Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
02
Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này lấy gì nghiệm biết có trời, rồng, Dược-xoa, A-tu-la v.v... ở ba ngàn đại thiên thế giới khác đến chốn này để chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chấp tay nhiễu quanh bên phải, hoan hỷ hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của vị kia đã viết ra thọ trì.
Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:
- Các thiện nam, thiện nữ v.v… này nếu thấy chỗ để kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hào quang vi diệu chiếu sáng, hoặc ngửi chỗ ấy có mùi hương thơm lạ kỳ lạ, hoặc lại nghe có âm nhạc êm diệu, nên biết lúc ấy có trời, rồng v.v… đầy đủ oai đức thần lực hùng mạnh đến chỗ ấy để chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chấp tay nhiễu quanh bên phải, hoan hỷ hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của vị kia đã viết chép thọ trì.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này tu hạnh thanh tịnh, sửa sang chỗ kia trang nghiêm, chí tâm cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết, lúc ấy có các trời, rồng v.v... đầy đủ oai đức, thần lực hùng mạnh đến chốn ấy để chiêm ngưỡng lễ bái, đọc tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chấp tay nhiễu quanh bên phải, hoan hỷ hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của vị kia đã viết chép thọ trì.
Kiều-thi-ca! Tùy theo các trời, rồng v.v... có đầy đủ oai đức, thần lực hùng hậu như vậy đến chỗ ấy, thì chốn ấy nếu có ác ma, tà thần, liền kinh hãi, sợ sệt, tan rã, không dám ở đó. Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… liền phát khởi tâm quảng đại thắng giải thanh tịnh, việc tu hành thiện nghiệp tăng trưởng sáng rỡ bội phần, làm việc gì cũng không bị chướng ngại. Vì vậy, chỗ nào để Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phải dọn dẹp những ô uế chung quanh, phủi quét lau chùi, rưới nước hương thơm, trải bày tòa báu rồi đặt kinh lên đó. Đốt đèn dâng hoa, xông trầm, treo cờ, đèn, chuông xen lẫn với nhau, trang hoàng bằng các loại trân kỳ, vàng bạc, quý báu, y phục, anh lạc, kỹ nhạc, đèn sáng, các loại tơ lụa. Nếu có thể cúng dường kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, liền được các trời, rồng v.v... đầy đủ oai đức, thần lực hùng hậu đến nơi đó, chiêm ngưỡng, đọc tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chấp tay nhiễu quanh bên phải, hoan hỷ hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của vị đó chép ra thọ trì.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này nếu cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, nhất định thân tâm không mỏi mệt, được an lạc, điều hòa thân tâm, nhẹ nhàng thân tâm. Do buộc tâm vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, khi ban đêm ngủ không thấy ác mộng, chỉ gặp mộng lành. Nghĩa là thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, sắc thân hoàng kim, tướng hảo trang nghiêm, phóng hào quang sáng rỡ, chiếu khắp tất cả. Thanh văn, Bồ-tát vây quanh trước sau, trong chúng nghe Phật thuyết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến pháp tương ưng với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lại nghe phân biệt bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến nghĩa tương ưng với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Hoặc ở trong mộng thấy cây Bồ-đề, cây đó cao rộng, với các thứ báu trang nghiêm, có Đại Bồ-tát đến ngồi kiết già dưới đó và chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các loài hữu tình. Hoặc ở trong mộng thấy vô lượng trăm ngàn muôn ức số chúng Đại Bồ-tát luận nghị, chọn lựa nghĩa của các pháp, nghĩa là phải nên thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, tu Bồ-tát hạnh, hàng phục quân ma, đoạn trừ phiền não tập khí, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Hoặc ở trong mộng lại thấy mười phương thế giới, đều có vô lượng muôn ức chư Phật, và cũng nghe âm thanh của chư Phật, nghĩa là thế giới nào thì có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy, hoặc trăm ngàn muôn ức Đại Bồ-tát, Thanh văn đệ tử đều cung kính vây quanh Phật, nghe thuyết pháp. Hoặc ở trong mộng lại thấy vô lượng trăm ngàn muôn ức chư Phật ở mười phương thế giới nhập Niết-bàn. Sau khi mỗi vị Phật nhập Niết-bàn đều có thí chủ cúng dường Xá-lợi Phật. Họ dùng bảy báu vi diệu, xây dựng vô lượng trăm ngàn muôn ức tháp lớn. Lại nữa, mỗi mỗi tháp đó dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, anh lạc, cờ đèn, hương hoa, các loại trân kỳ, kỹ nhạc, đèn sáng v.v… đến vô lượng tháp cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.
Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v… này, thấy các điềm mộng lành như vậy, thì trong lúc ngủ hay thức, thân tâm đều được an lạc, được các thiên thần v.v… cho thêm năng lực, làm người kia tự nhiên cảm thấy thân thể nhẹ nhàng. Do nhân duyên này nên không tham đắm nhiều trong việc ăn uống, thuốc men, y phục, ngọa cụ, đối với bốn loại cúng dường đó, tâm thường coi nhẹ. Giống như thầy Du-già nhập vào định thắng diệu, nhờ sức mạnh của định thấm nhuần thân tâm, xuất định rồi, tuy gặp thức ăn ngon nhưng trong lòng vẫn coi thường. Đây cũng vậy, vì sao? Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam, thiện nữ v.v… này được đầy đủ oai đức, thần lực của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Bồ-tát, trời, rồng, Dược-xoa, A-tu-la v.v... ở ba ngàn đại thiên quốc độ và mười phương thế giới khác, từ bi hộ niệm, dùng năng lực vi diệu truyền vào thân tâm, làm cho người ấy ý chí dũng mãnh, thân thể cường tráng.
Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào muốn được các công đức lợi ích thù thắng hiện tại như vậy, thì nên phát tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi.
Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào, đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tuy không lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, tuyên thuyết rộng rãi cho các hữu tình, nhưng chỉ viết chép, dùng các báu trang sức, lại đem vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng mà cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, thì cũng đạt được các công đức lợi ích thù thắng như trên đã nói. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam, thiện nữ v.v… này có thể làm lợi lạc khắp vô lượng, vô biên hữu tình.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào đem tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi. Lại mang các loại tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng để cúng dường, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này sẽ gặt được vô lượng, vô biên phước đức, hơn các hữu tình trọn đời dùng vô lượng thức ăn nước uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men và các vật dụng riêng để cúng dường chư Phật, Bồ-tát và chúng Thanh văn ở tất cả mười phương thế giới. Cũng hơn người dùng bảy báu thượng diệu xây tháp cúng dường Xá-lợi của Phật và đệ tử sau khi Niết-bàn, đem vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, trọn đời cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao?
Kiều-thi-ca! Vì chư Phật và chúng đệ tử ở mười phương đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà sanh trưởng. VII. PHẨM XÁ-LỢI PHẬT
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Kiều-thi-ca! Giả sử đem Xá-lợi Phật khắp châu Thiện-bộ này là một phần, kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm được viết chép là một phần. Trong hai phần đó, ông lấy phần nào?
Trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Vì sao? Vì đối với Xá-lợi của chư Phật, con luôn tin tưởng, sung sướng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Nhưng thân và Xá-lợi của chư Phật đều nhờ kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm mà phát sanh, và đều do công đức thế lực Bát-nhã ba-la-mật-đa đã huân tu được, nên mới được tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo trời Đế Thích:
- Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, gọi là vô tướng. Pháp vô tướng đã không thể giữ, ông làm sao lấy được? Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không giữ, không bỏ, không tăng, không giảm, không họp, không tan, không ích, không tổn, không nhiễm, không tịnh, không cùng với pháp của chư Phật, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, không bỏ pháp phàm phu ngu muội; không cùng với cảnh giới vô vi, không lìa bỏ cảnh giới hữu vi; không cùng với các Không, không lìa bỏ các hữu; không cùng với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng, không lìa bỏ tất cả pháp tạp nhiễm?
Trời Đế Thích trả lời Xá-lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Thật đúng như lời ông nói. Bạch Đại đức! Nếu như thật biết Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, gọi là vô tướng, không giữ, không bỏ, cho đến không cùng với trí nhất thiết tướng, không lìa bỏ tất cả pháp tạp nhiễm, đó là chơn thật giữ Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, cũng là chơn thật tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Vì sao? Vì Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa không thuộc hai hạnh, không thuộc hai tướng.
Lúc bấy giờ, Phật khen trời Đế Thích:
- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến bố thí Ba-la-mật-đa không thuộc hai hạnh, không thuộc hai tướng.
Kiều-thi-ca! Có người muốn làm cho Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến bố thí Ba-la-mật-đa có hai tướng, đồng thời cũng muốn làm cho chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có hai tướng. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, cùng với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều không hai, không hai phần.
Trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... đều phải chí thành lễ bái, nhiễu bên phải mà cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao? Vì tất cả chúng Đại Bồ-tát đều tinh cần tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Giống như khi con ngồi trên tòa Thiên Đế, trong điện Thiện Pháp tại cung trời Ba mươi ba, vì các Thiên chúng tuyên thuyết Chánh pháp, có vô lượng các Thiên tử v.v… đến chỗ con để lắng nghe lời giảng của con và cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, nhiễu quanh bên phải, chấp tay lễ bái rồi lui. Nếu khi con không ngồi ở pháp tòa đó, các Thiên tử v.v… cũng đến chỗ ấy, tuy không thấy con nhưng họ vẫn cúng dường, cung kính y như khi con đang hiện diện, hoặc nói: Chỗ này là tòa mà trời Đế Thích đã thuyết pháp cho chư Thiên v.v… nghe, chúng ta nên chấp tay, cúng dường, lễ bái, nhiễu quanh bên phải rồi lui như khi có Thiên chủ.
Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, nếu có người viết chép, thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết cùng khắp cho các hữu tình thì nên biết chỗ ấy thường có vô lượng, vô biên trời, rồng, Dược-xoa, A-tu-la v.v... ở cõi này và mười phương vô biên thế giới khác đều đến tập họp. Nếu không có người thuyết pháp, nhưng chư Thiên v.v… vì cung kính, tôn trọng pháp cũng đến chốn ấy mà cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, lễ bái rồi lui. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các Đại Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả hữu tình được sự an lạc đầy đủ, đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có. Xá-lợi Phật cũng nhờ công đức huân tu, thọ trì, cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cùng với chư Đại Bồ-tát và sự chứng đắc trí nhất thiết trí làm nhân, làm duyên, làm chỗ y chỉ, làm sự hướng dẫn phát sanh. Cho nên con nói, giả sử Xá-lợi Phật khắp cõi châu Thiệm-bộ này là một phần, kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm được viết chép cũng là một phần, trong hai phần đó, con thà lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm.
Bạch Thế Tôn! Nếu con đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ chơn chánh, tâm hòa nhập với pháp nên hoàn toàn không thấy có các tướng hoảng hốt, sợ sệt. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không tướng trạng, không ngôn từ, không thuyết giảng. Do Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không tướng trạng, không ngôn từ, không thuyết giảng, nên tịnh lự v.v... năm Ba-la-mật-đa, cho đến trí nhất thiết tướng cũng không tướng trạng, không ngôn từ, không thuyết giảng.
Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa có tướng trạng, có ngôn từ, có thuyết giảng, chẳng phải không tướng trạng và ngôn từ thuyết giảng, thì không phải Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tất cả pháp không tướng trạng, không ngôn từ, không thuyết giảng, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình thuyết tất cả pháp không tướng trạng, không ngôn từ, không thuyết giảng.
Bạch Thế Tôn! Do Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không tướng trạng, không ngôn từ, không thuyết giảng, chẳng phải có tướng trạng và ngôn từ, thuyết giảng, nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tất cả pháp không tướng trạng, không ngôn từ, không thuyết giảng, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình thuyết tất cả pháp không tướng trạng, không ngôn từ, không thuyết giảng.
Bạch Thế Tôn! Kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, nên được tất cả thế gian trời, người, A-tu-la v.v... dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi. Lại dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, thì nhất định người này không đọa vào các đường ác, không ở trong chốn biên địa hạ tiện, không rơi vào hàng Thanh văn, Độc giác v.v… chắc chắn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường thấy chư Phật, luôn nghe Chánh pháp, không xa lìa bạn tốt, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, dùng đầy đủ vô lượng vật cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn và chúng Đại Bồ-tát.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Giả sử Xá-lợi Phật khắp cả ba ngàn thế giới là một phần, kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm được viết chép là một phần. Trong hai phần đó, con sẽ lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Vì sao? Vì Xá-lợi của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và Xá-lợi chư Phật ở ba ngàn thế giới đều phát sanh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại Xá-lợi Phật ở ba ngàn thế giới đều nhờ sự huân tu oai đức, thế lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa, được các trời, người, A-tu-la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Do nhân duyên này, nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Xá-lợi Phật, quyết định không rơi vào các đường hiểm nạn, thường sanh cõi lành, hưởng thọ nhiều sự phú quí an vui, tùy theo tâm nguyện, ở pháp ba thừa, hoàn toàn chứng đắc Niết-bàn của ba thừa.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v… nào nếu thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc thấy kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, thì hai công đức này bình đẳng không khác. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cùng với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bình đẳng không hai, không hai phần.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ba lần chỉ dạy, hướng đạo vì các hữu tình tuyên thuyết Chánh pháp, đó là Khế kinh cho đến Luận nghị; hoặc các thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng cho người, thì hai công đức này bình đẳng không khác. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc ba lần chỉ dạy, hướng đạo, sự tuyên thuyết mười hai phần giáo đều dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà phát sanh.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu hằng hà sa chư Phật Thế Tôn ở mười phương thế giới, ba lần chỉ dạy, hướng đạo, vì các hữu tình tuyên thuyết Chánh pháp, đó là Khế kinh cho đến Luận nghị; hoặc các thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng cho người khác thì hai công đức này bình đẳng không khác. Vì sao? Vì hằng hà sa chư Phật Thế Tôn ở mười phương thế giới, ba lần chỉ dạy, hướng đạo, sự tuyên thuyết mười hai phần giáo đều dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà phát sanh.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen hằng hà sa chư Phật Thế Tôn ở mười phương thế giới; cũng có các Thiện nam tử, thiện nữ v.v… viết chép, thọ trì kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, lại dùng các loại tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, thì hai công đức này bình đẳng không khác. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn đều dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà phát sanh.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, thì người đó không đọa vào cảnh giới địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, ở đời vị lai không rơi vào Thanh văn và Độc giác. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v… này quyết định sẽ an trụ ở địa vị Bất thối chuyển, xa lìa tất cả tai nạn, ngang trái bệnh tật, phiền não, hoảng hốt, sợ sệt. Giống như người mắc nợ, hoảng hốt, run sợ khi gặp chủ nợ, người ấy liền thân cận phụng thờ nhà vua, dựa vào thế lực của vua, thoát khỏi sự run sợ. Vua là dụ cho Bát-nhã ba-la-mật-đa, người mắc nợ dụ cho các thiện nam, thiện nữ v.v… dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được xa lìa tất cả khổ não, hoảng hốt, sợ hãi.
Bạch Thế Tôn! Ví như có người dựa vào nhà vua, được vua bảo hộ, nên cũng được người ở thế gian cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Xá-lợi Phật cũng lại như thế, nhờ sự huân tu của Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm nên được các trời, người, A-tu-la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vua dụ cho Bát-nhã ba-la-mật-đa, Xá-lợi Phật dụ cho người dựa vào vua.
Bạch Thế Tôn! Sự chứng đắc trí nhất thiết trí của chư Phật cũng dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Cho nên con nói: Giả sử Xá-lợi Phật khắp ba ngàn thế giới này gom lại một phần, hoặc kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm được người viết chép gom lại thành một phần. Trong hai phần đó con xin chọn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Xá-lợi Phật vững chắc như kim cương, đầy đủ màu sắc, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân Như Lai mười phương, cho đến trí nhất thiết tướng đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thành tựu. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa, gọi là đáo bỉ ngạn. Vì sao? Vì nếu không có Bát-nhã ba-la-mật-đa thì bố thí v.v... thì không thể đáo bỉ ngạn được.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đất nước, đô thị, thành phố, thôn ấp, tụ lạc ở ba ngàn đại thiên thế giới này hoặc thế giới khác, trong đó, nếu có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết, cúng dường, cung kính Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, thì hữu tình nơi ấy không bị tất cả người chẳng phải người v.v… làm não hại, chỉ trừ ác nghiệp quyết định phải lãnh thọ. Hữu tình trong đây lần lượt tu học chánh hạnh ba thừa, tùy theo sở nguyện của họ cho đến chứng đắc Niết-bàn của ba thừa.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, đầy đủ đại thần lực, làm lợi ích lớn ở ba ngàn đại thiên thế giới. Dù ở chỗ nào cũng là có Phật, làm các Phật sự, gọi là lợi ích an lạc tất cả hữu tình.
Bạch Thế Tôn! Ví như Đại bảo thần châu vô giá, đầy đủ vô lượng các oai đức thù thắng vi diệu, dù ở chỗ nào mà có thần châu này thì người và chẳng phải người không bao giờ làm não hại. Giả sử có người nam hoặc người nữ bị quỷ nhập, làm não hại thân tâm, có người đem thần châu này đến, nhờ oai lực của thần châu quỷ liền bỏ đi. Còn có các bệnh sốt, hoặc gió, hoặc đàm, hoặc sốt, phong, đàm tập hợp làm bệnh, nếu đeo thần châu này để nơi thân, thì các bệnh như vậy sẽ được lành. Châu này ở chỗ tối thì làm cho sáng lên, nóng thì mát mẻ, lạnh thì ấm áp. Tùy theo chỗ nào có thần châu này thì thời tiết nơi ấy sẽ điều hòa, không lạnh, không nóng.
Chỗ nào có thần châu này thì rắn độc, bò cạp v.v... không dám núp ở. Nếu như có người nam hay người nữ nào bị trúng độc, đau đớn khó chịu, có người cầm thần châu đến cho xem. Nhờ oai lực của thần châu chất độc tự tiêu diệt. Nếu các hữu tình nào thân bị bệnh hủi, mụt nhọt, ghẻ lở, mắt mù lòa v.v..., hoặc bệnh mắt, bệnh tai, bệnh mũi, bệnh lưỡi, bệnh yết hầu, bệnh thân, bệnh các lóng đốt, mà đeo thần châu này thì các bệnh đều lành.
Nếu các ao, hồ, sông, suối, giếng v.v... nước bị đục dơ, hoặc sắp khô cạn, đem thần châu này thả vào, nước liền tràn đầy, thơm tho, trong sạch, đủ tám công đức. Nếu đem các sắc phục thêu dệt đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng mà gói thần châu này thả xuống nước, nước sẽ theo sắc màu của y phục đổi thành nhiều màu. Đại bảo thần châu vô giá như thế, oai đức vô biên, nói không hết được. Nếu đựng trong rương, đãy cũng làm cho vật kia thành tựu đầy đủ vô biên oai đức. Nếu rương, đãy trống không, nhưng nhờ đựng thần châu nên vật ấy cũng được nhiều người kính mến.
Cụ thọ Khánh Hỷ hỏi trời Đế Thích:
- Thần châu như thế chỉ độc nhất ở cõi trời, còn cõi người có không?
Trời Đế Thích thưa:
- Trong cõi người và cõi trời đều có châu này. Nếu ở trong cõi người thì hình nó nhỏ mà nặng, còn ở cõi trời thì hình nó lớn mà nhẹ. Lại nữa, trong cõi người viên thần châu này khiếm khuyết, ở cõi trời thì viên thần châu tròn đầy. Thần châu trên trời oai đức thù thắng hơn ở cõi người gấp vô lượng, vô số.
Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cũng lại như vậy, vốn đầy đủ các oai đức, có thể diệt trừ vô lượng pháp ác bất thiện. Dù ở chỗ nào cũng làm cho các khổ não thân tâm của hữu tình đều được trừ diệt, người chẳng phải người v.v… không thể làm hại được.
Bạch Thế Tôn! Đại bảo thần châu vô giá mà con đã nói không những chỉ dụ cho Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, mà còn dụ cho trí nhất thiết trí của Như Lai. Cũng dụ cho tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Cũng dụ cho pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Cũng dụ cho bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng dụ cho chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cũng dụ cho pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng dụ cho trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cũng dụ cho tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Cũng dụ cho vô lượng, vô biên Phật pháp. Vì sao? Vì công đức như thế đều do sự chỉ dẫn hiển thị của đại Vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, công đức ấy sâu rộng vô lượng, vô biên. Xá-lợi Phật là do sự huân tu các công đức nên sau khi Phật Niết-bàn, thọ nhận sự cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen của tất cả thế gian trời, người, A-tu-la v.v...
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Xá-lợi Phật là rất viên mãn, tối thắng, thanh tịnh, Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến đoạn trừ hẳn sự tương tục của tập khí phiền não và làm chỗ nương tựa cho vô lượng, vô biên Phật pháp khác. Cho nên sau khi Phật nhập Niết-bàn được thọ nhận sự cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen của tất cả thế gian trời, người, A-tu-la v.v...
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Xá-lợi Phật là rất viên mãn, tối thắng, thanh tịnh, đầy đủ công đức, trân bảo, là chỗ nương tựa Ba-la-mật-đa. Xá-lợi Phật là rất viên mãn, tối thắng, thanh tịnh, không nhiễm, không tịnh, không sanh, không diệt, không nhập, không xuất, không tăng, không giảm, không đến, không đi, không động, không dừng, không này, không kia, là chỗ nương tựa Ba-la-mật-đa. Xá-lợi Phật là rất viên mãn, tối thắng, thanh tịnh, là chỗ nương tựa Ba-la-mật-đa của thật tánh các pháp. Cho nên sau khi Phật Niết-bàn được thọ nhận sự cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen của tất cả thế gian trời, người, A-tu-la v.v...
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Xá-lợi Phật ở ba ngàn thế giới, giả sử đem hằng hà sa Xá-lợi Phật ở khắp mười phương gom lại thành một phần; kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm được viết chép cũng đem gom lại thành một phần. Trong hai phần đó, con sẽ lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và Xá-lợi đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa mà phát sanh, đều do sự huân tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, đều là chỗ nương tựa của Bát-nhã ba-la-mât-đa, nên được thọ nhận sự cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen của tất cả thế gian trời, người, A-tu-la v.v...
Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Xá-lợi Phật, thì được hưởng mọi điều an lạc, phú quý không cùng tận ở trong cõi trời và người. Trong cõi người thì thuộc về đại tộc Sát-đế-lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Ở cõi trời thì được gọi là trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Tha hóa tự tại. Tức là do thiện căn thù thắng dứt được khổ não đến cuối đời mình.
Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, viết chép, giảng giải, suy nghĩ đúng lý thì mau chóng được viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Được viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm nên được viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa, cho đến bố thí Ba-la-mật-đa và ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Do đó nên có thể vượt lên bậc Thanh văn và Độc giác, chứng nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, đạt được thần thông thù thắng vi diệu của Bồ-tát. Dùng thần thông này qua lại các cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.
Tự phát nguyện thọ các thân, vì muốn lợi ích các hữu tình nên làm Đại luân vương, hoặc Tiểu luân vương, hoặc Đại quốc vương, hoặc Tiểu quốc vương, hoặc Sát-đế-lợi, hoặc Bà-la-môn, hoặc Tỳ-sa-môn, hoặc trời Đế Thích, hoặc Phạm vương, hoặc làm các loài khác chỉ để lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.
Vì vậy, bạch Thế Tôn! Con đối với Xá-lợi Phật thường tin tưởng an lạc, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Nhưng đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì đạt được công đức nhiều hơn việc kia. Do nhân duyên này nên con sẵn sàng chọn giữ Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm.
Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm thì tất cả Phật, Pháp được tăng trưởng. Cũng được hưởng thọ phú quí an lạc, tự tại ở thế gian và xuất thế gian. Như vậy là đã cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Xá-lợi Phật và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. VIII. PHẨM PHƯỚC TỤ
01
Trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào muốn thường được thấy sắc thân, pháp thân của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười phương vô lượng, vô số thế giới thì nên đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, là các thiện nam, thiện nữ v.v… này đã thường được thấy sắc thân, pháp thân của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười phương, lần lần tu hành mau chóng viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Khi ấy phải nên đem pháp tánh tu tập này quán niệm Phật.
Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp tánh tóm lược có hai loại: Một là hữu vi, hai là vô vi.
Sao gọi là pháp tánh hữu vi? Đó là trí pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; trí bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; trí pháp thiện, pháp bất thiện; trí pháp hữu ký, pháp vô ký; trí pháp hữu lậu, pháp vô lậu; trí pháp hữu vi, pháp vô vi; trí pháp có tội, pháp không tội; trí pháp thế gian, pháp xuất thế gian; trí pháp tạp nhiễm, pháp thanh tịnh. Các môn trí vô lượng như thế đều gọi là pháp tánh hữu vi.
Tại sao gọi là pháp tánh vô vi? Đó là tất cả pháp không sanh, không diệt, không trụ, không khác, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, vô tướng vô vi, không tánh tự tánh. Như vậy gọi là pháp tánh vô vi.
Các thiện nam, thiện nữ v.v… này nên dùng hai loại pháp tánh như thế đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà tùy tu niệm Phật.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Chư Phật ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại, đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thanh văn đệ tử chư Phật ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Độc giác ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng Độc giác Bồ-đề. Vì sao?
Kiều-thi-ca! Vì trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, cho đến pháp tương ưng với ba thừa như đã nói đây đều dùng vô sở đắc làm phương tiện; dùng vô tánh vô tướng làm phương tiện; dùng vô sanh, vô diệt làm phương tiện; dùng vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện; dùng vô tạo, vô tác làm phương tiện; dùng không nhập, không xuất làm phương tiện; dùng không tăng, không giảm làm phương tiện; dùng không thủ, không xả làm phương tiện. Nói như thế đều y vào thế tục, không y vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không phải Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chẳng phải là phi Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chẳng phải bờ này, chẳng phải bờ kia, chẳng phải giữa dòng, chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng phải cao, chẳng phải thấp. Chẳng bình đẳng, chẳng bất bình đẳng. Chẳng hữu tướng, chẳng vô tướng. Chẳng thế gian, chẳng xuất thế gian. Chẳng hữu lậu, chẳng vô lậu. Chẳng hữu vi, chẳng vô vi. Chẳng thiện, chẳng bất thiện. Chẳng hữu ký, chẳng vô ký. Chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại.
Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không cùng với pháp chư Phật, không cùng với pháp Bồ-tát, không cùng với pháp Độc giác, không cùng với pháp Thanh văn, cũng không lìa bỏ các pháp phàm phu.
Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là đại Ba-la-mật-đa, là vô thượng Ba-la-mật-đa, là vô đẳng đẳng Ba-la-mật-đa. Khi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, tuy biết cảnh giới sai biệt tâm hành của tất cả hữu tình, nhưng không đắc ngã, không đắc hữu tình, cho đến không đắc người biết, người thấy. Cũng không đắc sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không đắc lục xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cũng lại không đắc bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến không đắc mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Vì sao? Vì chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đối với tất cả pháp dựa vào có sở đắc mà xuất hiện. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm hoàn toàn không tự tánh cũng bất khả đắc. Có thể được sở đắc và hai chỗ y cứ là tánh tướng đều không, bất khả đắc.
Phật bảo trời Đế Thích:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm lâu dài, Bồ-đề và Tát-đỏa còn không chứng đắc, huống chi là chứng đắc Đại Bồ-tát? Đã không chứng đắc Đại Bồ-tát thì lấy đâu đắc pháp Đại Bồ-tát? Pháp Đại Bồ-tát còn không chứng đắc, huống chi là chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.
Trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát chỉ nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, hay cũng nên tu năm Ba-la-mật-đa?
Phật bảo:
- Các Đại Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa. Khi tu bố thí thì không thấy có vật cho, không thấy người cho, và không thấy người nhận.
Khi tu tịnh giới không thấy giới để tịnh, không thấy người trì giới, không thấy người phạm giới.
Khi tu an nhẫn thì không thấy được an nhẫn, không thấy người an nhẫn, không thấy người sân giận.
Khi tu tinh tấn không thấy sự tinh tấn, không thấy người tinh tấn, không thấy người giải đãi, không thấy việc làm phải nên tinh tấn, không thấy thân hoặc tâm có thể làm.
Khi tu tịnh lự không thấy tịnh lự, không thấy người tịnh lự, không thấy người toán loạn.
Khi tu Bát-nhã không thấy Bát-nhã, không thấy người trí tuệ vi diệu, hoàn hảo, không thấy người nhiều ác tuệ, không thấy sự quán sát sai biệt về tánh tướng các pháp của Bát-nhã.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm của các Đại Bồ-tát là ánh sáng, là bậc hướng dẫn để tu tập tất cả Ba-la-mật-đa, không chỗ chấp trước khiến mau chóng được viên mãn.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp dùng vô sở đắc làm phương tiện, Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm là ánh sáng, là bậc hướng dẫn, tuy quán sát các pháp mà không chỗ chấp trước khiến cho sự tu tập mau chóng được viên mãn. Nghĩa là dùng vô sở đắc làm phương tiện, Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm làm ánh sáng, làm bậc hướng dẫn, tuy quán các uẩn, các xứ, các giới, cho đến trí nhất thiết tướng mà không chấp trước. Do nhân duyên này khiến cho sự tu tập mau được viên mãn.
Kiều-thi-ca! Cũng như thân, nhánh, lá, quả, hạt, cọng, hoa của các cây ở châu Thiệm-bộ, tuy các hình sắc không đồng mà bóng mát của chúng hoàn toàn không sai biệt, là chỗ quay về của các công đức lớn. Năm Ba-la-mật-đa trước cũng vậy, tuy mỗi loại có khác, nhưng do sự nhiếp thọ của Bát-nhã ba-la-mật-đa, hồi hướng trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, các tướng sai biệt hoàn toàn bất khả đắc, là chỗ nương tựa cho các công đức lớn.
Lúc đó, trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, thành tựu công đức thù thắng rộng lớn, thành tựu tất cả công đức thù thắng, thành tựu viên mãn công đức thù thắng, thành tựu vô lượng công đức thù thắng, thành tựu vô số công đức thù thắng, thành tựu vô biên công đức thù thắng, thành tựu vô đẳng công đức thù thắng, thành tựu vô tận công đức thù thắng.
Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào viết chép Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy, dùng các vật báu để trang nghiêm, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, y như kinh đã nói, suy nghĩ đúng lý. Hoặc có thiện nam, thiện nữ v.v… cũng viết chép Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy, còn dạy cho người khác thọ trì và lưu truyền cùng khắp. Trong hai phước này, phước nào nhiều hơn?
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Ta hỏi lại ông, nên trả lời theo ý ông. Nếu có các thiện nam, thiện nữ v.v… nào thỉnh được Xá-lợi Phật của người khác, đựng vào trong họp báu, để chỗ cao hơn. Lại đem các loại tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.
Cũng có các thiện nam, thiện nữ v.v… khác, thỉnh Xá-lợi Phật rồi phân phát cho người khác chừng bằng hạt cải, những người kia cung kính lãnh thọ và đặt chỗ an ổn đúng như pháp. Lại dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Ý ông nghĩ sao? Hai phước đức này, phước nào thù thắng hơn?
Trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật dạy, hai phước đức đó, thì phước đức sau thù thắng hơn. Vì sao? Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các loại hữu tình mà dùng tâm đại bi, nên đối với Xá-lợi của chư Phật ai cúng dường, cung kính thì được cứu độ.
Khi Như Lai sắp vào Niết-bàn dùng sức Tam-ma-địa như Kim cương đập vỡ thân kim cương thành nhiều mảnh như hạt cải. Lại dùng thần lực gia trì đại bi sâu rộng, khiến cho sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, số lượng Xá-lợi Phật nhiều viên như hạt cải, nếu ai cúng dường, cung kính đạt được vô biên phước đức. Hưởng thọ nhiều an lạc thù thắng ở trong trời, người, cho đến sau cùng chấm dứt được các khổ. Cho nên người đem Xá-lợi Phật cho người khác thì phước đức thù thắng hơn.
Phật khen trời Đế Thích:
- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu tự thọ trì cúng dường, cung kính, lưu truyền rộng rãi cho người khác. Hai phước này, phước sau nhiều hơn. Vì sao? Vì do sự trao truyền cho người khác, nên vô lượng, vô số hữu tình được lợi ích an lạc.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu có người đối với nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đã thuyết mà như thật phân biệt giải thích cho người, giúp cho họ được giải thoát, đạt được phước đức thù thắng hơn cả trăm ngàn phần công đức của người lưu truyền. Cung kính Pháp sư này như cung kính Phật, cũng như phụng sự, tôn kính người Phạm hạnh. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm tức là chư Phật, chư Phật tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm.
Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm không khác chư Phật, chư Phật không khác Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm. Vì sao? Vì chư Phật ba đời đều nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Bậc phạm hạnh, nên biết tức là trụ ở Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Đại Bồ-tát cũng nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Hàng chủng tánh Thanh văn cũng nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, đắc quả A-la-hán.
Hàng chủng tánh Độc giác cũng nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, chứng đắc Độc giác Bồ-đề.
Bậc chủng tánh Bồ-tát cũng nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tinh cần tu học, vượt qua các hàng Thanh văn, Độc giác v.v…, chứng nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, lần lần tu hành tất cả Bồ-tát hạnh, được trụ ở Bồ-tát Bất thối chuyển.
Vì vậy, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào muốn dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen vị Phật hiện tại, thì nên chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, dùng vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.
Kiều-thi-ca! Khi vừa chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ta quán sát nghĩa này nên suy nghĩ: Ta nên y chỉ vào ai để an trụ? Ai xứng đáng lãnh thọ sự cúng dường, cung kính của Ta? Khi nghĩ như vầy, hoàn toàn không thấy trời, Ma phạm, người chẳng phải người v.v… nào bằng Ta huống gì là hơn Ta. Ta lại suy nghĩ: Ta nên y chỉ vào pháp quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà Ta đã chứng. Pháp này thậm thâm, tịch tịnh, vi diệu. Ta sẽ y chỉ pháp này để an trụ, cúng dường, cung kính đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm.
Kiều-thi-ca! Ta đã thành Phật còn nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa cúng dường, cung kính, huống chi các thiện nam, thiện nữ v.v… muốn cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà lại không nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm để tinh cần tu học, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen? Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm có thể sanh ra chúng Đại Bồ-tát. Từ chúng Đại Bồ-tát này sanh ra chư Như Lai Ứng Cháng Đẳng Giác. Lại nương tựa vào chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà Thanh văn, Độc giác được sanh ra.
Vì vậy, Kiều-thi-ca! Nếu Bồ-tát thừa, Độc giác thừa, Thanh văn thừa, các thiện nam, thiện nữ v.v... đều phải tinh cần tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng vô lượng thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát thừa cốt yếu nương tựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa để tinh cần tu học đạt đến cứu cánh.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào giáo hóa các loại hữu tình ở châu Thiệm-bộ, đều làm cho họ an trụ nơi mười thiện nghiệp đạo. Ý ông thế nào? Các thiện nam, thiện nữ v.v… này do nhân duyên đó mà được nhiều phước đức chăng?
Trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật dạy:
- Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… nào viết chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, đọc tụng cho người, hoặc viết chép lưu truyền rộng rãi thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này phước đức được nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm cho đến tất cả pháp vô lậu, các thiện nam, thiện nữ v.v… đã học, đang học, sẽ học trong đó; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Thanh văn, lần lần cho đến đã chứng, đang chứng, sẽ chứng quả A-la-hán; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Độc giác, lần lần cho đến đã chứng, đang chứng, sẽ chứng Độc giác Bồ-đề; hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập Chánh tánh ly sanh của chủng tánh Bồ-tát, lần lần tu hành các Bồ-tát hạnh, đã chứng, đang chứng, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Kiều-thi-ca! Trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm đã thuyết tất cả pháp vô lậu, đó là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi; Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám giải thoát, chín định thứ đệ; pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; năm loại mắt, sáu phép thần thông; mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vô lượng, vô biên Phật pháp khác đều là tất cả pháp hữu lậu được thuyết trong đây. Quyển thứ 503
HẾT
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.15.193.94 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.