Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 9 »»

Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 9

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.57 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.71 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Quán Phật Tam Muội Hải

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Tuệ Khai

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM THỨ TÁM : BẢN HẠNH
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng:
- Như Lai có ba mươi hai tướng bậc đại nhân, tám mươi vẻ đẹp kèm theo và ánh sáng màu vàng. Mỗi một ánh sáng có vô lượng vị hóa Phật. Những lỗ chân lông trên thân, tất cả đều biến hiện - Sắc thân của Phật, ta đã lược nói. Hôm nay ta vì lúc hội đại chúng này và vua Tịnh Phạn, lược nói về tướng tốt. Phật sinh ra ở nhân gian thị hiện đồng việc với con người. Nhân đồng tướng với con người nên nói Phật có ba mươi hai tướng hơn cả chư thiên, nói có tám mươi vẻ đẹp và vì các vị Bồ tát nói tám muôn bốn ngàn những tướng đẹp vi diệu, tướng tốt chân thật của Phật. Ta lúc mới thành đạo tại đạo tràng Tịch Diệt ở nước Ma Già Đà, vì những vị Đại Bồ tát Phổ Hiền, Hiền Thủ.v.v..., ở kinh Tạp Hoa đã phân biệt rộng rãi. Trong tôn pháp này, ta sở dĩ lược nói là vì các phàm phu và bốn bộ đệ tử bài báng kinh Phương Đẳng, tạo tác tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng cấm, trộm vật của tăng kỳ, dâm Tỳ kheo ni, phá tám giới trai... làm các việc ác, đủ thứ tà kiến. Những người như vậy, nếu có thể chí tâm trong một ngày một đêm ràng buộc ý niệm ở trước Phật quán tưởng một tướng tốt của Như Lai thì những tội chướng ác đều diệt hết. Vậy nên Như Lai gọi là Bà Già Bà, gọi là A La Ha, gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà, gọi là Mặt trời Công Đức, gọi là Trí Nguyệt Mãn, gọi là Thanh Lương Địa, gọi là Ngọc Trừ Tội, gọi là Quang Minh Tạng, gọi là Núi Trí Tuệ, Sông Giới Phẩm, gọi là Dẫn Đường Mê, gọi là Đèn Soi Tà Kiến, gọi là Phá giặc phiền não, gọi là Cha Mẹ của tất cả chúng sinh, gọi là chỗ Qui Y lớn. Nếu có người qui y Phật Thế Tôn, hoặc xưng danh thì trừ được nghiệp chướng nặng phiền não của trăm ngàn kiếp, huống gì là chính tâm tu niệm Phật định.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Như Lai, thuở xưa vô lượng vô biên atăngkì kiếp đã dùng lửa trí tuệ thiêu đốt củi phiền não, tu định vô tướng, chẳng chứng phi thời (chứng quả chẳng phải lúc). Vậy nên thu hoạch được thắng tướng như vậy. Trong mỗi một tướng có vô lượng vị hóa Phật, huống gì là nhiều tướng. Nếu có thể ràng buộc lòng quán tưởng một lỗ chân lông thì người đó gọi là hành Niệm Phật định. Do Niệm Phật nên các đức Phật mười phương thường đứng trước mặt vì họ nói chánh pháp. Người này có thể sinh ra trong dòng giống các đức Như Lai ba đời, huống gì niệm tưởng sắc thân Phật đầy đủ. Như Lai cũng có vô lượng pháp thân, mười lực, vô úy, tam muội giải thoát, các việc thần thông. Những chỗ vi diệu như thế này chẳng phải cảnh giới sở học của hạng phàm phu các ông mà chỉ phải thâm tâm khởi lên tư tưởng tùy hỷ. Khởi tưởng đó rồi, ông lại sẽ phải ràng buộc ý niệm nghĩ đến công đức của Phật. Nghĩ đến công đức Phật là nghĩ đến giới, định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, màu vàng, ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp theo hình, mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại bi, ba (?) niệm xứ... đó. Nếu có chúng sinh một lần nghe thân Phật công đức tướng hảo quang minh như trên thì ức ức ngàn kiếp chẳng đọa vào đường ác, chẳng sinh ra nơi tà kiến, uế tạp, thường được chánh kiến, siêng năng tu hành chẳng dứt, chỉ nghe danh xưng Phật, thu hoạch phước như vậy, huống gì là ràng buộc ý niệm quán tưởng Phật tam muội.
Lúc bấy giờ, khi đức Thế Tôn nói lời này, ở trong hư không có đài thất bảo. Trên mỗi một đài có hàng trăm ức bảo cái, trời mưa xuống hoa báu cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử ngồi kiết già trong đài báu, cùng mười ức Bồ tát trụ ở trong hư không khen rằng :
- Hay thay! Hay thay! Đức Thích Ca Mâu Ni, bậc Đại Bi Thế Tôn, nói về tướng thân của Phật! Thị hiện uy nghi của Phật! Hiện lên ánh sáng của Phật! Hiển bày các vị hóa Phật! Vì chúng sinh phàm phu đời vị lai chẳng thấy Phật mà tạo tác nhân duyên thấy Phật! Hay thay! A-nan, vị pháp tử từ bi! Tên ngài Hoan Hỷ! Nương tên ngài định thật! Ngài giỏi giữ gìn lời nói của đức Phật, thận trọng chớ quên mất. Chúng sinh đời vị lai nghe Ngài nói tức là thấy Phật! Tư duy ý nghĩa này là thấy sắc thân vi diệu của Phật đầy đủ.
Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù nói lời này rồi thì cùng với các đại chúng Bồ tát quyến thuộc từ trên hư không mà xuống, kính lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, lui về đứng một phía.
Đức Phật bảo ngài Văn Thù rằng :
- Này Phật tử! Ông nay tại tòa ngồi, khi tác khởi sự quán tưởng này thì đất mọc ra hoa sen dọc ngang bằng tròn một do tuần. Này Văn Thù Sư Lợi và các Bồ tát hãy ngồi lên đài hoa sen!
Lúc ấy, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử đã ngồi rồi, bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Con nay tự muốn nói về nhân duyên bản sinh thuở xưa! Nguyện xin đức Thế Tôn gia thêm uy thần cho con!
Đức Phật bảo ngài Văn Thù rằng :
- Hãy mau nói đi! Chớ nghi ngờ!
Ngài Văn Thù Sư Lợi bảo các đại chúng và đáp lại tôn giả A-nan rằng :
- Thưa ngài A-nan! Ngài phải biết, tôi nhớ thuở quá khứ vô lượng số kiếp, lại gấp bội số chẳng thể nghĩ tính atăngkì kiếp đó. Ở thế giới kia có đức Phật hiệu là Bảo Oai Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Đức Phật kia khi ra đời, chúng sinh thuở ấy cũng tệ ác như nay không khác. Đức Phật Thế Tôn đó cũng thân một trượng sáu, màu vàng tía, cũng nói pháp ba Thừa như đức Thích Ca Văn. Lúc đó, nước kia có vị đại trưởng giả tên là Nhất Thiết Thí. Vị trưởng giả có đứa con tên là Giới Hộ, khi ở trong thai mẹ thì người mẹ tin kính nên vui mừng vì đứa con ấy thọ ba qui y. Đứa con đã sinh ra rồi, năm đến tám tuổi, cha mẹ thỉnh đức Phật đến nhà cúng dường. Đức trẻ thấy đức Phật từ từ bước đi an tường, sau chân mọc lên hoa có ánh sáng lớn. Nó thấy rồi vui mừng vì đức Phật làm lễ, lễ rồi quan sát kỹ càng, mắt chẳng tạm rời bỏ. Một khi thấy đức Phật rồi liền có thể trừ khước được trăm vạn ức nadotha kiếp tội sinh tử. Từ đó trở về sau luôn luôn được gặp trăm ức nadotha hằng hà sa số đức Phật, ở chỗ các đức Phật gieo trồng mọi gốc đức. Các đức Thế Tôn đó đều nói về Quán Phật tam muội như vậy, cũng khen ngợi ánh sáng tướng đại nhân Bạch Hào, khuyên nhiều chúng sinh sám hối, ràng buộc ý niệm. Qua hết thời gian đó, về sau lại được gặp đức Phật hiệu là Ma Ni Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà. Khi đức Phật Ma Ni Quang xuất hiện ở đời thì thường phóng ra ánh sáng để làm Phật sự, độ thoát nhân dân. Cứ như vậy, hai vạn đức Phật đồng một hiệu danh là Ma Ni Quang, những đức Thế Tôn đó đều dùng ánh sáng vi diệu của vị Hóa Phật mà dẫn dụ chúng sinh. Tiếp theo, có đức Phật hiệu là Chiên Đàn Ma Ni Quang với mười hiệu đầy đủ, cứ như vậy có trăm ức đức Phật đều hiệu là Chiên Đàn Ma Ni Quang, các đức Thế Tôn đó, do sức thệ nguyện nên chỉ dùng ánh sáng tướng Bạch Hào vùng chân mày che chở hộ trì chúng sinh trừ diệt mọi tội. Lại có đức Phật ra đời hiệu là Chiên Đàn Hải Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri... cứ như vậy, một trăm vạn đức Phật đều đồng một danh hiệu là Chiên Đàn Hải, các đức Thế Tôn đó dùng ánh sáng in chữ Vạn, chữ Đức ở ngực mà hóa độ chúng sinh. Đồng tử đó gần gũi hầu hạ các đức Phật không rỗng khuyết, lễ bái, cúng dường, chắp tay quán tưởng đức Phật. Nhờ sức nhân duyên công đức quán tưởng Phật nên lại được gặp trăm vạn atăngkì đức Phật. Các đức Thế Tôn đó cũng dùng sắc thân hóa độ chúng sinh. Từ đó về sau, đồng tử liền được trăm ngàn ức Niệm Phật tam muội, được trăm vạn atăngkì Toàn Đà La Ni. Đã được những điều này rồi thì các đức Phật hiện tiền nói pháp Vô tướng, chừng trong khoảnh khắc đồng tử được Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Đồng tử kia thọ Tam qui y chỉ một lần lễ Phật, quan sát kỹ càng tướng Phật, lòng không mệt chán. Do cái nhân duyên này được gặp vô số đức Phật, huống gì là ràng buộc ý niệm tư duy, quán tưởng sắc thân của đức Phật đầy đủ. Vị đồng tử lúc đó đâu phải ai khác ư ? Chính là thân của tôi hôm nay đó!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :
- Hay thay! Hay thay! Này Văn Thù Sư Lợi! Ông thuở xưa chỉ một lần lễ Phật mà được gặp vô số các đức Phật như vậy, huống gì là đời vị lai, các đệ tử của ta tinh cần quán tưởng Phật - Đức Phật sắc bảo ngài A-nan - Ông hãy đem lời nói của ông Văn Thù Sư Lợi bảo khắp đại chúng và chúng sinh đời vị lai, nếu có người hay lễ bái, hoặc hay niệm Phật, hoặc hay quán tưởng Phật thì phải biết rằng, người này cùng với Văn Thù Sư Lợi ngang bằng không có khác. Văn Thù Sư Lợi .v.v... các vị Đại Bồ tát là Hòa thượng của người ấy.
Khi nói lời đó, trong chúng Bồ tát có một Phật tử tên là Tài Thủ liền đứng dậy, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, cung kính lễ bái, cùng lễ dưới chân ngài Văn Thù Sư Lợi, dùng hoa Mạn đà la, hoa Đại Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Đại Mạn thù sa của trời mà tung lên trên đức Phật và tung lên trên ngài Văn Thù Sư Lợi, cũng tung lên trên tôn giả A-nan. Những hoa trời đó đang ở trên dức Phật hóa làm đài bằng hoa. Ở bên trong đài bằng hoa, có chư Phật mười phương ngồi kiết già.
Phương Đông, đức Phật Thiện Đức bảo đại chúng rằng :
- Các ông phải biết rằng, ta nhớ thuở vô lượng đời quá khứ, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri... Khi đức Phật đó ra đời, cũng như ngày hôm nay, ngài nói pháp ba thừa. Đức Phật đó có một vị Tỳ kheo có chín người đệ tử. Ông cùng với các đệ tử đi đến tháp Phật, lễ bái tượng Phật, thấy một tượng báu nghiêm hiển khả quan. Đã lễ bái xong, mắt nhìn kỹ tượng, nói kệ khen ngợi, rồi tùy theo thọ mạng ngắn dài, họ đều tự mạng chung. Đã mạng chung xong, họ sinh vào đất nước của đức Phật Bảo Uy Đức Thượng Vương ở phương Đông. Họ bỗng nhiên hóa sinh ngồi kiết già tại trên hoa sen. Từ đây về sau, họ luôn luôn được gặp vô lượng các đức Phật, ở chỗ các đức Phật tịnh tu phạm hạnh và được Niệm Phật tam muội hải. Đã được tam muội này rồi thì các đức Phật hiện tiền liền cùng trao ký cho, ở mười phương diện tùy ý làm Phật. Đức Phật Thiện Đức ở phương Đông chính là thân ta đó. Đức Chiên Đàn Đức ở phương Nam, đức Phật Vô Lượng Minh ở phương Tây, đức Phật Tương Đức ở phương Bắc, đức Phật Vô Ưu Đức ở phương Đông nam, đức Phật Bảo Thí ở phương Tây nam, đức Phật Hoa Đức ở phương Tây bắc, đức Phật Tam Thừa Hạnh ở phương Đông bắc, đức Phật Quảng Chúng Đức ở thượng phương, đức Phật Minh Đức ở hạ phương... Mười đức Phật Thế Tôn như vậy nhân do lễ tháp, một lần dùng kệ khen ngợi nên ở mười phương diện được làm Phật. Những vị Phật ấy đâu phải ai khác ư ? Chúng ta là những vị Phật của mười phương đó. Những vị Phật mười phương từ trên không mà hạ xuống, phóng ra hàng ngàn ánh sáng, hiển hiện ánh sáng tướng Bạch Hào của sắc thân, mỗi mỗi đều ngồi trên giường của đức Phật Thích Ca, đều duỗi tay phải xoa đầu ngài A-nan bảo rằng:
- Này Pháp tử! Hòa thượng Thích Ca Mâu Ni của ông, trăm ngàn khổ hạnh, vô số tinh tấn, cầu trí tuệ của Phật, kết quả được sắc tướng quang minh của thân đó! Nay ngài vì ông diễn nói, ông hãy đem lời nói của đức Phật vì trời, rồng, đại chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di ở đời vị lai mà nói rộng rãi phép quán tưởng Phật và tam muội niệm Phật.
Nói lời đó xong, các đức Phật thăm hỏi sự sinh hoạt yên ổn của đức Phật Thích Ca Văn. Thăm hỏi xong rồi, các đức Phật phóng ra ánh sáng lớn, đều trở lại bản quốc.
Bấy giờ, đại chúng trong hội nhìn thấy đất nước lớn nhỏ của các đức Phật mười phương và các vị Bồ tát như ở trước gương sáng nhìn thấy mọi sắc tượng. Những hoa đã tung lên của Bồ tát Tài Thủ, đang ở trên ngài Văn Thù, liền biến hóa thành đài báu bốn trụ. Ở bên trong đài ấy có bốn đức Thế Tôn nghiễm nhiên ngồi, phóng ra ánh sáng của thân, phương Đông Phật A Súc, phương Nam Phật Bảo Tướng, phương Tây Phật Vô Lượng Thọ, phương Bắc Phật Vi Diệu Thanh. Bốn đức Thế Tôn dùng hoa sen vàng tung lên trên đức Phật Thích Ca, hoa chưa đến bên trên đức Phật đã hóa làm trướng hoa, có vạn ức cánh. Trong mỗi một cánh có trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật phóng ra ánh sáng, trong ánh sáng lại có vô số vị hóa Phật. Trướng báu thành rồi thì bốn đức Phật Thế Tôn từ trên không mà xuống ngồi trên giường của đức Phật Thích Ca khen rằng :
- Hay thay! Hay thay! Chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới có thể vì chúng sinh ác trược đời vị lai mà nói lên tướng ánh sáng Bạch Hào của Phật ba đời, khiến cho các chúng sinh được diệt trừ tội lỗi. Sở dĩ vì sao ? Vì, ta nhớ thuở xưa, đã từng ở chỗ đức Phật Không Vương, xuất gia học đạo. Có bốn vị Tỳ kheo cùng là đồng học, học tập chánh pháp của chư Phật ba đời. Do phiền não che lấp tâm nên chẳng thể kiên trì kho báu Phật pháp, chúng ta tạo nhiều nghiệp chẳng lành, phải rơi vào đường ác. Bấy giờ có tiếng trong hư không nói rằng : “ Này bốn Tỳ kheo các ông! Đức Như Lai Không Vương tuy đã Niết bàn, nhưng sự sai phạm của các ngươi chẳng phải là không cứu được! Nay các ông phải vào tháp quán tưởng Phật, so với Phật còn tại thế bằng nhau không có khác”. Chúng ta theo tiếng nói trên không, vào tháp quán tưởng tướng Bạch Hào vùng chân mày của tượng, liền nghĩ rằng : “ Thân sắc quang minh của đức Như Lai lúc còn tại thế so với tượng này nào có khác! Tướng Đại nhân của đức Phật, nguyện xin tiêu trừ tội của con”. Nói lời đó xong, như núi lớn lở, họ gieo năm vóc xuống đất, sám hối các tội, quán tưởng vùng chân mày đức Phật. Do nhân duyên sám hối nên từ đó về sau, tám mươi ức atăngkì kiếp, chẳng bị đọa vào đường ác, đời đời thường thấy chư Phật mười phương, ở chỗ các đức Phật thọ trì Niệm Phật tam muội thậm thâm. Được tam muội rồi, bốn vị Tỳ kheo được các đức Phật hiện tiền thọ ký.
Ở phương Đông có đất nước tên là Diệu Hỷ. Cõi ấy có đức Phật hiệu là A Súc, tức là vị Tỳ kheo thứ nhất đó. Ở phương Nam có đất nước tên là Hoan Hỷ, có đức Phật hiệu là Bảo Tướng, tức là vị Tỳ kheo thứ hai đó. Ở phương Tây có đất nước tên là Cực Lạc, có đức Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, tức là vị Tỳ kheo thứ ba đó. Ở phương Bắc có đất nước tên là Liên Hoa Trang Nghiêm, có đức Phật hiệu là Vi Diệu Thanh, tức là vị Tỳ kheo thứ tư đó. Lúc này, bốn vị Như Lai đều duỗi tay phải xoa đầu ngài A-nan bảo rằng :
- Này pháp tử! Ông hãy đem lời nói của đức Phật vì những chúng sinh đời vị lai diễn nói rộng rãi!
Nói ba lần lời này xong, các đức Phật đều phóng ra ánh sáng, rồi trở về bản quốc. Những hoa của Bồ tát Tài Thủ đã tung lên đang trụ ở bên trên ngài A-nan thì hóa thành đám mây hoa cùng khắp mười phương. Mỗi một đám mây có vô số vị hóa Phật, đều duỗi cánh tay phải xoa đỉnh đầu ngài A-nan, bảo rằng :
- Này Pháp tử! Những hóa thân của các đức Phật Như Lai cũng như của chúng ta ngang bằng không có khác! Nay ông gần gũi nhìn thấy thì hãy vì tất cả chúng sinh đời vị lai mà phân biệt diễn nói rộng rãi, khiến cho các chúng sinh tu hành niệm Phật. Nếu người niệm Phật thì được thấy hóa Phật so với hôm nay không khác. Nếu có chúng sinh nghe lời của ông nói tức là thấy Phật, trừ được vô lượng tội.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Tài Thủ bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Con nhớ thuở vô lượng đời quá khứ, có đức Phật Thế Tôn cũng hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau khi đức Phật đó diệt độ, có một vương tử tên là Kim Tràng, kiêu mạn, tà kiến, chẳng tín chánh pháp. Có vị tri thức Tỳ kheo tên là Định Tự Tại bảo vương tử rằng : “ Đời có tượng Phật nghiêm sức bằng mọi thứ báu, rất là khả ái, có thể ngài tạm vào tháp để quan sát hình tượng đức Phật”. Vị vương tử đó theo lời nói của bạn lành vào tháp, quán tưởng tượng. Thấy tướng tốt của tượng, vương tử bạch rằng : “Thưa Tỳ kheo! Tượng Phật mà còn đoan nghiêm như thế này, huống là thân Phật chân thật”. Nói lời đó xong thì vị Tỳ kheo bảo rằng : “ Ngài nay thấy tượng nếu chẳng thể lễ bái thì hãy xưng Nam mô Phật”. Lúc đó, vị vương tử chắp tay, cung kính xưng : “ Nam mô Phật”, rồi trở về cung, ràng buộc ý niệm, nghĩ đến tượng Phật trong tháp. Tức thời, vào đêm sau, vương tử mơ thấy tượng Phật. Thấy tượng Phật rồi nên lòng vui mừng, vương tử lìa bỏ tà kiến, qui y Tam Bảo, theo tuổi thọ mạng chung. Do công đức nhân duyên vào tháp, xưng Nam mô Phật ngày trước nên luôn luôn được gặp chín trăm vạn ức nadotha Phật, ở chỗ các đức Phật thường siêng tinh tấn, chứng được Niệm Phật tam muội thậm thâm. Nhờ tam muội lực nên các đức Phật hiện tiền vì vương tử ấy thọ ký. Từ đó đến nay, qua trăm vạn atăngkì kiếp chẳng bị đọa vào ba đường ác, cho đến ngày hôm nay thu hoạch được Thủ Lăng Nghiêm tam muội thậm thâm. Vị vương tử lúc bấy giờ là Tài Thủ ta hôm nay đó. Những vị đại Bồ tát như vậy.v.v... số ấy nhiều không lường đều nói về nhân duyên xưa, nương vào phép niệm Phật mà được, như kinh Bản Sinh đã nói.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các đại chúng rằng :
- Ta nhớ thuở quá khứ, vô số kiếp, bấy giờ có đức Phật hiệu là Chiên Đàn Quật Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, mười hiệu đầy đủ, ở trong núi Chư Đức tại cõi Diêm Phù Đề. Ngài ở trong núi đó, xuất gia học đạo đủ trọn bảy kiếp, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, cõi đời đó có hai đồng tử nghe nhiều (ham học nhiều) không chán, du hành khắp nước tham hỏi các Bàlamôn. Có một vị Bàlamôn tên là Lao Độ Xoa Già bảo rằng : “ Này đồng tử! Thế gian có đức Phật hiệu là Chiên Đàn Quật, hai người các ông nên đi đến chỗ đó mà cầu luận pháp nghĩa”. Hai đồng tử trưởng giả, một tên là Nhất Thiết Hỷ Kiến, đồng tử thứ hai tên là Dũng Mãnh Khải (giáp đồng) đều đến chỗ đức Phật, đều đem hoa trời cùng tung lên đức Như Lai. Lúc ấy, đức Thế Tôn lặng yên thiền định, vào tam muội vua của tam muội, thân tâm chẳng động, khắp hiện sắc thân của tất cả chư Phật với vô số ánh sáng như kinh Bát nhã Balamật đã nói. Hai đồng tử thấy sắc thân của Phật và thấy ánh sáng tức thời vượt qua khỏi nadoatha hằng hà sa số atăngkì kiếp tội sinh tử, luôn luôn được gặp vô lượng vô số trăm ngàn các đức Phật, ở chỗ các đức Phật tu hành Niệm Phật tam muội thậm thâm, hiện tiền được thấy các đức Phật mười phương vì mình diễn nói pháp luân chẳng thoái chuyển. Vị đồng tử thứ nhất đâu phải ai khác ư ? Là Bồ tát Di Lặc hôm nay đó! Vị đồng tử thứ hai chính là ta, Thích Ca Mâu Ni hôm nay đó! Ta cùng với các vị Bồ tát của kiếp Hiền đã từng ở chỗ của đức Phật Chiên Đàn Quật trong quá khứ nghe quán Phật Tam Muội Hải biến hóa sắc thân của chư Phật đó. Do sức công đức nhân duyên đó nên siêu việt chín trăm vạn ức atăngkì kiếp tội sinh tử, và ở kiếp Hiền này theo thứ lớp thành Phật mà sau cùng là đức Như Lai Lâu Thí cũng ở xứ này nói Quán Phật Tam muội.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Tam muội Quán Phật này chính là thuốc của tất cả chúng sinh phạm tội, là hộ của người phá giới, là sự dẫn đường của kẻ lạc đường là mắt của kẻ mù tối, là tuệ của người ngu si, là đèn của kẻ tối đen, là tướng dũng kiện trong giặc phiền não, là sự du hí của các đức Phật Thế Tôn. Đó là chỗ của Thủ Lăng Nghiêm... các đại tam muội xuất sinh - Đức Phật bảo ngài A-nan - Ông nay khéo giữ gìn thận trọng chớ quên mất! Quá khứ, vị lai, các đức Phật ba đời..., những đức Thế Tôn đó đều nói tam muội Niệm Phật như vậy. Ta cùng với các vị đại Bồ tát của Kiếp Hiền nhân sức của tam muội Niệm Phật đó nên được Nhất Thiết Trí, uy thần tự tại. Như vậy, vô lượng các đức Phật trong mười phương đều do pháp này mà thành Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, tôn giả A-nan, nhờ thần lực của đức Phật nên tự biết việc đời trước vô số kiếp, bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Con nhớ vô số ức kiếp đời quá khứ, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh với mười hiệu đầy đủ. Con ở cõi đời đó, thấy đức Phật Như Lai phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy soi khắp mười phương thế giới, đều tạo thành màu vàng. Trong mỗi một ánh sáng có các vị hóa Phật, con thấy vậy rồi, thân tâm hoan hỷ, xưng lên Nam mô Phật. Từ đó về sau, con thường được gặp trăm ngàn các đức Phật và nghe Phật nói pháp giống như rót nước đựng sang đồ chứa khác con ghi nhớ, giữ gìn chẳng quên. Vậy nên hôm nay con được thấy đức Thế Tôn, gần gũi cúng dường hầu hạ.
Nói lời đó xong, ngài A-nan nói các bài kệ tụng, khen ngợi sắc thân vi diệu của chư Phật.
Lúc bấy giờ, trong hư không có vô số đức Phật đều hiện ánh sáng. Trong lỗ chân lông của từng thân, từng thân chư Phật đều hiện ra hóa Phật giống như Phật Thích Ca Văn, đều bảo ngài A-nan rằng :
- Này Pháp tử! Nay ông hãy đem Quán Phật tam muội đó vì tất cả đại chúng phân biệt rộng rãi, khiến cho các giống phàm phu có được nhân duyên thấy Phật.
Nói lời này xong, các vị hóa Phật biến mất.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì chúc lụy việc này nên đứng trong hư không, uy nghi tự tại, làm mười tám biến hóa, hiển hiện tất cả ánh sáng, bảo ngài A-nan rằng :
- Nếu có chúng sinh muốn quán tưởng Phật thì phải quán như thế này!
Khi đức Phật nói lời này thì mười hai ức thiên tử được tam muội Niệm Phật và được hiện tiền thọ ký.
PHẨM THỨ CHÍN : QUÁN TƯỢNG
Lúc bấy giờ, trong hội có vị đại Bồ tát tên là Di Lặc liền đứng dậy, trật áo vai phải, đảnh lễ dưới chân đức Phật, cởi chuỗi ngọc trên thân dâng lên đức Như Lai, dùng hoa trân châu tung lên đức Phật Thế Tôn và ngài Văn Thù Sư Lợi. Số chuỗi ngọc đã tung ra tự nhiên vọt lên trụ ở trong hư không, hóa thành tám muôn ức bảo đài. Trong mỗi một đài có trăm ức Phật Thích Ca Văn, đều phóng ánh sáng, khắp hiện sắc thân. Núi rừng sông biển, sở hữu diệu sắc của tất cả chúng sinh, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, các núi Tu di, những trời, rồng, thần và các cung điện cũng hiện ở trong đài ấy. Tiên năm thần thông, trăm ức chú thuật, chín mươi sáu thứ những đạo tà kiến, phương thuốc, kỹ nghệ khéo léo, văn chương, ca vịnh... đều ở trên một sợi lông hiển hiện việc này. Uế dục tà kiến của thế gian mà chúng sinh mong được thấy cũng đều ở trong ánh sáng ấy tự vọt ra Địa ngục, súc sinh, các A tu la, tám nạn, bốn điên đảo, những việc chẳng lành, thọ quả báo đẹp, xấu... cũng ở tướng này tự được hiểu biết. Hoa ngọc tung lên trụ bên trên đức Phật hóa làm hàng trăm ức ánh sáng màu trắng. Hoa ngọc ở bên trên ngài Văn Thù hóa làm hàng trăm ức ánh sáng màu sắc vi diệu. Những ánh sáng này đan xen lẫn nhau như những vua rồng lớn cuộn quấn thân hướng vào nhau. Trong mỗi một ánh sáng có năm ức ánh sáng báu như y Tăng già lê cắt rời phân minh, rồi dùng ánh sáng màu vàng may lại cho liền vào nhau. Chỗ đường may vào ra sinh ra hoa bốn báu. Trong mỗi một hoa có Bồ tát của kiếp Hiền ngồi kiết già. Chư Phật mười phương và các vị hóa Phật ngồi trên hoa sen báu vì các vị đại Bồ tát của kiếp hiền này nói Bát Chu tam muội thậm thâm, cũng khen ngợi Quán Phật Tối Sơ Nhân Duyên Duy Vô Tam Muội và Niệm Phật Cảnh Giới Kim Cương Thí Định. Nói pháp đó xong, các đức Như Lai này đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu ngài A-nan, bảo rằng :
- Này pháp tử! Nay ông nên phải khéo giữ gìn lời nói của Phật thận trọng chớ quên mất.
Lúc bấy giờ, ngài Di Lặc Bồ tát bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đấng Thiên Tôn Đại Từ Đại Bi thương xót tất cả chúng sinh tạo nghiệp bất thiện trong đời vị lai, khi mà đức Phật chẳng còn hiện tại thì nương cậy vào chỗ nào có thể trừ diệt tội lỗi ?
Đức Phật bảo ngài Di Lặc rằng :
- Này A Dật Đa! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Suy nghĩ cẩn thận! Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều chúng sinh do chẳng thấy Phật nên làm các pháp ác. Những người như vậy phải bảo họ quán tưởng tượng Phật. Nếu người quán tưởng tượng thì so với sự quan sát thân ta ngang bằng không có khác.
Khi nói lời đó thì trong hư không có hoa và chư Phật mười phương đứng ở không trung, vòng tay, chắp tay khen ngợi rằng :
- Hay thay! Này Phật tử! Ông khéo hỏi việc này! Chỉ đức Thích Ca Văn cứu khổ cho đời và vì các chúng sinh mù tối sau rốt mà nói pháp Quán Tượng. Hôm nay chính là lúc thận trọng chớ nghi ngờ, nghĩ ngợi.
Bồ tát Di Lặc một lần nữa ân cần thỉnh đức Thế Tôn nói pháp Quán Tượng.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ánh sáng thường soi chiếu tinh xá Ni Câu Lâu Đà và đất nước mười phương, đều trở thành màu vàng. Do thần lực của đức Phật nên khiến cho đất màu vàng chia làm hai phần. Trong mỗi một phần có năm trăm ức Phật từ thế giới hạ phương, đều vọt lên đứng ở không trung, chắp tay khen ngợi đại Bồ tát Di Lặc rằng :
- Hay thay! Này Phật tử! Chỉ ông mới có thể thương xót chúng sinh đời vị lai sinh vào thời mạt pháp mà khuyến thỉnh đức Thế Tôn nói pháp Quán Tượng!
Các vị hóa Phật nói lời này xong, vọt thân lên hư không, làm mười tám sự biến hóa. Đức Phật Thích Ca Văn liền tự mĩm cười. Khi cười, trong miệng ngài sinh ra hoa sen lớn. Hoa ấy có ánh sáng như tập họp hàng trăm ức mặt trời, mặt trăng và tinh tú. Ở vùng trời, trăng, sao ấy có hàng trăm ức vị hóa Phật ngồi kiết già trên giường Sư tử.
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca Văn bảo ngài Di Lặc Bồ tát rằng :
- Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Suy nghĩ kỹ càng! Như Lai hôm nay vì chúng sinh năm đường khổ đời vị lai như Tỳ kheo phạm cấm, người ác chẳng lành, ngũ nghịch, bài báng, người làm mười sáu thứ ác luật nghi... Ta vì những người như vậy nói pháp trừ tội.
Khi ấy, ngài A-nan bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Sau khi đức Phật vào Niết bàn, những người ngu này không chỗ nương, không chỗ cậy, không chỗ qui y thì làm sao đức Như Lai nói pháp trừ tội.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Ông đối với Phật pháp, lòng chưa thông giải đầy đủ. Như ta còn tại thế thì người qui y ta gọi là qui y Phật, gọi là qui y Pháp, gọi là qui y Tăng. Sau khi Phật diệt độ, ở trong đời trược ác, các chúng sinh muốn tiêu trừ tội lỗi, muốn ngay ở hiện thế được Tu đà hoàn cho đến A la hán, muốn phát tâm Bồ đề, muốn giải được mười hai nhân duyên... thì phải siêng tu tập Quán Phật tam muội.
Ngài A-nan bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn! Đức Như Lai tại thế thì chúng sinh hiện nhìn thấy ngài mà quan sát tướng tốt của đức Phật, quan sát ánh sáng của đức Phật còn chẳng rõ ràng, huống là sau khi đức Phật diệt độ. Đức Phật chẳng còn hiện tại thì phải quán ra sao ?
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sau khi Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật thì phải quán tưởng tượng Phật. Quán tượng là nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, tám bộ, tất cả chúng sinh muốn quán tưởng tượng Phật thì trước hết vào tháp Phật dùng bùn hương thơm và đất nung tô bồi nền đất cho sạch, rồi tùy theo sức, có thể đốt hương, tung hoa cúng dường tượng Phật và nói lên việc ác đã qua, làm lễ Phật, sám hối. Điều phục tâm như vậy từ một đến bảy ngày, rồi lại đến trong chúng bồi đắp, quét dọn đất của tăng chúng, trừ các phân dơ và hướng về tăng mà sám hối, làm lễ dưới chân chúng Tăng. Lại trải qua bảy ngày, cúng dường như vậy, lòng chẳng mệt chán. Nếu là người xuất gia thì nên tụng Tì ni cho hết sức thông lợi, nếu là người tại gia thì hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính sư trưởng. Rồi điều phục tâm cho nhu nhuyến, nếu tâm chẳng nhu nhuyến thì phải chiết phục mạnh mẽ khiến cho tâm điều thuận, như điều phục voi, ngựa chẳng để cho mất sự chế ngự. Tâm đã nhu thuận rồi thì trụ ở chỗ vắng lặng, đốt mọi thứ hương thơm, lễ đức Phật Thích Ca Văn mà nói lên rằng : “ Nam mô đại đức hòa thượng của con, Ứng Cúng Chánh Biến Tri Đại Bi Thế Tôn! Nguyện ngài dùng mây lành che chở hộ trì đệ tử!” Nói lời đó xong, năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc rơi lệ trước tượng. Rồi đứng dậy chỉnh đốn y phục, ngồi kiết già, ràng buộc ý niệm một chỗ. Tùy theo chúng sinh, hoặc ràng buộc tâm ở đầu mũi, hoặc ràng buộc tâm ở trên trán, hoặc ràng buộc tâm ở ngón chân... Đủ chủng loại như vậy, hành giả tùy ý ràng buộc ý niệm chuyên đặt vào một chỗ, chớ cho chạy tán loạn khiến cho tâm dao động. Tâm nếu dao động thì cất lưỡi chống vòm miệng, ngậm miệng, nhắm mắt, vòng tay ngồi ngay thẳng, từ một ngày đến bảy ngày, khiến cho thân được yên ổn. Thân yên ổn rồi nhiên hậu mới quán tưởng tượng.
Người ưa quán tưởng ngược thì từ ngón chân của tượng quán lên. Đầu tiên quán ngón chân là ràng buộc tâm cho chuyên, duyên vào ngón chân của Phật trải qua bảy ngày, khiến cho nhắm mắt, mở mắt đều rõ ràng thấy ngón chân của tượng vàng. Dần dần tiếp đến lại quán lên hai mu bàn chân làm cho thấy rõ ràng. Tiếp theo quán đến đùi nai chúa... Tâm đã chuyên rồi thì theo thứ lớp quán đến đỉnh kế. Từ đỉnh kế, quán tưởng mặt, nếu chẳng sáng tỏ thì lại sám hối nữa, thêm tự khổ công sách tấn mình. Do giới thanh tịnh nên thấy mặt tượng Phật như tấm gương vàng ròng tỏ rõ phân minh. Tác khởi sự quán tưởng đó rồi thì quán tưởng sợi lông ở mi gian như ngọc pha lê uyển chuyển xoắn về bên phải. Khi tướng này hiện thì hành giả thấy lông mày, mắt của Phật như bức họa của họa sư nhà trời. Thấy việc đó rồi thì hành giả tiếp theo quán tưởng ánh sáng đỉnh đầu cho phân minh rõ ràng. Quán mọi tướng như vậy gọi là nghịch quán.
Thuận quán tượng là quán từ vùng hoa văn tóc xoăn trên đỉnh đầu đức Phật. Mỗi hoa văn tóc xoăn, ràng buộc lòng quán tưởng kỹ càng, khiến cho lòng thấy rõ ràng từng hoa văn tóc xoăn của đức Phật giống như tơ đen uyển chuyển xoắn về bên phải. Tiếp theo quán tưởng mặt đức Phật. Quán mặt Phật rồi thì quán tưởng đầy đủ thân, dần dần xuống đến chân. Như vậy, qua lại đến mười bốn lần, quán tưởng kỹ càng một tượng cho thật tỏ rõ. Quán một tượng thành rồi thì dù xuất định hay nhập định luôn luôn hành giả thấy tượng đứng trước mặt mình. Thấy một tượng rõ ràng lại tưởng đến hai tượng. Thấy hai tượng rồi, tiếp theo tưởng đến ba tượng... cho đến tưởng mười tượng đều thấy rõ ràng. Thấy mười tượng rồi, hành giả tưởng bên trong một nhà chứa đầy tượng Phật, không còn một chỗ trống. Quán đầy một nhà tượng Phật rồi, hành giả lại tinh tấn đốt hương, tung hoa, quét tháp, tô đường, lấy nước tắm gội cho chúng Tăng.... Vì cha mẹ, sư trưởng xoa bóp điều phục thân, tắm gội thân thể, xoa dầu lên chân... đi bốn phương xin ăn, được món ăn ngon thì dâng lên sư trưởng, phân ra phụng dưỡng cha mẹ. Làm hạnh đó xong, hành giả phát đại thệ nguyện rằng : “ Con nay quán tưởng đức Phật, bằng công đức này, con chẳng nguyện cầu làm người trời, Thanh văn, Duyên giác mà chính là muốn chuyên cầu đạo Bồ đề của Phật”. Phát nguyện đó rồi, nếu hành giả thật hết lòng cầu Đại thừa thì phải hành sám hối, hành sám hối rồi tiếp theo hành thỉnh Phật, hành thỉnh Phật rồi tiếp theo hành tùy hỉ, hành tùy hỉ rồi tiếp theo hành hồi hướng, hành hồi hướng rồi tiếp theo hành phát nguyện. Hành phát nguyện rồi, hành giả chính thân ngồi ngay thẳng, ràng buộc ý niệm ở trước, quán tưởng cảnh giới của Phật khiến cho to rộng dần thành tượng Phật đầy trong một tăng phường mà mỗi tượng đều phương thân một trượng sáu, dưới chân có hoa sen, vừng ánh sáng tròn một tầm và ánh sáng thân như tướng lửa sáng ma ni cùng những vị hóa Phật và thị giả của hóa Phật... mọi màu sắc của ánh sáng trở nên tỏ rõ. Quán Phật trong một tăng phường rồi thì khiến cho lòng lại mở rộng đến trong khoảnh đất chứa đầy tượng Phật. Sự quán tưởng này thành rồi thì lòng được yên ổn, thân thể khoái lạc. Nếu hành giả dừng tâm tưởng nhạy bén thì thấy tượng Phật đầy trong một khoảnh đất với hương hoa, đồ cúng và các tràng phan đều đi theo tượng. Do tâm nhạy bén nên bên trái bên phải, đàng trước, đàng sau đều thấy tượng đi. Rồi tâm rộng lớn dần dần, hành giả thấy tượng Phật đầy trong hàng trăm khoảnh đất, nhắm mắt mở mắt đều khiến cho tâm quán tưởng. Tưởng tưởng chẳng dứt, tâm tâm nối nhau như khát nghĩ đến uống. Sự quán tưởng này thành rồi thì hành giả thấy tượng Phật đầy trong một do tuần, dần dần xa rộng thêm một trăm do tuần, thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp theo hình của tất cả tượng đều rực sáng lên. Tưởng này thành rồi thì hành giả quán tưởng tượng Phật đầy trong tám ngàn do tuần của một cõi Diêm Phù Đề. Tưởng này thành rồi thì hành giả tiếp theo quán tưởng tượng Phật đầy trong tám ngàn sáu mươi do tuần của cõi Phất Bà Đề ở phương Đông. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại quán tưởng tượng Phật đầy trong tám ngàn chín trăm do tuần của cõi Cù Gia Ni ở phương Tây. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại quán tưởng tượng Phật đầy trong một vạn sáu ngàn do tuần của cõi Uất Đan Việt ở phương Bắc. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại thấy xa rộng, thấy tượng Phật đầy trong một trăm cõi Diêm Phù Đề. Tưởng này thành rồi, hành giả lại thấy tượng Phật đầy trong một trăm ức bốn thiên hạ. Tưởng này thành rồi thì chỉ trừ khi ăn, trừ khi đại tiểu tiện, trong tất cả lúc hành giả luôn luôn thấy tượng Phật, tượng Phật đầy trong hư không và trên mặt đất, tượng tượng thứ lớp xen nhau không chỗ trống. Niệm tưởng thành rồi, thân tâm hoan hỉ, bồi thêm tinh tấn, hành giả đầu đội cung kính mười hai bộ kinh, đối với người nói pháp dấy lên Đại Sư tưởng, đối với Phật Pháp Tăng dấy lên phụ mẫu tưởng, khiến cho lòng điều hòa nhu nhuyến, chẳng khởi lên sân hận tưởng. Giả sử khi sân nhuế thì phải ở trước Bát nhã Balamật, năm vóc gieo xống đất, thành tâm sám hối. Như trên đã nói, hành giả theo năm pháp thứ lớp mà làm. Niệm tưởng thành rồi, hành giả nhắm mắt, vòng tay, ngồi thẳng chánh thọ, lại tác khởi niệm tưởng xa hơn, thấy tất cả tượng Phật đầy trong cõi mười phương, thân thuần một màu vàng, phóng ra ánh sáng lớn. Nếu có người phạm giới làm điều chẳng lành, do thân đời trước phạm giới nên thân đời nay thấy những tượng Phật hoặc đen hoặc trắng thì dùng pháp sám hối, tượng dần dần thấy hiện màu hồng, thấy màu hồng rồi dần dần thấy màu vàng. Thấy màu vàng rồi thì thân tâm hoan hỉ, khuyến thỉnh các tượng Phật phóng ra ánh sáng. Khi khởi lên sự quán tưởng này thì niệm tưởng linh lợi nên thấy tất cả tượng Phật, lỗ chân lông của toàn thân đều phóng ra ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có trăm ức màu sắc báu. Trong mỗi một màu sắc có vô lượng sắc xen lẫn mà cảnh giới vi diệu đều từ đó vọt ra. Tưởng niệm này thành gọi là quán Lập Tượng.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Còn tướng khác hiện ra là cảnh giới khác sinh ra phải mau chóng trừ diệt chúng. Người quán pháp quán đó thì trừ khước được sáu mươi ức kiếp tội sinh tử, cũng gọi là thấy Phật. Vào đời vị lai, nhờ tâm tưởng linh lợi nên hành giả gặp được một ngàn đức Thế Tôn của kiếp Hiền. Vì những hòa thượng ấy, hành giả ở trong Phật pháp thứ lớp xuất gia. Ở mỗi một chỗ Phật, người ấy thấy thân tướng đức Phật tỏ rõ phân minh, nghe Phật nói pháp nhớ giữ chẳng quên. Ở chỗ đức Phật Quang Minh thuộc Kiếp Tinh Tú hành giả được hiện tiền thọ ký. Lòng thô thiển quán tưởng tượng Phật mà còn được công đức vô lượng như vậy, huống là ràng buộc ý niệm quán tưởng ánh sáng tướng Bạch Hào vùng chân mày của đức Phật.
Khi nói lời nói đó thì vua trời Đại Phạm với vô lượng Phạm chúng đem những hoa cõi trời tung lên cúng dường đức Thế Tôn. Họ cởi chuỗi ngọc trên thân dâng lên đức Phật. Những hoa trời ấy như đám mây trụ ở không trung, trên chỗ chuỗi ngọc, biến thành đài vàng. Ở trong đài vàng có ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy biến làm tôn tượng của Thất Phật với sắc tướng đoan nghiêm vi diệu đều đủ Phạm Vương Loa Kế quì dài chắp tay khuyến thỉnh đức Thế Tôn mà bạch rằng :
- Kính thưa đức Như Lai Đại Bi từ mẫn chúng sinh! Nguyện xin ngài vì chúng sinh mù tối đời sau mà diễn nói đầy đủ pháp quán tưởng tướng tượng, khiến cho chúng sinh y vào lời đức Phật nói, luôn luôn được gặp các đức Phật Thế Tôn, được Niệm Phật tam muội. Nhờ sức tam muội nên khiến cho những chúng sinh xa lìa tội ác. Do tội diệt nên hiện thấy các đức Phật.
Đức Phật bảo Phạm vương rằng :
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời nói của ông!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại vì những chúng sinh đời sau nên lại nói phép quán tưởng tượng Phật ngồi. Quán tưởng tượng ngồi là chí tâm ràng buộc ý niệm khiến cho đứng trước tượng thấy dưới chân tượng sinh ra hoa. Khi hoa này sinh ra thì hành giả phải khởi lên niệm tưởng khiến cho đại địa này trở thành màu hoàng kim, trở thành màu bảy báu, tùy theo sự quán tưởng mà hiện ra. Mỗi một màu báu lấy hoàng kim làm giới hạn. Trong mỗi một giới hạn sinh ra hoa sen báu. Khi tác khởi sự quán tưởng này thì có hoa sen báu ngàn cánh đầy đủ ứng theo tưởng niệm mà hiện ra. Đã thấy hoa rồi hành giả thỉnh các tượng tưởng (tượng Phật do ý tưởng sinh ra) ngồi lên hoa báu. Khi các tượng ngồi thì đại địa tự nhiên phát ra ánh sáng trắng lớn như màu lưu ly trắng sạch khả ái. Trong vùng ánh sáng trắng có trăm ức Bồ tát trắng như núi Tuyết, từ trong lỗ chân lông của thân tượng tưởng hiện ra. Trong lỗ chân lông của thân mỗi một Bồ tát phát ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy như núi vàng Diêm Phù Đàn với trăm ngàn màu vàng. Ánh sáng rực rỡ tính chẳng thể biết được ứng theo niệm tưởng mà hiện ra. Trên đỉnh mỗi một ngọn núi có một tượng tưởng cao hiển khả quan màu vàng Diêm Phù Đàn. Ánh sáng rất thịnh ấy soi chiếu làm cho cõi mười phương đều trở thành màu vàng, thấy đất và hư không cũng trở thành màu vàng mà bên trong đầy tượng vàng, ánh sáng vàng, táng che vàng, đài vàng, hoa vàng, phướn vàng. Hành giả thấy Bồ tát tưởng thuần màu ngọc trắng, tay cầm phất trắng hay cầm hoa trắng thì phải khởi lên hết tưởng niệm làm cho tươi trắng. Nếu hành giả thấy còn tạp tưởng, cảnh giới khác hiện ra thì phải mau chóng diệt trừ. Nếu chẳng trừ diệt mà đuổi theo tưởng khác, vui mừng theo cảnh giới khác thì phát ra phong bệnh (Phong bệnh). Niệm Phật tưởng này chính là đại cam lộ lợi ích cho chúng sinh. Quán Phật tam muội như uống thuốc hay lợi ích cho bốn đại. Người uống thuốc này thì chẳng già chẳng chết.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Nếu có chúng sinh muốn quán tượng ngồi thì quán tưởng như vậy. Người tác khởi sự quán tưởng đó gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Nếu có chúng sinh quán tượng ngồi thì trừ được năm trăm ức kiếp tội sinh tử, đời vị lai được gặp một ngàn đức Phật của kiếp Hiền. Qua khỏi Kiếp Hiền rồi, trong kiếp Tinh Tú người ấy được gặp trọn số mười vạn các đức Phật, ở chỗ mỗi một đức Phật thọ trì lời dạy của Phật, thân tâm yên ổn trọn chẳng lầm lẫn rối loạn, được mỗi một đức Thế Tôn thọ ký hiện tiền, qua vô số kiếp được thành Phật.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài A-nan rằng :
- Như có chúng sinh quán tượng ngồi rồi thì phải quán tượng đi (tượng Phật đi). Quán tượng đi là thấy tượng Phật đi đầy trong mười phương thế giới. Hành giả thấy trong hư không và trên đất tất cả tượng đều đứng dậy. Khi mỗi một tượng đứng dậy thì năm trăm ức hoa báu hiện ra. Trong mỗi một hoa có vô số ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô số vị hóa Phật theo tâm tưởng hiện ra. Tượng ngồi đứng dậy, trong khoảng thời gian chưa dậy, khi thân đang cử động thì sợi lông xoắn trắng vùng chân mày duỗi ra ngắn dài giống như đức Phật thật sự phóng ra ánh sáng trắng làm cho trăm ngàn màu sắc ánh lên ánh sáng vàng đẹp đẽ. Trong những ánh sáng trắng xen vô số tượng bạc, thân màu bạc trắng, ánh sáng bạc, hoa bạc, táng che bạc, phướn bạc, đài bạc... hết thảy đều là bạc. Lúc đó, mọi tượng vàng cùng tượng bạc đều động thân sắp đứng dậy thì trong rốn các tượng đều sinh ra hoa sen. Trong hoa sen ấy vọt ra vô số trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật phóng ra ánh sáng vàng soi chiếu thân của hành giả. Lúc đó là lúc hành giả vào định tự thấy nước bẩn ba mươi sáu vật của thân mình, chẳng sạch. Khi bất tịnh hiện thì hành giả phải mau chóng diệt trừ mà nghĩ rằng : “ Các đức Phật ba đời, thân tâm thanh tịnh, ta nay học theo pháp thân chân tịnh của đức Phật, sự bất tịnh này xem ra từ tham ái phát sinh, hư ngụy chẳng thật thì ta theo sự quan sát này làm gì ?” Tác khởi ý niệm đó rồi, hành giả phải tự quán thân, khiến cho các việc bất tịnh biến làm bạch ngọc. Tự thấy thân mình như cái bình bạch ngọc, trong ngoài đều rỗng không. Khi tác khởi sự quán tưởng đó thì phải uống thuốc sữa chớ khiến thân trống rỗng. Khi tưởng này thành thì các tượng đều dậy như đứng trước mặt hành giả. Khi thấy tượng đứng, hành giả phải tác khởi tưởng niệm mời thỉnh tượng đi. Tượng đã đi rồi thì trong từng bước từng bước, dưới chân mọc ra hoa, rồi biến thành đài hoa sen. Hành giả thấy trong cõi mười phương đầy tượng đi, đồ cúng dường, kỹ nhạc, chư thiên đại chúng cung kính vây quanh. Tượng đi phóng ra ánh sáng soi chiếu đại chúng khiến trở nên màu vàng. Tượng bạc phóng ra ánh sáng soi các đại chúng đều trở thành màu bạc. Bồ tát bạch ngọc phóng ra ánh sáng bạch ngọc khiến cho các đại chúng trở thành màu bạch ngọc. Các tượng tạp sắc phóng ra ánh sáng tạp sắc ánh chói đẹp vùng ấy. Sự quán tưởng này thành rồi, hành giả lại khởi lên tưởng niệm thỉnh các hành tượng đang đi đều dùng tay xoa đầu mình. Bấy giờ, các tượng đều duỗi tay phải xoa đầu hành giả. Lúc đó, mọi tượng đều phóng ra ánh sáng lớn chiếu vào thân hành giả. Khi ánh sáng chiếu vào thân, hành giả tự thấy thân màu hoàng kim. Sự quán tưởng này thành rồi, hành giả ra khỏi định, vui mừng, lại chí tâm lễ kính các đức Phật, tu các công đức và đem công đức đó hồi hướng đạo Bồ đề.
Lúc bấy giờ, hành giả lại phải khởi lên tưởng niệm rằng : “ Ta nay tưởng niệm, thấy nhiều tượng vàng đi, ngồi tùy ý mà chưa thấy thần thông”. Hành giả dấy lòng tưởng niệm thỉnh các tượng đang đi và tượng Bồ tát làm mười tám phép biến hóa. Ứng theo niệm tưởng, các tượng liền tạo tác mười tám thứ biến hóa. Hành giả thấy đầy trong mười phương tất cả mọi tượng, vọt thân lên không trung làm mười tám biến hóa, uy thần tự tại, khắp hiện sắc thân. Thấy rồi, hành giả vui mừng, thỉnh tất cả tượng chuyển bánh xe pháp. Ứng theo niệm tưởng, tức thời tất cả mọi tượng, khác miệng đồng lời, khen ngợi trì giới, khen ngợi niệm Phật. Niệm tưởng nghe điều này rồi, lòng rất vui mừng, hành giả lại càng thêm tinh tấn. Do tinh tấn nên tâm tưởng được thành. Khi tâm tưởng thành thì hành giả thấy ở cõi mười phương, tất cả đất đai, sông núi, vách đá... đều biến hóa làm đất Kim cương. Trên đất Kim cương vọt ra ánh sáng trắng. Ở trong mọi ánh sáng trắng có vô số vị hóa Phật ngồi trên hoa sen báu. Mỗi một vị hóa Phật phóng ra vô số ức trăm ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng lại hóa ra vô số trăm ngàn vị hóa Phật. Khi tưởng này hiện thì hành giả tự thấy những lỗ chân lông của thân mình phát ra ánh sáng màu vàng soi khắp tất cả. Nếu cảnh giới khác khởi lên thì phải mau chóng diệt trừ. Nếu tâm tưởng này nhanh chóng như gió mạnh thì trong giây lát, hành giả thấy vô số vị hóa Phật. Tâm hành giả linh lợi như người mắt sáng cầm gương pha lê tự xem hình dáng mặt của mình. Hành giả quán tượng cũng lại như vậy. Niệm tưởng này thành rồi, hành giả phải khởi ý niệm rằng : “ Các đức Phật Thế Tôn trụ ở Đại Tịch Diệt, thân tâm thanh tịnh, không lại không đi! Như thân ta đây là do bốn đại, năm uẩn chung hợp thành như trong thân cây chuối không chắc thật, như bọt trên mặt nước, như trăng đáy nước, như dáng trong gương, như khi lửa cháy bùng, như ngựa rừng chạy đi, như thành Càn thát bà. Tác khởi niệm tưởng đó rồi các tượng liền diệt, có ánh sáng màu vàng hiện ra. Ở vùng ánh sáng vàng có ảnh Phật vàng như hình dáng trong gương, hiển hiện tất cả hình sắc trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Khi niệm tưởng này thành thì hành giả phải nghĩ đến thân giới của Như Lai. Khi nghĩ thân giới (giới cấm) thì hành giả thấy ánh sáng vùng chân mày của ảnh chư Phật giống như sợi tơ trắng từ không trung thanh tịnh đến trước hành giả. Hành giả thấy rồi, phải dấy lên ý nghĩ rằng : “ Đức Thích Ca Mâu Ni Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thuở đời quá khứ đã dùng đại giới thân mà tự trang nghiêm. Vậy nên ngày nay ngài được Giới, Định, Tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến!” Khi tác khởi niệm tưởng đó thì đức Phật Thích Ca Văn ngồi trong hang Lưu li, thân màu vàng tía, đoan nghiêm vi diệu cùng với những đại chúng Tỳ kheo Bồ tát làm quyến thuộc trụ ở trước mặt hành giả mà bảo rằng : “ Này pháp tử! Ông tu quán Phật tam muội lực nên ta dùng lực tướng Niết bàn thị hiện sắc thân cho ông khiến cho ông quan sát kỹ càng. Nay ông ngồi thiền chẳng được quan sát nhiều. Ong, người đời sau làm nhiều những việc ác, chỉ cần quán ánh sáng tướng Bạch hào vùng lông mày. Khi tác khởi sự quán tưởng này thì được thấy cảnh giới như đã nói trên”. Lúc bấy giờ, hành giả một niệm tình cũng không tham trước, lòng rất vui mừng, ngay tức thời được Niệm Phật tam muội. Niệm Phật tam muội là thấy sắc thân đức Phật rõ ràng phân minh, cũng thấy tất cả cảnh giới của tâm Phật như trên đã nói quán tâm Phật, cũng thấy tất cả ánh sáng của thân Phật như trên đã nói quán ánh sáng thân Phật, cũng thấy tất cả lỗ chân lông thân Phật mà mỗi một lỗ chân lông đều mọc ra tám muôn bốn ngàn hoa sen. Trong mỗi một hoa có tám muôn bốn ngàn vị hóa Phật, từng vị Phật từng vị Phật tiếp theo nhau đầy mười phương thế giới.
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca mâu Ni liền duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả. Tất cả các vị hóa Phật cũng duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả. Được sự quán tưởng này gọi là Phật Hiện Tiền tam muội, cũng gọi là Niệm Phật tam muội, cũng gọi là Quán Phật Sắc Thân tam muội.
Lúc bấy giờ, các đức Phật, khác miệng đồng lời, mỗi một đều vì hành giả nói pháp. Tuy chưa đắc đạo nhưng thấy Phật, nghe pháp tổng trì chẳng mất thì đây gọi là phàm phu Niệm Phật tam muội. Người được tam muội này thì từng sát na từng sát na luôn luôn thấy các đức Phật, ở trong từng niệm từng niệm đều nghe Phật nói pháp. Như là kinh điển Đại thừa Phương Đẳng chỉ trong một ngày một đêm liền được thông lợi. Cha mẹ sinh ra thân trong đời ác não trược nhưng nhờ niệm Phật nên được nghe tổng trì, xả thân qua đời khác nhất định được thấy Phật, ở chỗ các đức Phật được ngàn vạn ức Toàn Đà La Ni. Được Đà La Ni rồi thì tám mươi ức đức Phật đều duỗi tay phải xoa đầu hành giả. Tất cả các đức Phật đều nói lời quyết rằng : “ Ông niệm Phật nên qua kiếp Tinh Tú sẽ được thành Phật có ánh sáng thân tướng so với ta không khác”. Nói lời đó xong, tám mươi ức đức Phật cùng một lúc phóng ra ánh sáng. Trong ánh lại có vô lượng vị hóa Phật mà mỗi một vị hóa Phật đều nói lời nói đó.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Như vậy, mọi pháp gọi là pháp quán tượng. Như khi quán tượng, hành giả tự sẽ có vô lượng trăm ngàn những cảnh giới thù thắng. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
- Hết quyển thứ chín –

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Kim Cang


Kinh Duy-ma-cật (Việt dịch)


Những tâm tình cô đơn


Công đức phóng sinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.109.223 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập