Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm 13: AN LẠC HẠNH
Khi ấy, Đại sĩ Đoàn Thủ bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này đang kính ngưỡng Thế Tôn, là những vị mà sự khuyến hóa của các ngài khó ai bì kịp. Vậy lúc nào thì nên vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết kinh này?
Phật bảo Đoàn Thủ:
- Bồ-tát trước hết an trú trong hai pháp mới nên giảng nói kinh này: một là oai nghi, hai là lễ tiết. Thế nào gọi là Bồ-tát hiểu biết oai nghi? Nếu đem tâm nhẫn nhục nhu hòa mà hộ trì tâm ý sợ sệt không tự chủ, làm cho ý chí vững vàng như đất, không thấy có người. Tuy không thấy có người mà vẫn hành pháp, quán tướng tịch nhiên, các pháp vốn không, cũng không tưởng niệm các pháp này là khuôn phép của các hạnh, thì gọi đó là oai nghi.
Thế nào gọi là lễ tiết? Nếu Bồ-tát không theo phụng sự cho quốc vương, thái tử, đại thần, quan lại, không giao tiếp với ngoại đạo, dị học, không ham chuộng học tập sách vở thế tục, ca ngợi âm nhạc, tập tục hôn phối, không gần gũi kẻ đồ tể, ngư phủ, chài lưới, thợ săn bắn chim muông, giặc cướp, không cùng ở nơi đông đảo ca nhạc, du hý, không làm việc cùng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ cầu quả Thanh văn, cũng không gần gũi lễ bái, thăm hỏi, không cùng ở chung, không cùng bè bạn kinh hành, đốt hương, rải hoa, thắp đèn, trừ khi cùng đi đến hội giảng kinh, chỉ được cùng ở trong hội giảng kinh, dù có nói điều gì cũng không tham đắm, thì như vậy gọi là lễ tiết.
Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ-tát Đại sĩ không luyến tiếc nhà cửa, tông tộc, thân thuộc, không mãi mê nghĩ tưởng đến nữ nhân khi nói kinh pháp cho họ, cũng không thường đến chỗ đông đảo trẻ con, nam nữ và các người khác mà nói lời êm ái về điều không nên thuyết giảng, không vì định ý riêng tư mà nói kinh, không cũng đứng, cũng không cùng hẹn ước, cũng không một mình cùng một Tỳ-kheo-ni nào đi vào nhà, trừ khi nhớ nghĩ đến sự tinh tấn của Như Lai mà đi. Nếu vì nhân duyên nói kinh cho nữ nhân thì trong trường hợp này không làm ô nhiễm pháp vị, không làm cho họ không lãnh hội, mà chỉ rộng bàn về nghĩa lý, không cùng ở một chỗ với Sa-di, Tỳ-kheo-ni, trẻ em nam, nữ thường ưa ngồi chỗ yên tĩnh u nhã, thích nơi thanh vắng tịch lieu. Như vậy gọi là lễ tiết.
Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ-tát Đại sĩ quán tất cả pháp đều là rỗng không, nhưng nếu chấp chặt như thế là rơi vào điên đảo. Chỗ đứng của Thánh đế là thường trụ như pháp, chuyên giữ cho thân tâm không lay, không động, không thoái, không chuyển, xả bỏ, diệt tận, chẳng sinh chẳng có, không có tự nhiên, vô vi, vô số, không có cái gì có thể có, đạt đến vô sở hữu, loại bỏ ngôn từ, không trụ vô vi, không tưởng, chẳng tưởng, chế phục các tưởng. Giả sử Bồ-tát quán sát sâu xa tất cả pháp này, khẩn thiết tu hành những điều nên hành này thì thường trụ hai việc oai nghi, lễ tiết vậy.
Đức Thế Tôn muốn giải rõ lại ý nghĩa này nên nói bài tụng:
Nếu Bồ-tát ưa thích
Giảng nói kinh điển này
Thì ở vào đời sau
Dũng mãnh không khiếp sợ.
Theo oai nghi lễ tiết
Làm sáng hạnh thanh bạch
Với quốc vương. thái tử
Đại thần cùng quan thuộc
Ngoại đạo và dị học
Hạng săn bắn, ác hại
Hạn chế việc giao du
Và không cùng qua lại.
Tỳ-kheo cầu La-hán
Ngoại trừ mặt Giới luật
Không gần người tự đại
Lại xa kẻ phạm cấm,
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Bàn luận và chuyện vãn
Xa lìa thanh tín nữ
Không nói lời vô ích,
Hiện tại muốn đạt pháp
Phải nên dứt điều quấy
Ưa ở nơi vắng lặng
Gọi đó là oai nghi.
Nếu kẻ không chịu đến
Học hỏi về đạo pháp
Vì kẻ ấy thuyết giảng
Không sợ, không chấp trước,
Chúng sinh bị bệnh hủi
Hoặc bà con họ hàng
Người mẹ, các sắc đẹp
Đều phải nên xa lìa.
Không cùng họ gần gũi
Chỉ vun trồng cội đức
Nên bỏ việc bán buôn
Kiêu mạn, không cung kính,
Từ bỏ các trú xứ
Không để hại đến thân
Biết bao loài chúng sinh
Chớ nên ăn thịt chúng.
Dứt trừ các tội lỗi
Người vui giận oán hờn
Tành tình thường như vậy
Cũng chẳng cùng luận đàm,
Không gần kẻ giả dối
Kẻ tánh tình tự chuyên
Những người tánh như vậy
Đều phải nên xa lánh.
Người trí có cơ duyên
Vì người nữ thuyết kinh
Không được đi một mình
Không dừng chỗ vui chơi
Nếu ra vào thôn xóm
Thường thường đi khất thực
Dẫn một bạn Tỳ-kheo
Luôn luôn nhớ tưởng Phật.
Nên Phật trước thị hiện
Oai nghi lễ tiết ấy
Ai phụng trì kinh này
Phải siêng năng thực hiện
Kẻ thượng, trung, hạ liệt
Nếu không hành chánh pháp
Tất cả đều chí thành
Phải thường cúng dường luôn.
Trượng phu vô tưởng niệm
Kiên cố hành dũng mãnh
Không biết tất cả pháp
Cũng không thấy Niết-bàn
Của tất cả Bồ-tát
Đó gọi là oai nghi
Cũng như hành lễ tiết
Phải nên nghe xét kỹ.
Nay sẽ giảng thuyết
Giáo pháp vô vi
Tất cả không khởi
Cũng không chỗ sinh
Kiên lập ý chí
Quán chiếu nghĩa không
Đấy là trí nhân
Đã hành lễ tiết,
Người có sở niệm
Là tưởng điên đảo
Lấy không làm có
Dùng hư làm thật
Tuy có chỗ khởi
Các pháp không sinh
Do tưởng sai lầm
Mà sinh các hữu,
Tâm thường chuyên nhất
Khéo tu Tam-muội
Kiến lập hạnh tu
Như đảnh Tu-di
An trú như thế
Quán khắp các pháp
Là tất cả pháp
Giống như hư không.
Ví như hư vô
Đều không bền vững
Không niệm nắm giữ
Không gì xả bỏ
Pháp không xứ sở
Không có thường danh
Ấy là kẻ trí
Đã hành lễ tiết.
Sau ta diệt độ
Nếu có Tỳ-kheo
Luôn thủ hộ được
Pháp tắc như thế
Không có khiếp nhược
Tâm không khởi tưởng
Vì vô số người
Thuyết kinh điển này,
Bậc minh triết ấy
Theo thời quán niệm
Nếu vào phòng ốc
Việc làm cũng vậy.
Quán sát các pháp
Tất cả đều tịnh
An nhiên nói nghĩa
Mà không dao động,
Quốc chủ đế vương
Cùng các thái tử
Các trưởng giả khác
Và các Phạm chí
Cùng chư quyến thuộc
Muốn nghe chánh pháp
Đều cúng dường cho
Tâm đều vô dục.
Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ:
- Sau khi Như Lai diệt độ, người muốn nói kinh này phải trụ trong sự an ổn. Đã trụ an ổn rồi thì lòng không dua nịnh, tâm không huyễn hoặc mới nói kinh pháp đã thuộc lòng, hoặc chép trên tre lụa, vì người giảng thuyết, không nói nhiều lời, cũng không nói thêm, không khinh mạn Tỳ-kheo khác. Làm vị Pháp sư không ca ngợi, cũng không chê bai, chưa từng nêu tên và nói lầm lỗi của Tỳ-kheo có tâm khác cầu quả Thanh văn. Chưa từng tự cao, nói lỗi người, cũng không phỉ báng, cũng không có tâm oán ghét người trái ý mình. Chưa từng chê bai hành giả tại gia là không có chí nguyện, không trái hạnh nguyện, cũng không khởi tưởng, đến đi an trú vững vàng oai nghi, tới lui cùng khắp. Nếu đến pháp hội, tự giữ thân mình, không mất oai nghi, rồi nói kinh pháp. Nếu có người hỏi thì không dựa vào mà phải xa lìa pháp Thanh văn. Có điều chỉ dạy thì làm sáng tỏ Phật tuệ.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Người trí luôn luôn
An trú Phật đạo
Trước ngồi an ổn
Mói nói kinh pháp.
Nếu phải trải tòa
Trải loại mềm mại
Biết bao nhiêu thứ
Trang trí đẹp đẽ
Thân thể thường mặc
Y phục sạch sẽ
Trong bốn chín ngày
Tập đi kinh hành,
Giống như mây đen
Ở trên hư không
Tập hợp dồn chứa
Công đức rộng lớn.
Ở nơi chỗ ngồi
Kho tàng đầy đủ
Tòa ngồi kiên cố
Bằng phẳng đẹp đẽ
Vô số tọa cụ
Nệm lông mềm mại
Đường bệ chững chạc
Trông thật tôn nghiêm.
An nhiên bước lên
Pháp tòa cao rộng
Trải tâm bình đẳng
Vì tất cả người
Quốc chủ đế vương
Thái tử, đại thần
Các chúng Tỳ-kheo
Và Tỳ-kheo-ni
Các thiện nam tử
Cùng thiện nữ nhân
Theo điều ưa nghe
Vì họ rộng giảng
Trí tuệ vô cùng
Lần lượt phân tích
Giảng giải các loại
Ý nghĩa vi diệu
Theo sau hầu hạ
Thưa hỏi nghĩa lý
Bậc Thánh triểt ấy.
Lại vì giải thoát
Nên nhập thần túc
Nhu hòa, nhẫn nhục
Nếu người nào nghe
Đều đắc Phật đạo
Bậc Trí tuệ này
Đều vì tất cả
Tới lui dứt trừ
Biếng lười mệt mỏi
Vì chúng nói pháp
Thường dùng tâm Từ
Chưa từng khởi lên
Ý tưởng mệt mỏi
Ngày đêm ca tụng
Pháp huấn tôn quý
Phân biệt diễn thuyết
Ức ngàn thí dụ
Ai cũng phấn khởi
Tâm của hội chúng
Không có ai dám
Khởi ý làm hại
Nếu được cúng dường
Các thức ăn uống
Giường nằm chỗ nghỉ
Y phục mền gối
Thuốc thang chữa bệnh
Thì không cầu nhiều
Không theo số đông
Cầu xin của cải
Bỏ hết phiền toái
Trụ ở tinh xá
Muốn khiến mọi người
Đều hiểu Phật đạo
Nếu tất cả người
Đến nghe kinh pháp
Ta sẽ hoan hỷ
Hộ cho đại an.
Sau Phật diệt độ
Nếu có Tỳ-kheo
Tuyên dương kinh pháp
Không có mong cầu
Không bị chướng ngại
Không gặp khổ hoạn
Luôn luôn tinh tấn
Xa lìa các bệnh
Không thể bị chúng
Gây sự sợ hãi
Không bị đánh đập
Không ý phỉ báng
Thân không mệt mỏi
Không có hoạn nạn
Vị ấy trụ nhẫn
Được sức như thế.
Bậc Minh trí ấy
Chỗ ở an ổn
Có chỗ bảo trì
Đúng lời Phật dạy
Nếu đã ngợi khen
Trăm ức công đức
Khen ngợi tất cả
Không thể hết được.
Đức Phật lại nói với Đoàn Thủ:
- Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ-tát đối với kinh điển ấy hoài nghi không hiểu, nếu được thuyết giảng, giáo hóa mà không kiên nhẫn nghe, tánh không điều hòa và thấy Bồ-tát khác cầu Đại thừa, cho là làm việc hư vọng mà phỉ báng. Thấy Thanh văn, Duyên giác, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, hoặc gặp Bồ-tát mà tâm do dự, không đến gặp gỡ ngay thì thiện nam ấy cách xa đạo Vô thượng chánh chân, không tiếp cận được với việc làm của Đấng Thiên Trung Thiên. Giả sử cuối cùng không nhờ phước lực thì không thành Bậc Tối Chánh Giác. Bồ-tát hành ba thừa giống như Sư tử ở trong rừng, nếu có sự do dự thì tự nhiên xa lìa, không ưa thích điều ưa thích, cũng không phải không ưa thích. Nếu đối với chúng sinh tu hành từ bi thì đối với Đấng Như Lai đây như người cha vĩ đại, thấy các Bồ-tát nghĩ nhớ như Thế Tôn và với các tục gia chưa lìa trần cấu đều khoan hòa cung kính, giữ đúng lễ tiết, làm trong sáng ý nghĩa các pháp, không nghi ngờ, không ràng buộc, nghiêm trì tất cả pháp cẩn thận, chắc thật, vững vàng, thuận theo bình đẳng, không chấp trước kinh pháp. Có điều cực vui cũng không chạy theo, ở tại trú xứ ngày đêm cung kính hộ trì kinh này.
Này Đoàn Thủ! Đó là thực hành ba pháp. Khi nói, Bồ-tát quán rồi mới nói, tạo sự an ổn, không bị phiền não, cũng không nhiễu hại. Người nói kinh này cùng với người học đều là bạn đạo có tâm bình đẳng của nhau. Hoặc giảng, hoặc nghe, tin tưởng, ưa thích kinh này, trì tụng, biên chép trên tre lụa, cúng dường, phụng sự thì phước đức không thể lường được.
Vì để cho chúng hội an trú Thế Tôn bèn nói bài tụng:
Nếu người tật đố
Lòng nhiều khúc mắc
Pháp sư thương yêu
Không hề ghét bỏ
Có bậc Minh trí
Không tạo tham trước
Muốn đọc kinh này
Bắt chước làm theo
Chưa từng phỉ báng
Và nói lỗi người
Cũng không rơi vào
Lỗi nghi, tà kiến
Tâm thường trong sáng
Không bị đắm chìm
Vì thương chúng sinh
Nên đắc định này
Vị an trụ ấy
Cũng luôn nhẫn nhục
Người ấy thường ngăn
Tự cao tự đại
Luôn luôn giảng tụng
Kinh điển của Phật
Chưa từng vì đó
Sinh ra mệt mỏi
Có Bồ-tát nào
Ở mười phương cõi
Thương yêu chúng sinh
Ở đời khởi hạnh
Tùy thuận cung kính
Học tập Thánh tuệ
Đều nên nhớ nghĩ
Là Thế Tôn ta
Nghĩ nhớ chư Phật
Bi trí cao tột
Nhớ các Bồ-tát
Như nhớ mẹ cha
Nếu có cầu đạo
Thì không dục tình
Vứt bỏ ngã chấp
Và tâm tự đại
Gỉả sử nghe rõ
Tượng pháp như vậy
Các bậc Minh trí
Sẽ tự hộ trì
Việc làm an ổn
Thường được an định
Sẽ chứng quả Phật
Cứu vô số chúng.
Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ:
- Sau khi Như Lai diệt độ, nếu Bồ-tát Đại sĩ phụng hành kinh này, luận đúng thời tiết thì Tỳ-kheo (Bồ-tát) ấy phải thực hành từ bi, hướng đến các hàng bạch y, người xuất gia, Phạm chí, tất cả quần sinh, người hành đạo Bồ-tát, thường nghĩ đến các vị hành Đại thừa đời quá khứ mà khéo léo phương tiện diễn nói ý nghĩa chân đế. Nếu người nghe không biết, không hiểu, không vui, không tin, không thức tỉnh, không lĩnh hội được, thì tự thán rằng: “Ta phải đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, đầy đủ sức oai thần, mới được tự tại!”
Đoàn Thủ nên biết! Ta thấy những việc này: Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát có bốn sự việc khi thuyết pháp không phiền bực. Bốn việc ấy là gì?
1. Được các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ cung kính.
2. Vua chúa, thái tử, đại thần, quan lại, nhân dân trong nước thấy đều cúng dường.
3. Trưởng giả, Phạm chí đều làm theo.
4. Vô số Thần minh, Thiên tử trên không nghe thuyết kinh và trời, rồng, quỷ thần thị vệ sau họ đều ủng hộ.
Đó là bốn việc. Hoặc khi vào huyện, ấp hay lúc trở về nhà, cả ngày 1ẫn đêm mọi người đều đến hỏi kinh pháp. Nếu vì sự giải thoát mà phân biệt chỗ quy hướng thì ai cũng hoan hỷ. Vì sao? Đoàn Thủ nên biết, vì đều do Phật đã gia ân kiến lập kinh này. Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đều do kinh này xuất sinh và cũng đều hộ trì kinh này. Nếu ở thế giới Kham nhẫn được nghe phẩm Chánh Pháp Hoa cùng nghe tên kinh này thì thật là khó.
Này Đoàn Thủ! Thí như Chuyển luân thánh vương có năng lực lớn, oai đức trùm khắp, cai trị thuần hòa. Các nước thù địch khác chưa chịu thần phục, không dám dòm ngó. Chuyển luân vương hưng binh đi chinh phạt nhưng chư hầu không phục, muốn chống trả lại nước lớn. Khi ấy, các tướng sĩ dũng mãnh ra sức đánh thắng, đối phương khuất phục. Nhà vua vui mừng, xét công ban thưởng, phong cho thành ấp, ban cho ruộng vườn, bảy báu, ngọc ngà, voi ngựa, xe cộ, nam nữ, nô tỳ. Người có công đức thù nhất, vua lấy viên minh châu trong búi tóc ban cho. Vì sao? Vì bề tôi làm cho đất nước cường thịnh, văn minh lâu dài. Như Lai Chánh Giác cũng lại như thế, là Đại Pháp Vương của chân lý tối cao, tự hàng phục tâm mình, dùng pháp giáo hóa, dùng đức trừ hại, dùng tuệ chiến đấu, hàng phục vô số chúng pháp vương khác; vô lượng trăm ngàn kinh điển ý nghĩa trọng yếu đều ban bố cho quần sinh, không hề che giấu; ra lệnh đắp thành bằng phẳng để nhìn thấy ma quân, có thể cùng quân ma chiến đấu, dùng pháp Hiền thánh phá dâm, nộ, si, hàng phục ma quân và đồng bọn, hết họa ba cõi, đạt đến diệt độ, việc làm nhanh chóng và rất dũng mãnh, rốt cùng không hoại diệt cũng không chắc thật, vì do các yếu tố hư ngụy tạo thành thế gian này, như tất cả hiện tượng, nơi chốn đều là nhân duyên. Khắp các thế giới từ xưa đến nay không có ai tin kinh Pháp Hoa này, mà chưa từng diễn nói thông suốt. Sở dĩ nói được là do sự thông tuệ và lòng đại Bi, như viên minh châu trong búi tóc của bậc Đại thánh đế, vì là pháp quan trọng đệ nhất của Đức Thế Tôn, nương vào đó mà tiến bước tu hành nên Đức Như Lai cho nghe kinh điển thâm diệu này. Từ xưa đến nay, các pháp tu hành đã được nói ra thì kinh này là pháp tối thắng để tiêu trừ tất cả hoa duyên khởi. Giống như bậc Thánh đế trân trọng giữ gìn viên minh châu trong búi tóc, lâu lắm mới lấy ra ban cho người có công đặc biệt. Như Lai cũng thế, sớm tối trân trọng giữ gìn pháp vô cùng mầu nhiệm không tỳ vết, đến nay rất lâu, là pháp đứng đầu các pháp. Hôm nay vì thương xót nên mới diễn bày rộng rãi.
Đức Thế Tôn muốn diễn bày lại ý nghĩa trọng yếu nên nói tụng:
Nay đây Như Lai
Hiện sức Từ bi
Vì thương chúng sinh
Mắc vòng đau khổ
Trong cảnh dại khờ
Nên phân biệt nói
Kinh điển tối tôn
Cầu pháp Bồ-tát
Hoặc người xuất gia
Hay hàng tại gia
Nếu nghe kinh này
Hiện khắp tất cả
Lòng sinh khiếp sợ
Chẳng được hủy báng
Ta lúc ban đầu
Khi đắc quả Phật
Cũng như Như Lai
Ở đây hôm nay
Nếu vừa được nghe
Kinh tôn quý ấy
Thì liền kiến lập
Vô số phương tiện
Như Chuyển luân vương
Thế lực mạnh mẽ
Chiến đấu hàng phục
Các quốc vương khác
Đắc thắng ban thưởng
Voi, ngựa, xe, kho
Lại thêm phong ấp
Thành quách đất đai
Hoặc được ban cho
Xuyến báu tay chân
Màu sắc vi diệu
Vàng ròng quý báu
Trân châu dạ quang
Xa cừ, ngọc bích
Đủ loại đặc thù
Của lạ kỳ diệu
Bao nhiêu tài vật
Đều đem ban cho
Khiến cho mọi người
Mừng vui kinh ngạc
Thấy việc lập công
Lạ chưa từng có
Sau cùng mở tóc
Lấy minh châu cho
Phật cũng như thế
Nay là Pháp vương
Với sức nhẫn nhục
Tuệ âm vô cực
Thường hành từ mẫn
Khởi hạnh cứu giúp
Dùng pháp giáo hóa
Tất cả thế gian
Thấy các chúng sinh
Bị họa ưu não
Giảng nói kính pháp
Số tới ức ngàn
Hiểu rõ chúng sinh
Hợp phương tiện nào
Mà chúng ngày nay
Cho là rốt ráo
Khi ấy Pháp vương
Bậc Thánh Tối Thượng
Phân biệt kinh điển
Trăm ngàn vạn ức
Vì biết chúng sinh
Trí chí mạnh mẽ
Nên nói kinh này
Như ngọc trong tóc
Vào thời mạt thế
Kinh này ở đâu
Tất cả kinh khác
Đều không sánh kịp
Người trí nghe được
Kính ngưỡng kinh này
Chưa từng xem nhẹ
Tri hành thâm sâu
Bậc trí sáng nghe
Pháp ta diễn nói
Tượng pháp như vậy.
Sau Phật diệt độ
Sẽ nương vào đó
Ai có chí cầu
Đạo tôn quý này
Đều được thọ ký
Như Phật đã dạy
Người ấy chưa từng
Có tỳ vết dục
Không có tật bệnh
Và các họa tai
Vào thời sau này
Ở đời tương lai
Sẽ thành đạt được
Chân Tuệ vô thượng
Thù thắng diệu kỳ
Đầy đủ hết thảy
Cả bốn bộ chúng
Cũng được gặp ngỡ
Nếu có người nghe
Trừ được các 1ậu
Khen pháp vô vi
Chắp tay hướng về
Thân mình chói sáng
Chiếu ánh hào quang
Do phụng kinh này
Đạt được như thế
Đạt thành Chánh giác
Rồi chuyển pháp luân
Thì thấy rộng sâu
Và thấy tối thắng
Trong mộng nghe thấy
Trăm tướng phước đức
Màu sắc vàng ròng
Kinh Phật đã nói
Nếu được nghe rồi
Nói cho chúng hội
Cùng các thân tộc
Thảy đều đầy đủ
Lại được hộ trì
Trừ bỏ tất cả
Như tỉnh cơn mộng
Thấy được như vậy
Bỏ hết xa lìa
Xuất gia hành đạo
Đều được đi đến
Đạo tràng của Phật
Nơi ấy chính là
Pháp tòa Sư tử
Vậy là cầu đạo
Đạt được lợi ích
Các thứ bảy báu
Tập hợp tại đây
Tu thì phụng sự
Như Lai tối thắng
Đã đắc Phật đạo
Giữ lệ truyền bá
Liền chuyển pháp luân
Không có các lậu
Vì hàng đệ tử
Giảng nói kinh pháp
Chẳng thể nghĩ bàn
Trong ngàn ức kiếp
Phân biệt giảng thuyết
Giáo pháp vô lậu
Giáo hóa vô số
Vạn ức chúng sinh
Trong mộng thấy được
Hiện tượng như thế
Đúng thời diệt độ
Không còn sinh tử
Đoàn Thủ nên biết
Người có tâm đạo
Đã được giáo hóa
Nhiều không kể xiết
Vào thời mạt thế
Cầu tôn pháp này
Phân biệt rộng nói
Diễn giải tự tại. Phẩm l4: BỒ-TÁT TỪ ĐẤT VỌT LÊN
Khi ấy, ở thế giới khác, có tám hằng hà sa Bồ-tát Đại sĩ phục sức kỳ lạ, đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát đất, quỳ thẳng, chắp tay bạch với Thế Tôn:
- Bọn thô lậu chúng con vội vàng đến thế giới Kham nhẫn này muốn nghe kinh này, thọ trì, phúng tụng, biên chép, tinh tấn cúng dường, phụng trì như pháp. Cúi xin Đại thánh rủ lòng thương xót chúng con, Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đem kinh Chánh Pháp Hoa này truyền bá khắp nơi.
Đức Thế Tôn bảo:
- Thôi đi, thiện nam! Các ngươi không nên phát khởi ý nghĩ đó. Nay đây, ở thế giới Kham nhẫn này tự có tám hằng hà sa Đại sĩ và mỗi Đại sĩ đều có Bồ-tát Đại sĩ quyến thuộc nhiều đến sáu mươi ức hằng hà sa. Sau này vào thời mạt thế, họ đều sẽ thọ trì, tuyên nói rộng rãi (kinh này). Khi ấy, tại thế giới của Phật này, ở khắp nơi, vô số trăm ngàn ức chúng Bồ-tát tự nhiên vân tập, dung mạo đẹp đẽ khác thường, sắc thân vàng rực ba mươi hai tướng trang nghiêm thân thể, ở cõi dưới nhiếp hộ địa giới và nhân dân; đạo hạnh đều nương nhờ vào thế giới Kham nhẫn này, nên nghe tiếng Phật xiển dương kinh Pháp Hoa, từ cõi dưới vụt hiện lên. Mỗi vị Bồ-tát đều có sáu mươi ức hằng hà sa Bồ-tát tùy tùng, cùng một tâm niệm, một việc làm không sai khác; hoặc có vị có nửa phần hằng hà sa gồm trăm ngàn Bồ-tát đến, hoặc bốn mươi phần hằng hà sa, hoặc năm mươi phần hằng hà sa, hoặc trăm phần hằng hà sa, hoặc năm trăm phần hằng hà sa, hoặc ngàn phần hằng hà sa, hoặc trăm ngàn phần hằng hà sa, hoặc ức trăm ngàn phần hằng hà sa Bồ-tát đều là bạn bè cùng đến. Hoặc lại có vô số ức trăm ngàn Bồ-tát quyến thuộc đến, hoặc có hai trăm ngàn người tu hành đạo Bồ-tát, hoặc có trăm ngàn vị đều có quyến thuộc, hoặc có ngàn quyến thuộc, hoặc năm trăm quyến thuộc, hoặc bốn trăm quyến thuộc, hoặc ba trăm quyến thuộc, hoặc hai trăm quyến thuộc, hoặc một trăm quyến thuộc, hoặc năm mươi quyến thuộc, hoặc bốn mươi quyến thuộc, hoặc ba mươi quyến thuộc, hoặc hai mươi quyến thuộc, hoặc mười quyến thuộc, hoặc năm quyến thuộc, hoặc bốn quyến thuộc, hoặc ba quyến thuộc, hoặc hai quyến thuộc, hoặc một quyến thuộc, hoặc đi đến một mình, số lượng nhiều không kể xiết, khó thí dụ được, từ đất hiện lên, hoặc từ trên xuống, hoặc bốn phương lại, tất cả đến thế giới Kham nhẫn này, trụ giữa hư không.
Chúng Bồ-tát thấy Thế Tôn đã diệt độ là Đa Bảo và Đức Đại Thánh Năng Nhân cùng ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây bảy báu, liền cúi đầu đảnh lễ hai Đấng Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đi quanh bên phải ba vòng, lui đứng một bên; có các Bồ-tát dùng biết bao phẩm vật tốt đẹp kỳ lạ cúng dường, khen ngợi hai Đức Thế Tôn, xưng dương chư Phật từ vô thủy đến nay; giả sử đầy đủ cả năm mươi trung kiếp cũng không thể nói hết sự tu hành cần khổ của Đức Phật Thích-ca, các Đức Phật khác cũng như vậy. Bốn bộ chúng trong pháp hội không nói gì khác nên cũng im lặng.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn liền hiện thần túc như sắc tượng, khiến bốn bộ chúng đều được nhìn thấy; lại khiến nhớ biết thế giới Kham nhẫn này. Các vị Bồ-tát ở trên hư không, mỗi vị đều nhiếp hộ trăm ngàn cõi Phật. Các chúng Bồ-tát đều đầy khắp trăm ngàn cõi Phật. Lại nữa trong đại chúng ấy có bốn vị Bồ-tát được coi là Thượng thủ. Tên của họ là: Bồ-Tát Chủng Chủng Hạnh, Bồ-Tát Vô Lượng Hạnh, Bồ-tát Thanh Tịnh Hạnh, Bồ-tát Kiến Lập Hạnh. Đối với vô lượng Bồ-tát số nhiều như vi trần vân tập tại đại hội này, các ngài là trên hết. Khi ấy, bốn vị Đại sĩ Bồ-tát cùng với đại chúng nhiều không thể nghĩ bàn, cùng loạt đứng yên trước Đức Thế Tôn, chắp tay thưa:
- Đại Thánh Thế Tôn! Thánh thể khỏe mạnh chăng? Dứt hết các bệnh chăng? Sở hành an lạc chăng? Chúng sinh đều tuân hành tốt Giới luật chăng? Ở trong sự thoải mái, không phiền bực chăng? Muôn loài không bị rơi vào hầm hố nguy hiểm chăng?
Khi ấy bốn vị Đại sĩ Bồ-tát dùng kệ khen ngợi:
Thế hùng chiếu ánh sáng
Sở hành an ổn chăng?
Cứu thoát người hiện tại
Các hành không hoạn chăng?
Chúng sinh gây nhân lành
Quyết hưởng quả thanh tịnh
Không còn sinh mệt mỏi
Vâng thọ mệnh Thế Tôn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại chúng Bồ-tát trong hội:
- Các thiện nam! Sở hành của Phật an ổn, không tật bệnh, không hoạn nạn, mọi người đều tuân theo Giới luật, khéo học đạo giáo, không dám chán nản, muốn được nghiêm tịnh. Vì sao? Vì chúng sinh này vào thuở xa xưa giác ngộ như nhau, việc làm của họ là việc Thanh văn, tin ưa pháp của ta, nhập vào Phật tuệ. Lại nữa, họ đều là người học đạo ba thừa, trụ Thanh văn thừa, ta đều giáo hóa đưa vào trí tuệ lớn của Phật.
Khi ấy các Bồ-tát hoan hỷ nói bài tụng:
Hay thay, Đức Thế Tôn
Chúng con đều khuyến trợ
Mới khiến một chúng sinh
Hành tốt luật vi diệu
Muốn được nghe Đại Thánh
Dạy con điều thâm yếu
Nghe rồi hoan hỷ tin
Để vào pháp cúng dường.
Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi các Bồ-tát trong hội:
- Hay thay, hay thay! Các thiện nam, đúng như các ông nói. Điều Như Lai dạy đều tùy theo quyền nghi, không trái tôn chỉ.
Khi ấy Bồ-tát Di-lặc và tám ức hằng sa Bồ-tát cùng cất tiếng khen, tụng:
Từ xưa đến nay
Chưa từng nghe thấy
Điều mới có này
Chúng Đại Bồ-tát
Từ đất vọt lên
Trụ trước Thế Tôn
Cung phụng nương tựa
Số Bồ-tát kia
Từ đâu mà đến?
Di-lặc biết tâm niệm của tám ức hằng sa Bồ-tát, liền chắp tay dùng bài tụng hỏi Phật rằng:
Chưa từng thấy Bồ-tát
Vô số ức trăm ngàn
Dù tính đến ức năm
Không thể hết số lượng
Đến chỗ Lưỡng Túc Tôn
Vì sao nhiều như thế?
Từ đâu đến nơi đây?
Thần thông, thân cao lớn
Tất cả chí kiên cường
Là Đại Thánh dũng mãnh
Đoan chính đáng kính mộ
Nay từ đâu đến đây?
Thế Tôn thấy tất cả
Chư Bồ-tát trí tuệ
Cùng quyến thuộc vô số
Ví như cát sông Hằng
Số ấy hơn cát sông
Đủ Phật pháp giáo hóa
Bồ-tát và quyến thuộc
Đều đạt đạo Chánh giác
Hạng tinh anh như vậy
Vân tập lễ Đại Thánh
Đầy đủ cả sáu mươi
Trăm ngàn hằng hà sa
Số này còn hơn nữa
Quyến thuộc vô số kể
Năm trăm hằng hà sa
Hoặc bốn, hoặc ba trăm
Hoặc hai trăm hằng sa
Số đông cũng như thế
Số kia so số này
Hơn năm hoặc mười lần
Tất cả các quyến thuộc
Đệ tử bậc Đại Thánh
Chúng đó từ đâu tới?
Đi đến chỗ Đạo Sư
Hoặc bốn, hoặc ba, hai
Hoặc một hằng hà sa
Tất cả đều đi đến
Bạn lữ đều khéo học
Số nhiều không kể xiết
Trừ số ở trên không
Trong trăm ngàn ức kiếp
Không thể nhóm tụ hết
Nửa phần hằng hà sa
Ba, hai mươi hoặc mười
Đầy đủ chúng lập hạnh
Chúng Bồ-tát minh triết
Đều trụ ở trên không
Số hạn không thể lường
Hiện rõ không ngăn cách
Ức kiếp hành thanh tịnh
Và vô lương bộ khác
Cùng vô số quyến thuộc
Ức ức lại hơn ức
Hoặc có bộ nửa ức
Hoặc hai mươi, hoặc mười
Hoặc năm, bốn, ba, hai
Các vị cùng quyến thuộc
Không thể tính toán hết
Ai nấy tự tu hành
Tịch tĩnh ưa mến đạo
Lặng lẽ như hư không
Một mình đến cũng nhiều
Dù trải hằng sa kiếp
Không ai tính đếm được
Ở tinh xá, tịnh thất
Từ khắp phương đi đến
Tất cả Thiên, Thần thánh
Đều vì Thế Tôn đến
Chư Bồ-tát dũng mãnh
Từ đâu bỗng đến đây?
Ai vì họ thuyết kinh?
Ai kiến lập Phật đạo?
Hiển bày giáo nghĩa gì?
Kiến lập hạnh Phật gì?
Tế hạnh đều đáng kính
Từ khắp bốn phương lại
Nhờ vào Thiên nhãn thông
Đại tuệ bỗng nhiên hiện
Ở thế giới trống không
Năng nhân khiến đầy đủ
Các Bồ-tát nhân hiền
Chư vị tự nhiên đến
Từ khi sinh đến này
Chưa thấy việc như thế
Xin nói quốc độ họ
Đại Thánh nêu hết tên
Từ mười phương đến đây
Đều sẵn mười tám pháp
Con chưa từng được thấy
Các Bồ-tát như thế
Con là đệ tử đầu
Chưa nghe thấy điều này
Nay đây bao nhiêu chúng
Xin Năng Nhân nói rõ
Các Bồ-tát vô số
Trăm ngàn ức khó lường
Các ngàn ức vô lượng
Nguồn gốc ở nơi đâu?
Các Bồ-tát dũng mãnh
Ý chí chẳng thể lường
Các hạnh như thế đó
Xin Đại Hùng nói cho.
Bấy giờ ở các thế giới phương khác, vô số trăm ngàn ức các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác từ khắp mười phương đến chỗ Đức Phật Năng Nhân khuyến khích thuyết pháp. Các Ngài đều ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây bảy báu. Các vị thị giả của chư Như Lai ấy thấy vô lượng Bồ-tát hàng hàng lớp lớp biến hóa ở trong đại hội, từ đất vọt lên, đều đứng lên hỏi Đức Phật của mình:
- Chư Bồ-tát Đại sĩ này từ đâu đến đây mà nhiều vô lượng vô biên như vậy?
Khi ấy các Đức Phật kia đều bảo thị giả:
- Thiện nam! Hãy đợi trong chốc lát có Bồ-tát tên là Di-lặc đã được Đức Như Lai Năng Nhân thọ ký sẽ đạt đạo Vô thượng chánh chân thành Bậc Tối Chánh Giác, tự hỏi Năng Nhân điều kỳ lạ ấy rồi, Đức Phật sẽ phân biệt rành rẽ ý nghĩa quy hướng. Tất cả hãy yên lặng, nhất tâm lắng nghe.
Bấy giờ Đức Phật bảo Đại sĩ Di-lặc:
- Hay thay, A-dật! Điều mà ông hỏi vi diệu vô cùng, sâu xa khó lường. Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, ta sắp nói đây! Tất cả Bồ-tát và chư vị trong pháp hội này đều có năng lực mạnh mẽ vững chắc đối với tâm Bồ-đề, sẽ thấu đạt tuệ kiến vô cùng sâu xa của Như Lai. Chư Đại Thánh ấy kiến lập cảnh giới vô lượng, thiền định, trí tuệ tự tại theo sở thích, không thể nào nêu ra hết để mà phân tích diễn nói, phương tiện giáo hóa cũng không hạn lượng.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Các thiện nam tử
Lắng nghe Phật đạo
Nay ta sắp nói
Trí tuệ an lạc
Nếu người thấu rõ
Lấy làm thích thú
Trí tuệ Như Lai
Không thể nghĩ bà n
Đều phải vững ý
Giữ tâm kiên cố
Kiên lập ý chí
Nhất tâm bình đẳng
Đại Thánh khó gặp
Thương xót thế gian
Nay hãy nghe thọ
Pháp chưa từng có
Phật sẽ kiến lập
Tất cả các ông
Thảy đều không được
Sinh tâm hồ nghi
Lời Đạo Sư dạy
Không có gì khác
Trí tuệ bình đẳng
An ổn không riêng
An trú trị liệu
Pháp rất sâu xa
Tâm chẳng suy được
Không thể hạn 1ượng
Nay sẽ giảng nói
Nhân duyên vô cùng
Tất cả đều nghe
Biết chỗ hướng đến.
Thế Tôn nói tụng rồi, bảo ngài Di-lặc:
- Này A-dật! Ta nói cho tất cả biết vô lượng chúng Đại sĩ Bồ-tát không thể nghĩ bàn, từ dưới đất vọt lên mà trước chưa thấy có mặt ở thế giới Kham nhẫn này là do ta, khi mới đạt đạo quả Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, đã khuyến khích họ an trụ địa vị không thoái chuyển, khiến họ thành đạo lớn, truyền trao, giáo hóa an lập. Này thiện nam! Chúng Bồ-tát Đại sĩ ấy ở phương dưới và ở trong cõi đó, có sự cứu hộ, phúng tụng, tán dương kinh điển, tư duy thiền định, tinh chuyên quán sát chỗ hướng về, hân hoan vui vẻ, ưa hạnh vô vi. Các thiện nam! Tánh khí họ điềm đạm, không phân xa gần; ở cõi trời và người đời thường chuyên tu tập, chuyển pháp luân vô vi khó nghĩ bàn, ưa thần thông thâm sâu, lấy pháp lạc làm niềm vui, chí nguyện tinh tấn, cầu trí tuệ Phật.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng:
Nay đây vô số
Các chúng Bồ- tát
Chẳng thể nghĩ bàn
Không thể hạn lượng
Tạo hạnh vô số
Không thể tính đếm
Phát triển thần túc
Rộng mở trí tuệ
Ta đều khuyến dụ
Ở đạo Đại Thánh
Nay tất cả Phật
Đều thọ ký cho
Các Bồ-tát này
Là đệ tử Phật
Đều trụ nơi đây
Quốc độ của ta
Xả bỏ xa lìa
Các chỗ ở trước
Ở khắp mọi nơi
Vắng lặng giải thoát
Các Phật tử này
Thực hành vô vi
Tinh tấn tu học
Theo đạo cao cả
Chư Thánh triết này
Ở tại phương dưới
Nay đến nơi đây
Giữ gìn cõi nước
Ngày đêm tinh tấn
Không phóng túng, mạn
Tích lũy đức hạnh
Phân biệt Phật đạo
Luôn siêng tu hành
Kiến lập tuệ lực
Thảy đều vững chắc
Không đo lường được
Ý chí dũng mãnh
Tư duy kinh pháp
Đều là con ta
Đã đạt thanh tịnh
Khi ta mới thành
Đạo quả giác ngộ
Hoặc ở trong thành
Cũng như tại rừng
Cũng đều diễn giảng
Pháp luân Vô thượng
Khuyên họ lập chí
Phật đạo tôn quý
Điều Phật nói đây
Chí thành vô lậu
Nghe Phật khen ngợi
Đều nên tín thọ
Khai hóa phát khởi
Các tinh hoa này
Từ lâu đến nay
Kiến lập chánh đạo.
Bấy giờ Đại sĩ Di-lặc nghe Phật nói về số trăm ngàn ức chúng Đại Bồ-tát không thể tính biết ấy, tâm sinh ngạc nhiên, quái lạ chưa từng có. Liền bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn còn là Thái tử tại cung vua dòng họ Thích ở Ca-duy-la-vệ , vứt bỏ ngôi báu và thú vui thể nữ để xuất gia. Ngồi dưới cội cây tại đạo tràng, chứng đắc đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, từ đó đến nay không lâu, mới bốn mươi năm, nhưng tại sao số vị được giáo hóa và độ thoát lại vô lượng? Lại mở mang cảnh giới chư Phật, khuyến hóa quá nhiều, thiết lập quyền tuệ không thể nghĩ bàn. Chúng Đại Bồ-tát trong pháp hội hôm nay đều do Như Lai khai dẫn, tầng tầng lớp lớp chúng nhiều vô lượng tu phạm hạnh đã lâu, trồng gốc phước đức, cúng dường vô số trăm ngàn chư Phật. Giả sử muốn tính đếm sự thành tựu đó phải trải qua vô số kiếp.
Di-1ặc lại bạch tiếp:
- Con muốn nêu một thí dụ nhỏ: Ví như có một thanh niên tuổi hai mươi lăm, đầu tóc đen mướt, dung mạo tươi trẻ, trang phục đẹp đẽ, đàng hoàng sạch sẽ, lòng luôn lo lắng, thấy người trăm tuổi tự cho mình là cha, bảo rằng: “Thiện nam, hãy đến đây! Ngươi là con của ta.” Người trăm tuổi kia cũng cho người hai mươi lăm tuổi là cha của mình. Người cha xem biết tự miệng nói là con của ta. Đức Thế Tôn cũng vậy, người thế tục không tin điều ấy mà làm cho họ tin. Phật cũng như thế, thành Phật chưa lâu mà nay có bao nhiêu trăm ngàn ức số (Bồ-tát) từng tu phạm hạnh, từ lâu xa đã nương theo đạo tuệ, giáo hóa vô lượng chúng, hiện tại thấu suốt thiền định, kiến lập phương tiện, thành đại thần thông, thông minh trí tuệ, an trụ Phật địa, tu tập Phật tuệ, kiến lập Phật lực, ở đời ít có. Xưa kia Thế Tôn cũng lại giáo hóa các hàng như thế, dẫn dắt kiến lập Bồ-tát địa, sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân, đạt quả Chánh giác, hành mọi phương tiện, việc làm đã xong. Nay con ghi nhận, tin tưởng là đúng sự thật, tìm hiểu thấu suốt đã qua sự phán đoán, phân tích về ý nghĩa này. Nhưng kính bạch Như Lai, Bồ-tát mới học lòng còn do dự, không biết rõ điều đó nên sau khi Như Lai diệt độ, nghe kinh điển này nhất định không tin. Và vì có sự do dự nên không tuân theo pháp này, cũng không ưa thích, sẽ gặt hái tội báo. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói rõ điều này cho những người có sự hồ nghi về kinh điển này, để ở tương lai vào thời mạt pháp, những vị học Đại thừa giả sử nghe kinh này khiến họ không ngờ vực.
Khi ấy Đại sĩ Di-lặc ở trước Thế Tôn nói tụng khen ngợi:
Ví như có người
Hiện sinh con già
Năng Nhân chí thánh
Sinh vào vương cung
Vứt bỏ ngôi vua
Mà được Phật đạo
Vừa làm Đạo Sư
Đồ chúng ít ỏi
Chư vị nơi đây
Là bậc không thoái
Đã vô số kiếp
Cứu độ chúng sinh
Sức lực thần túc
An trú bất động
Tu học trí tuệ
Thảy đều thâm nhập
Nay đến nơi đây
Khai thông tại chỗ
Như sen trong nước
Toàn không nhiễm trước
Oai thần tột bực
Chí vượt thế gian
Tất cả chắp tay
Nghiêm chỉnh đứng yên
Các chúng Bồ-tát
Hình dáng như vậy
Là như thế nào
Ai tin việc ấy?
Cúi xin Đại Thánh
Xót thương chỉ bày
Phân biệt rành rẽ
Ý nghĩa chân thật.
Ví như có người
Đang lúc tráng niên
Tuổi hãy còn nhỏ
Tóc đẹp và đen
Tuổi của người ấy
Mới hai mươi lăm
Mà có thể sinh
Người già trăm tuổi,
Dưỡng nuôi, tắm rửa
Tùy thời ăn mặc
Cho là con ta
Cưng quý hết mực
Tất cả thế gian
Không có ai tin
Tuổi con đang trẻ
Sinh con lớn tuổi.
Thế Tôn cũng vậy
Nếu con không lầm
Vô số Bồ-tát
Tụ hội nơi đây
Dũng mãnh, trí tuệ
Không gì sợ sệt
Vô số ức kiếp
Sở học vững chắc
Ý chí minh triết
Thông đạt mục đích
Oai thần cao vợi
Hiện tướng đẹp đẽ
Tâm ý dũng mãnh
Hiểu rõ pháp luật
Là Thế Hùng Sư
Người thấy thăm hỏi
Nên ẩn núi cao
Tịnh tu giải thoát
Như cõi hư không
Không gì vướng mắc
Thiền định tinh tấn
Là bậc an trú
Tâm chí mong cầu
Đạt thành Phật đạo
Nhưng mà người nào
Sẽ tin lời này
Nếu Đấng Đạo Sư
Sau khi diệt độ
Con đối điều này
Không còn hồ nghi
Hiện diện trước Phật
Bồ-tát được nghe
Ngay ở nơi này
Sơ học hoang mang
Để không Bồ-tát
Đọa vào ác đạo
Khuyên bảo thế nào
Hóa độ bọn họ
Cúi xin Thế Tôn
Giảng giải rành mạch. Phẩm 15: NHƯ LAI HIỆN THỌ
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cất lời bảo khắp đại chúng Bồ-tát ba lần:
- Các thiện nam! Tất cả hãy tin lời dạy bảo chắc thật của Như Lai, chớ có do dự.
Khi ấy Đại sĩ Di-lặc và các vị khác trong hội chúng đều chắp tay bạch với Thế Tôn:
- Cúi xin Đại Thánh phân biệt giảng giải, Chúng con đều tin tưởng lời Như Lai dạy.
Chư Bồ-tát cũng thưa với Thế Tôn ba lần như vậy.
Khi ấy, Thế Tôn thấy các Bồ-tát nói lên ba lần để khuyến trợ, muốn Phật tuyên thuyết như vậy. Phật bảo các Bồ-tát:
- Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ!
Tất cả cũng đáp:
- Xin vâng!
Phật bảo:
- Thiện nam! Như Lai kiến lập cảnh giới năng lực vô biên như thế. Các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, người thế gian đều tự biết và suy nghĩ: “Thế Tôn Năng Nhân sinh vào dòng họ Thích, từ bỏ ngôi vua, đi đến bên dòng sông, ngồi dưới cây nơi đạo tràng, chứng đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Nhưng từ lâu xa, trăm ngàn ức triệu vô số kiếp đến nay, ta đã đạt quả vị Chí Chân Đẳng Chánh Giác rồi. Ví như có năm trăm ngàn ức cõi Phật, có số vi trần đầy trong các cõi ấy, nếu có người lấy số bụi đó qua trăm ngàn ức triệu các cõi Phật không thể tính đếm ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua lại bỏ một hạt như thế và cứ như thế lấy tất cả số vi trần trong năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy rải hết các cõi Phật, cho đến hết số bụi đó. Này các thiện nam! Các ông nghĩ sao? Có ai có khả năng tính đếm số lượng các cõi Phật này hay tư duy, trù tính mà có thể biết được chăng?
Đại sĩ Di-lặc và các chúng Bồ-tát trong pháp hội đều bạch Phật:
- Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Không ai có thể tính đếm được. Vì sao? Vì thế giới chư Phật nhiều vô lượng, không thể nghĩ bàn, chẳng phải là điều mà tâm biết được. Giả sử tất cả Thanh văn, Duyên giác có trí tuệ Hiền thánh cũng không thể tư duy biết được số ấy. Chỉ có trí tuệ của Đại Thánh Thế Tôn mới có thể biết được mà thôi, ngoài ra không ai có thể biết được. Chính chúng con là các Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển còn không thể biết. Thế giới của chư Phật ở đây không suy lường, không có giới hạn.
Khi ấy Thế Tôn bảo với đại chúng:
- Các thiện nam! Nay ta sẽ nói. Như người kia lấy số vi trần trong năm trăm ngàn ức triệu không thể tính đếm các cõi Phật ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua đều bỏ một hạt như thế. Và cứ như thế? lấy tất cả số vi trần trong các cõi của năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy, rải hết các cõi Phật, cho đến hết số vi trần ấy. Ta đã đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác đến nay trải qua số kiếp hơn hẳn số kiếp như số vi trần ấy.
Các thiện nam! Các ông thấy ta giảng pháp ở thế giới Kham nhẫn này, lại thị hiện tại trăm ngàn ức triệu các cõi Phật phương khác, tất cả đều gọi ta là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Đức Định Quang Như Lai vì biết bao bạn bè mà thị hiện diệt độ.
Các thiện nam! Ta dùng phương tiện quyền biến khéo léo diễn nói kinh điển, hiện vô số điềm tốt đẹp. Như Lai lại biết nguồn gốc qua lại, đi ở của tất cả chúng sinh, quán hết tâm chúng mà tùy duyên thị hiện, tất cả đều là danh xưng, không diệt độ mà nói là Nê-hoàn, tùy thuận tập tánh thiện ác của chúng sinh mà vì họ diễn giải biết bao nhiêu phương pháp.
Chư thiện nam! Ta quán thấy vô số loại tâm tánh khác nhau, việc làm bất đồng, cội đức cạn mỏng của chúng sinh phần nhiều bị phá hoại, không chịu tin nghe nên vì họ giảng nói. Này các Tỳ-kheo! Nếu suy lường sau trước thì ta mới xuất gia, thành Đấng Bình Đẳng Giác đến nay chưa lâu, vừa mới đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Nhưng Như Lai đã thành Phật đến nay rất lâu mà phương tiện nói là thành Phật chưa lâu. Vì sao? Vì muốn hóa độ chúng sinh vậy. Đối với chúng sinh có thể thuyết kinh, đều đã độ thoát, nơi chốn có thể giảng nói thì tự hiện thân vì tất cả mà mở đường chỉ lối và cũng vì hàng trời, người ưa tạo tội phước. Vì vậy cho nên những điều Như Lai diễn giảng đều chắc thật, chí thành, chẳng phải hư dối. Như Lai thấy hết tất cả ba cõi, tùy duyên hóa hiện, không sở hành, không xuất sinh, không xoay vần, không diệt độ, không thật có, không hiện hữu, cũng không có bản vô, không biết, không như thế, không thật hư, cũng không có ba cõi. Sở hành của Như Lai là không thấy có ba cõi. Như Lai quán khắp tất cả các pháp, tại bất cứ chỗ nào cũng không bỏ mất các pháp. Tất cả điều giảng dạy chí thành bất hư. Chúng sinh khổ não không thể kể xiết, tạo nên bao nhiêu chủng tánh sai khác, tư duy niệm tưởng khác nhau, ta muốn khiến cho chúng sinh gieo trồng cội phước đức cho nên nói phân biệt biết bao nhiêu pháp.
Lại nữa, những điều Như Lai phải làm đều đã làm xong. Quả Phật hiện tại và sự đắc thành quả Đẳng giác đến nay đã quá lâu xa, thọ mạng vô cùng, thường trụ bất diệt. Như Lai không cần phải nói những điều đã nói lúc ban đầu về thời quá khứ trước đây khi hành pháp Bồ-tát để được thành tựu hạn lượng của thọ mạng.
Lại nữa, Như Lai đắc quả Phật đến nay thời gian lại nhiều gấp bội số trăm ngàn ức triệu như thí dụ trước. Rồi sau đó mới nhập Nê-hoàn. Vì sao? Vì giáo hóa chúng sinh mà thị hiện tu hành đến nay đã lâu xa, vì loài vô đức xa lìa phước đức, vì hạng bần cùng đắm trước ái dục, bị ràng buộc vào lưới kiến chấp mà tự che lấp mình, rong ruổi bất định. Như Lai vì họ mà thị hiện, làm phát khởi tư tưởng mong chóng thành đạt, không sinh lười biếng, lo âu khó đắc. Như Lai khéo léo phương tiện bảo các Tỳ-kheo: “Cần khổ tu hành mới đắc Phật quả, chân thật chẳng hư.” Vì các chúng sinh trải vô số trăm ngàn ức triệu kiếp mới thấy Như Lai, vì việc làm của họ vội vàng không đúng, luôn luôn sợ hãi không chịu chấm dứt, cho nên nói Phật pháp khó được nghe, Như Lai khó được gặp. Sự nghe thấy quá khó như vậy nên phát khởi tư tường khó gặp, buồn vui lẫn lộn, biết Phật là hy hữu, phát tâm dũng mãnh, ưa chỗ vắng lặng, tu hành tinh tấn. Do không thấy Phật nên sinh lòng khát ngưỡng, thấy Như Lai rồi, hoan hỷ kính lễ, tạo các công đức, ai không diệt độ thì giáo hóa khiến diệt độ, khai hóa mọi người. Do vậy, Như Lai xuất hiện thuyết kinh, nói ra lời chắc thật không hư.
Ví như có vị thầy thuốc thông minh trí tuệ, tài giỏi khó sánh, rành chế phương dược, biết bệnh nặng nhẹ, trị liệu đúng thuốc. Ông có nhiều con, hoặc mười đứa cho đến trăm đứa. Ông ta đi xa, các con ở nhà không hiểu y lý, không rành phương dược, không biết thuốc độc, bị bệnh rất nặng, uống nhằm độc dược. Độc dược phát tác, choáng váng lăn lộn. Cha từ xa về, con ở trong thành đầu óc rối loạn. Thấy các con bị bệnh, người cha xót thương. Con thấy cha về vui mừng tự nói: “Cha đã về, thật là tốt lành, an ổn. Chúng con vì nhầm tin lời người mà uống phải độc dược. Cúi xin cha cứu mạng chúng con.” Khi ấy, người cha thấy các con gặp tai nạn khổ não, lăn lộn dưới đất, liền bảo người mang thuốc đến, màu thuốc rất đẹp, mùi vị thơm ngon. Người cha pha chế các thuốc, đưa cho các con và dặn: “Hãy mau uống thứ thuốc thượng hạng, mùi vị thơm ngon này. Nếu các con uống thuốc này vào thì độc kia tiêu diệt, bệnh được khỏi ngay, thân thể an ổn, khí lực khang kiện.” Các người con không bị sự điên đảo làm rối loạn đầu óc thì thấy thuốc thơm, nếm biết mùi vị, liền uống vào, lập tức lành bệnh, độc dược tiêu trừ. Những người con tâm tánh bị bấn loạn thì chẳng chịu uống thuốc. Những người con uống thuốc lành bệnh đều nói là do cha cho thuốc nên chúng ta được lành bệnh và được an ổn. Còn những người con bị tà tưởng, không chịu uống vì khi thấy màu thuốc không ưa hương vị. Người cha nghĩ: “Nay những người con của ta ngu si không biết tâm tánh điên đảo, không chịu uống thuốc, bệnh không thuyên giảm, e rằng sẽ chết. Nay ta nên dùng quyền biến để các con uống thuốc.” Nghĩ rồi, bèn bày phương tiện, muốn khiến con mau uống thuốc, liền bảo các con: “Ta nay tuổi già sức yếu sẽ chết nay mai, các con hãy gắng dậy. Nếu ta chết đi thì nên dùng thuốc này chữa lành nhiều bệnh. Các con nên ghi nhớ, uống thuốc đúng liều lượng. Giả sử chán bệnh, muốn được an ổn thì nên uống thuốc này.” Dặn dò các con xong, người cha bỏ đi đến nước khác, giả báo là chết.
Các con nghe cha chết rồi, buồn đau khóc lóc, lo sầu không thể kể xiết: “Cha chúng ta trí tuệ thông minh, nhưng xem thường không uống thuốc nên nay đã chết, để anh em cô độc.” Họ nhớ nghĩ, âu lo, tự trách mình không làm theo lời cha dạy. Rồi họ bèn làm theo những việc cha dặn lại, xem kỹ màu sắc, hương vị của thuốc, tự mình trị liệu không dám khinh suất, liền uống thuốc vào để tiêu diệt mầm bệnh, bệnh liền thuyên giảm. Khi ấy, người cha thấy con uống thuốc, bệnh lành, liền trở về nhà.
Phật dạy:
- Này các thiện nam! Như vị thầy thuốc ấy khéo quyền phương tiện khiến các con hết bệnh thì có nên chê trách việc làm của vị ấy là không chính đáng chăng?
Các vị Bồ-tát bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, không! Bạch Bậc An Trú, không!
Phật dạy:
- Ta từ vô số trăm ngàn ức kiếp không thể tính đếm, phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, cần khổ vô cùng, luôn luôn hành phương tiện, thị hiện giáo hóa khai ngộ quần sinh. Người cha thầy thuốc ấy chính là Như Lai vậy, còn các người con ấy chính là chúng sinh sinh tử trong năm đường. Người cha đi nơi khác không có mặt dụ cho Như Lai chưa xuất hiện ở đời. Các con vào thành uống độc dược lăn lóc dụ cho chúng sinh bị ba độc buộc ràng, trôi lăn trong ba cõi, năm đường không thể tự cứu. Người cha trở về dụ cho Như Lai hành hạnh đại Từ bi, thấy chúng sinh trong ba cõi lưu chuyển trong năm đường không thể tự ra khỏi, cho nên xuất hiện ở đời rộng nói kinh pháp, khai hóa chúng sinh. Uống thuốc lành bệnh dụ cho phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, trụ quả bất thoái, vô sinh, hoặc đắc Thanh văn, Duyên giác không đạt cứu cánh. Xem màu sắc, hương vị của thuốc mà không uống dụ cho sáu mươi hai quan điểm rơi vào tà kiến. Người cha già để thuốc lại, dặn con rồi bỏ đi dụ cho Phật thấy chúng sinh nghi đạo giáo nên thị hiện diệt độ, lưu lại kinh pháp để giáo hóa đời sau. Bốn chúng đệ tử phúng tụng học hỏi, nghĩ công đức của Phật, phát tâm cầu đại đạo, hoặc đắc La-hán, hoặc đắc Duyên giác. Phật thấy như vậy lại xuất hiện ở thế gian. Tất cả thế gian đều là con của ta.
Các thiện nam! Như Lai hành quyền phương tiện chẳng phải là dối trá.
Khi ấy Đức Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa trên liền nói bài tụng:
Trăm ngàn ức kiếp
Không thể nghĩ bàn
Muốn biết số lượng
Cũng không biết được
Chí tôn Đại Thánh
Đắc đạo đến nay
Thường giảng thuyết kinh
Chưa từng dừng nghỉ
Khuyến khích giúp đỡ
Vô số Bồ-tát
Đều được an trú
Đạo tuệ của Phật
Vô số ức kiếp
Khai đạo chúng sinh
Trải ngàn ức kiếp
Không thể nghĩ bàn
Vì họ thị hiện
Có cảnh diệt độ
Để giáo hóa họ
Chỉ đường lợi ích
Dùng quyền phương tiện
Thị hiện diệt độ
Nên vì chúng sinh
Diễn nói kinh này
Ta đã an lập
Tất cả chúng sinh
Phân biệt cho họ
Rõ biết nghĩa ấy
Tâm họ điên đảo
Nên không hiểu biết
Muốn an lập họ
Phật bèn tuyên thuyết
Nếu gặp được Phật
Sau Ngài diệt độ
Dùng biết bao vật
Mà để cúng dường
Thấy ta diệt độ
Âu sầu lo lắng
Nếu thấy lại Phật
Mừng vui phấn chấn
Giả sử thẳng thắn
Nói lời chí thành
Này các chúng sinh
Tạm bỏ thân này
Rồi sau Như Lai
Luôn tự thị hiện
Dùng mọi âm thanh
Diễn bày Phật đạo
Người ở đời sau
Phân biệt lời này
Ta còn trong ấy
Chẳng phải diệt độ
Tỳ-kheo nên biết
Phật quyền phương tiện
Luôn luôn kham nhẫn
Hiện ra trên đời
Cùng với đồ chúng
Quyến thuộc vây quanh
Nhân đó tuyên dương
Phật đạo tôn quý
Chư hiền được nghe
Phật hiện ở đời
Làm Bậc Đạo Sư
Vào cõi tịch diệt
Quán thấy chúng sinh
Sầu lo áo não
Hoảng hốt không thấy
Tướng hảo của Ngài
Khát khao trông ngóng
Muốn được thấy Phật
Và sau đó thì
Phân biệt kinh điển
Không thể nghĩ bàn
Trăm ngàn ức kiếp
Ta thường kiến lập
Phương thức như vậy.
Phật thường đi đến
Ở núi Linh Thứu
Sàng tòa tự nhiên
Số nhiều vô lượng
Giả sử chúng sinh
Thấy thế giới ấy
Có nạn nước lửa
Thiêu hủy đất trời
Thì ngay khi ấy
Cõi Phật của ta
Đủ thứ vi diệu
Êm ả an lành
Ca múa vui chơi
Vô cùng an ổn
Giảng đường tinh xá
Phòng ốc gác lầu
Đẹp đẽ trang nghiêm
Đều bằng bảy báu
Dược thảo cây cối
Hoa quả tốt tươi
Mưa hoa tự nhiên
Hoa ấy nhiều màu
Dùng rải cúng Phật
Và chúng đệ tử
Mọi người ở nhà
Đều thấy chấn động
Có kẻ ưa thích
Phát khởi đạo tâm
Cõi nước của ta
Kiến lập thường nhiên
Người khác có thấy
Tai kiếp thiêu rụi
Thì cõi nước ấy
Lửa rất lạ thường
Do quyền phương tiện
Thị hiện như thế
Như Lai khen ngợi
Tôn pháp của Phật
Vô hrợng vô biên
Hiện bày như thế
Các loài chúng sinh
Không chịu lắng nghe
Chỉ thích tạo nên
Tội khổ tai ương
Giả sử nhân dân
Nhu hòa trung thực
Khi ấy Đức Phật
Xuât hiện thế gian
Gặp được Thế Tôn
Giảng dạy kinh pháp
Mới được sáng tỏ
Nghĩa lý thanh tịnh
Phật đến vì người
Phân biệt răn dạy
Nói những sự việc
Tạo trong luân hồi
Giả sử Như Lai
Lâu mới xuất hiện
Sau đó mới vì
Thuyết gỉang kinh này
Trí lực của ta
Quang minh tối thượng
Tri kiến như thế
Đâu phải mỏng bạc
Việc làm đời trước
Số kiếp vô lượng
Là do lòng Từ
Bình thản vô cầu
Người có trí tuệ
Không được hồ nghi
Vứt bỏ do dự
Chớ ôm nội kết
Những điều sẽ nêu
Chưa từng công bố
Nay Phật bảo khắp
Không nghĩa nào khác
Như vị thầy thuốc
Dùng phương tiện khéo
Mở bày phân biệt
Cho con phương thuốc
Hiện suy già chết
Nhưng thân thường tại
Dùng tiếng vi diệu
Vô thủy vô chung
Dung nạp bạn hữu
Tùy nghi sử dụng
Ở đời thuyết pháp
Trị bệnh chúng sinh
Khai dẫn kẻ ngu
Khiến lìa tăm tối
Thị hiện Niết-bàn
Thật không diệt độ
Cớ gì ân cần
Muốn được hiện rõ
Người thường mờ tối
Khiến tâm tin ưa
Do vì phóng dật
Dọa lạc ba đường
Tâm họ náo nức
Muốn được hiểu rõ
Lời của Như Lai
Thường thường biết thời
Vì các chúng sinh
Thực hành trí tuệ
Dùng phương tiện gì
Mà nói đạo pháp
Do đâu mà được
Kinh giáo của Phật.
Khi Đức Thế Tôn nói về thọ lượng ấy của Như Lai, vô số chúng sinh không thể nghĩ bàn đều đạt được ý nghĩa lợi ích của đạo giải thoát.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.217.0.127 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.