Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
CHƯƠNG X
KỆ TỤNG - PHẦN THỨ NHÌ
Nếu những bậc tu hành
Không khởi các phân biệt
Không lâu được tam muội
Lực, thông, và tự tại
Kẻ tu hành không nên
Vọng chấp nhân, vi trần
Thời, thắng tính, tác giả
Duyên sinh ra thế gian
Thế gian do phân biệt
Các thứ tập khí sinh
Kẻ tu hành hãy quán
Các hữu như mộng huyễn
Xa lìa kiến chấp thường
Phủ định và xác định
Thân, tài sản, chỗ ở
Không phân biệt ba cõi
Không nghĩ việc ăn uống
Chính niệm đoan thân trú
Luôn luôn cung kính lễ
Chư Phật và Bồ tát
Khéo giải nghĩa kinh luật
Pháp lý thú chân thật
Năm pháp, hai vô ngã
Lại tư duy tự tâm
Pháp nội chứng thanh tịnh
Các địa cùng Phật địa
Hành giả tu như thế
Ngồi đài sen, (được) quán đảnh
Du hành khắp các nẻo
Chán ghét tất cả hữu
Đến gò mả, chỗ tịnh
Tu tập các quán hạnh
Có vật không nhân sinh
Vọng nói lìa đoạn, thường
Lại nói lìa hữu, vô
Vọng chấp là trung đạo
Vọng chấp vô nhân luận
Vô nhân là đoạn kiến
Vì không rõ ngoại vật
Phá hoại lý trung đạo
Sợ sa vào đoạn kiến
Không xả pháp sở chấp
Vừa xác định phủ định
Vọng nói là trung đạo
Khi đã rõ duy tâm
Xả lìa hết ngoại pháp
Lại lìa vọng phân biệt
Như thế hợp trung đạo
Duy tâm, không có cảnh
Không cảnh, tâm không sinh
Ta và chư Như lai
Nói đó là trung đạo
Dù sinh hay không sinh
Tự tính, không tự tính
Hữu và vô đều không
Không nên phân biệt hai
Không thể khởi phân biệt
Kẻ ngu nói giải thoát
Tâm không biết trí sinh
Sao đoạn được nhị chấp
Vì hiểu rõ tự tâm
Đoạn được hai sở chấp
Hiểu rõ nên đoạn được
Không phải không phân biệt
Biết rõ do tâm hiện
Phân biệt sẽ không khởi
Vì phân biệt không khởi
Tâm chân như chuyển y
Nếu thấy pháp khởi ra
Lìa các lỗi ngoại đạo
Niết bàn của bậc trí
Không phải là diệt hoại
Ta và chư Phật nói
Biết vậy sẽ thành Phật
Nếu lại thêm phân biệt
Tức là luận ngoại đạo
Không sinh mà hiện sinh
Không diệt mà hiện diệt
Biến khắp muôn ức chỗ
Liền hiện như trăng nước
Một thân làm nhiều thân
Đốt lửa cùng rưới mưa
Tùy cơ hiện trong tâm
Cho nên nói duy tâm
Tâm cũng là duy tâm
Phi tâm cũng tâm khởi
Thông đạt các sắc tướng
Tất cả đều duy tâm
Hình tướng Phật, thanh văn
Cùng hiện tướng Duyên giác
Và các hình sắc khác
Đều nói là duy tâm
Từ nơi vô sắc giới
Cho đến trong địa ngục
Vì chúng sinh hiện khắp
Đều do tâm làm nên
Các tam muội như huyễn
Cùng với thân ý sinh
Mười địa và tự tại
Đều do chuyển y thành
Kẻ ngu bị tưởng chuyển
Theo thấy nghe hay biết
Tự phân biệt điên đảo
Bị hý luận làm động
Hết thảy không, vô sinh
Ta thật không Niết bàn
Hóa Phật ở các cõi
Nói tam thừa, nhất thừa
Phật có ba mươi sáu
Mỗi loại có mười hạng
Tùy tâm khí chúng sinh
Mà hiện ở các cõi
Pháp Phật ở thế gian
Cũng như tính vọng kế
Tuy thấy có đủ thứ
Kỳ thực không có gì
Pháp Phật là chân Phật
Ngoài ra đều (là) Hóa Phật
Tùy chủng tử chúng sinh
Thấy hiện thân của Phật
Vì mê hoặc các tướng
Nên khởi ra phân biệt
Phân biệt không khác chân
Tướng bất (?) nơi phân biệt
Tự tính cùng thọ dụng
Hóa thân cùng Hiện hóa
Ba mươi sáu vị Phật
Đều do tự tính thành
Do giống tập huân ngoài
Mà sinh ra phân biệt
Không giữ cái chân thật
Mà giữ cái vọng chấp
Mê hoặc do nội tâm
Cùng duyên ở ngoại cảnh
Chỉ hai thứ ấy khởi
Không có duyên thứ ba
Mê hoặc nương trong ngoài
Mà có ra sinh khởi
Sáu mươi hai, mười tám
Nên ta nói là tâm
Biết chỉ có căn, cảnh
Tất lìa nơi ngã chấp (àtmagràha)
Rõ tâm không cảnh giới
Liền lìa được pháp chấp
Do nương nơi bản thức (àlaya)
Mà có các thức sinh
Do nương vào nội xứ
Mà tợ hình hiện ngoài
Kẻ ngu thường phân biệt
Hữu vi cùng vô vi
Đều là bất khả đắc
Như hoa đốm, mao luân
Như thành Càn thát bà
Như huyễn như ảo tượng
Không có mà thấy có
Duyên khởi pháp cũng thế
Ta do ba thứ tâm
Giả lập căn, cảnh, ngã
Mà tâm, ý, thức kia
Tự tính thật không có
Tâm ý cùng với thức
Vô ngã có hai thứ
Năm pháp và tự tính
Ấy là cảnh giới Phật
Nhân tập khí là một
Mà thành ra ba tướng
Như lấy một màu hòa
Tường vẽ thấy các hình
Năm pháp hai vô ngã
Tự tính, tâm, ý thức
Ở trong chủng tính Phật
Đều là bất khả đắc
Xa lìa tâm, ý, thức
Lại lìa nơi năm pháp
Và lìa nơi tự tính
Đấy là chủng tính Phật
Nếu nghiệp thân ngữ ý
Không tu pháp bạch tịnh
Chủng tính tịnh của Phật
Tất lìa nơi hiện hạnh
Thần thông lực tự tại
Tam muội, tịnh trang nghiêm
Các thứ ý sinh thân
Ấy chủng tính Phật tịnh
Chỗ nội chứng vô cấu
Xa lìa các tướng nhân
Bát địa và Phật địa
do Như lai tính thành
Viễn hành cùng Thiện thệ
(Dùramgamà, Sàdhumatì)
Pháp vân và Phật địa
Đều là chủng tính Phật
Ngoài ra đều nhị thừa
Tâm Như lai tự tại
Nhưng vì hàng ngu phu
Tướng tâm có sai biệt
Mà nói bảy thứ địa
Địa thứ bảy không khởi
Lỗi lầm thân ngữ ý
Sở y địa thứ tám
Như mộng thấy qua sông
Địa thứ tám thứ năm
Hiểu rõ công xảo minh
Các Bồ tát hay làm
Vua trong các cõi hữu
Kẻ trí không phân biệt
Sinh hay là không sinh
Không cùng với bất không
Tự tính, vô tự tính
Thảy chỉ là tâm lượng
Mà thật bất khả đắc
Vì hàng nhị thừa nói
Đây thật, đây hư vọng
Không phải vì Bồ tát
Không nên nói phân biệt
Hữu phi hữu đều không
Cũng không tướng sát na
Pháp giả, thật cũng không
Ngoài tâm không có được
Hữu pháp là tục đế
Vô tính đệ nhất nghĩa
Mê hoặc chỗ vô tính
Ấy tức là thế tục
Hết thảy pháp đều không
Ta vì hàng phàm ngu
Theo tục giả bày nói
Nhưng đấy không chân thật
Các pháp do ngôn khởi
Tất có nghĩa sở hành
Khi thấy do ngôn sinh
Thì các pháp không có
Như lìa tưởng không hoa
Lìa hình cùng không bóng
Nếu tạng thức thanh tịnh
Thì sóng thức không sinh
Nương pháp thân có báo
Từ Báo khởi Hóa thân
Đấy là Căn bản Phật
Ngoài ra Hóa Phật hiện
Không nên vọng phân biệt
Không cùng với bất không
Vọng chấp hữu và vô
Lời nghĩa đều không có
Kẻ phàm vọng phân biệt
Đức, thật, trần làm sắc
Một mảy trần không có
Cho nên không cảnh giới
Chúng sinh thấy tướng ngoài
Đều do tự tâm hiện
Cái bị thấy đã không
Nên không có ngoại cảnh
Như voi bị sa lầy
Không thể nào di động
Thanh văn trú trong định
Chìm đắm cũng như thế
Nếu thấy các thế gian
Do tập khí làm nhân
Hữu vô đều không thấy
Pháp vô ngã, giải thoát
Tự tính là vọng kế (parikalpita)
Duyên khởi tức y tha (paritantra)
Chân như là viên thành
Trong kinh ta thường nói
Tâm, ý cùng với thức
Phân biệt cùng biểu thị
Tạng thức làm ba cõi
Đều đồng nghĩa với tâm
Thọ mạng, hơi ấm, thức
A lại gia, mạng căn (jìvitendriyà)
Ý cùng với ý thức
Đều đồng nghĩa "phân biệt"
Tâm hay giữ được thân
Ý (manas) xét đoán suy lường
Ý thức cùng năm thức
Rõ cảnh giới tự tâm
Hoặc thật có ngã thể
Khác uẩn cùng trong uẩn
Nơi đó tìm ngã thể
Rốt ráo không thể được
Quán thế gian mỗi mỗi
Các phiền não chính, phụ
Đều do tự tâm hiện
Lìa khổ được giải thoát
Tâm trí thanh văn đạt
Tịch tịnh trí duyên giác
Trí tuệ của Như lai
Sinh khởi vô cùng tận
Thật không có sắc ngoài
Chỉ do tự tâm hiện
Phàm phu không hay biết
Vọng phân biệt hữu vi
Không biết cảnh giới ngoài
Các thứ đều do tâm
Kẻ ngu dùng nhân, dụ
Lập thành bốn cú nghĩa
Bậc trí tất hiểu rõ
Cảnh giới tự tâm hiện
Không dùng tôn nhân dụ
Lập ra các cú nghĩa
Phân biệt, bị phân biệt
Đều là tướng vọng kế
Y chỉ nơi vọng kế
Mà khởi thêm phân biệt
Xoay chuyển nương lẫn nhau
Đều do một tập khí
Cả hai đều là khách
Không (phải) tâm chúng sinh khởi
Ở yên trong ba cõi
Phân biệt tâm, tâm sở
Tợ cảnh giới hiện ra
Là tự tính vọng kế
Hình bóng cùng chủng tử
Hợp thành mười hai xứ
Sở y, sở duyên hợp
Nói có vật được sinh
Cũng như bóng trong gương
Mắt lòa thấy mao luân
Tập khí che cũng thế
Kẻ ngu khởi vọng kiến
Nơi cảnh tự phân biệt
Mà khởi thêm phân biệt
Ngoại cảnh không thể có
Như ngu không biết dây
Lầm cho dây là rắn
Không hiểu tự tâm hiện
Vọng phân biệt cảnh ngoài
Như thế tự thể dây
Tính nhất dị đều lìa
Chỉ vì tâm mê lầm
Vọng khởi phân biệt dây
Khi vọng kế phân biệt
Tính vọng kế không còn
Như các vật cũng vậy
Chỉ do phân biệt sinh
Sở kiến tuyệt phi hữu
Từ vô thỉ mê hoặc
Khởi phân biệt hữu vi
Pháp nào khiến mê hoặc
Nguyện Phật vì con nói
Các pháp không tự tính
Chỉ do tự tâm hiện
Không hiểu rõ tự tâm
Cho nên phân biệt sinh.
Như kẻ ngu phân biệt
Vọng kế thật không có
Có những cái khác thế
Mà kẻ ngu không biết
Những cái bậc thánh có
Kẻ ngu không biết đến
Nếu thánh cũng như phàm
Thì thánh có hư vọng
Vì tâm thánh vốn tịnh
Nên không có mê hoặc
Tâm phàm ngu không tịnh
Nên có vọng phân biệt
Như mẹ bảo con thơ:
"Thôi con đừng khóc nữa
Trên trời có quả rơi
Xuống nhiều cho con bắt"
Ta vì chúng sinh nói
Các thứ quả tưởng tượng
Khiến chúng vui ham theo
Pháp thật lìa hữu vô
Các pháp trước không có
Các duyên không hòa hợp
Vốn không sinh mà sinh
Tự tính vốn không có
Pháp chưa sinh không sinh
Lìa duyên, không chỗ sinh
Pháp hiện sinh cũng thế
Lìa duyên không thể có
Quán thật chỉ duyên khởi
Không hữu cũng không vô
Không hữu vô cùng sinh
Kẻ trí không phân biệt
Kẻ ngu phu ngoại đạo
Vọng nói tính nhất, dị
Không hiểu lý duyên khởi
Thế gian như huyễn mộng
Đại thừa ta vô thượng
Siêu việt nơi danh ngôn
Nghĩa ấy rất rõ ràng
Mà kẻ ngu không biết
Thanh văn cùng ngoại đạo
Thuyết họ đầy xan lẫn
Khiến nghĩa đều biến đổi
Tất cả do vọng kế
Các tướng cùng tự thể
Hình trạng cùng với tên
Bốn thứ ấy duyên nhau
Mà khởi các phân biệt
Chấp do Phạm, Tự tại
Một thân (Suz. nhân) cùng nhiều thân
Cùng nhật nguyệt vận hành
Kẻ ấy không (phải) con ta
Đầy đủ các Thánh kiến
Thông đạt pháp như thật
Khéo léo chuyển các tưởng
Đến bên kia bờ thức
Dùng pháp giải thoát này
Lìa hẳn nơi hữu vô
Cùng lìa chỗ khứ, lai
Đấy (là) con trong pháp ta
Nếu sắc, thức chuyển diệt
Các nghiệp bị hư hoại
Tức là không sinh tử
Cũng không thường, vô thường
Nhưng khi chúng chuyển diệt
Tuy xả ly sắc xứ
Nghiệp vẫn ở tạng thức
Lìa lỗi lầm hữu vô
Sắc thức tuy chuyển diệt
Mà nghiệp không hoại mất
Khiến ở trong các cõi
Sắc thức lại tương tục
Nếu các chúng sinh kia
Nghiệp đã khởi bị hoại
Ấy là không sinh tử
Lại không có Niết bàn
Nếu nghiệp cùng sắc thức
Đồng thời mà diệt hoại
(Nếu) trong sinh tử có sinh
Sắc, nghiệp sẽ không khác
Sắc, tâm và phân biệt
Không khác, không không khác
Kẻ ngu nói diệt hoại
Mà thật lìa hữu, vô
Duyên khởi cùng vọng kế
Xoay vần không tướng riêng
Như sắc với vô thường
Xoay chuyển sinh cũng thế
Đã lìa khác, không khác
Vọng kế không thể biết
Như sắc tính vô thường
Vì sao nói có không
Khéo đạt chỗ vọng kế
Duyên khởi tất không sinh
Do thấy chỗ duyên khởi
Vọng kế tức chân như
Nếu diệt tính vọng kế
Tức là hoại pháp nhãn
Bèn ở trong pháp ta
Xác định cùng phủ định
Các hạng người như thế
Thường hủy báng chính pháp
Kẻ kia cùng phi pháp
Diệt hoại pháp nhãn ta
Bậc trí không giao thiệp
Lại bỏ việc tỳ kheo
Vì phá hoại vọng kế
Nên xác định, phủ định
Nếu theo sự phân biệt
Khởi các kiến hữu, vô
Họ như huyễn, mao luân
Mộng, nắng cùng Càn thành
Họ không học Phật pháp
Không nên cùng ở chung
Đã tự do hai biên (?)
Lại còn phá người khác
Nếu có bậc tu hành
Quán nơi tính vọng kế
Vắng lặng lìa hữu vô
Phật tử nên cùng ở
Như thế gian có chỗ
Sinh vàng, ngọc ma ni
Chỗ kia không tạo tác
Mà chúng sinh thọ dùng
Nghiệp tính cũng như vậy
Xa lìa các thứ tính
Nghiệp được thấy vốn không
Mà vẫn sinh các nẻo
Như chỗ thánh biết rõ
Pháp đều không có gì
Do kẻ ngu phân biệt
Pháp vọng kế phi không
Vì kẻ ngu phân biệt
Pháp ấy không có vậy
Đã không hết thảy pháp
Chúng sinh không tạp nhiễm
Vì có pháp tạp nhiễm
Bị vô minh, ái buộc
Hay khởi thân sinh tử
Các căn tất đầy đủ
Nếu nói ngu phân biệt
Pháp này đều là không
Thì không các căn sinh
Kẻ tu hành không chơn
Nếu không có pháp này
Vẫn làm nhân sinh tử
Kẻ ngu không đợi tu
Tự nhiên mà giải thoát
Nếu không có pháp kia
Phàm Thánh làm sao phân
Lại tất không Thánh nhân
Tu hành ba giải thoát
Các uẩn cùng nhân, pháp
Tự, cọng tướng sáu tướng
Các duyên và các căn
Ta vì Thanh văn nói
Duy tâm và không nhân
Các địa và tự tại
Chân như tịnh nội chứng
Ta vì Bồ tát nói
Đời vị lai sẽ có
Kẻ mặc áo ca sa
Vọng nói chỗ hữu, vô
Hủy hoại chính pháp ta
Pháp duyên khởi vô tính
Là lãnh vực chư Thánh
Tính vọng kế không vật (Bhàva)
Kẻ suy tính phân biệt
Vị lai có kẻ ngu
Các ngoại đạo Kiệt ma (Kanabhuj)
Nói ra luận vô nhân (Asatkàryavàda)
Ác kiến hoại thế gian
Vọng nói các thế gian
Đều do vi trần sinh
Mà trần kia không nhân
Chín món thật vật thường
Do thật mà sinh thật
Do đức mà sinh đức
Pháp tính khác với đây
Hủy báng nói không có
Nếu vốn không mà sinh
Thế gian có nhân đầu
Sinh tử không nhân đầu
Ấy là pháp của ta
Hết thảy vật ba cõi
Vốn không mà sinh ra
Thì lừa, chó sinh sừng
Đáng lẽ không nghi ngại
Noãn sắc thức vốn không
Mà nay mới có sinh
Áo, mũ, đệm các thứ
Lẽ ra do bùn sinh
Trong vải không có đệm
Trong cây bồ cũng không
Trong mỗi duyên sao không
Đều sinh ra cái đệm
Nếu mạng và thân kia
Vốn không mà nay sinh
Như ta đã nói trước
Đấy là luận ngoại đạo
Tôn ta nói trước kia
Vì để ngăn ý ấy
Khi ngăn ý ấy rồi
Sau mới nói tên mình
Sợ rằng chúng đệ tử
Mê chấp tôn hữu vô
Nếu ta vì kẻ ấy
Trước nói luận ngoại đạo (tìthavàda)
Ác tuệ Ca tỳ la
Vì các đệ tử nói
Thắng tính sinh thế gian
(Bị cầu na) chuyển biến
Vì các duyên không có
Không đã sinh, hiện sinh
Các duyên đã là không
Không sinh không bất sinh
Tôn ta lìa hữu vô
Lại lìa các nhân duyên
Sinh diệt và sở tướng
Hết thảy đều xa lìa
Thế gian như huyễn mộng
Nhân duyên đều vô tính
Thường quán sát như vậy
Phân biệt tuyệt không khởi
Nếu quán được các hữu
Như ảo tượng, mao luân
Lại như Tầm hương thành
Thường lìa hữu lìa vô
Nhân duyên đều xả ly
Khiến tâm được thanh tịnh
Nếu nói không ngoại cảnh
Mà chỉ có tâm thôi
Không cảnh tức không tâm
Làm sao thành duy thức (cittamàtra)
Nếu có cảnh sở duyên
Tâm chúng sinh khởi lên
Không nhân tâm không sinh
Làm sao thành duy thức
Chân như cùng duy thức
Là lãnh vực chúng Thánh
Có danh ngôn không thật
Không giải được pháp ta
Do năng thủ sở thủ
Mà tâm có sinh khởi
Tâm thế gian như vậy
Nên không là duy tâm
Hình bóng, thân, tài, đất
Như huyễn, do tâm sinh
Tâm tuy phân làm hai
Mà tâm không hai tướng
Như dao không tự cắt
Như ngón không tự sờ
Tâm không tự thấy mình
Việc ấy cũng như vậy
Không có hình tượng xứ
Tất không y tha khởi
Tính vọng kế cũng không
Năm pháp hai tâm diệt
Năng sinh và sở sinh
Đều là tướng tự tâm
Mật ý nói năng sinh
Mà thật không tự sinh
Các thứ cảnh hình trạng
Nếu do tưởng tượng sinh
Hư không cùng sừng thỏ
Đáng cũng thành cảnh tướng
Tợ cảnh do tâm khởi
Cảnh ấy không phải vọng
Nhưng cảnh vọng kế kia
Lìa tâm không thể có
Trong vô thỉ sinh tử
Cảnh giới đều không có
Tâm không có chỗ khởi
Làm sao thành hình tượng
Nếu vật không có (mà) sinh
Sừng thỏ đáng cũng sinh
Không thể vô vật sinh
Mà khởi ra phân biệt
Như bóng gương không có
Thì trước kia cũng không
Làm sao trong vô cảnh
Mà tâm duyên cảnh khởi
Chân như, không, thật tế
Niết bàn cùng pháp giới
Hết thảy pháp không sinh
Ấy tính đệ nhất nghĩa
Kẻ ngu sa hữu vô
Phân biệt các nhân duyên
Không thể biết các hữu
Không sinh, không tác giả
(Do) tâm vô thỉ làm nhân
Duy tâm không có vật
Đã không cảnh vô thỉ
Tâm do đâu mà sinh?
Vô vật mà sinh được
Thì nghèo đáng là giàu
Vô cảnh mà sinh tâm
Nguyện Phật vì con nói
Hết thảy đều không nhân
Không tâm cũng không cảnh
Tâm đã không chỗ sinh
Lìa chỗ làm ba cõi
Nhân các bình, áo, sừng
Mà nói không sừng thỏ
Cho nên không được nói
Không có pháp nhân nhau
Không nhân có mà không
Cái không ấy không thành
Có đối không cũng thế
Xoay chuyển nhân nhau khởi
Nếu y theo vài pháp
Mà có vài pháp khởi
Ấy tức cái đã y
Không nhân mà tự có
Nếu vật có chỗ nương
Chỗ nương cũng có nương
Thì thành lỗi vô cùng
Lại không có ít pháp
Như nương các cây lá
Hiện ra các huyễn tướng
Chúng sinh cũng như vậy
Nương sự hiện các vật
Nương năng lực huyễn sư
Kẻ ngu thấy huyễn tướng
Nương nơi các cây lá
Không huyễn nào có được
Nếu y chỉ nơi sự
Pháp ấy tức liền hoại
Sở kiến đã không hai
Còn chút nào phân biệt
Phân biệt không vọng kế
Phân biệt cũng không có
Vì phân biệt là không
Không sinh tử Niết bàn
Do không (cái) bị phân biệt
Phân biệt tất không khởi
Làm sao tâm không khởi
Mà có được duy tâm
Ý sai biệt vô lượng
Đều không pháp chân thật
Không thật không giải thoát
Lại không các thế gian
Như kẻ ngu phân biệt
Sở kiến ngoài đều không
Tập khí quấy đục tâm
Như hình ảnh hiện ra
Các thứ pháp hữu, vô
Hết thảy đều không sinh
Chỉ duy tự tâm hiện
Xa lìa nơi phân biệt
Nói các pháp do duyên
Cho kẻ ngu, chẳng trí
Tự tính tâm giải thoát
Tịnh tâm lãnh vực thánh
Số, thắng cùng lộ hình (nanga)
Phạm chí (Vipra) và tự tại
Đều sa vào vô kiến
Xa lìa nghĩa tịch tịnh
Không sinh, không tự tính
Ly cấu, không như huyễn
Phật xưa và Phật nay
Vì ai nói như vậy
Kẻ tịnh tâm tu hành
Lìa các kiến, kế đạt
Chư Phật vì họ nói
Ta cũng nói như vậy
Nếu tất cả do tâm
Thế gian ở chỗ nào
Nhân gì thấy đại địa
Chúng sinh có đi lại
Như chim bay trong không
Tùy phân biệt mà đi
Không nương cũng không ở
Như đạp đất mà đi
Chúng sinh cũng như vậy
Do nơi vọng phân biệt
Dạo đi nơi tự tâm
Như chim trong hư không
Bóng thân, tài, quốc độ
Phật nói chi tâm khởi
Xin nói bóng chỉ (là) tâm
Nhân gì, vì sau khởi
Bóng thân, tài, quốc độ
Đều do tập khí chuyển
Lại nhân không như lý
Phân biệt mà sinh ra
Cảnh ngoài là tưởng tượng
Tâm duyên cảnh mà sinh
Rõ cảnh chỉ là tâm
Thì phân biệt không khởi
Nếu thấy tính vọng kế
Danh nghĩa không hòa hợp
Xa lìa giác, sở giác
Giải thoát các hữu vi
Danh, nghĩa đều xa lìa
Đấy là pháp chư Phật
Nếu lìa đó cầu ngộ
Tất không giác tự tính
Nếu thấy được thế gian
Lìa năng giác, sở giác
Khi ấy tất không khởi
Phân biệt danh, sở danh
Do thấy được tự tâm
Danh tự vọng tác diệt
Không thấy được tự tâm
Tất khởi lên phân biệt
Bốn uẩn không sắc tướng
Số bốn không có được
Đại chủng tính khác tên
Làm sao cùng sinh sắc
Do lìa được các tướng
Năng sở tạo không có
Dị sắc riêng có tướng
Các uẩn sao không sinh
Nếu thấy được vô tướng
Uẩn xứ đều xả ly
Khi ấy tâm cũng ly
Nên thấy pháp vô ngã
Do căn cảnh sai khác
Sinh ra tám loại thức
Ở trong vô tướng kia
Ba tướng ấy đều lìa
Ý duyên A lại gia
Khởi chấp ngã, ngã sở
Cùng hai chấp của thức
Biết rõ tất xa lìa
Quán thấy lìa nhất, dị
Ấy tức không bị động
Lìa nơi ngã, ngã sở
Hai thứ vọng phân biệt
Không sinh không tăng trưởng
Lại không lâm (?) nhãn thức
Đã lìa năng sở tác
Diệt rồi không sinh lại
Thế gian không năng tác
Lại lìa tướng năng sở
Vọng kế cũng duy tâm
Ra sao xin Phật nói
Tự tâm hiện các thứ
Phân biệt các hình tướng
Không hiểu do tâm hiện
Vọng cho là ngoài tâm
Vì không có trí giác
Nên khởi ra vô kiến
làm sao nơi tính hữu
Mà tâm không sinh chấp
Phân biệt không hữu, vô
Nên nơi hữu không sinh
Rõ sở kiến duy tâm
Phân biệt tất không khởi
Vì phân biệt không khởi
Chuyển y không chỗ vướng
Đình chỉ bốn tông kia
Gọi là nhân pháp hữu
Đấy là phân biệt tên
Chỗ lập đều không thành
Nên biết nhân năng tác
Cũng thành lập như thế
Vì người thuyết năng tác
Nói nhân duyên hòa hợp
Vì ngăn lỗi chấp thường
Nói duyên là vô thường
Kẻ ngu nói vô thường
Mà thật không sinh diệt
Không thấy pháp hoại diệt
Mà vẫn có sở tác
Trời, người, A tu la
Quỷ, súc sinh, diêm la
Chúng sinh sinh trong đó
Ta nói là lục đạo
Do nghiệp thượng, trung, hạ
Mà thọ sinh trong đó
Giữ gìn các thiện pháp
Mà được thắng giải thoát
Phật vì các tỳ kheo
Nói các chỗ thọ sinh
Niệm niệm đều sinh diệt
Xin Phật vì con nói
Sắc sắc không tạm ngừng
Niệm niệm cũng sinh diệt
Ta vì đệ tử nói
Sinh diệt cũng như thế
Phân biệt là chúng sinh
Lìa phân biệt không có
Ta vì nhân duyên ấy
Nói các niệm niệm sinh
Nếu lìa bám nơi sắc
Không sinh cũng không diệt
Duyên sinh không duyên sinh
Vô minh cùng chân như
Hai pháp nên có khởi
Không hai tức chân như
Nếu duyên kia không duyên
Sinh pháp có sai biệt
Thường, vô thường, các duyên
Có năng tác sở tác
Đó tức đại Mâu ni
Cùng chư Phật đã nói
Có năng tác sở tác
Không khác với ngoại đạo
Ta vì Phật tử nói
Thân là khổ ở đời
Cùng là tập ở đời
Diệt, đạo tất đều đủ
Kẻ ngu vọng phân biệt
Nên giữ ba tự tính
Thấy có năng, sở thủ
Thế cùng xuất thế pháp
Ta trước quán đối đãi
Nói thủ nơi tự tính
Nay vì ngăn các kiến
Không nên vọng phân biệt
Tìm lỗi là phi pháp
Lại khiến tâm không định
Đều do hai thủ khởi
Không hai tức chân như
Nếu vô minh, ái, nghiệp
Mà sinh ra các thức
Tà niệm lại có nhân
Ấy tức lỗi "vô cùng"
Không trí nói các pháp
Có bốn thứ hoại diệt
Vọng khởi hai phân biệt
Pháp thật lìa hữu, vô
Xa lìa bốn cú nghĩa
Lại lìa nơi nhị kiến
Hai thứ phân biệt khởi
Biết rõ không sinh lại
Trong bất sinh biết sinh
Trong sinh biết bất sinh
Vì pháp kia đồng đẳng
Không nên khởi phân biệt
Nguyện Phật vì con nói
Lý ngăn ngừa hai kiến
Khiến con cùng các chúng
Thường không sa hữu, vô
Không lẫn ngoại đạo luận
Lại xa lìa nhị thừa
Chỗ mà Phật đã chứng
Chỗ con Phật không lùi
Giải thoát nhân phi nhân
Cùng một tướng vô sinh
Vì mê chấp dị danh
Kẻ trí nên thường lìa
Pháp do phân biệt sinh
Như mao luân, huyễn ảo
Ngoại đạo vọng phân biệt
Thế do tự tính sinh
Vô sinh cùng chân như
Tính không và chân tế (bhùtakoti)
Các thứ ấy đồng nghĩa
Không nên chấp là không
Như lông có nhiều tên
Tên Đế thích cũng thế
Các pháp cũng như vậy
Không nên chấp là không
Sắc và không không khác
Vô sinh cũng như thế
Không nên chấp là khác
Thành ra lỗi kiến chấp
Vì phân biệt tổng, biệt
Cùng với biến phân biệt
Chấp trước các tự tướng
Dài ngắn cùng vuông tròn
Tổng phân biệt (samkalpa) là tâm
Biến phân biệt (parikalpa) là ý
Biệt phân biệt (Vikalpa) là thức
Đều lìa tướng năng sở
Trong pháp ta khởi kiến
Cùng vô sinh ngoại đạo
Đều là vọng phân biệt
Lỗi lầm, đều không khác
Nếu có người rõ được
Pháp vô sinh ta nói
Cùng cái vô sinh làm
Người ấy hiểu pháp ta
Vì muốn phá các kiến
Vô sinh vô trú xứ
Khiến biết hai nghĩa ấy
Nên ta nói vô sinh
Phật nói pháp vô sinh
Dù là hữu hay vô
Tức đồng với ngoại đạo
Luận vô nhân, bất sinh
Ta nói là Duy tâm
Xa lìa nơi hữu vô
Dù sinh hay bất sinh
Kiến ấy đều nên lìa
Vô nhân nói không sinh
Sinh tất chấp tác giả
Tác tức lẫn các kiến
Vô tức tự nhiên sinh
Phật nói các phương tiện
Chính kiến cùng đại nguyện
Hết thảy pháp nếu không
Thì sao thành đạo tràng
Lìa năng thủ sở thủ
Không sinh cũng không diệt
Chỗ thấy pháp phi pháp
Đều do tự tâm khởi
Thuyết do Mâu ni nói
Trước sau tự mâu thuẫn
Vì sao nói các pháp
Lại nói là không sinh
Chúng sinh không thể biết
Nguyện Phật vì con nói
Được lìa lỗi ngoại đạo
Cùng cái nhân điên đảo (Visamàhetu)
Duy nguyện bậc Thắng thuyết
Nói chỗ sinh và diệt
Đều lìa nơi hữu vô
Mà không hoại nhân quả
Thế gian sa nhị biên
Bị các kiến mê hoặc
Nguyện xin đấng Mắt xanh
Nói thứ lớp các địa
Thủ, sinh, cùng bất sinh
Không rõ nhân tịch diệt
Đạo tràng không chỗ được
Ta cũng không nói gì
Pháp sát na đều không
Không sinh không tự tính
Các Phật đã sạch hai
Có hai tức thành lỗi
Bị các kiến che lấp
Phân biệt không phải Phật
Tưởng tượng ra sinh diệt
Nguyện vì chúng con nói
Tích tập các hí luận
Do hòa hiệp mà sinh
Tùy chủng loại hiện ra
Sắc cảnh đều đầy đủ
Thấy các ngoại sắc rồi
Bèn khởi ra phân biệt
Nếu hiểu được chỗ ấy
Tức thấy nghĩa chân thật
Đều lìa nơi đại chủng
Các Phật đều không thành
Đại chủng đã duy tâm
Nên biết không gì sinh
Tất thuận chủng tính thánh
Chớ phân biệt phân biệt
Không phân biệt là trí
Phân biệt nơi phân biệt
Là hai, không Niết bàn
Nếu lập tôn vô sinh
Tất hoại cái huyễn pháp
Nếu không nhân khởi huyễn
Tổn giảm tự tôn mình
Ví như bóng trong gương
Tuy lìa tính một, khác
Chỗ thấy không phải không
Tướng sinh cũng như vậy
Như Càn thành, vật huyễn
Tức đối nhân duyên có
Các pháp cũng như vậy
Tuy sinh mà không sinh
Phân biệt nơi nhân pháp
Mà khởi hai thứ ngã
Đây chỉ thế tục nói
Kẻ ngu không biết rõ
Do nguyện và tập khí
Tự lực và tối thắng
Thứ năm pháp thanh văn
Mà có các La hán
Thời gian và hoại diệt
Thắng giải cùng đổi dời
Bốn thứ vô thường ấy
Ngu phân biệt, không (phải) trí
Kẻ ngu đọa nhị biên
Vi trần, tự tính (praktri), tác (Kàrapa)
Vì chấp tôn hữu, vô
Không biết nhân giải thoát
Đại chủng trái nghịch nhau
Đâu hay khởi sắc tướng
Chỉ là tính đại chủng
Không có sắc sở tạo
Lửa thiêu hoại sắc tướng
Nước đắm chìm mọi vật
Gió thổi phăng mọi sự
Làm sao sinh các sắc
Sắc uẩn và thức uẩn
Chỉ có hai không năm
Ngoài ra chỉ tên khác
Ta nói là cừu oán
Tâm, tâm sở (cittacaitta) sai biệt
Mà khởi ra hiện pháp
Phân tích các sắc tướng
Chỉ tâm, không vật tạo
Xanh trắng đối đãi nhau
Tác sở tác cũng thế
Sở sinh và Tính không
Lạnh nóng, tướng sở tướng
Cùng hết thảy hữu vô...
Tưởng tượng, không có thật
Tâm ý và sáu thức
Cùng tương ưng lẫn nhau
Đều nương tạng thức sinh
Không một cũng không khác
Số, tháng và Lộ hình
Những kẻ chấp Tự tại
(Tàrkika, Isvarodita)
Đều sa vào hữu vô
Xa lìa nghĩa tịch diệt
Đại chủng sinh hình (samthàna) tướng (àkriti)
Không sinh ra đại chủng
Ngoại đạo nói đại chủng
Sinh đại chủng và sắc
Ngoài các pháp vô sinh
Ngoại đạo chấp tác giả
Theo nơi tôn hữu, vô
Kẻ ngu không biết rõ
Tướng thanh tịnh chân thật
Cùng ở với đại trí
Chỉ cùng tâm tương ưng
Không hòa hiệp với ý, (vv.)
Nếu nghiệp đều sinh sắc
Tất trái nhân các uẩn
Chúng sinh đừng nên chấp
Vô hữu trú vô sắc
Nói sắc mà không có
Thì chúng sinh cũng không
Luận vô sắc là đoạn
Các thức cũng không sinh
Thức nương bốn chỗ trú
Nói vô sắc sao được?
Nội ngoại đã không thành
Nên thức cũng không khởi
Nếu thức chúng sinh (là) không
Tự nhiên được giải thoát
Ấy là luận ngoại đạo
Kẻ vọng kế không biết
Hoặc có kẻ chấp trước
Các uẩn có trung gian
Như sinh cõi vô sắc
Vô sắc làm gì có
Sắc ở trong vô sắc
Tức không thể thấy được
Vô sắc tức trái tôn
Không xe, người đi xe (thừa, thừa giả)
Thức do tập khí sinh
Cùng các căn hòa hiệp
Tám thức trong sát na
Đều không thể nắm giữ
Nếu các sắc không khởi
Các căn không phải căn
Cho nên Thế Tôn nói
Căn, sắc, Sát nị ca (Ksanika)
Vì sao không rõ sắc
Mà có thức sinh được?
Vì sao thức không sinh
Mà có thọ sinh tử
Các căn cùng căn cảnh
Thánh giả hiểu nghĩa ấy
Kẻ ngu si vô trí
Vọng chấp thủ danh kia
Không nên chấp đệ lục
Có thủ cùng không thủ
Vì lìa các lỗi lầm
Bậc thánh không định thuyết
Các ngoại đạo vô trí
Sợ hãi nơi đoạn thường
Chấp hữu vi vô vi
Cùng ngã không sai khác
Hoặc chấp ngã là tâm
Hoặc là khác với ý
Tính một có thể giữ
Tính khác cũng như thế
Nếu thủ đã quyết định
Đặt tên tâm, tâm sở
Chấp thủ ấy vì sao
Không giải quyết "tính một"
Có thủ cùng tác nghiệp
Chứng đắc, nên thọ sinh
Như do lửa mà thành
Ý nghĩa giống, không giống
Như khi lửa thiêu đốt
Củi, vật đều cùng cháy
Vọng chấp ngã cũng thế
Vì sao không sở thủ
Dù sinh hay không sinh
Tâm tính thường thanh tịnh
Chỗ lập ngã ngoại đạo
Sao không lấy ví dụ?
Rừng mê hoặc của thức
Vì vọng xa chân pháp
Vì ưa thích ngã luận
Mà tìm cầu bỉ thử
Chỗ của trí nội chứng
Tướng chân ngã thanh tịnh
Đấy tức Như lai tạng
Ngoại đạo không biết được
Phân tích các uẩn ra
Năng thủ và sở thủ
Nếu biết được tướng ấy
Tức sinh trí chân thật
Các kẻ ngoại đạo kia
Ở trong vòng thức tạng
Chấp Mạt na là ngã
Không phải chỗ Phật nói
Nếu rõ được chỗ này
Giải thoát thấy chân đế
Khiến tu các phiền não
Đoạn trừ liền thanh tịnh
Bản tính thanh tịnh tâm
Chỗ chúng sinh cầu được
Như lai tạng vô cấu
Xa lìa biên, vô biên
Bổn thức ở trong uẩn
Như vàng, bạc trong quặng
Gạn lọc thành tươi sạch
Vàng bạc đều hiện rõ
Phật không phải người, uẩn
Chỉ là trí vô lậu
Biết rõ thường tịch tịnh
Là chỗ về của ta
Bản tính thanh tịnh tâm
Tùy phiền não, ý thảy
Cùng với ngã tương ưng
Nguyện Phật vì con nói
Tự tính thanh tịnh tâm
Ý thảy là cái gì
Nghiệp tích tụ của nó
Tạp nhiễm nên thành hai
Ý thảy (v.v..), ngã, phiền não
Làm nhiễm ô tịnh tâm
Ví như nước trong kia
Mà có các cấu bẩn
Như áo được lìa dơ
Cũng như vàng lìa quặng
Áo, vàng đều không hoại
Tâm lìa lỗi cũng thế
Kẻ vô trí tìm cầu
Ống tiêu cùng loa trống
Để tìm các tiếng hay
Ngã trong uẩn cũng thế
Như phụ nữ mang thai
Tuy có, không thể thấy
Ngã chân thật trong uẩn
Vô trí không thấy được
Như tinh túy trong thuốc
Lại như lửa trong cây
Ngã chân thật (kudgala) trong uẩn
Vô trí không thấy được
Không tính trong các pháp
Cùng với tính vô thường
Ngã chân thật trong uẩn
Vô trí không thấy được
Các địa, tự tại, thông
Quyền, đảnh, thắng, tam muội
Nếu không có chân ngã
Những thứ ấy đều không
Có người phá hoại nói:
"Nếu có, chỉ ngã ra"
Bậc trí nên đáp rằng:
"Phân biệt ấy là ngã"
Kẻ nói không chân ngã
Báng pháp, chấp hữu vô
Tỳ kheo nên yết ma
Trục xuất chớ giao thiệp
Thuyết chân ngã bừng thạnh
Như lửa kiếp tận nổi
Thiêu rừng rậm vô ngã
Lìa các lỗi ngoại đạo
Như tô, lạc, thạch mật
Cùng các thứ dầu ăn
Tất cả đều có vị
Kẻ chưa nếm không biết
Ở trong thân các uẩn
Năm món tìm cầu ngã
Kẻ ngu không hiểu được
Trí thấy tức giải thoát
Dụ do minh trí lập
Còn không rõ được tâm
Nghĩa chứa đựng trong đó
Làm sao hiển hiểu rõ
Tướng sai biệt các pháp
Không rõ chỉ một tâm
Kẻ suy lường vọng chấp
Không nhân và không khởi
Bậc định quán nơi tâm
Tâm không thấy được tâm
Kiến do sở kiến sinh
Sở kiến nhân gì khởi
Họ ta Ca chiên diên (kàtyàyana)
Ra khỏi Tịnh cư thiên (sùddhàvàsa)
Vì chúng sinh nói pháp
Khiến nhập Niết bàn thành
Duyên nơi pháp bốn trú
Ta cùng chư Như lai
Trong ba nghìn quyển kinh
Rộng nói Niết bàn pháp
Dục giới và vô sắc
Không ở đó thành Phật
Cõi trời sắc cứu cánh (Rùpadhàtvakanisttha)
Lìa dục được Bồ đề
Cảnh giới không chuyển nhân
Nhân chuyển được cảnh giới
Kiếm bén trí bậc tu
Cắt lìa phiền não kia
Vô ngã làm sao có
Các pháp huyễn hữu vi
Kẻ ngu thấy chân như
Sao nói không chân ngã
Pháp đã làm, chưa làm
Đều không nhân mà khởi
Hết thảy đều vô sinh
Kẻ ngu không hiểu được
Pháp năng tác không sinh
Sở tác và các duyên
Cả hai đều không sinh
Làm sao chấp năng tác
Kẻ vọng kế nói có
Nhân trước sau đồng thời
Dụ bình, các đệ tử
Nói các vật sinh khởi
Phật không là hữu vi
Các tướng tốt đầy đủ
Là công đức luân vương
Đó không phải Như lai
Phật lấy trí làm tướng
Xa lìa các kiến chấp
Lãnh vực tự nội chứng
Đoạn hết thảy lỗi lầm
Điếc mù cùng ngọng câm
Già, trẻ, ôm hờn oán
Nhất là những kẻ ấy
Không có phần phạm hạnh
Tùy hảo ẩn là trời
Tướng ẩn là Luân vương
Cả hai đều phóng dật
Chỉ hiện nơi người tu
Sau khi ta chết rồi
Sẽ có Tỳ da sá (Vyàsa)
Kana (Kanàda) Lê sa bà (Rishabha)
Kiếp tỳ la (Kapila) xuất hiện
Một trăm năm sau ta
Thuyết của Tỳ da sa
Cùng luận Bà đa la (Bhàraka) v.v..
Rồi có Bán trạch sa (Bàndava)
Kiều vi bà (Kaurava), La ma (Ràma)
Lại có Mao cuồng vương (Maurì)
Nan đà (Nanda) và Cúc đa (Gupta)
Đến Miệt lợi xa vương (Mleccha)
Sau đó đao binh khởi
Rồi có thời hắc ám (Kaliyuga)
Thời ấy các thế gian
Không tu hành chính pháp
Qua sau các thời ấy
Thế như bánh xe lăn
Lửa, mặt trời hòa hiệp
Thiêu đốt ở cõi dục
Lại lập các cõi trời
Thế gian lại thành tựu
Các vương cùng bốn họ
Các tiên cùng pháp hóa
Vệ đà cùng tế tự
Sẽ có pháp ấy thịnh
Pháp đàm luận hí tiếu
Trường hàng và giải thích
Tôi nghe như vầy v.v..
Mê hoặc nơi thế gian
Các thứ y nhận được
Nếu có thứ chính sắc
Lấy bùn xanh phân trâu
Nhuộm đi cho hủy màu
Hết thảy các y phục
Phải lìa tướng ngoại đạo
Hiện tướng bậc tu hành
Tướng oai nghiêm của Phật
(Y phục phải nghiêm chỉnh)
Cần phải buộc giây lưng
Lọc nước rồi hãy uống
Lần lượt mà khất thực
Không đến chỗ phi xứ
Sinh cõi trời thắng diệu
Và sinh trong loài người
Đủ các tướng quý báu
Sinh trời và vua người
Vua có bốn thiên hạ
Pháp giáo trụ lâu đời
Lên cao tột cung trời
Do tham nên thối thất
Thuần thiện (Ktrayuga) cùng ba thời
Hai thời, thời cực ác
Phật khác hiện thời thiện
Thích ca ra đời ác
Sau khi ta Niết bàn
Tất đạt đa họ Thích
Tỳ nữu (Visnu), Đại tự tại (Mahesvara)
Các ngoại đạo cũng xuất
Như vậy tôi nghe v.v..
Điều Thích sư tử nói
Đàm cổ (puràvttra) cùng tiếu ngữ (Itihàsa)
Tiên tỳ dạ sa nói
Sau khi ta Niết bàn
Tỳ nữu, Đại tự tại
Các thuyết kia nói rằng:
Ta làm nên thế gian
Ta tên Phật ly trần (Viraja-jina)
Họ Ca đa diễn na (Kàtyàyana)
Cha tên Thế gian chủ (Prajàpati)
Mẹ hiệu là Cụ tài (Vasumati)
Ta sinh nước Chiêm bà (Campà)
Ông nội trước của ta
Do dòng mặt trăng sinh (Somavamsa)
Nên hiệu là Nguyệt tạng (Somagupta)
Xuất gia tu khổ hạnh
Diễn nói ngàn pháp môn
Thọ ký cho Đại huệ
Rồi sau đó diệt độ
Đại huệ truyền Đạt ma (Dharma)
Đạt ma truyền Di khư lê (Mekhala)
Di khư gặp thời ác
Kiếp tận pháp sẽ diệt
Ca diếp Câu lưu tôn
Câu na hàm Mưu ni
Cùng ta ly trần cấu
Đều sinh thời thuần thiện
Khi thời thiện dần giảm
Có đạo sư tên Huệ (Mati)
Thành tựu đại dõng mãnh
Giác ngộ được năm pháp
Không phải nhị, tam thời
Cũng không thời cực ác
Chỉ trong thời thuần thiện
Mới hiện đẳng chính giác
Áo tuy không rách rưới
Nhưng vải vụn vá thành
Như lỗ đuôi Khổng tước
Không có ai xâm đoạt
Hoặc hai ngón ba ngón
Cách nhau mà may thành
Nếu làm khác như thế
Kẻ ngu sinh tham trước
Chỉ giữ ba chiếc áo
Thường tắt lửa tham dục
Tắm trong nước trí huệ
Ngày đêm ba thời tu
Như phóng tên rất mạnh
Tên rơi phóng tên khác
Lại như hai đầu cân
Thiện bất thiện cũng thế
Nếu một hay sinh nhiều
Tất có tướng dị biệt
Kẻ cho hãy như ruộng
Kẻ nhận hãy như gió
Nếu một hay sinh nhiều
Hết thảy không nhân có
Nhân sở tác bị hoại
Ấy là thuyết vọng kế
Nếu thuyết của vọng kế
Thêm dụ đèn, hạt giống
Một mà sinh ra nhiều
Chỉ tương tợ, không nhiều
Mè thì không sinh đậu
Đậu nhỏ không (phải) giống lúa
Sao nói một sinh nhiều
Danh thủ (pànini) tạo Thanh luận (Sabhanatri)
Quảng chủ tạo Vương luận
Vọng thuyết theo thế luận
Sẽ sinh trong phạm tạng
Ca đa diên (Kàtyàyana) tạo kinh
(Tiên) Thọ bì (Yajnàvalka)
Câu lưu (Bhudhuka) tạo thiên văn
Thời ác thế sẽ có
Chúng sinh các thế gian
Nhờ phước được làm ma
Đúng pháp cai trị thế
Giữ gìn cho cõi nước
Thanh nghị (Vàlurìka) cùng Xích đậu (Masuràksha)
Trắc tích (Kautilya) và Mã hành (Asvalayana)
Những đại phúc tiên ấy
Sẽ xuất hiện đời sau
Tất đạt đa dòng Thích
Bộ đa (Bhùtànta), ngũ Kế giả (Pancacudaka)
Ngũ lực (Vàgbali) cùng Thông huệ (Medhàvin)
Cũng ra đời về sau
Ta ở nơi rừng hoang
Phạm vương đến cho ta
Trần bì (Ajina), Tam kỳ trượng (dandakàsthà)
Bác điều (Mekhalà) cùng quân trì (Cakramandala)
Bậc đại tu hành này
Sẽ thành đấng ly cấu
Nói pháp chân giải thoát
Tướng của các Mâu ni
Phạm vương cùng phạm chúng
Các trời cùng chúng trời
Cho ta áo da nai
Trở về cùng tự tại
Ta ở trong rừng cây
Tứ thiên vương đế thích
Cho ta y phục đẹp
Cùng với bát khất thực
Nếu lập luận bất sinh
Nhân ấy sinh rồi sinh
Lập vô sinh như thế
Chỉ là thuyết hư huyễn
Do vô thỉ tích tập
Vô minh nhân của tâm
Sinh diệt nối tiếp nhau
Phân biệt của vọng kế
Tăng khu luận có hai
Thắng tính cùng biến dị
Trong thắng có sở tác
Sở tác phải tự thành
Thắng tính cùng với vật
Câu na nói sai biệt
Các món tác sở tác
Biến dị đều không được
Như thủy ngân trong sạch
Bụi bẩn không thể nhiễm
Tạng thức sạch cũng thế
Nơi chúng sinh y chỉ
Như các thứ rau hôi
Vị muối và thai tạng
Chủng tử cũng như thế
Tại sao mà không sinh
Tính nhất và tính dị
Câu bất câu cũng thế
Không sở thủ mà có
Không vô vi, hữu vi
Trong ngựa không tính trâu
Ngã trong uẩn cũng thế
Chỗ nói vi, vô vi
Đều không có tự tính
Trong giáo lý tìm ngã
Là ác kiến vọng cầu
Không hiểu nên nói có
Chỉ vọng thủ, không ngoài
Ngã ở trong các uẩn
Một, khác đều không thành
Lỗi lầm kia rõ rệt
Kẻ vọng kế không biết
Như gương nước và mắt
Hiện ra các thứ hình
Xa lìa tính một, khác
Ngã trong uẩn cũng vậy
Hành giả tu chính định
Kiến (darsana), đế (satya) cùng với đạo (màrga)
Siêng tu ba thứ ấy
Giải thoát các ác kiến
Như ở trong khe cửa
Thấy ánh chớp qua mau
Pháp thiên biến cũng thế
Không nên khởi phân biệt
Phàm phu tâm mê hoặc
Chấp Niết bàn có, không
Nếu có được thánh kiến
Như thật mà hiểu được
Nên biết pháp biến dị
Xa lìa nơi sinh diệt
Lại tìm nơi hữu vô
Cùng với tướng năng sở
Nên biết pháp biến dị
Xa lìa luận ngoại đạo
Lại lìa nơi danh, tướng
Diệt ngã kiến bên trong
Thân sung sướng cõi trời
Thân bị khổ địa ngục
Nếu không có trung hữu
Các thức không thể sinh
Nên biết trong các đường
Các loại thân chúng sinh
Loài sinh từ thai, trứng v.v..
Đều do trung hữu sinh
Lìa thánh giáo chính lý
Diệt dục hoặc càng tăng
Là cuồng thuyết ngoại đạo
Kẻ trí không nên nói
Trước nên rõ biết ngã
Và các thủ phân biệt
Không biết rõ phân biệt
Như con người Thạch nữ
Ta lìa xa nhục nhãn
Dùng huệ nhãn thiên nhãn
Thấy các thân chúng sinh
Lìa các hành các uẩn
Quán thấy trong các hành
Có sắc tốt sắc xấu
Giải thoát, không giải thoát
Có kẻ ở cõi trời
Kẻ thọ nhân các cõi
Chỉ mình ta biết được
Vượt chỗ thế gian biết
Không phải cảnh suy lường
Vô ngã mà tâm sinh
Tâm ấy làm sao sinh
Há không nói tâm sinh
Như sông, đèn, hạt giống?
Nếu không vô minh v.v..
Tâm thức tất không sinh
Lìa vô minh không thức
Làm sao sinh tương tục
Thuyết của kẻ vọng chấp
Ba đời và phi thế
Thứ năm không thể nói
Chỗ các Đức Phật biết
Các hành, thủ, sở thủ
Đều là nhân trí tuệ
Không nên nói trí tuệ
Gọi tên là các hành
Vì có nhân duyên ấy
Tất có pháp này sinh
Không riêng có tác giả
Đấy là pháp ta nói
Gió không thể sinh lửa
Nhưng khiến lửa bùng dậy
Lại do gió lửa tắt
Làm sao dụ cho ngã?
Chỗ nói vi, vô vi
Đều lìa nơi các thủ
Sao kẻ ngu phân biệt
Lấy lửa mà lập ngã
Sức các duyên xoay vần
Cho nên sinh ra lửa
Nếu phân biệt như lửa
Ngã ấy do ai sinh
Vì ý thảy làm nhân
Các uẩn, xứ tích tụ
Ông thương chủ vô ngã
Thường với tâm cùng khởi
Cả hai như mặt trời
Xa lìa năng, sở tác
Lửa không thể thành lập
Kẻ vọng kế không biết
Chúng sinh, tâm, Niết bàn
Bản tính thường thanh tịnh
Nhiễm thói lỗi vô thỉ
Không khác như hư không
Các ngoại đạo tượng ngọa (Hastisayya)?
Bị các kiến tạp nhiễm
Ý thức làm che khuất
Chấp lửa là thanh tịnh
Nếu được như thật kiến
Sẽ đoạn được phiền não
Xả rừng rậm tà dụ (Drstàntagahana)
Đến lãnh vực của Thánh
Phân biệt thành khác nhau
Giữa trí cùng sở tri
Kẻ ngu vì không biết
Nói chỗ không nên nói
Như ngu lấy gỗ khác
Làm chiên đàn (candanàgaru), trầm thủy
Vọng chấp cùng chân trí
Nên biết cũng như vậy
Ăn xong cầm bát về
Tẩy rửa cho sạch sẽ
Súc miệng sạch các vị
Nên tu hành như thế
Nếu nơi pháp môn này
Suy nghĩ đúng như lý
Tịnh tín lìa phân biệt
Thành tựu định tối thắng
Lìa chấp, ở nơi nghĩa
Thành kim cang pháp đăng
Phân biệt nơi hữu vô
Cùng các lưới ác kiến
Ba độc thảy đều lìa
Được tay Phật quán đảnh
Ngoại đạo chấp năng tác
Mê phương hướng không nhân
Sợ hãi thuyết duyên khởi
Đoạn diệt, không thánh tính
Các quả báo biến khởi
Là các thức cùng ý
Ý từ tạng thức sinh
Thức nương Mạt na khởi
Tạng thức khởi các tâm
Như biển khơi sóng lớn
Do tập khí làm nhân
Tùy duyên mà sinh khởi
Sát na tướng nối nhau
Chấp cảnh giới tự tâm
Các món hình cùng tướng
Ý căn và thức sinh
Do ác tập vô thỉ
Mà sinh tợ ngoại cảnh
Chỗ thấy chỉ là tâm
Ngoại đạo không hiểu được
Nhân kia và duyênkia
Mà sinh ra các thức
Cho nên khởi các kiến
Trôi lăn trong sinh tử
Các pháp như huyễn mộng
Trăng đáy nước, Càn thành
Nên biết hết thảy pháp
Chỉ là tự phân biệt
Chính trí nương chân như
Mà khởi các Tam muội
Thủ lăng nghiêm như huyễn
Các Tam muội như thế
Được nhập vào các địa
Tự tại và thần thông
Thành tựu trí như huyễn
Được các Phật rưới đầu
Thấy thế gian hư dối
Khi ấy tâm chuyển ý
Được vào hoan hỷ địa (Muditàbhùmi)
Các địa cùng Phật địa
Đã được chuyển y rồi
Như ma ni nhiều mầu
Lợi ích cho chúng sinh
Tùy hiện như trăng nước
Xa lìa kiến hữu, vô
Cùng với câu, bất câu
Siêu việt hạnh nhị thừa
Lại siêu đệ thất địa
Pháp hiện chứng bên trong
Từng bậc mà tu tập
Xa lìa các ngoại đạo
Nên nói là đại thừa
Nói pháp môn giải thoát
Như sừng thỏ, ma ni
Xả ly các phân biệt
Lìa chết cùng biến dịch
Giáo do lý mà thành
Lý nhờ giáo mà rõ
Nên y giáo, lý này
Chớ lại thêm phân biệt.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.162.21 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.