Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Lúc bấy giờ Trưởng Giả lại dùng kệ xưng tán Phật xong rồi, phát ra lời nói thành thật và lời nguyện rộng lớn rằng: Nếu con có làm được chút ít căn lành công đức thì nguyện cho ở đời vị lai được thành Phật đạo. Lại giống như Đức Thế Tôn đầy đủ thành tựu 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp, vô ngại và pháp dược vô thượng. Có thể trừ những bệnh tham, sân, si của chúng sanh. Đối với kẻ chẳng có người thân quen thì sẽ làm ông chủ. Đối với chỗ hắc ám thì làm cho sáng sủa. Với kẻ chưa điều phục thì làm cho được điều phục. Với kẻ chưa tin tưởng rõ ràng thì làm cho họ phát sanh niềm tin. Với người chưa được yên ổn thì làm cho được yên ổn. Với kẻ chưa được Niết Bàn thì làm cho được Niết Bàn. Rốt cuộc ra khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Hoặc khiến cho sanh lên cõi Trời, thọ được nhiều niềm vui thắng diệu. Lại còn có thể khuyên người tu Bát Chánh đạo, khai thị mở bày pháp Tứ Thánh Đế. Khi kẻ kia nghe rồi, tâm sẽ được giác ngộ, xưng tán Phật, Pháp, Tăng đủ loại công đức, vô lượng trí tuệ, tự tánh thanh tịnh, oai thần rộng lớn, chẳng ai có thể hơn được. Hay làm cho ra khỏi luân hồi sanh tử khổ sở. Phương tiện dẫn dắt vào thành giải thoát, dần dần khiến cho tu được các pháp công đức, giữ gìn tịnh giới, tu Xa Ma Tha, Tỳ Bát Xá Na; Tứ Vô úy, Tứ Thần túc, Tứ Chánh cần v.v... để trị việc giải đãi. Đối với Tứ Niệm Xứ, nhớ rõ chẳng quên. Tứ Vô Lượng Tâm, bình đẳng tu tập. Nương vào 5 căn, 5 lực; đoạn trừ 5 thú chướng. Rõ tướng của 5 uẩn; mình người giống nhau. Đầy đủ hoàn toàn 6 Ba La Mật. Dùng 7 Thánh Tài để phổ thí cho tất cả. Tu tịnh giới đầy đủ. Giẵm lên 7 giác hoa; một lòng ở yên nơi 7 quán phương tiện. Phân biệt diễn thuyết các phần của Bát Chánh Đạo. Lành siêng tu tập 9 thứ đệ định. Đầy đủ 10 lực. Gọi là 10 phương, được 10 tự tại, cho đến thành Phật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn thấy vị Trưởng Giả kia ở trong đại chúng đã phát lời thệ nguyện như thế rồi liền tán thán rằng: Lành thay! Nay ngươi mới đúng là một con rồng lớn trong loài người; con Sư Tử trong loài người. Người cao cả nhất trong các bậc Đại Tiên, lìa những dơ bẩn giống như hoa sen trắng; có thể chở hết tất cả chúng sanh, có thể mang vác họ đến vô thượng Bồ Đề. Lúc ấy Đức Phật dùng ánh sáng vàng chói nơi tay, giống như hoa sen nở; những ngón tay có nhiều đường chỉ thật đẹp, như cha phủ dụ con, rồi để lên trên đầu của Trưởng Giả, dùng tiếng Phạm âm như sấm chớp mùa xuân và nói lời rằng:
Ngươi ở đời vị lai sẽ được làm Phật hiệu là Năng Mãn Chúng Sanh Chí Nguyện, Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Đầy đủ 10 lực, phá những loài ma, làm cho đất nầy được thanh tịnh, to lớn giàu vui. Lúc ấy trên hư không có các Thiên Nữ mưa hoa tốt đẹp để cúng dường các Đức Phật trong thế giới cùng tất cả loài hữu tình. Tất cả đều phát lòng tin. Vui tu làm phước. Lúc ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Ngươi ở đời vị lai
Tích lập công đức lành
Nơi biển sanh tử ấy
Cứu khổ chúng đắm chìm
Qua vô số kiếp rồi
Sẽ được thành Phật đạo
Mắt huệ sạch chẳng dơ
Hiện chứng tất cả pháp
Tướng tốt phóng ánh sáng
Như mặt trời thế gian
Làm tất cả chúng sanh
Trừ ba độc tối tăm
Trời, Người cùng đại chúng
Tối thắng chẳng ai trên
Lành điều phục chúng sanh
Khiến đều tu phạm hạnh
Vị Thầy dẫn đường tốt
Đầy đủ tất cả trí
Được tối thượng Bồ Đề
Như hoa sen khỏi nước.
Lúc bấy giời Đức Thế Tôn cùng với vị Trưởng Giả kia ở trong đại chúng, đã được Phật thọ ký cho rồi thì cả nhơn dân trong cõi nước của vua Tần Bà Sa La đều phát tín tâm hoan hỷ chưa từng có. Do ở nơi Phật mà chuyên tu hạnh bố thí. Rồi trong cõi Trời, Người thường làm chủ tể. Có uy lực lớn. Thường dùng tâm đại bi để làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh. Vô thượng bồ đề quyết định sẽ được. Cho nên Phật dạy rằng: Tất cả những Tỳ Kheo đối với kinh điển nầy thường nên thọ trì và vì họ mà tuyên nói.
Đã rõ biết về hạnh bố thí rồi; đừng lo sợ dừng nghỉ mà công đức trì giới nay sẽ nói rõ ràng. Sau việc bố thí là cái gì ? – Đó chính là trì giới. Nơi đây nương vào các kinh lần lượt để nói.
Lại nữa những chúng sanh thường hay buông lung vui đắm, phần nhiều do nơi nội tâm tự suy nghĩ lầm rồi tùy thuận theo đó mà tạo tác cho đến thực hiện. Trải qua thân hình hay lời nói, phá hủy giới cấm. Ở đây muốn làm cho phát khởi đối trị cho chúng sanh; cho nên sau bố thí, nói về tướng của việc trì giới. Nếu là đệ tử Phật cả những bạch y mà những cấm giới kiên trì chẳng phạm, thì đây gọi là thanh tịnh trì giới. Nếu những chúng sanh nào phát khởi ra những suy nghĩ tà vạy, thân, ngữ, ý nghiệp tạo ra nhiều tội như sát hại chúng sanh; giết hại mạng người. Những vật sở hữu của người khác chẳng cho mà lấy. Đắm trước dục nhiễm, tâm chẳng buông bỏ. Nói lời không thật, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt; khởi lên đại tà kiến, phế bỏ nhân quả, giết cha, hại mẹ, giết A La Hán. Dùng ác tâm để làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng, phá tháp hại chùa, ăn trộm đồ vật của chúng tăng, làm nhiễm ô hạnh thanh tịnh của Ni chúng. Đối với những người lành thì vui sanh hạ nhục; thường vui tụ tập, nói chuyện vô nghĩa, khinh pháp chê lời khuyên dạy, tham lam của cải ở đời. Vì chuyện tà có thể mất mạng, tạo ra những nghiệp ác, đầu sỏ ngục tốt; giết heo mổ cá, đào tường khoét vách cho đến tham lam của người những tài vật nhỏ, lại làm hành động cướp đoạt. Cùng với kia lấy thuốc độc để làm tổn hại chúng sanh. Voi, ngựa, bò v.v... vui chúng chém nhau, phá hoại làng ấp, đốn chặt cây cối; nói ra lời thô; hủy báng kẻ hiền, dối trá hiện ra như người lành; nhưng tâm thật dối trá. Lành nói chẳng lành. Khen thì chẳng khen. Tạo ra những tội lỗi như thế rồi, đến khi lâm chung đủ các tướng khổ đều hiện ra trước mắt. Khi thức biến hiện, ác nghiệp đuổi theo, rơi xuống địa ngục, thọ những cực hình khổ sở. Địa ngục có 4 loại. Thứ nhứt gọi là địa ngục đốt cháy; thứ hai gọi là nước tiểu và phẩn; thứ ba gọi là rừng kiếm; thứ tư gọi là sông than. Đây là 4 địa ngục. Tên là gần gũi. Lại còn 8 địa ngục căn bản khác nóng cháy nữa. Một tên là đốt cháy; hai là đốt cháy mạnh; ba là hợp lại mọi việc; bốn là la hoảng; năm là la hoảng lớn; sáu là lửa hầm; bảy là lửa nung lớn; tám là không có thời gian. Lúc ở trong ngục kia có những ngục tốt, hình thù xấu xí, hôi hám ác độc, khủng bố tàn nhẫn. Hoặc làm đầu trâu; hay tạo ra đầu voi; hình thù thật to lớn, mập mạp mạnh khỏe; da thịt đen đúa, tóc màu đỏ, vàng, mặt mày phẫn nộ. Lỗ mũi đến môi, hai tay cứng chắc, đều cầm đao gậy; hoặc cầm búa bén dùng để đâm chém. Vòng kiếm quay qua, đủ loại dụng cụ hành khổ. Tất cả đều được nung đỏ. Rồi những ngục tốt hung bạo đến bên tội nhơn, không tâm từ bi; hoặc thiêu hoặc nướng; hoặc phá hoặc đâm, làm sao cho chết đi; rồi sống trở lại, lại bị nhốt vào ngục hơ nóng. Ở trong địa ngục nước tiểu phẩn dơ kia 2 chân bị đốt. Nếu có tỉnh dậy thì bị cho vào rừng dao kiếm. Khi chạy qua lại đến dưới cành cây thì những lưỡi dao từ trên cao hạ xuống, liền thẻo thân hình, rồi những chim thú, hổ báo, sư tử, cá Ma Yết v.v... hả miệng thật lớn phun lửa ra; răng nhọn sắc bén, không dừng dọa nạt. Những chúng hữu tình tạo ác thì có cây bằng thiếc, tên gọi Sa Khấp Mạt Lê, bên trên có hàng trăm ngàn lưỡi đao sắc bén; mỗi mỗi đều bằng thiếc nhọn, chiều dài 16 lóng tay. Lúc ấy ngục tốt kia dẫn tội nhơn đến, tùy theo trên dưới; rồi treo ngược lên. Những con chim ác, tranh nhau đậu trên ấy, rồi dùng móng thật nhọn; hoặc xé hoặc mổ. Ngục tốt dùng hòn sắt nóng đem bỏ vào trong miệng tội nhơn. Bức bách như thế rồi, còn chế nước đồng sôi lên và đổ vào miệng. Từ cổ trở xuống tất cả đểu cháy bừng. Hoặc lấy đinh sắt đóng vào lưỡi. Lại có những lưỡi lê sắt, khiến cho trâu cày lên đó. Hoặc bỏ tội nhơn vào trong lò sắt nóng rồi lấy cán để xoi tội nhơn. Hoặc ở trong lò đốt ấy làm cho thân nầy, cũng như tai mũi miệng; nơi nào cũng trào máu ra. Tất cả thân nầy bị phá hủy chẳng còn gì. Có một hầm lửa lớn thật sâu có lửa đang cháy; thảy tội nhơn kia cho vào trong ấy. Đốt cháy một lúc lâu biến thành toàn lửa. Lúc bấy giờ những ngục tốt mắng chửi rằng: Ngươi ngày xưa đã tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp ác, tâm chẳng làm việc lành, phá phạm giới cấm; nên nay thọ quả báo nầy. Từ đây hãy tự nên biết rằng ở trong đây rất cực khổ, khó chịu khó nhẫn được. Thọ tội một thời gian rồi khi nghiệp hết mới ra khỏi. Cho nên Phật dạy:
Nầy các Tỳ Kheo! Thường nên đối với kinh nầy nên thọ trì đọc tụng, vì người khác diễn nói, làm cho họ thực hiện thí, giới để được thành tựu phước cái.
Phật nói sự phá giới kia là do sự suy nghĩ ác, do nội tâm suy nghĩ tạo thành; chẳng khởi lên việc sửa đổi; lo lắng bức bách; nên tạo ra các tội; giống như củi khô cho vào lò và đốt lửa lên thì tất nhiên sẽ bị thiêu đốt; giống như hạt giống hư mà đem gieo vào ruộng. Kết cuộc chẳng thể nảy mầm. Kẻ phá giới kia đối với ruộng pháp chẳng thể sanh mầm thiện. Lại cũng giống như thế ở trong rừng cây kia đến chặt tất cả gốc, cành lá thì chẳng còn bóng che. Người phá giới đoạn mất căn lành; hủy hoại những pháp công đức. Lại cũng như vậy. Giống như cây khô bên miệng giếng, thiếu nước, muốn có được nước nhưng lại chẳng được. Kẻ phá giới kia, tất cả những người lành tới cầu pháp lại chẳng được gì. Như Chiên Đà La chẳng thể làm vua. Tất cả người dân chẳng còn tin tưởng nữa. Người phá giới kia chẳng thể thuyết pháp. Tất cả chúng sanh chẳng thể nghe và thọ trì. Giống như người đối với đồ hư thối mà mong cầu có mùi vị ngon, rốt cuộc chẳng được gì. Đối với việc hủy phạm mà người phá giới cầu được công đức thì rốt cuộc chẳng có được. Lại nữa kẻ bạch y thấy vị Sa Môn kia cô đơn chẳng mệt mỏi, tịch tỉnh an lạc, thí xả nhà nầy vui làm hạnh Sa Môn. Còn kẻ kia chẳng có nhơn chơn chánh, tâm chẳng quyết định; ngu si ám độn. Khi làm Sa Môn rồi lại vui với những sự nghiệp kinh doanh thế tục, đắm trước nơi những dục nhiễm, phá hủy cấm giới, thì ở trong chúng ấy có các bậc Kỳ Đức mắng chửi kẻ kia. Vì đó nói kệ rằng:
Người nương ba việc Phật
Vui tạo những phi pháp
Ô nhục các tịnh hạnh
Chẳng khác Chiên Đà La
Trong tâm suy nghĩ tà
Ngũ dục những cảnh giới
Giống như con trâu nghé
Thường nhớ đến cỏ nước
Vui làm việc thế tục
Mua bán những vật quý
Tăng giảm theo giá cả
Nói lời chẳng thành thật
Kẻ kia như bình rỗng
Tâm nầy thường chẳng đủ
Vì cầu ít tài lợi
Tạo ra đủ hư ngụy
Giống như hoa và ong
Thường ở rừng hoa sen
Ra vào chỗ rậm rạp
Để nhận những việc khổ
Phật Pháp ta rộng sâu
Cuối chẳng dung nước tiểu
Trong ruộng phước điền kia
Lại chẳng sanh hạt mầm
Khi bịnh đậu trói buộc
Chẳng thể nào chạy chữa
Người tạo ra nghiệp ác
Sao chẳng sanh sợ lo
Giống như thuyền bị lủng
Ta người há được qua.
Phật bảo rằng: Người phá giới chẳng có xấu hổ là do nhiều tham dục, tâm ưa muốn nhiều. Xâm phạm vào sắc đẹp của người kia, thường hay lo sợ, làm mất thanh danh, lìa xa bạn lành. Nên rõ điều nầy giống như kẻ keo kiệt kia, rốt cuộc chẳng có một chút công đức nào. Kẻ phá giới kia cũng giống như tham lam không có tay. Tuy rằng đến núi báu; nhưng chẳng nhặt được của cải gì. Như cái bình dơ, đầy những chảy rỉ. Kẻ hủy phạm kia khiến cho người thấy liền xa lìa. Giống như con rắn trong phòng, người thường sợ hãi. Giống như trong vườn đẹp lại có hổ báo. Giống như trên đường hiểm trở, người ta chẳng muốn qua lại. Như xe kia bị phá, chẳng thể vận chuyển được. Như người ác kia, mọi người đều xa lánh. Như rắn độc kia, mắt chẳng muốn nhìn. Như rừng Hộ Đà nhiều người sợ hãi. Như voi say kia, người ác cai quản. Như kẻ ăn trộm, người giàu hay kỵ. Giống như hoa Chiêm Bác Ca ban ngày, chẳng có hương thơm. Lại cũng như vậy trong rừng Chiên Đàn có cây Tỉ Na, mùi hôi tướng xấu, phải mau chặt đi. Giả sử như trong miệng có trăm ngàn cái lưỡi thì chẳng thể nói hết sự sai trái của việc phá giới. Muốn rõ số lượng, chẳng thể nói hết.
Do sự phá giới như vậy chẳng thể tăng trưởng tất cả pháp lành đối với tất cả chúng sanh. Như trong khế kinh nói: Có một sĩ phu nói với người vợ rằng: Ngươi nên lên xe rồi vào rừng đốn củi. Do vì đốn củi; nên làm mất con bò; nhơn đi tìm con bò, làm cho người phải tìm giữ xe. Bò chưa được mà xe lại mất. Người nầy tìm đến khắp nơi gặp một cái ao, thấy một đàn chim, liền lấy cái búa từ xa liệng đến. Chim chưa bắt được mà búa đã chìm trong ao. Cởi áo để trên bờ, lặn vào ao để tìm cái búa. Búa chẳng tìm được, áo bị người giấu, mình trần về nhà. Lúc ấy trời tối, khi đến đầu ngõ, tối tăm chẳng rõ cho nên người nhà cho rằng đạo tặc đã đến nên xách gậy rượt, bị thương một mắt; mắt bị chảy máu rơi lên mặt đất. Lúc đó có con trùng xấu ác từ trên rơi xuống nghe được mùi máu; nên lại ăn một mắt. Hướng đến nơi khác bỏ nhà ra đi. Rõ biết việc nầy, thật quá kinh dị. Như việc trên đây, liền vì người vợ nầy mà nói bài kệ rằng:
Mất áo cùng hư mắt
Thân người như thế nào
Thật chẳng hiểu việc nầy
Do đây mà chạy bỏ
Lại như đệ tử Phật
Thà bỏ cách nghe nhiều
Bởi giới nên giữ gìn
Phá giới như không mắt
Nên rõ kẻ phá giới
Giả danh làm Sa Môn
Chẳng nên thọ của cúng
Mất những công đức lành.
Trong nầy lại nói: Giống như vị Trưởng Giả có nhiều con cái, thường hay dạy dỗ và làm cho con chẳng buông lung. Đó chính là nhà kho có đầy đủ của báu, nô tỳ phục dịch; tất nhiên lệ thuộc. Như thế liền được an ổn lâu dài. Ở trong những người con ấy hay xa xỉ vui đắm nữ sắc. Trưởng Giả nghe rồi liền tập trung thân tộc lại cùng nhau khiển trách và lấy ít của cải cho đi ra khỏi nhà, rồi lại bảo rằng: Hãy đừng buông lung! Làm tan nát của cải của con, sau nầy thọ khổ. Vì kia quên đi. Rồi người con ấy chẳng rõ từ đâu và chưa được bao lâu, của cải chẳng còn, hình dung tiều tụy, liền đi xin ăn và trộm cướp nơi người quen. Lúc ấy ông cha Trưởng Giả thấy rồi lo rầu, tâm liền thí xả. Ở trước đông người cao tiếng nói rằng: Đây chẳng phải là con ta. Đây chẳng phải là con ta. Nói cho kia nghe, sầu lo xấu hổ.
Đức Phật bảo rằng: Ta cũng như vậy. Nếu các Đệ Tử của ta phá hủy cấm giới, chẳng tàm chẳng quý thì nên ra khỏi nơi Phật Pháp. Lại chẳng được dự phần giác ngộ. Các pháp công đức, đủ loại thánh tài, cho đến trời người, Sa Môn, Bà La Môn v.v... ở trong đại chúng cao tiếng nói rằng: Đây là kẻ phá giới, chẳng phải đệ tử của ta. Nói cho kia nghe rồi, xấu hổ về tội đã sai.
Lại nữa những người áo trắng khi đã xuất gia rồi thì nên nương nơi Sa Môn, ở nơi thanh tịnh, mặc áo Cà Sa, tay mang bình bát. Cầm đèn tinh tấn, tu tập nghe nhiều; chẳng nương thế tục tạo việc tà mệnh. Lên xe voi ngựa, thân mang giáp dày, giương cung để bắn. Vào trong quân trận, như thế so sánh. Ở trong pháp ta, hủy hoại luật nghi, mắt chẳng muốn nhìn, giống như thế gian đốt đèn ban ngày. Giả sử chúng nhiều chẳng thể trừ tối. Kẻ ngu si kia chẳng thể phát khởi vô lậu thánh trí, vì đời mà làm đèn soi sáng. Lại cũng như vậy, như kẻ phường chèo mặc áo đội mũ đẹp ở trước mọi ngưiờ tự xưng là vua; nhưng đó chỉ làm vui cho người khác chứ không phải thật. Kẻ phá giới kia tuy rằng mặc áo Cà Sa, có tướng Sa Môn; nhưng không thể thanh tịnh mang vào đời những niềm vui. Lại như người tham lam nói ngoa là giàu có. Ở trước mọi người nói lớn tiếng tự nói mình là Trưởng Giả; nhưng thật ra người kia thật chẳng theo ý tự tại chút nào. Kẻ phá giới kia giả danh là Sa Môn, tức chẳng thể được quả vị vi diệu giải thoát. Phước Cái Chánh Hạnh Sở Tập Kinh
Hết quyển 10
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.137.167.86 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.