáng nắng không khác như quáng nắng, nên phát khởi tâm an ổn. Trí chẳng phải như quáng nắng không khác với như quáng nắng, nghĩa là thể của chẳng phải như quáng nắng tức thể như quáng nắng. Vì sao? - Vì thể như quáng nắng tức thể chẳng phải như quáng nắng. Thể chẳng phải như quáng nắng tức thể như quáng nắng. Vì thể chẳng phải như quáng nắng tức thể như quáng nắng, nương vào trí như quáng nắng và thể chẳng phải như quáng nắng kia nên tất cả pháp như quáng nắng.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi tà kiến không khác với không tà kiến nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí tà kiến không khác với không tà kiến, nên phát khởi tâm an ổn. Trí tà kiến không khác với không tà kiến, nghĩa là thể của tà kiến tức thể của không tà kiến. Vì sao? - Vì thể không tà kiến chẳng khác thể tà kiến. Thể tà kiến chẳng khác thể không tà kiến. Tức thể tà kiến nên không tà kiến, nương vào trí không tà kiến và thể của tà kiến kia nên tất cả pháp không tà kiến.
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này, có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được nhiều an ổn, không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được vô lượng an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi trí vô minh không khác với minh nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí vô minh không khác với minh, nên phát khởi tâm an ổn. Trí vô minh không khác với minh, nghĩa là thể của vô minh tức thể của minh. Vì sao? - Vì thể của minh chẳng khác thể vô minh. Thể vô minh chẳng khác thể minh. Tức thể vô minh là minh, nương vào trí của minh và thể của vô minh kia nên tất cả pháp minh.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi tham không khác với không tham nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí tham không khác với không tham, nên phát khởi tâm an ổn. Trí tham không khác với không tham, nghĩa là thể của tham tức thể của không tham. Vì sao? - Vì thể không tham chẳng khác thể tham. Thể tham chẳng khác thể không tham. Tức thể tham là không tham, nương vào trí của không tham và thể tham kia nên tất cả pháp không tham.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi sân không khác với không sân nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí sân không khác với không sân, nên phát khởi tâm an ổn. Trí sân không khác với không sân, nghĩa là thể của sân tức thể của không sân. Vì sao? - Vì thể của không sân chẳng khác thể sân. Thể sân chẳng khác thể không sân. Tức thể sân là không sân, nương vào trí không sân và thể sân kia nên tất cả pháp không sân.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi si không khác với không si nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí si không khác với không si, nên phát khởi tâm an ổn. Trí si không khác với không si, nghĩa là thể của si tức thể của không si. Vì sao? - Vì thể của không si chẳng khác thể si. Thể si chẳng khác thể không si. Tức thể si là không si, nương vào trí của không si và thể si kia nên tất cả pháp không si.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi y cứ không khác với không y cứ nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí y cứ không khác với không y cứ, nên phát khởi tâm an ổn. Trí y cứ không khác với không y cứ, nghĩa là thể của y cứ tức thể của không y cứ. Vì sao? - Vì thể không y cứ chẳng khác thể y cứ. Thể y cứ chẳng khác thể không y cứ. Tức thể y cứ vì không y cứ, nương vào trí của không y cứ và thể y cứ kia nên tất cả pháp không y cứ.
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh ịtnh hoan hỷ địa và được vô lượng an ổn, không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được vô lượng an ổn, không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi bố thí và thực hành nhiếp thọ sự nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí bố thí và thực hành nhiếp thọ sự nên phát khởi tâm an ổn. Trí bố thí và thực hành nhiếp thọ sự nghĩa là bố thí và hồi hướng.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi ái ngữ và thực hành nhiếp thọ sự nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí ái ngữ và thực hành nhiếp thọ sự nên phát khởi tâm an ổn. Trí ái ngữ và thực hành nhiếp thọ sự nghĩa là trực tâm để tu hành.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi lợi ích thực hành nhiếp thọ sự nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí lợi ích thực hành nhiếp thọ sự nên phát khởi tâm an ổn. Trí lợi ích thực hành nhiếp thọ sự nghĩa là đại từ đại bi.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi đồng sự thực hành nhiếp thọ sự nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí đồng sự thực hành nhiếp thọ sự nên phát khởi tâm an ổn. Trí đồng sự thực hành nhiếp thọ sự nghĩa là phương tiện và trí tuệ.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trí trụ nơi phát tâm nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi trí phát tâm nên phát khởi tâm an ổn. Trí phát tâm nghĩa là trực tâm và tu hành.
Văn Thù Sư Lợi! Đó là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được vô lượng an ổn, không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi tâm ly tham nên sanh tâm an ổn; làm cho người khác trụ nơi tâm ly tham nên phát khởi tâm an ổn. Tâm ly tham nghĩa là không chấp trước tất cả pháp.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi tâm ly sân nên sanh tâm an ổn; làm cho người khác trụ nơi tâm ly sân nên phát khởi tâm an ổn. Tâm ly sân nghĩa là không sanh tâm hiềm hận đối với tất cả những chúng sanh khác.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi thân nghiệp không tạo những hành động ác nên sanh tâm an ổn; làm cho người khác trụ nơi thân nghiệp không tạo các hành động ác nên phát khởi tâm an ổn. Thân nghiệp không tạo những hành động ác nghĩa là xa lìa ba loại thân hành ác.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi khẩu nghiệp không tạo những hành ác nên sanh tâm an ổn; làm cho người khác trụ nơi khẩu nghiệp không tạo những hành ác nên phát khởi tâm an ổn. Khẩu nghiệp không tạo những hành ác nghĩa là xa lìa bốn thứ lỗi của khẩu nghiệp.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi ý nghiệp không tạo những thói ác nên sanh tâm an ổn; làm cho người khác trụ nơi ý nghiệp không tạo những thói ác nên phát khởi tâm an ổn. Ý nghiệp không tạo những thói ác nghĩa là xa lìa những thói ác: tham, sân, si.
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào đượcnăm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng an ổn, không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được nhiều an ổn, không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi chánh niệm Phật nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi chánh niệm Phật nên phát khởi tâm an ổn. Chánh niệm Phật nghĩa là nghĩ về hạnh thanh tịnh của Phật.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi chánh niệm về Pháp nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi chánh niệm về Pháp nên phát khởi tâm an ổn. Chánh niệm về Pháp nghĩa là thấy Pháp thanh tịnh.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi chánh niệm Tăng nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi chánh niệm Tăng nên phát khởi tâm an ổn. Chánh niệm Tăng nghĩa là được vào địa vị Bồ tát.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi chánh niệm về xả nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi chánh niệm về xả nên phát khởi tâm an ổn. Chánh niệm về xả nghĩa là buông bỏ tất cả những chấp chặt.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi chánh niệm về giới nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi chánh niệm về giới nên phát khởi tâm an ổn. Chánh niệm về giới nghĩa là được vào tất cả pháp.
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh ịtnh hoan hỷ địa, được vô lượng an ổn, không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được nhiều an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát suy nghĩ thế này: Ta đã được trụ nơi quán vô thường nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi quán vô thường nên phát khởi tâm an ổn. Quán vô thường nghĩa là vượt qua tham dục, tham sắc, tham vô sắc.
2- Bồ tát suy nghĩ thế này: Ta đã được trụ nơi quán vô ngã nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi quán vô ngã nên phát khởi tâm an ổn. Quán vô ngã nghĩa là không đắm trước tất cả sự quán.
3- Bồ tát suy nghũ thế này: Ta đã được trụ nơi pháp chắc thật nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi pháp chắc thật nên phát khởi tâm an ổn. Pháp chắc thật nghĩa là không dối gạt chư thiên và loài người.
4- Bồ tát suy nghĩ thế này: Ta đã được trụ nơi pháp thật nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi pháp thật nên phát khởi tâm an ổn. Pháp thật nghĩa là không lừa dối chư thiên và chính mình.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi các pháp hành nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi các pháp hành nên phát khởi tâm an ổn. Các pháp hành nghĩa là nương tựa vào tất cả các pháp hành,
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được nhiều an ổn không sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng an ổn không sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới kiên cố nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới kiên cố nên phát khởi tâm an ổn. Giới kiên cố nghĩa là không phạm cho dù một giới rất nhỏ, không làm một tội nhỏ nhặt nào.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới trọn vẹn nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới trọn vẹn nên phát khởi tâm an ổn. Không khuyết giới nghĩa là không mong cầu những thừa khác.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới hoàn thiện nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới hoàn toàn nên phát khởi tâm an ổn. Giới hoàn thiện nghĩa là xa lìa tất cả những hành động xấu ác.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới không vẩn đục nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới không vẩn đục nên phát khởi tâm an ổn. Giới không vẩn đục nghĩa là bảo hộ tất cả Bồ tát.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới khéo hộ trì nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới khéo hộ trì nên phát khởi tâm an ổn. Giới khéo hộ trì nghĩa là sanh lòng tôn kính đối với tất cả các Bồ tát.
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này, có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng an ổn, không còn sợ hãi.
Này Văn Thù Sư Lợi! Các đại Bồ tát có năm pháp có thể thanh tịnh hoan hỷ địa, được vô lượng an ổn, không còn sợ hãi. Đó là:
1- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới khéo nghiêm mật nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới khéo nghiêm mật nên phát khởi tâm an ổn. Giới khéo nghiêm mật nghĩa là khéo giữ gìn tất cả các căn.
2- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới danh xưng nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới danh xưng nên phát khởi tâm an ổn. Giới danh xưng nghĩa là nhập vào pháp giới các pháp không sai biệt, vì trí bất nhị không chướng ngại.
3- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới tri túc nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới tri túc nên phát khởi tâm an ổn. Giới tri túc nghĩa là xa lìa tất cả tham.
4- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới sai biệt nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới sai biệt nên phát khởi tâm an ổn. Giới sai biệt nghĩa là thân vắng lặng.
5- Bồ tát phát tâm thế này: Ta đã được trụ nơi giới chỗ A-lan-nhã nên sanh tâm an ổn, làm cho người khác trụ nơi giới chỗ A-lan-nhã nên phát khởi tâm an ổn. Giới chỗ A-lan-nhã nghĩa là nhập vào các pháp không thiên lệch.
Văn Thù Sư Lợi! Đây là năm pháp.
Các đại Bồ tát nào được năm pháp này có thể thanh tịnh hoan hỷ địa và được vô lượng an ổn, không sợ hãi.

« Kinh này có tổng cộng 5 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Cho là nhận


Sống thiền


Kinh Kim Cang


Hát lên lời thương yêu

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.137.175.83 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập