Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Chánh Pháp Hoa Kinh [正法華經] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Chánh Pháp Hoa Kinh [正法華經] »» Bản Việt dịch quyển số 3


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.43 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.88 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Hoa Chánh Pháp

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm 4: TIN ƯA
Lúc bấy giờ Tôn-giả Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên… được nghe pháp lớn chưa từng có, vốn chưa từng nghe và thấy Đức Thế Tôn thọ ký cho Tôn-giả Xá-lợi-phất sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân, vừa mừng vừa sợ, phấn chấn, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước chỗ Đức Thế Tôn, sửa y, để trần vai phải, quỳ gối, chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn mà trong lòng hân hoan, sáng suốt, thân tâm cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhàng, tâm trí chuyên nhất bạch Đức Thế Tôn:
- Kính bạch Đấng Đại Thánh! Chúng con đứng đầu chư Tăng, tuổi già suy yếu. Kính mong Thế Tôn cho chúng con được Niết-bàn. Tâm chí của chúng con vẫn mong cầu đạo Vô thượng chánh chân, nhưng sức tinh tấn của chúng con đã suy giảm, khôn thể kham nhận việc gì nữa. Như Lai trước đây giảng pháp, chúng con theo thứ tự ngồi an định trong chúng lắng nghe, không dám mỏi mệt hay nhàm chán. Lúc ấy Như Lai vì chúng con thuyết pháp. Chúng con đã được ở nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện, cho đến các pháp của Phật, không tạo tác đối với tất cả pháp, ưa thích các việc làm của chư Bồ-tát, Như Lai đã nhiều lần khuyến khích giáo hóa chúng con nhưng chúng con đối với ba cõi chỉ muốn vượt qua, thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt được Niết-bàn. Nay tâm chúng con đã mỏi mệt. Lúc vừa nghe Thế Tôn chỉ dạy giáo nghĩa kỳ diệu chúng con đều chẳng có một ý niệm ham thích đối với Tuệ giác vô thượng. Thế mà nay Thế Tôn lại thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành Chánh giác nên tâm chúng con rất bàng hoàng, kinh ngạc chưa từng có. Chúng con được lợi lành lớn, đã phải nỗ lực tu tập nên mới được nghe phẩm kinh như thế này. Chúng con theo chư Phật quá khứ thường được nghe pháp ấy nên khi vừa được nghe, chúng con như người được vô lượng ngọc báu, thỏa mãn chí nguyện mong mỏi. Chúng con hiện nay ở tại thế gian mà tâm vô sở úy, tiếng trống, nhạc vi diệu tự nhiên trổi lên, ngọn đèn vĩ đại chiếu rọi khắp nơi, rừng cây Chiên-đàn tỏa hương ngào ngạt.
Bạch Thế Tôn! Chúng con há có thể kham nhận được pháp lớn mà Thế Tôn đã nói hay sao? Đó là điều chúng con xin thưa thỉnh.
Lúc ấy các vị Thanh văn cùng nhau thưa với Đức Phật:
- Thuở xưa có người con bỏ cha trốn đi lưu lạc đến địa phương khác sáu mươi năm, rong ruổi bốn phương tìm cầu cơm áo, luôn bị nghèo cùng khốn khổ, chẳng có chút tài sản nào. Người cha có việc đến địa phương ấy. Ông có vô số vàng bạc châu báu, thủy tinh, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách chứa đầy trong kho, kẻ hầu hạ, xe cộ, voi ngựa nhiều vô số kể, quyến thuộc đông đảo, bảy báu đầy ắp, thu chi tiền bạc, trồng trọt cày bừa, khách thương buôn bán cũng rất đông đảo.
Người con nghèo đói phải đi khắp nơi làng mạc, thôn xóm, phố phường trong nước để xin ăn. Lúc ấy đang là mùa thu, ông trưởng giả giàu có đi vào thành xem xét các kho báu. Người cha, cùng con biệt ly đã lâu bỗng nhiên nhớ đến con, không biết con mình ở đâu. Ông tự nghĩ: “Ta có nhiều của cải đầy khắp gần xa mà lại chỉ có một mình. Nếu mai này ta chết đi thì của cải ấy sẽ tiêu tan. Ta chỉ mong được gặp lại con ta, tha hồ cho nó sự ăn mặc và giao tài sản cho nó, ta sẽ an vui không còn lo nghĩ.”
Khi ấy người con nghèo khổ lần hồi đến nhà ông trưởng giả, đứng trước của nhà nhìn vào, từ xa trông thấy người cha ngồi trên ngai sư tử được làm bằng vàng bạc và các vật quý báu, có các Bà-la-môn và mọi người kính cẩn vây quanh, có rèm báu kết ngọc và người cha ngồi trong đó để sai bảo, cắt đặt công việc cho mọi người trong các bộ phận. Dưới đất được rải đầy các thứ hoa quý, trăm ngàn muôn ức vàng dùng làm đồ dùng ăn uống. Người con nghèo thấy ông trưởng giả tư thế oai nghiêm như vậy nên rất sợ hãi, không biết vị ấy là ai, cho rằng người này là vua hoặc ngang hàng với vua, do dự không dám tiến bước, nghĩ vậy nên bỏ chạy thật mau.
Người cha trông thấy con lòng rất vui mừng, sai người hầu cận chạy theo gọi người con ấy quay về. Người con kinh hãi lăn xuống đất, nói với người theo bắt:
- Tôi không có xúc phạm gì đến các người, tại sao lại bắt tôi?
Người hầu dẫn người con đem về cho trưởng giả. Trưởng giả bảo:
- Chớ nên sợ hãi như thế. Ta vì con mà gầy dựng sự nghiệp với những kho tàng đầy ắp. Cha con biệt ly đã lâu không gặp, ta nay tuổi già suy yếu, cha con tình sâu nghĩa nặng mới đem con vào nhà này.
Người cha không nói điều này với ai. Vì sao? Vì người cha biết ý chí con mình nghèo hèn hạ tiện, không biết phước lực của cha. Một thời gian lâu sau, người con tâm ý thông hiểu, sắc mặt an hòa, biết được tên mình và quen dần với các vật quý giá, vị trưởng giả liền nói:
- Đây chính là con của ta.
Rồi ông dùng phương tiện bảo người con:
- Nay con muốn làm gì tùy ý.
Người con nghèo khổ rất kinh ngạc như được sự chưa từng có, liền đứng dạy đi đến xóm nghèo tìm kiếm cơm áo. Người cha hiểu con nên dùng phương tiện bảo anh ta:
- Con cứ tự nhiên đến với họ.
Sau khi người con đến, vị trưởng giả lại sai người đến bảo với anh ta:
- Ngươi hãy đến ngôi nhà kia, ở đấy đang cần người đánh xe.
Vị trưởng giả cho anh ta voi, ngựa, sai tập làm quen dần với những việc tầm thường. Nếu có ai hỏi anh ta cũng đáp là làm người đánh xe. Người cha bảo con:
- Ngươi phải điều khiển xe, ngựa và quản lý các vật báu trong nhà, tùy ý thích của ngươi, ta sẽ ban phát cho. Người con muốn gì, người cha cũng chu cấp cho đầy đủ như lời đã nói. Khi ấy người con tập điều khiển ngựa, xe và quản lý rất kỹ lưỡng các châu báu và còn dạy dỗ cho những kẻ lớn nhỏ trong nhà. Người cha ở bên cửa sổ từ xa trông thấy con mình làm việc giỏi dang, ông liền cởi chiếc áo cũ đã mặc, tắm gội sạch sẽ, tay phải kỳ cọ, mặc y phục đẹp đẽ, đeo chuỗi ngọc quý, toàn thân sạch sẽ, sáng sủa. Ông bảo với đứa con:
- Từ trước đến nay con đã xây dựng được cơ nghiệp gì không? Vì việc gì mà bỏ ta đi nơi khác đến nỗi bị khổ sở đói lạnh? Ta đã già yếu rồi, nay thật tình khuyên con rằng đã đến lúc con nên cưới vợ, vui chơi, ăn uống để nối dõi phước nhà. Sản nghiệp ta đã tạo nhiều không kể xiết, đầy đủ đồ quý báu, con có biết không? Ta mong ngóng con đã nhiều năm qua, mà con lại đi thân cận với bạn ác nay mới quay về. Con phải trừ bỏ những thói quen tật xấu ấy. Ta có viên ngọc dạ quang minh vô cùng quý giá sẽ đem cho con, kẻ hầu hạ, tôi tớ nam nữ lớn nhỏ tùy ý con muốn, tất cả đều giao cho con. Ta luôn thương nhớ con cũng như quốc vương may mắn gặp thái tử của họ.
Các ví Thanh văn cùng thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi ấy người con nghèo khổ đã lìa xa gia đình hơn sáu mươi năm, trôi giạt khắp nơi, đến nhà trưởng giả mới gặp người thân, suy nghĩ trước và sau khi gặp cha, tâm đều nhớ hết những việc đã làm.
Khi ấy vị trưởng giả nằm trên giường bệnh, biết mình sắp chết mới bảo người con:
- Ta nay đã sức cùng lực kiệt. Con nên kế thừa sản nghiệp đồ sộ của ta. Tất cả tài sản kho tàng quý báu trong nhà, nếu con nhận lãnh, đem giúp đỡ những người nghèo thiếu, sử dụng tùy ý.
Người con nghe cha dạy xong vui mừng khôn xiết, nguyện sẽ thực hành không trái lời hứa. Người cha biết chí con nên thân hành dạy bảo, trước nghèo sau giàu càng thêm vui mừng, tôn kính than thuộc, lễ bái các bậc Trưởng lão. Người cha ở trước vua, đại thần và mọi người tuyên bố:
- Xin các ngài biết cho, người này là con trai của tôi, do tôi sinh ra, tên đó họ đó. Con tôi đã bỏ tôi lưu lạc khắp nơi sáu mươi năm nay mới gặp nhau. Nó là con của tôi, tôi chính là cha nó. Bao nhiêu cửa cải, tài sản của tôi đều là của con tôi.
Người con nghe cha tuyên bố với mọi người lòng càng thêm vui mừng, tự nghĩ: “Ta đời trước có phước báo gì mà được lãnh kho tàng quý báu này?”
Các vị Thanh văn lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Ông trưởng giả giàu có ấy ví như Thế Tôn. Chúng Thanh văn Hữu học chúng con được gọi là con của Phật. Ngài cửu giúp chúng con thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi, như ông trưởng giả giàu có trở lại đưa đứa con thoát khỏi sự sống chết. Khí ấy, bạch Thế Tôn, Thế Tôn có vô số pháp bảo của bậc Thánh, dùng năm thần thông đoạn trừ màn ngăn che của năm ấm. Chúng con luôn tinh tấn tu tập theo giáo pháp ấy, đạt đến Niết-bàn cho là ấn chứng vi diệu, tinh tấn mong cầu không giải đãi, muốn được giải thoát tâm ý vắng lặng, nhờ tự thân tư duy thành thục nên đạt được rất nhiều. Nhưng Thế Tôn biết tâm lý chúng con vốn nương vào pháp thực hành, siêng tu thiền định và thường tin ưa, vì thấy chúng con lười biếng, tâm chí hạ liệt, không phân biệt, không có chí nguyện đối với kho pháp bảo quý giá của Như Lai, nên Thế Tôn đã dùng phương tiện chỉ cho chúng con thấy rõ kho tàng tuệ giác ấy, nhờ nó mà trừ được đói khổ và được trao ấn chứng vi diệu.
Kính bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng con tuổi đã già, như Tôn-giả Đại Ca-diếp đây được Như Lai ấn chứng rất sớm là sẽ đạt đến giải thoát. Thế Tôn lại vì chúng con mà thị hiện giáo nghĩa trí tuệ lớn của Bồ-tát. Chúng con phụng hành và đem chỉ dạy cho mọi người. Như Lai đã hiển bày đức lớn đều làm cho chúng con được thể nhập giáo nghĩa Như Lai. Vì sao? Vì Thế Tôn đã khéo dùng tất cả phương tiện biết chúng con ý chí thấp hèn, không hiểu nổi giáo pháp sâu xa nên dạy hạnh Thanh văn. Chúng con sợ hãi các pháp trong sinh, già, chết ba cõi và các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, chỉ muốn tự độ mà không cứu độ tất cả chúng sinh, xa lìa phương tiện quyền biến, trí tuệ, đại Từ bi, thiền định Tam-muội, chỉ biết nhân tâm mà không thấy được căn nguyên của tất cả chúng sinh. Ví như kẻ nghèo cùng mong cầu cơm áo, người cha ân cần muốn đem đến an lạc cho con, nhưng người con không hề hay biết. Thế Tôn dùng phương tiện tùy lúc thị hiện nên chúng con không nhận thấy, nay mới tự biết mình chính là con Phật.
Chúng con đã được Phật xót thương ban cho đại trí tuệ. Vì sao? Vì chúng con tuy là con Phật mà lại hạ tiện, khiếp nhược. Đến khi thấy tâm chúng con hoan hỷ kính tin Bồ-tát thừa nên Như Lai sau đó mới nói cho pháp lớn Đại thừa. Thế Tôn đã vì hai việc mà nói pháp ấy:
1. Vì chư Bồ-tát nên Như Lai hiện pháp cam lộ.
2. Vì hạng người thấp hèn, chí nguyện nhỏ nên Như Lai khuyến khích, chuyển hóa họ đi vào giáo nghĩa vi diệu.
Ví như người con kia cùng cha biệt ly nhau đã lâu, trên đường từ xa trông thấy cha không biết là ai nên rất sợ hãi, dần dần về sau nhìn cách thể hiện uy nghi mới biết đó là của mình. Phật cũng như vậy, chúng con không hiểu rõ pháp lớn của Bồ-tát, tuy là con của Như Lai, từ pháp sinh ra nhưng chỉ mong Niết-bàn, không có ý chí ngồi dưới gốc cây nơi đạo tràng hàng phục ma quân và độ thoát tất cả chúng sinh. Bọn chúng con tự cho rằng đã được giải thoát. Vì lý do đó nên ngày nay chúng con thấy, nghe mà chưa được thành tựu, không phải là bậc xuất gia, chưa trở thành bậc Sa-môn. Hôm nay Thế Tôn hiện các trí tuệ siêu tuyệt nên chúng con đã đạt được pháp trân bảo của Phật.
Đức Phật là cha, chúng con là con, cha con đồng một thể tánh, không có sai khác. Giống như vị trưởng giả khi sắp mạng chung, ở trước đại chúng tuyên bố cùng vua, quan, Bà-la-môn, trưởng giả và tất cả mọi người: “Hôm nay ta đem tất cả kho tàng châu báu để ban cho con ta.” Người con nghe xong vui mừng như được điều chưa từng có. Thế Tôn cũng như vậy, ban đầu dạy pháp Tiểu thừa tạm thời làm cho chúng con được an lạc, nhưng sau cùng Ngài vì bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả chư Thiên và loài người mà hiển bày giáo nghĩa căn bản. Thế Tôn khéo dùng phương tiện thuyết pháp tam thừa, không hề có hai thừa, huống gì có ba? Các vị Thanh văn này đều sẽ thành Phật. Chúng con vô cùng hân hoan không kể xiết.
Khi ấy Tôn-giả Đại Ca-diếp nói lại kệ rằng:
Chúng con hôm nay
Được nghe pháp âm
Ngạc nhiên vui mừng
Được chưa từng có
Vì thế cho nên
Tâm rất hoan hỷ
Lại biết Đạo Sư
Thanh âm êm dịu
Trân bảo tôn quý
Chứa nhóm thật nhiều
Tập hợp các báu
Ban cho chúng con
Chưa hề nghĩ đến
Cũng chẳng mong cầu
Được nghe pháp sâu
Tâm rất phấn chấn.
Ví như trưởng giả
Có một người con
Bé thơ không biết
Ngu si mê muội
Tự bỏ cha mình
Đi đến nước khác
Trôi nổi xứ lạ
Gặp nhiều hiền nhân.
Khi ấy trưởng giả
Lo sầu nhớ con
Về sau nghe biết
Vội vã kiếm tìm
Dạo khắp mười phương
Lòng thường lo nghĩ
Cha con cách biệt
Đã sáu mươi năm
Thăm hỏi mọi người
Muốn được gặp con
Liền đến xứ khác
Vào thành lớn kia
Dừng chân ở đó
Xây dựng lâu đài
Đầy đủ trang nghiêm
Thọ lạc năm dục
Vô số vàng ròng
Và các châu báu
Của cải quý giá
Minh châu, ngọc bích
Voi, ngựa, cộ xe
Rất nhiều vô số
Gia súc trâu, heo
Gà, vịt, dê, lừa
Thu chi lời lãi
Buôn bán, cấy cầy
Tôi tớ hầu hạ
Nhiều không kể xiết
Các sự tôn quý
Có vạn ức người
Lại được vua mến
Oai như quốc vương
Tất cả dân chúng
Kính trọng hướng về
Quan quyền thân thích
Ai cũng tôn trọng
Ví nhiều duyên cớ
Người đến tấp nập
Tìm kiếm rất đông
Không thể kể hết
Giàu mạnh như vậy
Mà luôn than khóc
Ta đã già nua
Chí lực suy yếu
Lòng thường suy nghĩ
Muốn được gặp con
Ngày đêm nghĩ nhớ
Không lúc nào nguôi
Hỏi nghe tin con
Lòng thêm phiền muộn
Con dại bỏ ta
Hơn sáu mươi năm
Kho tàng ta có
Tài sản lớn nhiều
Nếu ta chết đi
Ai người giao phó
Kế thừa cho ta
Người con ngu si
Nghèo cùng khốn khổ
Thường tìm cơm áo
Dạo khắp các nơi
Ưu lo suy nghĩ
Miệt mài khắp chốn
Tìm cầu dè sẻn
Phiêu bạt xa xôi
Tự lo sinh sống
Có khi được của
Lúc chẳng có gì
Khốn đốn tha hương
Ưu tư lo lắng
Bức xúc trong lòng
Gian lao khổ sở
Lần lượt trải qua
Đi không dừng nghỉ
Dần dần đi đến
Chỗ ở của cha
Quanh co lui tới
Tìm kiếm áo cơm
Từ từ tiến gần
Đến ngôi nhà ấy
Liền đến trước cửa
Từ xa trông thấy
Vị đại trưởng giả
Ngồi ngai sư tử
Đông người hầu hạ
Quyến thuộc vây quanh
Tiền của thu chi
Và đem bố thí
Có rất đông người
Đi theo phục dịch
Hoặc người tính toán
Vàng bạc châu báu
Ghi chép giấy tờ
Phân phối từng ban
Thu chi riêng biệt
Tính toán ít nhiều.
Khi ấy gã nghèo
Thấy cảnh như vậy
Đứng qua bên đường
Quán sát họ làm
Tự thân suy nghĩ
Sao ta đến đây
Đây chắc là vua
Hoặc là thái tử
Nêu không sao vậy
Sẽ bắt trói ta
Nếu như không đi
Bị ép sai khiến
Suy nghĩ như thế
Người nghèo bỏ chạy
Đời không trọng nghèo
Chẳng ưa kẻ thiếu,
Khi ấy trưởng giả
Ngồi ngai sư tử
Xa thấy con mình
Thầm lặng vui mừng
Sai ngay người hầu
Đuổi theo giữ lại
Gọi kẻ nghèo kia
Đến đây ta gặp.
Người hầu vâng lời
Đuổi theo bảo rằng
Buộc ngươi phải về.
Gã té xuống đất
Kinh hãi nghĩ thầm
Vô cớ bị hại
Sao lại bi bắt
Họ muốn gì đây.
Trưởng giả giàu có
Thấy con ngã lăn
Thương xót con mình
Vô cùng hạ liệt
Cũng không tin rằng
Ta là cha nó
Lại vẫn nghi ngờ
Không xét của cải.
Người cha phủ dụ
Nói với kẻ nghèo
Ta có vàng ròng
Cất chứa tại đây
Sẽ cấp cho ngươi
Đủ thức ăn uống
Giữ gìn trông coi
Phục dịch các việc
Châu báu ta có
Bị hư cũ nhiều
Bỏ nơi nhơ nhớp
Không ai sửa dùng
Ngươi hãy tùy tiện
Lấy làm của riêng
Của cải ta nhiều
Không ai dùng hết.
Người nghèo nghe bảo
Những lời như thế
Bèn vội tới nơi
Vâng lệnh thi hành
Theo lời trưởng giả
Không dám trái lệnh
Liền vào trong nhà
Sửa sang các việc.
Khi ấy trưởng giả
Bên trong cửa sổ
Quán sát người con
Biết làm thế nào
Tuy là con ta
Mà quá hạ liệt
Chỉ biết tính toán
Điều khiển xe thôi.
Ông từ trên lầu
Đi xuống dưới đất
Cởi áo nhơ bẩn
Thay đồ sang trọng
Đi thẳng đến chỗ
Làm việc của con
Bảo con đứng dậy
Cần làm việc gì
Ta sẽ cho ngươi
Rất khó gặp ngươi
Nhân đức bố thí
Xoa bóp chân ta
Rượu nồng ngon ngọt
Cấp cho thực phẩm
Giường ghế đồ dùng
Ngựa xe không thiếu
Lúc đó ta sẽ
Cưới vợ cho ngươi.
Trưởng giả thông tuệ
Dần dà dạy bảo:
Con nên nhận lãnh
Các việc của ta
Ví yêu mến ngươi
Tâm đừng nghi ngại
Người con lần hồi
Vào trong nhà cha
Buôn bán cai quản
Tính toán thu chi
Không để thiếu hụt
Ngày càng phát đạt
Đi tới đi lui
Răn dạy tôi tớ
Các món bảo vật
Ngọc sáng lưu ly
Đều đem cất giữ
Kho tàng trong nhà
Tất cả các chỗ
Đều biết tính toán
Suy nghĩ biết rõ
Lợi của tài sản
Nhưng vì ngu si
Riêng giữ kho nhỏ
Không bằng như cha
Ở tại bên ngoài.
Khi ấy gã nghèo
Một mình suy nghĩ
Người khác không có
Kho báu như ta
Người cha biết được
Ý chí con mình
Nó tự cho rằng
Được giàu vô tận.
Liền gọi con đến
Tư thân dạy bảo
Ta muốn giao phó
Tài sản của ta
Nên bảo ngươi rằng
Ta có tất cả
Vọ số tài sản
Sinh hoạt buôn bán
Tụ tập mọi người
Trước mặt quốc vương
Trưởng giả, Phạm chí
Các bậc Hiền nhân
Sai người công bố
Lớn nhỏ gần xa
Đây là con tôi
Bỏ tôi trốn đi
Đến nơi nước khác
Tìm cầu ăn mặc
Vô cùng nghèo khổ
Nay mới trở về
Cùng tôi xa cách
Hơn sáu mươi năm
Nay đến nước này
Mới được gặp lại
Ở nơi thành ấy
Mà quên mất tôi
Nơi đây kiếm sống
Tư nhiên đến đây
Tài sản của tôi
Không thiếu thứ gì
Sản nghiệp hiện tại
Rất là đầy đủ
Tất cả đều đem
Giao phó cho con
Con sẽ giữ gìn
Cơ nghiệp của cha.
Người con vui mừng
Việc chưa từng có
Ta vốn nghèo nàn
Của cải tự đến
Người cha biết con
Ý chí thấp hèn
Được các kho báu
Ngày nay an ổn
Đấng Đại Đạo Sư
Giáo hóa chúng con
Chúng con thấp hèn
Vui ưa pháp nhỏ
Phật độ chúng con
Khiến được an ổn
Rồi Ngài thọ ký
Sẽ thành Phật đạo
An trụ nơi đây
Lập hạnh rất nhiều
Vô số Bồ-tát
Tuệ lực vô lượng
Chỉ bày phân biệt
Đạo lớn tối thượng
Ca ngợi các duyên
Muôn ngàn thí dụ
Chúng con được nghe
Là con Đức Phật
Nên gắng phụng hành
Đạo lớn tối thượng
Nơi đáng kiến lập
Cho người mắt tuệ
Sẽ ớ thế gian
Được thành Phật đạo
Vì Đấng Thế Tôn
Thực hành như thế
Nuôi dưỡng ủng hộ
Nơi giáo pháp này
Phân tích giảng nói
Tuệ nghĩa tối tháng
Rồi sẽ cảm hóa
Tất cả chúng sinh
Chí nguyện chúng con
Tâm nghèo suy nghĩ
Nếu như được nghe
Những lời Phật dạy
Không chịu phát khởi
Trí tuệ Như Lai
Thấy Bậc Tối Thắng
Tuyên nói nghĩa đạo
Trong lòng tư nghĩ
Đã được Niết-bàn
Không có mong cầu
Trí tuệ tối thượng
Nhờ nghe Thế Tôn
Chư Phật các cõi
Được ý hy hữu
Sinh tâm vui mừng
Nơi pháp vắng lặng
Tất cả vô lậu
Đã được dứt trừ
Sau được diệt độ.
Do tư duy này
Không thành Phật đạo
Nỗ lực tu hành
Siêng trừ kiêu mạn
Giáo nghĩa chư Phật
Vi diệu tối thượng
Chưa từng khuyên giúp
Chỉ trụ Niết-bàn
Cho là cứu cánh
Tối thắng trọn vẹn
Được pháp vô vi
Xả bỏ ấm, cái
Ngày đêm tinh cần
Tu pháp nghĩa không
Thoát khỏi khổ đau
Não phiền ba cõi
Thế Tôn dạy bảo
Dùng các nhân duyên
Và các thí dụ
Đầy đủ các pháp
Diễn nói tối thắng
Thân sinh trí tuệ
Nếu như có người
Mong thành Phật đạo
Chúng con vì họ
Ban cho Pháp sự
Họ đạt nhưng con
Không thích bao giờ
Đấng Đại Đạo Sư
Khắp cõi thế gian
Quán sát tất cả
Những người như con
Lo sợ các việc
Làm cho lợi ích
Ân cần khuyên bảo
Khiến con tin ưa
Phương tiện quyền biến
Giống như người cha.
Ví như trưởng giả
Vô cùng giàu có
Biết chí con mình
Bần cùng hạ liệt
Mới đem châu báu
Ban phát cho con;
Đấng Đại Đạo Sư
Nói pháp hy hữu
Phân biệt, chỉ bày
Khéo dùng phương tiện
Biết rằng chúng con
Chí thích thấp hèn
Điều phục tâm con
Mới ban pháp lớn.
Chúng con ngày nay
Đạt được vô lượng
Pháp chưa từng có
Như nghèo được của
Đức Phật giáo hóa
Được đạo quý báu
Các lậu đoạn trừ
Ngày đêm tu tập
Giới cấm, thiền định
Thọ trì giáo nghĩa
Tuân lời Đạo Sư
Nay con đã đạt
Đạo lớn Thế Tôn.
Quyến thuộc vây quanh
Tu hành tinh tấn
Nỗ lực ngày đêm
Phạm hạnh thanh tịnh
Nương Đấng Pháp Vương
Tuệ giác sâu xa
Mà được đầy đủ
Quả đức Vô thượng
Thành tựu vi diệu
Các lậu không còn.
Chúng con hôm nay
Mới là Thanh văn
Mới được nghe rõ
Phật đạo tối thượng
Được Phật hiển bày
Pháp âm toàn giác
Do đã được nghe
Vượt khỏi sợ hãi.
Hôm nay mới thành
Bậc Vô Sở Trước
Đem pháp ly thủ
Giảng cho chư Thiên
Thế nhân, ma vương
Và cho Phạm thiên
Tất cả quyến thuộc
Các loại chúng sinh
Khắp chúng hữu tình
Tạo lập tịch nhiên
Dứt bỏ sinh tử
Vô số ức kiếp,
Giáo pháp Phật giảng
Rất khó được gặp
Xét khắp thế gian
Không thể sánh kịp.
Ngày nay giác ngộ
Hết tội, giải thoát
Tu hành tinh tấn
Phấn chấn vui mừng
Chúng con quay về
Đảnh lễ bậc Thánh
Sở nguyện viên thành
Như cát sông Hằng
Thực phẩm, y phục
Nhiều đến vô lượng
Giường nằm, ngọa cụ
Thuần khiết sạch sẽ
Gỗ hương Chiên-đàn
Lấy làm nhà cửa
Đệm ngồi mềm mịn
Để trải lên trên
Nếu người tật bệnh
Vô số thuốc thang
Đem đến cúng dường
An trụ độ tận
Bố thí nhiều kiếp
Những gì đã chứng
Không bị mất đi
Pháp Phật cao xa
Vô lượng vô hạn
Đủ thần túc lớn
Kiến lập pháp lực
Phật là Đại vương
Kham nhận kiên cường
Thường tu kiên cố
An ủi khuyên dạy
Luôn theo đúng thời
Chưa từng buông bỏ
Vọng tưởng phước hạnh
Nơi tất cả đời
Pháp Đấng Trung Tôn
Đều có lực lớn,
Như Lai tối thắng
Thắp đèn sáng lớn
Dạy rất nhiều người
Biết hàng chúng sinh
Tùy sức của họ
Bao nhiêu chủng loại
Điều họ ưa thích
Trăm ngàn nhân duyên
Tùy thuận mở bày,
Như Lai đều biết
Tánh hạnh chúng sinh
Tâm niệm người khác
Tất cả quần sinh
Vì nhiều lỗi lầm
Đưa đến đọa lạc
Đem pháp thị hiện
Đưa về tuệ giác.
***
Phẩm 5: CÂY THUỐC
Nghe ĐH Minh-Quang Nguyễn Lê Đức giảng tại Chùa Hải-Đức hồi 11 giờ sáng ngày 29 tháng 11 năm 2009. Bấm chuột phải để hạ tải.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-diếp và các vị trưởng lão Thanh văn:
- Hay thay, hay thay, Đại Ca-diếp! Ông đã ca ngợi như thật về Như Lai. Đúng như lời ông nói, công đức của Như Lai theo như thí dụ vừa rồi còn gấp bội hơn thế, vô lượng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường bằng số kiếp giới hạn, tất cả mọi số tính toán đều không phù hợp với Như Lai. Trí tuệ của Như Lai vô cùng vô hạn, không ai có thể nghĩ hết những chỗ Như Lai đã trải qua và không thể tìm hết cội nguồn của nó. Như Lai thâm nhập hết tất cả các pháp nghĩa, quán sát biết tất cả tâm niệm của chúng sinh trong thế gian, thông suốt đến chỗ tận cùng, phân biệt tất cả. Như Lai làm cho mọi người hiểu rõ trí tuệ phương tiện, khuyến khích và an lập cho tất cả chúng sinh đến giải thoát và hiển bày trí tuệ rộng lớn khiến cho chúng sinh thâm nhập tuệ giác của Phật.
Ca-diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên, nơi ấy có các cây cỏ thuốc, tre lau, rừng cây lớn nhỏ, gốc rễ, cành, nhánh, hoa, trái, bao nhiêu giống loại màu sắc khác nhau đều sinh ra trên đất hoặc trên núi cao, hoặc giữa ghềnh đá, gò nổng, suối, khe, hang… Khi ấy một trận mưa lớn nhuần thấm khắp các cỏ cây, vườn rừng, tùy theo giống loại của mỗi cây mà tất cả đều phát triển tươi tốt. Những ai không tin tưởng, kính ngưỡng Như Lai cũng đều được như thế. Nước mưa cùng một loại rơi khắp cõi Phật, tất cả đều được sinh trưởng trên đất ấy như nhau không khác.
Đức Như Lai Chánh Giác giảng nói pháp sâu xa cũng như trận mưa lớn. Đấng Đại Thánh xuất hiện ở thế gian là vì tất cả chư Thiên, Nhân dân, A-tu-luân, Quỷ, Thần, Rồng. Như Lai hiện ra oai thần rực rỡ tràn khắp cõi nước, ngay trong hiện tại trước chúng, xướng lên âm thanh lớn, dùng trí tuệ phân biệt giáo nghĩa, bằng tiếng oai hùng như sư tử mà tuyên bố lời này:
- Ta là Đấng Như Lai sẽ làm cho chư Thiên, nhân dân trên trời hay khắp nhân gian, người chưa được độ sẽ được độ, người chưa giải thoát sẽ được giải thoát, người chưa an sẽ được an, người chưa chứng Niết-bàn sẽ làm cho chứng Niết-bàn. Đời hiện tại và các đời sau Như Lai đều biết đúng như thật. Như Lai dùng trí tuệ toàn giác có thể thấy khắp tất cả, độ người đáng độ, giải thoát người đáng giải thoát, làm cho an những người chưa an. Ai chưa được Niết-bàn, Như Lai làm cho được Niết-bàn, khiến cho tất cả đến đây nghe Như Lai thuyết pháp.
Khi ấy hàng Trời, Người, A-tu-luân, Kiền-đạp-hòa, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc... tất cả vân tập đến chỗ Đức Thế Tôn đang giảng pháp nghĩa. Phật là Đấng chánh dẫn đạo, phân biệt rõ ràng con đường tuệ giác.
Đức Thế Tôn bảo Ca-diếp:
- Bấy giờ có vô số ngàn muôn ức loại chúng sinh đều đến chỗ Như Lai nghe pháp. Như Lai thấy rõ tất cả căn cơ của họ nên dung sức đại tinh tấn mà thuyết pháp, dùng vô lượng lời lẽ phân biệt rõ ràng, dạy bảo khắp các chúng sinh, khiến cho họ không mất bản tâm, được an lành vui vẻ không có tai họa, hoặc được giải thoát ngay trong đời này, đời sau được sinh chỗ an lành tùy theo ý thích của họ, mỗi người đều được sinh một cách tự nhiên. Nếu có người quen tuân theo ái dục thì Như Lai vì họ thuyết kinh, hoặc khiến họ nghe nhận giáo pháp, xa lìa các nghiệp tham, chuyển dần theo con đường trí tuệ Như Lai. Nhờ theo bản lực vô lượng như trên với tâm kiên cố nên họ thành tựu pháp thân bình đẳng. Giống như cơn mưa lớn, khắp cõi nước Phật đều được thấm nhuần nuôi dưỡng, sinh trưởng bình đẳng không sai khác.
Đức Như Lai giảng nói pháp một vị cũng như vậy, đưa đến vị giải thoát, xa lìa ái dục, đạt đến Niết-bàn, đi vào trí tuệ toàn giác. Hoặc có người nghe và thọ trì, đọc tụng, vâng giữ giáo pháp Như Lai mà họ lại không tự tỉnh thức, không quán niệm. Vì sao?
Đó là do chủng loại và căn tánh khi xưa của những chúng sinh ấy. Theo chỗ nhớ nghĩ của họ, đã nghĩ, đang nghĩ có thể làm những việc gì; những việc đã làm, đang làm và sẽ làm. Theo các nhân duyên ấy mà sẽ đạt đến đâu và cần phải nói thế nào, chỉ có Như Lai mới thấy biết hết sự việc trên ở nơi nào và cõi nào. Như nước mưa bình đẳng nhuần thấm cỏ thuốc trong rừng; các loại cỏ thuốc màu trắng, đen, xanh, đỏ, cao, vừa, thấp.
Đức Thế Tôn đối với các hạng chúng sinh đều hiện chỉ một vị, đưa họ vào vị giải thoát, cho đến Niết-bàn, độ những người chưa độ, đến Niết-bàn cứu cánh, làm cho họ đạt đến cùng một cõi, cùng một pháp vị, tâm không còn sợ hãi và được giải thoát. Như Lai giáo hóa làm cho chúng sinh được tin ưa. Ngài bảo bọc, nuôi dưỡng, che chở, khiến chúng sinh đạt đến trí tuệ thông suốt. Như Lai ca ngợi, phân tích rõ ràng, kiến lập giáo pháp của đấng Hiền thánh cũng như những điều vừa rồi Ca-diếp đã nói.
Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói kệ:
Ta xuất hiện thế gian
Làm vua pháp nhân hòa
Vì chúng sinh thuyết pháp
Theo chỗ họ tin ưa
Ý mạnh mẽ oai hùng
Kiên trì phân biệt nói
Nhiều chúng sinh thọ trì
Chẳngy vội giảng cho họ
Trí tuệ Phật khó hiểu
Nếu người thiếu trí nghe
Sẽ sinh lòng hoài nghi
Liền bỏ mất lòng tin
Tùy theo cảnh giới nói
Theo sức chúng kham nhận
Lại dạy các pháp lợi
Vì chúng hiện chánh pháp
Ví như vầng mây đen
Nổi lên trên hư không
Mưa khắp thế giới Phật
Che phủ khắp đất đai
Phóng chớp sáng chói lòa
Hơi nước tỏa xung quanh
Tiếng sấm lớn vang rền
Muôn loài đều hoan hỷ
Nhật nguyệt bị che khuất
Trừ nóng được mát mẻ
Vì trời sắp đổ mưa
Mây giăng khắp bầu trời
Trận mưa đó khắp cùng
Tuôn xuống nhiều vô lượng
Mưa chan hòa cõi Phật
Khắp nơi đều ướt đẫm
Đúng thời mưa tuôn tràn
Đại địa đều nhuận thấm
Suối khe đang khô cạn
Tất cả được tràn đầy
Nhờ trận mưa thấm nhuần
Các nguồn đều tràn dâng
Nơi đồng trống hang sâu
Cây cối trong rừng vắng
Nẩy mầm non xanh tốt
Vô số cỏ thuốc sinh
Tất cả các giống cây
Lớn nhỏ đều tăng trưởng
Cỏ thuốc mọc xanh tươi
Cây cành nhiều hoa quả
Tùy tánh loại của chúng
Tất cả được thấm nhuần.
Các cây đại thọ
Rễ bám đất sâu
Mọc nơi hiểm trở
Và sống trong đó
Như các tà đạo
Tất cả ngu si
Lớn thêm trói buộc
Như voi bị xích
Gai gốc, cỏ cây
Lúa mạ, lau sậy
Gốc thân, cành lá
Và các hoa quả
Cây trái sum suê
Được nhiều lợi ích
Đội ân mưa xuống
Cỏ thuốc lớn dần
Theo từng giống loại
Do trận mưa đó
Đều được thấm nhuẩn
Đói khát no đủ
Tùy theo giống trồng
Mỗi loại mỗi khác
Nhưng lúc mưa xuống
Đều thuần một vị.
Này Đại Ca-diếp!
Phật cũng như vậy
Hiện ra nơi đời
Ví như trời mưa
Rưới đều khắp cả
Vì chúng thuyết pháp
Đem hạnh chân thật
Giáo hóa chúng sinh.
Phật nói pháp ấy
Khiến mọi người nghe
Ở trước chư Thiên
Nhân dân khắp chốn,
Phật là Như Lai
Đấng Lưỡng Túc Tôn
Khéo dùng phương tiện
Giống như trận mưa
Ta làm no đủ
Tất cả quần manh
Những kẻ ngu si
Thân hình khô gầy
Trừ các khổ nạn
Được an ổn lớn
Thiêu hết ái dục
Đạt đến Niết-bàn
Chư Thiên, nhân loại
Đều nghe ta nói
Tất cả nên đến
Chỗ Phật Đại Thánh
Ta là Như Lai
Bậc không ai sánh
Điều ngự giáo hóa
Nên hiện trong đời
Vì tất cả người
Phân biệt thuyết kinh
Hóa độ muôn ngàn
Chúng sinh vô số
Phật lại diễn bày
Bao nhiêu giáo nghĩa
Thường hành bình đẳng
Không có bỉ tử
Đạt đến giải thoát
Diệt độ Niết-bàn
Hoặc trước cửa nhà
Thuyết pháp kinh điển
Đó là tạo lập
Kho tàng đạo đức
Dầu cao dầu thấp
Đều dạy như nhau
Không có ghét yêu
Dứt trừ ái dục
Ta chưa từng nói
Những lời vô ích
Chưa từng ghét ganh
Các duyên phóng dật
Dùng tất cả pháp
Thuyết cho mọi loài
Nếu như chúng sinh
Nhiều không tính kể
Vì giảng kinh lớn
Không trái nhân duyên
Đi chậm hay nhanh
Hoặc đứng tại chỗ
Hay là ngồi yên
Vẫn luôn thiền định
Ví như rồng chúa
Mưa thấm nhuần nhiều
Thấm ướt cùng khắp
Tất cả thế gian
Hiện khởi mây tuệ
Tuôn xuống mưa pháp
Xướng lên yi diệu
Tùy bệnh cho thuốc
Luôn vì chúng sinh
Thuyết pháp Thánh híền
Khiến đều giữ giới
Như trời che mát
Những kẻ nói sai
Các hạnh sai trái
Muốn tiến gần pháp
Điều phục dần dần
Những kẻ hồ nghi
Bỏ các tà kiến
Khuyên dạy lợi ích
Thấy chốn an lạc
Bỏ chỗ hạ liệt
Xa lìa biếng nhác
Tùy ý nguyện họ
Mà khiến vào đạo
Đúng thời chỉ dạy
Khiến đều xả bỏ
Tâm niệm sai quấy
Thuận theo hạnh Phật
Chư Thế Tôn dạy
Rưới mưa pháp kinh
Làm cho đạt đến
Phật đạo tôn quý
Tùy sức chúng sinh
Khiếu được nghe nhận
Bao nhiêu đạo tuệ
Hóa lập pháp mầu
Trời người theo đó
Chí tánh an lạc
Phạm vương, Đế Thích
Chuyển luân thánh vương
Cũng giống như đây
Các thế giới nhỏ
Các loại cỏ thuốc
Mỗi loại khác nhau
Nhỏ nhoi thấp ngắn
Dược thảo như vậy
Ca-diếp hãy nghe
Ta sẽ nói hết,
Dùng tuệ nhận biết
Rõ pháp vô lậu
Chứng được Niết-bàn
Dạo chơi đến chốn
Ba minh, sáu thông
Cũng lại như vậy.
Trận mưa định ý
Cỏ thuốc Tam-mnội
Hoặc có đi đến
Ở chốn núi rừng
Người này thành tựu
Bậc Duyên giác thừa
Ngườí đó tu thiền
Sống hạnh thanh tịnh
Đó mới gọi là
Cỏ thuốc bậc trung.
Nếu như chí nguyện
Cầu đức Thượng sĩ
Ta sẽ ớ đời
Thành Đấng Đạo Sư
Thường hành tinh tấn
Thiền định nhất tâm
Đó mới gọi là
Cỏ thuốc bậc thượng.
Giả sử có người
Muốn tâm an trụ
Cứu giúp Từ bi
Sống nơi vắng lặng
Chóng được thành đạo
Làm Đấng Trung Tôn
Gọi đó cây lớn.
Là ví dụ này
Có thể tuyên thuyế t
Pháp không thoái chuyển
Kiến lập thần túc
Thực hành căn lực
Trưởng dưỡng duyên này
Thuốc thang trừ bệnh
Hùng sự độ thoát
Vô số ức người
Tùy thời thị hiện
Trong Phật đạo ấy
Đó chính gọi là
Rừng cây lớn nhất.
Ta vốn tùy thuận
Khéo dung phương tiện
Tất cả chư Phật
Cũng đều như thế
Giảng pháp tối thắng
Là pháp bình đẳng,
Giống như mây lành
Tuôn mưa khắp chốn
Vô ngại thần thông
Phật dùng dụ này
Ví như cỏ thuốc
Cùng mọc trên đất
Để họ được thấy
Nghĩa pháp vi diệu
Như Lai đã lập
Dùng phương tiện khéo
Ví dụ phân tích
Pháp sự toàn diện
Cũng như trận mưa
Tưới mọi cỏ thuốc.
Phật dùng mưa pháp
Rưới khắp thế gian
Được nhiều an ổn
Thành tựu khắp cả,
Quán sát mỗi người
Khả năng kham nhận
Giáo pháp Phật dạy
Đều cùng một vị.
Ví như mưa rơi
Núi, ghềnh, cây cỏ
Và nơi khoảng giữa
Không có khác nhau,
Rưới ướt cây cối
Khắp cả rừng già
Mây dày bốn phía
Đầy tất cả cõi.
Giả sử thế gian
Hành pháp từ mẫn
Nên dùng kinh này
Đầy khắp thiên hạ,
Chỉ dạy cho đời
Khiến đều an ổn
Trời mưa cỏ thuốc
Hoa trái sum suê,
Các cỏ thuốc ấy
Dần dần lớn lên
Đó là La-hán
Các lậu đã hết.
Các hàng Duyên giác
Ở nơi rừng rậm
Pháp ta nói ra
Không có trần cấu,
Vô số Bồ-tát
Trí tuệ thấu đạt
Khắp cả ba cõi
Tất cả thực hành,
Ở trong chúng hội
Diễn đạo lớn này
Giống các cây kia
Ngày thêm lớn tốt,
Tiến tu Thần túc
Chuyên đạt Tứ thiền
Hoặc nghe Không tuệ
Tâm liền giải thoát,
Phóng hào quang sáng
Vô số ức ngàn
Đó là cây lớn
Mà lại thắm tươi.
Hoặc các Thanh văn
Chưa đạt Niết-bàn
Thế Tôn vì họ
Thuyết pháp cao tột,
Hoặc đem phân biệt
Thuyết giảng pháp này
Giống như mây nổi
Mưa xuống các cây,
Dần dần thêm lớn
Các cây cỏ thuốc
Hoa của mọi người
Nhiều không kể hết
Giữa ngay lúc ấy
Thuyết pháp nhân duyên
Mà vì mọi người
Hiện nơi Phật đạo
Tạm dùng phương tiện
Thuyết giảng giáo pháp
Tất cả Đạo sư
Cũng lại như vậy.
Thuyết giáo pháp này
Là pháp bậc nhất
Các chúng Thanh văn
Đều phải phụng trì
Thực hành duyên đây
Sẽ được hạnh Phật
Các La-hán này
Như thế không khác
Thế Tôn diễn nghĩa
Cứu cánh nơi đây
Giáo hóa Tiểu thừa
Đều được Phật đạo.
Đức Phật lại bảo Tôn giả Đại Ca-diếp:
- Như Lai giáo hóa, chỉ dạy bình đẳng không thiên lệch. Ví như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thiên hạ, ánh sáng ấy không chọn lựa chỗ nào nên chiếu và chỗ nào không nên chiếu, dù là cao, thấp, sâu, cạn, xấu, đẹp, thơm, hôi... đều chiếu soi như nhau không khác.
Đức Phật cũng như thế, dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả chúng sinh trong năm đường sinh tử, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, trí tuệ ấy không tăng giảm, mỗi chúng sinh tùy theo sự giác ngộ của tâm mình mà tự đạt đạo. Vốn không có ba thừa, do hạnh nguyện mà đưa đến như vậy.
Tôn-giả Ca-diếp bạch Phật:
- Nếu không có ba thừa, làm sao có được bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát?
Đức Phật dạy:
- Ví như người thợ gốm dùng đất dẻo làm đồ vật đựng, hoặc đựng mật cam lồ, hoặc đựng bơ sữa, dầu mè, hoặc đựng rượu ăn uống… Đất bùn tánh chất nó như nhau nhưng khi làm đồ vật khác nhau thì chỗ dùng cũng không giống nhau. Pháp giải thoát cũng như vậy, bình đẳng không sai khác. Tùy theo chỗ thực hành của mỗi người mà thượng, trung, hạ có khác nhau.
Tôn-giả Ca-diếp lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Giả sử khác nhau nhưng cứu cánh có giống nhau chăng?
Đức Phật dạy:
- Sẽ giống nhau nhưng chỉ có người giác ngộ mới hiểu rõ việc này. Ví như có người sinh ra đã bị mù, không thấy được năm sắc, mặt trời, mặt trăng và mười phương. Người ấy cho rằng thiên hạ không có mặt trời, mặt trăng, năm sắc, tám phương và phương trên, phương dưới. Có người giải thích, người ấy vẫn không tin. Giả sử có vị lương y xem thấy nguyên nhân căn bệnh của người ấy: “Vì sao người ấy không thấy? Là do khi xưa vị ấy đã tạo tội nên nay mắt mù tối không thấy được ánh sáng, thân thể bị bệnh nặng. Thế nào gọi là bệnh nặng? Đó là bốn chứng bệnh phong, hàn, nhiệt, tích.”
Vị lương y thầm nghĩ: “Bệnh trạng của người này cho dù dung các dược liệu cũng không thể chữa khỏi. Trên Tuyết sơn có loại thuốc có thể trị được bốn bệnh ấy. Một là Hiển, hai là Lương, ba là Minh, bốn là An; đó là tên của bốn vị thuốc.
Lúc ấy vị lương y vì thương xót người bệnh, bày ra phương cách liền vào núi Tuyết hái bốn loại thuốc đem hợp lại rồi ngâm, giã, dùng để trị cho người mù mắt kia được sáng trở lại. Vị lương y lại châm cứu, tiêu tức, bổ tả, làm cho người mù sáng mắt, trong ngoài đều thấy rõ. Người ấy thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, năm sắc, mười phương, khi ấy ông ta mới thật tin liền tự trách mình: “Ta thật là mù lòa, đã không thấy nghe mà tự cho rằng mình đã thông đạ.- Nay mắt thấy được mới tự biết rằng trước đây đã bị sự ngu si che phủ, nay đã thấy được xa gần, cao thấp, ta không còn lầm lẫn.”
Khi ấy có vị Tiên nhân sống nơi vắng vẻ, có năm phép thần thông, thấy nghe xuyên suốt khắp cả và thân có thể bay đi, tâm có thể biết ý nghĩ người khác, tự biết nguồn gốc sinh tử từ trước đến nay. Vị Tiên nhân bèn nói rõ cho người kia:
- Ngươi chớ kiêu căng, tự cao cho rằng mình đã thấu đạt. Vì người ở trong nhà đóng cửa, không ra ngoài nên không biết mọi sự bên ngoài được. Ngươi không biết người khác nghĩ tốt xấu về mình, cũng không thể thấy xa được năm dặm mười dặm. Các tiếng nói hay tiếng trống đánh cách xa hai mươi dặm còn không thể nghe, trong gần mười hai dặm tự thân ngươi không thể đi bộ nổi, cũng không thể đạt được đến chỗ tự nhớ lại, thấy được lúc chưa sinh, còn ở trong thai, cũng không thể biết được. Ngươi thông đạt điều gì mà tự cho là thấy biết tất cả? Nay ta thấy ngươi thật là kẻ ở trong tối cho là sáng, ở trong sáng cho là tối.
Người kia hỏi:
- Phải làm cách nào để được Thánh trí ấy? Xin ngài rủ lòng ban cho lời dạy bảo.
Vị Tiên nhân đáp:
- Ngươi phải vào núi sâu sống một mình nơi thanh vắng, trừ hết các dục tình, lúc ấy mới đạt được.
Người ấy tuân lời vị Tiên nhân dạy, bỏ nhà vào chốn núi non, nhất tâm chuyên ròng không đắm say dục lạc, chứng được thần thông tự giác ngộ, quán sát những điều đã thấy không thể dung ngôn từ để gọi được. Khi đã được năm phép thần thông, không có chỗ ngăn ngại mới tự biết sở kiến xưa kia của mình bị tối tăm che phủ.
Đức Phật dạy:
- Ta sẽ giải rõ ví dụ này. Con người sống trong năm đường ấm, cái sinh tử, chẳng rõ bản vô thì gọi là si, từ si đưa đến hành, từ hành đưa đến thức, từ thức đưa đến danh sắc, từ danh sắc đưa đến lục nhập, từ lục nhập đưa đến xúc, từ xúc đưa đến thọ, từ thọ đưa đến ái, từ ái đưa đến thủ, từ thủ đưa đến hữu, từ hữu đưa đến sinh, từ sinh đưa đến lão, bệnh, tử, ưu não khổ hoạn. Các tội tích tụ cho nên gọi là mù tối. Chính vì thương xót những người này bị trôi lăn trong ba cõi không dừng nghỉ không thể tự cứu vớt, nên Thế Tôn quán sát nguồn tâm của chúng sinh thấy có người bệnh nặng có kẻ bệnh nhẹ; có người nhiều trần cấu, có kẻ ít trần cấu; có người dễ giải thoát, có kẻ khó giải thoát; có người thấy xa, có kẻ thấy gần, phát tâm Bồ-tát đến không thoái chuyển, không còn sinh tử, đạt đến Phật quả, giống như người có mắt được làm Thần tiên. Vị lương y đó chính là Như Lai vậy.
Người không phát đại Bồ-đề tâm gọi là sống mù. Tham, dâm, sân hận, ngu si, sáu mươi hai tà kiến gọi là bốn bệnh. Không, Vô tướng, Vô nguyện, hướng đến cửa Niết-bàn gọi là bốn thứ thuốc. Thuốc làm cho khỏi bệnh thì không có si, hành, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, bệnh, tử, ưu não khổ hoạn, tất cả đều được đoạn trừ. Chí không trụ thiện, cũng không trụ ác, như người mù hai mắt được sáng trở lại gọi là Thanh văn, Duyên giấc đã đoạn sinh tử, vượt khỏi ba cõi, thoát khỏi năm đường, tự biết rõ đã thông đạt, không bị nhầm lẫn. Lúc muốn diệt độ, có Phật thị hiện ra trước, đem chánh pháp giảng dạy khiến họ phát tâm Bồ-tát, không ở nơi sinh tử, chẳng trụ Níết-bàn, hiểu rõ nghĩa không trong ba cõi; tất cả các pháp hiện hữu trong mười phương như huyễn như hóa, như giấc mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang trong núi thẳm; tất cả đều không sở hữu, không có gì hy vọng, không thủ không xả, không tối, không sáng. Khi ấy họ mới thấy sâu xa, không có gì là không thông đạt, thấy được các pháp chưa từng thấy, hiểu biết rõ nguồn gốc sinh khởi của tất cả của chúng sinh.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói lại nghĩa trên:
Ví như ánh mặt trời
Tỏa chiếu khắp muôn nơi
Ánh sáng không tăng giảm
Cũng không chọn tốt xấu.
Như Lai cũng như vậy
Trí tuệ như trời, trăng
Hóa cùng mười phương cõi
Cũng không có giảm tăng.
Như người thợ gốm kia
Nhào nặn đất làm đồ
Hoặc đựng mật cam lộ
Hoặc đựng dầu ăn, sữa
Vốn từ một chất đất
Thành vật dụng khác nhau
Nhưng chỗ dùng không khác
Vì chỗ đựng đặt tên.
Người vốn cũng như vậy
Không ba cõi năm đường
Theo hành nghiệp đọa sinh
Luân hồi không tự biết.
Rõ “Không” gọi Bồ-tát,
Bậc trung là Duyên giác
Chấp không, tuệ chưa giải
Thì gọi là Thanh văn.
Ví như người mù mắt
Không thấy ánh trời trăng
Năm sắc và mười phương
Cho rằng đời không có
Lương y xét nguyên nhân
Thấy bốn bệnh che lấp
Tự mẫn thương xót họ
Vào núi tìm thuốc thang
Hái thuốc hay diệu kỳ
Tên hiển, lương, minh, an
Ngâm, giã, hòa hợp lại
Để trị cho người mù
Gia giảm thêm châm cứu
Bệnh khỏi, mắt thấy sáng
Thấy trời, trăng, năm sắc
Mới biết mình tối ngu
Người không rõ tánh không
Đọa mãi đường sinh tử
Mười hai duyên buộc ràng
Không rõ nguyên nhân bệnh
Thế Tôn hiện ra đời
Quán sát gốc ba cõi
Tùy nhân sinh ra bệnh
Mà khai hóa tất cả
Rõ “Không” là Bồ-tát
Ý thấp là Duyên giác
Chán sợ khổ sinh tử
Nên rơi vào Thanh văn
Tự cho đạo đức cao
Không thể tự hiểu rõ
Người thấy được cứu cánh
Không có lo chướng ngại
Giống như vị Tiên nhân
Có đủ năm thần thông
Thương xót bảo người kia
Ngươi chấp chặt ngăn che
Không hiểu rộng sâu xa
Nơi tối cho là sáng
Ở trong không thấy ngoài
Tuy sáng cũng là tối
Vài mươi dặm có tiếng
Tai không thể nghe được
Hoặc người muốn ách hại
Không biết ý họ nghĩ
Muốn đến ngoài vài dặm
Phải đi bộ mới đến
Hoặc khi sinh lớn lên
Không biết việc trong thai
Rõ năm việc trong ngoài
Lúc ấy mới thông đạt
Sao lại sanh kiêu ngạo
Tự cho mình hơn hết
Người muốn được ngũ thông
Phai ở nơi thanh vắng
Chuyên tinh nghĩ nhớ đạo
Khi liễu ngộ pháp này
Phụng trì lời Phật dạy
Bỏ nhà vào núi sâu
Nhất tâm không nghĩ xấu
Liền đạt đến Thần tiên
Nếu đạt đến Thanh văn
Và được Duyên giác thừa
Tự cho tuệ đầy đủ
Bằng Niết-bàn chư Phật
Khi sắp muốn diệt độ
Phật liền đứng phía trước
Vì hiện pháp Bồ-tát
Tam đạt vô quái ngại
Tuệ giác đến vô cùng
Khéo tạm dùng phương tiện
Đạt Không, Vô tướng nguyện
Bồ-tát do đó sinh
Bốn Đẳng tâm, bốn ân
Đem khai hóa chúng sinh
Rõ tất cả như hóa
Như mộng, huyễn, sóng nắng
Như tiếng vang, thân chuối
Ba cõi không sở hữu
Không giữ cũng không bỏ
Không tối cũng không sáng
Không sinh tử Niết-bàn
Bình đẳng như hư không
Thấy cũng chẳng phải thấy
Mới thấy được tất cả
Cái nhìn ngay lúc ấy
Không phân biệt Tam thừa
Tất cả đều bình đẳng
Cứu giúp không hạn lượng.
Phẩm 6: THỌ KÝ CHO HÀNG THANH VĂN
Nghe ĐH Minh-Quang Nguyễn Lê Đức giảng tại Chùa Hải-Đức hồi 11 giờ sáng ngày 6 tháng 12 năm 2009. Bấm chuột phải để hạ tải.
Lúc bấy giờ, khi nói kệ xong, Đức Thế Tôn bảo tất cả các vị Tỳ-kheo:
- Ta nay nói rõ, các vị Thanh văn kia cũng như Đại Ca-diếp đã từng cúng dường ba ngàn ức Đức Phật, nay sẽ phải cúng dường số lượng chư Phật như trước đây, tôn kính phụng thờ chư Phật Thế Tôn, nhận lãnh chánh pháp, vâng giữ tu tập. Sau khi cúng dường chư Phật ấy xong sẽ được thành Phật, cõi ấy tên là Hoàn minh, kiếp ấy tên là Hoằng đại. Đức Phật khi đó hiệu là Đại Quang Minh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu, trụ thế mười hai trung kiếp.
Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ ở đời hai mươi kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi kiếp. Cõi nước của Phật ấy rất thanh tịnh, không có gạch ngói, gai góc, các thứ ô uế, núi non, hầm hố, vô cùng tịnh lạc, đất bằng lưu ly, cây bằng các thứ báu, dây bằng vàng ròng giăng mắc trên các hàng cây, có tám con đường giao nhau. Các cội cây báu thường trổ hoa báu, luôn sum suê tươi đẹp. Có vô số trăm ngàn muôn ức các vị Bồ-tát trong cõi ấy, số Thanh văn cũng thật vô lượng. Cõi ấy không có các việc ác và quan thuộc, các loài quỷ đều luôn tinh tấn theo hộ trì Phật pháp không hề trái phạm.
Lúc ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ:
Ta thấy Tỳ-kheo
Bằng Tuệ nhãn Phật
Ca-diếp hiện nay
Sẽ được thành Phật.
Ở đời vị lai
Vô số ức kiếp
Cúng dường chư Phật
Bậc Thánh Trung Tôn
Viên mãn đầy đủ
Ba ngàn ức Phật
Ma-ha Ca-diếp
Các lậu đã tận,
Tu tập trọn vẹn
Công hạnh ba phẩm
Sẽ được thành Phật.
Ông thân cận pháp
Cúng dường chư Phật
Tôn sư trời, người
Tích lũy hạnh lành
Sẽ thành Phật quả
Tối tôn, tối thượng
Bậc không sánh kịp
Là Đại Đạo Sư
Là bậc Đại Thánh.
Cõi nước Phật kia
Bậc nhất tối thắng
Thanh tịnh ly cấu
Bao nhiêu điềm lành
Tùy theo mong cầu
Đều được toại nguyện
Đất màu vàng tía
Vật báu trang nghiêm
Lại có các cây
Đều bằng trân bảo
Đường xá trang nghiêm
Thẳng phân tám nẻo
Trời, người tán hương
Khắp nơi thơm ngát
Cõi nước khi ấy
Sẽ được như vậy
Bao nhiêu loại hoa
Giăng mắc trang hoàng
Tất cả loài hoa
Sắc màu vàng tía
Tỏa sáng ngân thanh
Dùng làm pháp tắc
Thường luôn vi diệu
Chưa ai từng thấy.
Các chúng Bồ-tát
Vô số ngàn muôn
Tâm chí an định
Có sức đại thần,
Các chúng Thánh trí
Theo kinh Đại thừa
Số không thể tính
Muôn ức trăm ngàn,
Tuyệt không các lậu
Bền chí vâng giữ
Có chúng Thanh văn
Pháp Phật tối thắng
Nếu dùng Thiên nhãn
Muốn tính suy lường
Số chúng đệ tử
Quyết không thể được.
Phật ấy trụ đời
Mười hai trung kiếp
Chánh pháp sẽ trụ
Hai mươi trung kiếp;
Tượng pháp cũng trụ
Số kiếp như trên
Phật Đại Quang Minh
Công đức như thế.
Lúc ấy các vị Hiền giả Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên… đồng lòng đứng lên cúi đầu chiêm ngưỡng dung nhan rực rỡ của Đức Phật, mắt không lay động, thành kính lễ sát chân Đức Phật. Tất cả đều đọc kệ tán thán:
Bậc Đại Hùng vô nhiễm
Đấng Thích Vương đại Từ
Đã xót thương chúng con
Tuyên nói khen hạnh Phật.
Phật nay biết chúng con
Xin thương truyền thọ ký
Được gặp pháp cam lộ
Tắm gội trong pháp âm;
Ví như kẻ đói khát
Được thức ăn thượng vị
Nghèo túng đang van cầu
Bỗng có người cho ăn.
Chúng con đều hoan hỷ.
Chúng con chí thấp hèn
Trái thời bỏ mọi người
Nên không được thọ ký,
Không tin trí Đẳng giác
Nên Phật không truyền trao
Nay chúng con ở đây
Đều không còn đói khát,
Thấy Thế Tôn khuyến phát
Được nghe pháp chí tôn
Chỉ mong được thọ ký
Thì mới được đại an.
Nguyện Thế Tôn giải nghi
Lân mẫn đại Từ bi
Thương hạnh tâm kém hèn
Pháp cam lộ dạy chúng.
Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Thanh văn Trưởng lão, liền bảo chúng Tỳ-kheo:
- Các Tỳ-kheo nên biết! Vị đại Thanh văn Trưởng lão Tu-bồ-đề này sẽ theo hầu cận, cúng dường tám ngàn ba mươi ức trăm ngàn muôn Đức Phật, ở chỗ chư Phật tu tập phạm hạnh, tích lũy đầy đủ trọn vẹn công đức, sau đó trong tương lai sẽ được thành Phật, được xưng tụng hiệu là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Kiếp ấy tên là Bảo âm. Khắp nơi trong cõi nước của Đức Phật ấy đều có các loại cây báu tự trang nghiêm, không có cát sỏi, gạch đá, núi hầm, hang hố. Các hàng cây đều phát ra âm thanh từ bi, hòa nhã. Nhân dân trong nước ấy giàu có vô lượng, nhà cửa, phòng xá, lầu gác nhiều vô số. Số chúng Thanh văn cũng nhiều vô lượng không thể tính đếm cho hết được và đều là bậc đã chứng được Túc mạng thông. Bồ-tát trong nước ấy cũng đông trăm ngàn muôn ức, vô lượng không thể tính đếm. Đức Phật ấy sẽ trụ đời mười hai trung kiếp. Sau khi Đức Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ đời hai mươi trung kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi trung kiếp. Đức Phật sẽ an tọa trên hư không vì tất cả chúng sinh giảng nói kinh pháp, khai hóa cho vô số trăm ngàn Bồ-tát.
Khi đó Đức Thế Tôn nói kệ:
Nay ta nói rõ
Các vị Tỳ-kheo
Đều nên lắng nghe
Lời Phật tuyên dạy.
Ông Tu-bồ-đề
Là đệ tử ta
Ở trong tương lai
Sẽ được thành Phật,
Gặp chư Thế Tôn
Tâm ý chí thành
Đầy đủ ba mươi
Muôn ngàn Đức Phật,
Sẽ ở thế gian
Huân tu đạo hạnh
Chí luôn mong cầu
Tuệ giác Như Lai.
Ở thời vị lai
Công hạnh viên mãn
Nhan sắc diệu kỳ
Ba mươi hai tướng
Rực rỡ tươi đẹp
Sắc thân vàng tía
Kiếp ấy trong lành
Tâm luôn Từ mẫn,
Cõi nước an vui
Hiện lên điềm lành
Muôn dân trông thấy
Khả ý vui mừng
Đều cùng nhau đi
Đến chỗ Đức Phật
Chúng sinh được độ
Vô lượng vô số,
Các chúng Bồ-tát
Không thể tính kể
Tâm đều giải thoát
Không còn thoái chuyển.
Nghe pháp tối diệu
Các căn thông lợi
Đều sẽ thuận kính.
Cõi nước Phật ấy
Số chúng Thanh văn
Thật đông vô lượng
Muốn biết hạn số
Tuyệt không thể được
Lục thông, tam đạt
Có đại thần túc
Giải thoát vô ngại
Đã được an ổn
Sức thần thông đó
Không thể nghĩ bà n
Nếu Phật giảng bày
Pháp bảo chư Phật
Trời, người đông đảo
Như cát rạch sông
Sẽ luôn chắp tay
Tư quy y Phật.
Phật ấy trụ đời
Mười hai trung kiếp
Chánh pháp sẽ trụ
Hai mươi trung kiếp,
Tượng pháp trụ thế
Số cũng như trên
Đấng Đại Hùng Sư
Việc đó như vậy.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo các vị Tỳ-kheo:
- Các Tỳ-kheo muốn biết chắc thật việc trong tương lai thì cần phải tin tưởng vào trí phân biệt bình đẳng của Như Lai. Đại Ca-chiên-diên, vị đệ tử Thanh văn này của ta, trong tương lai sẽ theo hầu hạ, cúng dường tám ngàn ức Đức Phật. Sau khi mỗi Đức Phật diệt độ sẽ xây dựng tháp cao bốn vạn thước, mỗi tháp dài rộng hai vạn thước, đều dùng các thứ báu vật như vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, ngọc bích để tạo nên, dùng các thứ hương hoa, tạp hương, bột hương, gấm lụa, cờ lọng để cúng dường.
Sau khi ông đã cúng dường xong lại phải cúng dường hai mươi ức Đức Phật rồi sẽ thành Phật, có hiệu là Tử Ma Kim Sắc, Như Lai Đẳng Chánh giác, Mình Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Cõi nước trang nghiêm, thanh tịnh, bằng phẳng, không có các điều xấu ác, danh tiếng đồn khắp, dùng lưu ly làm đất. Vô số các loại cây có các thứ báu vật như dây báu, gấm lụa màu vàng óng giăng mắc để trang hoàng. Hoa của các cây ấy luôn nở sum suê, tươi tốt đầy khắp nơi. Cõi Phật ấy không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà chỉ có chư Thiên và loài người số đông vô lượng, lại có vô số trăm ngàn muôn ức Thanh văn và Bồ-tát để trang nghiêm cõi Phật. Đức Phật ấy sẽ trụ ở đời mười tiểu kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ hai mươi trung kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi trung kiếp.
Khi đó Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Các vi Tỳ-kheo
Đều nên lắng nghe
Thanh âm Phật ấy
Nhu nhuyễn tốt lành.
Ông Ca-chiên-diên
Đệ tử của ta
Sẽ cúng dường Phật
Vô số Đạo Sư
Tôn kính phụng thờ
Kính thành vô lượng
Trong vô số kiếp
Không thể tính đếm.
Chư Phật diệt độ
Xây dựng tháp thờ
Dùng hương và hoa
Cúng dường tháp Phật
Sau đó tương lai
Sẽ được thành Phật
Cõi nước trong lành
Không có dơ uế
Giáo hóa giảng dạy
Vô số chúng sinh
Mở bày hướng đạo
Cho khắp mọi người
Cõi ấy trang nghiêm
Mười phương tỏa sáng
Ông sẽ thành Phật
Dùng dụ giảng bày
Hiệu Tử Kim Sắc
Uy đức sáng ngời
Độ thoát chúng sinh
Trăm ngàn muôn ức
Vô số Bồ-tát
Và chúng Thanh văn
Đầy khắp cõi Phật
Số đông vô kể
Thường tu tinh tấn
Trong pháp của Phật
Đoạn trừ các ác
Díệt tận họa tai.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo với bốn bộ chúng trong hội:
- Nay Thế Tôn tuyên nói ông Đại Mục-kiền-liên, vị đệ tử Thanh văn của ta, sẽ phụng thờ, cúng dường tám ngàn Đức Phật, theo hầu vô số các Đức Thế Tôn. Sau khi chư Phật diệt độ, ông sẽ xây dựng tháp thờ xá-lợi, dùng bảy món báu như vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, ngọc quý tạo thành. Các tháp ấy cao bốn vạn thước, dài rộng hai vạn thước. Ông lại dùng vô số các vật báu tốt đẹp, các loại hương hoa, tạp hương, bột hương, gấm lụa, cờ phướng lọng và tấu nhạc để cúng dường tháp Phật. Sau khi cúng dường các tháp ấy xong, ông lại phải kính thờ, theo hầu cận, cúng dường hai trăm vạn ức Đức Phật.
Vào đời sau cùng, ông sẽ được thành Phật, có hiệu là Kim Hoa Chiên-đàn Hương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Nước ấy tên là Ý lạc, kiếp ấy tên là Lạc mãn.
Thế giới của Đức Phật ấy tươi đẹp, an ổn, thanh tịnh, trong sạch. Mặt đất toàn bằng ngọc lưu ly rực sáng, cây cối hoa quả đều bằng bảy báu hợp thành. Khắp nơi đều có các loại hoa bằng ngọc quý kết thành rất trang nghiêm. Cõi nước ấy bằng phẳng, tốt đẹp, đầy đủ các thứ quý báu. Đức Phật sẽ lặng im an tọa, trú trong định Vô lượng nghĩa và vì tất cả Bồ-tát rộng giảng kinh pháp. Đức Phật ấy sẽ trụ đời hai mươi trung kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ thế bốn mươi trung kiếp, thời kỳ tượng pháp cũng như vậy.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:
Đại Mục-kiền-liên
Đệ tử của ta
Xả bỏ thân người
Cũng được tự tại,
Hai mươi vạn ức
Số kiếp như vậy
Đều sẽ cúng dường
Chư Phật, giáo pháp
Ở chỗ các Phật
Tu tập hạnh lành
Chí luôn mong cầu
Đạo của chư Phật
Theo hầu tôn kính
Chư Phật Thế Tôn
Phụng sự đầy đủ
Các Bậc Đạo Sư
Và sẽ vâng giữ
Truyền bá Thánh giáo
Trong bao nhiêu kiếp
Số ức trăm ngàn
Kính cẩn tuân hành
Không hề trái phạm.
Chư Phật Thế Tôn
Sau khi diệt độ
Ông dùng bảy báu
Xây tháp thờ Phật
Vì chư Như Lai
Kiến tạo, tu sửa
Dùng gỗ Chiên-đàn
Để làm kèo cột
Tán hương, tấu nhạc
Mà cúng dường tháp.
Ở đời cuối cùng
Việc làm đã xong
Ngôn thuyết an lành
Được người kính ngưỡng
Thương yêu chúng sinh
Việc làm như thế
Sẽ được thành Phật
Hiệu Kim Chiên-đàn
Phật ấy sẽ thọ
Hai mươi trung kiếp
Số kiếp an trụ
Đức hạnh như thế
Sẽ giảng pháp kinh
Cho chư Bồ-tát
Ở số kiếp ấy
Phân biệt thật nghĩa
Hàng Thanh văn lớn
Muôn ức trăm ngàn
Số đông vô lượng
Như cát rạch sông
Tam đạt, lục thông
Có đại thần túc
An trụ ở đời
Mà được sức diệu
Vô số Bồ-tát
Đều không thoái chuyển
Dũng mãnh tin cần
Có chí, trí tuệ
Tu hành như trên
Theo lời Phật dạy
Số ấy vô lượng
Không thể nghĩ bàn.
Phật diệt độ rồi
Đệ tử vô số
Chánh pháp sẽ trụ
Truyền khắp mười phương
Hai thời chánh, tượng
Bốn mươi trung kiếp
Chánh pháp chưa hết
Tượng pháp đã khai
Hàng chúng Thanh văn
Có thần thông lớn
Phật đều khuyến lập
Nương theo Đại thừa
Không trái pháp chân
Ở trong vị lai
Thàn Phật tự tại.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Công đức phóng sinh


Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn


Kinh Dược sư


Em Là Vì Sao Sáng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.224.95.38 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập