Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh [菩薩從兜術天降神母胎說廣普經] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh [菩薩從兜術天降神母胎說廣普經] »» Bản Việt dịch quyển số 3

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ

Kinh này có 7 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm thứ 6 : Tưởng Vô Tưởng
Bấy giờ đức Thế tôn nói với Bồ tát Di Lặc:
- Trong chúng hội hôm nay đều cùng một hạng thuần là Nhất sanh bổ xứ. Nay Ta sẽ nói về Thức - Tưởng - Thọ ; Vô thức - Vô tưởng - Vô thọ. Lúc ấy, Bồ tát nói Thức - Tưởng - Thọ như thế nào ? Thế là Bồ tát phân biệt nói về Thức - Tưởng - Thọ :
Thức chẳng phải Tưởng, chẳng phải Thọ.
Thọ chẳng phải Thức, chẳng phải Tưởng.
Tưởng chẳng phải Thọ, chẳng phải Thức.
Tưởng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Thọ chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Phi thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Phi tưởng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Phi thọ chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Vì sao Thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại ? - Lúc Bồ tát nhập Vô ngại định giáo hóa chúng sanh có Thọ, Thức. Từ Hữu trụ địa đến Vô trụ địa, Thức này chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại..
Đại Bồ tát lại giáo hóa chúng sanh có Tưởng từ Trụ địa đến Vô trụ địa.
Bồ tát giáo hóa chúng sanh có Thọ từ Trụ địa đến Vô trụ địa.
Bấy giờ tôn giả Đại Ca Diếp liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, bạch trước Phật :
- Bạch Thế tôn ! Ý tâm thức thọ tưởng có gì khác nhau ?
Phật dạy Ca Diếp :
- Biết thân là biết có sai khác, vì là chúng sanh từ chân lên đến đầu có những chi tiết đều có tên riêng của nó. Như đã nói trong kinh ví dụ về cây, thì rễ, vỏ, thân, cành, lá đều gọi là cây. Vậy thì tâm ý thức thọ tưởng cũng thế.
Đại Ca Diếp bạch Phật :
- Bạch Thế tôn ! Tưởng là pháp bên ngoài, Thọ là pháp bên trong. Vậy sao cho là một ?.
Phật dạy Ca Diếp :
- Tưởng từ bên ngoài đến, từ bên trong ra.
Ca Diếp bạch Phật :
- Bạch Thế tôn ! Tưởng từ bên ngoài đến, làm sao biết được ? Nếu bên ngoài vô hình thì bên trong tưởng do đâu mà sanh ? Nếu vật bên ngoài không hại, thì bên trong làm sao biết đau?
Phật dạy Ca Diếp :
- Việc này không phải như vậy. Vì sao ? - Vì Thức này chẳng phải ở bên ngoài, chẳng phải ở bên trong, chẳng phải hai bên, chính giữa. Chỗ Thức trụ chẳng phải chỗ Thức trụ. Ngoại Tưởng, ngoại Thọ tức là pháp bên trong, chẳng phải pháp bên ngoài. Nếu đại Bồ tát nào tin hiểu một cách sâu xa về pháp bên trong, bên ngoài, chính giữa thì mới có thể hiểu rõ chỗ Thức trụ. Đây là chúng sanh, đây là phi chúng sanh, cho đến pháp Hữu - Vô chẳng phải đây chẳng phải kia, liền nhập vào Vô ngại độc bộ tam muội.
Ca Diếp bạch Phật :
- Hôm nay nghe thuyết pháp, lòng con càng thêm nghi ngờ. Vì sao ? - Vì theo Phật đã nói thì Tưởng cũng là Thọ, Thọ cũng là Tưởng. Pháp thức phân biệt về Thức cũng là Tưởng, cũng là Thọ Tưởng. Tưởng từ không Thọ. Thọ từ không Thức. Thức từ không Tưởng. Không chẳng phải là Thức không, Thức không chẳng phải là Thọ không, Thọ không chẳng phải là Tưởng không. Như dụ về cây thì điều này không đúng.
Phật dạy Ca Diếp :
- Ta sẽ đem ví dụ khác nói cho ông. Người trí theo ví dụ này đều được hiểu rõ :
Thuở xưa có vị vua tên là Đặc Dị. Vua có bốn người con : một tên Hỷ Duyệt, hai tên Trường Thọ, ba tên Bách Tuế và bốn tên Vô Úy.
Đứa con Trường Thọ ấy chưa đầy một tháng thì đã qua đời.
Đứa con Hỷ Duyệt thì thân thể mọc đầy mụt nhọt, ai thấy đều ghê gớm, cha mẹ rất lo lắng, luôn luôn buồn rầu.
Đứa con Bách Tuế thì chưa tới một trăm ngày lại qua đời.
Đức con Vô Úy thì môi sứt, mũi hỉnh, răng thì không trật tự, ai thấy đều phát sợ.
Như vậy, Thọ - Tưởng - Thức cũng thế, không khác nhau bao nhiêu.
Phật dạy Ca Diếp :
- Ta sẽ nói cho ông về Thức - Tưởng - Thọ và phân biệt từng pháp một :
Chín mươi mốt kiếp về quá khứ có vị vua tên Trí Huệ, chuyên thực hành Thập thiện, lấy chánh pháp để trị dân. Ông ta không phiền não, theo dõi ý hành của chúng sanh. Khi biết chúng sanh kia có những ý niệm không giống nhau, ông liền sai Thị thần đi tra xét đất nước. Những ai bị mù thì đưa hết họ vào cung đình. Sau khi nhận lệnh vua, vị quan Thị thần đi tuần tra đất nước và đưa được năm trăm người mù về trong sân cung điện Vua lại dắt năm trăm con voi xếp trước điện và sai mỗi người mù tự mình rờ con voi.
Những người mù khi ấy, người thì rờ vòi (mũi) voi, người thì rờ tai voi, người thì rờ đầu voi, người thì rờ chân voi, người thì rờ bụng voi, người thì rờ đuôi voi.
Vua hỏi các người mù :
- Con voi giống như cái gì ?
Người rờ vòi thì nói voi như cái sừng.
Người rờ đầu thì nói voi như cái vò.
Người rờ tai thì nói voi như cái sàng.
Người rờ bụng thì nói voi như cái giỏ tre.
Người rờ chân thì nói voi như cây trụ.
Người rờ đuôi thì nói voi như cây chổi.
Khi ấy, những người mắt sáng đứng bên cạnh thấy vậy đều cười cho những người mù kia không biết được hết tướng của con voi. Những người mù ở chỗ vắng cùng nhau bàn luận và họ đều cho mình là nói đúng rồi cùng tranh cãi. Chúng sanh kia cũng vậy, thấy pháp Thức - Tưởng - Thọ đều không giống nhau.
Phật dạy Ca Diếp :
- Ví như có người bày ra một trăm vị thức ăn, nào : tấm, gạo, đậu, lúa mạch lớn nhỏ, mè,... Người nào ăn trúng tấm, gạo thì không biết có loại thuộc đậu hay lúa mạch khác. Này Ca Diếp, đây cũng vậy, pháp Thọ - Tưởng - Thức đều khác nhau, nhưng quán về pháp của chúng thì không sai không khác.
Khi ấy, Thế tôn liền nói với Ca-Diếp bằng kệ:
Thấy trán biết có đầu
Thấy khói biết có lửa
Thấy mây biết có mưa
Quán hành biết thể tánh
Hư không không vết chân
Bóng nước không bắt được
Pháp sư nói cùng tận
Kiết sử tận Niết-bàn
Tưởng tận trong vô tưởng
Thọ diệt cũng không thọ
Thức diệt không có thức
Đạo phạm hạnh vô thượng
Ta từ vô số kiếp
Thường bị thức lừa gạt
Đời nay và đời sau
Không gặp chỗ an lạc
Hiện Ta ở trong thai
Phân biệt tướng các pháp
Không thấy tên tưởng thọ
Huống sẽ có pháp thức.
Khi Thế tôn nói kệ này có năm trăm Tỳ kheo đắc Bất khởi pháp nhẫn. Có ngàn chúng sanh tâm lạc không hành, tâm được tự tại trong cảnh giới Vô dư y Niết-bàn.
Phẩm thứ 7 : Trụ Bất Trụ
Bấy giờ, trong hội có Bồ tát tên Vô Trụ Pháp Hành đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất , chấp tay bạch trước Phật :
- Lành thay ! Lành thay ! Đại chúng trong đại hội này đều thích được thiện lợi, được nghe nghĩa pháp vô lượng của Như Lai. Những gì xưa kia con thệ nguyện, nay mới được nghe.
Và ở trước Phật nói kệ khen :
Hư không, không biên giới
Diễn giảng nghĩa vô lượng
Hữu - vô không sanh diệt
Vắng lặng không thọ tưởng
Chư Phật ở quá khứ
Tu thí, giới, nhẫn nhục
Nhập định, tâm không loạn
Huệ quang chiếu thế gian
Đức ấy không thể lường
Phi hữu cũng phi vô
Âm vọng rất thanh tịnh
Vô thường không sánh bằng
Mật âm thấu vạn ức
Do đây được thành Phật
Tiếng trống pháp nghe xa
Mỗi tiếng đều khác nhau
Giống như vua Chuyển luân
Nghĩ liền mưa bảy báu
Tiếng Phật vang rất xa
Mưa báu bảy giác ý
Sửa sang đạo tràng Phật
Trang hoàng cây quả đạo
Bất trụ không bất trụ
Từ bi cứu chúng sanh
Tâm niệm ứng với thân
Không từ nan kiếp khổ
Chỉ Như Lai mười phương
Ban ấn mở kho pháp
Chúng ta nay được nghe
Được trụ bờ vô vi
Lành thay ! Lực Như Lai
Rộng lớn không bờ đáy
Không còn chỗ mở buộc
Pháp chơn tế thật tướng
Đời phiền não cõi Dục
Giáo hóa người ngu si
Phật chứa nghĩa sâu kín
Hiện lưu bố chúng sanh
Cương giới không bờ mé
Đều đắc đạo vô thượng.
Sau khi dùng kệ khen Phật xong, Bồ tát Vô Trụ ở trước Phật thưa :
- Bạch Thế tôn ! Năm ấm quá khứ, vị lai, hiện tại thanh tịnh bất trụ hay không bất trụ, cho đến ba mươi bảy phẩm phạm hạnh bất trụ hay không bất trụ ? Cảnh giới trước, sau, giữa, cứu cánh tịnh bất tịnh không là bất trụ hay không bất trụ. Ta không tạo tác, chẳng phải không tạo tác, chẳng phạm hạnh, chẳng phải không phạm hạnh. Cúi xin đức Thế tôn nói về trụ bất trụ.
Phật dạy Bồ tát Vô Trụ :
Tướng sắc là bất trụ không phải bất trụ.
Tướng thọ là bất trụ không phải bất trụ.
Tướng tưởng là bất trụ không phải bất trụ.
Tướng hành là bất trụ không phải bất trụ.
Tướng thức là bất trụ không phải bất trụ.
Pháp bên trong thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ. Pháp bên ngoài thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ. Pháp trong ngoài thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ. Từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi nơi đạo tràng luôn đoạn trừ các vọng tưởng, làm thanh tịnh Nhất thiết trí là bất trụ không phải bất trụ.
Trừ sạch các cấu bẩn cho chúng sanh thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Nhập Kim cang tam muội, giữ ý chí kiên cố thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Làm sát na lợi thân thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Du hý trăm ngàn tam muội thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Không dừng ở địa phàm phu, không vào nhà Hiền Thánh thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Không tự khen ta đã thành đạo quả thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Ba mươi hai tướng đại sĩ, phóng ánh sáng lớn chiếu xa đến vô lượng thế giới khắp mười phương ; tất cả chúng sanh tìm đến ánh sáng ấy đều được nghe pháp thâm diệu của Như Lai ; theo ý nghĩ của họ mà có lời nói thượng - trung - hạ, khiến cho tất cả đều đầy đủ để phân biệt rõ các pháp trụ là bất trụ, mà bất trụ cũng bất trụ.
Sắc, thọ, tưởng, hành thức, mười hai nhân duyên, bốn vô ngại huệ, không, vô tướng, vô nguyện, bốn thiền, bốn vô lượng huệ thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Dùng lực thần túc vào trong năm đường thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Nhập giải thoát môn, giới thân, định thân, huệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.
Phật dạy Ca Diếp :
- Ta sẽ nói ao tám vị pháp cam lồ thanh tịnh. Thế nào là tám ? - Như Ta ngày nay ngồi tự tại nơi giảng đường, phía Đông thấy ao thanh tịnh, xung quanh có hành lang bằng bảy báu. Ngay lúc ấy, Ta cũng không nói khổ - tập - diệt - đạo cho chúng sanh. Ai uống được nước ao này thì đều thành đạo quả. Đó gọi là do thần lực của Bồ tát làm ra. Ở phương Nam, Tây, Bắc cũng như vậy.
Ta xưa thành Phật thì bốn phương theo bên phải, chứ chẳng phải theo bốn góc mà thành Phật. Bốn góc thành Phật là thị hiện thành Phật không thật. Vì sao? - Vì trải qua vô số a tăng kỳ kiếp đã thành tựu tám vị pháp. Thế nào gọi là tám ?
- Một : vị hỷ.
- Hai : vị tận.
- Ba : vị định.
- Bốn : vị đáo.
- Năm : vị tịnh.
- Sáu : vị tướng.
- Bảy : vị bất động.
- Tám : vị bất cứu cánh.
Đó là tám vị trong ao.
Nếu đại Bồ tát nào uống nước cam lồ này thì không rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sẽ thành đạo vô thượng. Từ mới phát tâm cho đến khi ngồi dưới đạo thọ rửa sạch tâm cấu bẩn, vĩnh viễn không còn gì cả. Ai có nước tám giải thoát trong ao bảy giác ý từ sơ tâm đến giải thoát : chưa đến, khoảng giữa, đã đến mà ở giữa của hai địa. Như vậy mới gọi là Bồ tát.
Nếu Bồ tát từ ao nước tám vị mà phân biệt hỏi mùi vị của nó : đây là vị chẳng phải vị, đây là đạo chẳng phải đạo, tai không phân biêt tiếng, mũi không phân biệt hương, lưỡi không phân biệt mùi vị. Phân biệt rõ ràng là vô sở hữu, vì các pháp điếc. Đó là đại Bồ tát tịnh tu hạnh thanh tịnh.
Phẩm thứ 8 : Bát Chủng Thân
Phật dạy :
- Các đại Bồ tát bậc học, vô học và bốn bộ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đến đây hội họp đều được tất cả chúng sanh cúng dường.
Hoặc có chúng sanh ở Kiến địa, Bạc địa, Tịnh địa, Như Lai địa, Bích Chi Phật địa, Bất thối chuyển địa, Đạo tràng địa, Thuyết pháp địa. Nhờ tám địa này mà thành Vô thượng Đẳng chánh giác.
Kiến địa là gì ? - Là Bồ tát phát tâm hướng lên ngôi Vô thượng Bồ-đề.
Lại có Bồ tát từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi dưới cây Thọ vương, tự điều phục tâm dục của mình, chiến thắng quân ma thì nhập định tam muội ngay chỗ ngồi. Tam muội ấy là :
- Khử tật đố tam muội
- Tâm thắng tam muội
- Bí tàng tam muội
- Trừ si tam muội
- Oai thần phục tam muội
- Như chư Phật Thế tôn vô ngôn giáo tam muội
- Thị hiện biến hóa tam muội.
Khi ấy, tệ ma Ba-tuần đến quấy nhiễu Phật. Nếu không phải sức của chính mình để đến thì đều nhờ oai thần của Như Lai ấy cảm vời ra. Vì sao ? - Vì muốn biểu hiện pháp thế tục yếu kém, còn pháp đệ nhất nghĩa thì thù thắng. Vì sao ? - Vì nếu tệ ma Ba-tuần nổi sân giận, la hét làm chấn động mặt đất thì Phật dùng Nhẫn tam muội nên không sao bị lay động, còn khiến cho vô số tệ ma Ba- tuần ngã lăn ra đất, giống như dế, đĩa, kiến và ruồi,... không thể nào hành động được. Bọn tệ ma Ba-tuần y như vậy. Nếu con ma nào có đến cũng không thể nào động đến mảy lông Ta được.
Khi ấy Thế tôn dùng oai thần nhập vào định tam muội, làm chấn động đến tệ ma trong cảnh giới của một đức Phật. Các ác ma này tuyên bố :
“Sa môn Cù-Đàm tâm rất yếu mềm, không phải ý chí của trượng phu , vậy mà ở chỗ rất đáng sợ này lại muốn cầu Phật đạo” .
Phật dạy đại chúng :
- Tệ ma Ba-tuần ấy là do Ta tạo ra. Tâm ma ấy là tâm thiện hay tâm ác ?
Lúc đó có vị trời tên Câu Tỳ, bạch Phật :
- Phật chiến thắng ma không phải là lực của ma, mà là thần lực của Phật. Vì sao ? - Vì loài chúng sanh ấy không hiểu pháp thế tục mà lại dùng pháp đạo. Vì muốn giáo hóa các chúng sanh ấy nên Ngài chiến thắng cho ma đến. Trong đó chúng sanh thấy các ma, lòng không ưa thích nhìn thấy rõ ràng sự việc. Cả ngàn vạn chúng sanh lập tâm bất thối chuyển.
Lại nữa, đại Bồ tát từ Đao Lợi thiên sanh vào mười phương cõi, không sanh theo thấp sanh, noãn sanh, hóa sanh, thai sanh giáo hóa chúng sanh. Những Bồ tát này thành tựu căn vô ký nên chúng sanh được giáo hóa cũng thành tựu căn vô ký. Vì sao ? - Vì là cảnh giới Phật A-Súc.
Hoặc có đại Bồ tát từ thế giới Nhẫn sanh vào cõi Phật Bắc Phương Quang Ảnh, thành tựu căn hữu ký và vô ký. Chúng sanh được giáo hóa cũng đều thành tựu căn hữu ký và vô ký. Đó là chúng sanh ở cõi Phật Diệu Quang của thế giới Dục Lạc.
Hoặc có đại Bồ tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, giữ tâm một bề không có tư tưởng nào cả và không sân, không giận, mong muốn sanh vào cõi Phật Vô Lượng Thọ. Tất cả chúng sanh đều sanh vào cõi đó. Bốn bộ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đều cùng một màu vàng ròng.
Về phương Tây, cách Diêm Phù Đề này mười hai ức na-do-tha có cõi nước tên Giải Mạn, dân trong quốc độ ấy ưa thích ca hát ; y phục, trang sức, hương hoa, trang hoàng giường cửa bằng bảy báu. Đưa mắt về phía Đông thì giường báu cũng chuyển theo, nhìn về phía Tây, Nam, Bắc đều cũng chuyển như vậy. Tất cả chúng sanh đều phát tâm muốn sanh về cõi Phật A-Di-Đà, nhưng họ đều bị đắm nhiễm vào cõi Giải Mạn nên không thể nào tiến lên để sanh vào cõi Phật A Di Đà. Trong ức ngàn vạn người có một người có thể sanh vào cõi Phật A Di Đà. Vì sao ? - Vì tâm họ không chấp trước, giải đãi, ngã mạn. Những chúng sanh này tự mình không sát sanh, cũng không bảo người khác sát sanh. Do có những phước báo như vậy nên họ sanh vào cõi Vô Lượng Thọ.
Hoặc có đại Bồ tát đầy đủ sáu độ : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và giải thoát trí huệ, sanh vào cõi Phật Dõng Dước ở phương Nam, cách Diêm Phù Đề này một ức cõi Phật. Những chúng sanh ấy không có tư tưởng si, ái, dâm, dục. Vì sao ? - Vì họ đã đoạn diệt hết ba mươi sáu hành động dâm dục ở cõi Dục, chủng tánh được thành tựu, việc làm đều thanh tịnh, giống như ánh sáng mặt trời không bị mây che.
Chúng sanh cõi này hành mười hai hạnh đầu đà. Mười hai hạnh ấy là gì ? - Là ngày đêm ba thời, kinh hành, ngồi thiền không sai giờ giấc, ngồi dưới gốc cây, ở trong gò mã, ở nơi đất trống, ở chỗ hang đá không có người , sống chỗ nguồn suối, có lúc ăn một bữa, không ăn, mặc pháp phục tề chỉnh không mất oai nghi, có lúc nói pháp, có lúc không nói pháp, kinh hành xoay vòng biết vừa đủ, pháp để nói là : “Thiểu dục là chơn đạo, đa dục là phi đạo, dừng tâm định ý, hiểu pháp không - vô tướng - vô nguyện” . Đó là những sự tu hành của đại Bồ tát ở cõi Dõng Dước. Chúng sanh ấy chuyên học về Nhất thừa, không có La-hán, Bích Chi Phật thừa, có đầy đủ tướng tốt, ca ngợi chánh pháp, hiểu về không, vô ngã.
Khi ấy, Thế tôn liền nói kệ :
Tất cả hành đã diệt
Thức là pháp bên ngoài
Có sanh đều có diệt
Niết-bàn rất an lạc
Cúi lạy Phật Dõng Dước
Đấng pháp vương đệ nhất
Ngồi dưới cây Diêm Phù
Ban đầu phá lưới dục
Nói pháp độ quần sanh
Cúng dường các ruộng phước
Ngồi dưới cây tư duy
Phạm thiên đến khuyến thỉnh
Xin Ngài ra khỏi thiền
Thương xót kẻ ngu si
Khi ấy Phạm Thiên Vương
Tay cầm đàn lưu ly
Ca ngợi công đức Phật
Giọng êm ả dịu dàng
Với ức trăm ngàn kiếp
Có người phát tâm đạo
Tâm đạo gốc Bồ tát
Ức kiếp có một lần
Xin mau ra khỏi thiền
Chuyển pháp luân vô thượng
Như hoa Ưu-đàm-bát
Lâu xa có một lần
Có Phật chiếu thế gian
Trừ tăm tối trần lao
Thế giới Phật Dõng Dước
Nghe thí, giới thanh tịnh
Không giống cõi Năng Nhẫn
Cứng cõi khó giáo hóa
Tư duy đạo thiền định
Diệt thân không thọ chứng
Ba chuyển, năm ngại pháp
Dây mười hai mắc xích
Đạo nghiệp ba mươi mốt
Mười sáu tâm từ bi
Tỏa phóng ánh sáng lớn
Chiếu khắp các cõi Phật
Sau khi nói kệ xong, đức Phật dạy đại chúng trong hội :
- Về phương Đông-bắc, cách thế giới Năng Nhẫn này năm trăm hằng hà sa cõi có nước tên Quả Thục, Phật hiệu Hoa Anh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn, hiện đang giảng pháp, lời nói đầu đều thiện, lời nói giữa đều thiện, lời nói cuối cũng đều thiện, ý vị thâm thúy, đồng tu phạm hạnh. Chúng sanh cõi ấy không có thai sanh, hóa sanh, thấp sanh và noãn sanh. Tất cả đều sanh từ hoa sen, có từ - bi - hỷ - xả, một trăm lẻ bảy thần túc định ý khó có và đều cùng nhau tu tập tam muội Vương tam muội. Tam muội ấy là :
- Thủ Lăng nghiêm tam muội
- Giác đạo tam muội
- Oai nghi cấm giới tam muội
- Trừ chúng sanh khổ bổn tam muội
- Tự chiếu quang minh tam muội
- Giác vị chúng sanh tam muội.
Một trăm lẻ bảy tam muội như vậy.
Quán thân bên trong, quán thân bên ngoài, quán trong ngoài thân ; pháp trong, pháp ngoài, pháp trong ngoài ; định trong, định ngoài, định trong ngoài ; tư duy phân biệt, quán rõ vô hình, vô tưởng, vô niệm. Đại Bồ tát nhập vào môn giải thoát, quán tất cả pháp đều không tịch, vô hình.
Bấy giờ, Thế tôn liền nói kệ :
Hư không, không biên giới
Âm vang nói diệu pháp
Bồ tát cõi Quả Thục
Đấng tối thắng Hoa Anh
Không sanh bốn bào thai
Mà sanh từ hoa sen
Tưởng không ta không người
Tuổi thọ không thể lường
Quốc độ bằng bảy báu
Cũng như Diêm Phù Đề
Vua Chuyển luân bảy báu :
Voi, ngựa, ngọc nữ báu
Giữ kho, bốn bộ binh,
Ma ni, xe báu vàng
Đi đâu cũng không ngại
Ma ni báu cõi ấy
Chiếu khắp một cõi Phật
Chiếu vô biên cũng vậy
Cõi ấy không nhật nguyệt
Tinh tú và lửa sáng
Phân biệt bốn diệu đế
Đạo vô thường, khổ, không
Khiến các chúng sanh ấy
Vô sanh đoạn diệt tưởng
Nói kệ xong, đức Phật dạy đại chúng :
- Về phương Tây-bắc, cách Diêm Phù Đề này bảy vạn hằng hà sa cõi, có cõi nước tên Bảo Lưu Ly, Phật hiệu Huệ Thành Tưu, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn hiện đang nói pháp, lời nói đầu thiện, lời nói giữa thiện, lời nói cuối thiện. Chúng sanh cõi ấy có tánh nhu hòa, quán đạo vô thường, xa lìa ba tai hại, không dâm - nộ -si, không có ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Bấy giờ Thế tôn nói kệ với đại chúng:
Các nhập đường phiền não
Gây bốn loại điên đảo
Tất cả đều diệt tận
Như hư không không tướng
Tuổi thọ đến vô số
Không có ai chết yểu
Hành bốn pháp vô úy
Chứng quả không lay động
Ai sanh trong cõi ấy
Hành từ chứng tam muội
Như Ta - Thích Ca Văn
Dõng mãnh vượt kiếp số
Cho nước, của, vợ con
Không tưởng, không luyến tiếc
Này Phật tử các ông
Phát nguyện sanh cõi ấy
Không có pháp Thanh văn
Rõ nhân duyên thành Phật
Ở trong trăm ngàn kiếp
Siêng năng tu đạo đức
Trong mười sáu phần này
Chưa đạt được một phần
Quán tánh pháp các pháp
Huệ thông đạt vô ngại
Diệt sạch tâm chấp ngã
Liền trụ địa Vô sanh
Các chúng sanh cõi ấy
Lập chí rất kiên cố
Phá hữu, không trụ hữu
Pháp bổ xứ đã học
Này Phật tử các ông
Hiểu rõ không chỗ hành
Xả thiền, nhập Sơ thiền
Mới biết khổ chúng sanh
Trung gian chín vô ngại
Tướng thiền không thể lường
Tâm chúng sanh thanh tịnh
Ý niệm không giống nhau
Đã lìa vực năm đường
Phật nhật chiếu ba cõi
Lành thay được lợi lớn
Cảm động các cung trời
Đồng chơn Nhất thiết trí
Giáo hóa không mỏi mệt
Chúng sanh đắc tâm từ
Luyến mộ đạo vô thượng
Trải qua vô số kiếp
Bỏ thân, lại thọ thân
Luân hồi trong sanh tử
Được thoát khỏi trói buộc
Hương chiên đàn tứ đế
Hương cây Mật-tế-bặc
Sức trí huệ tam muội
Phá hoại chúng binh ma
Hết một niệm quá khứ
Lấy tam muội gì đoạn
Hết hai niệm vị lai
Trừ bằng định, đạo nào
Hết ba niệm hiện tại
Diệt tận cốt còn gốc
Hết một niệm quá khứ
Chín vạn ức trần cấu
Do không tịch tịnh định
Đạt đến không, không bờ
Vị lai dứt chín kiết
Tâm định không niệm tưởng
Tịch nhiên đạt Phật đạo
Luôn trụ vô sở trụ
Ba chín kiết hiện tại
Cầu pháp vô quái ngại
Diệt trừ tâm ý thức
Dần dần trụ vô ngại.
Nói kệ xong, đức Phật dạy đại chúng :
- Về phương Tây-nam, cách thế giới Năng-Nhẫn này ba mươi hai hằng hà sa cõi, có nước tên Vô Tưởng, Phật hiệu Nhất Trụ Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn, hiện đang nói pháp, lời nói đầu đều thiện, giữa đều thiện, cuối đều thiện, ý nghĩa thâm thúy, phân biệt rõ về năm ấm : sắc - thọ - tưởng - hành - thức, sáu tình, sáu trần, tu tướng vô thường, chánh niệm tỉnh thức. Pháp ban đầu là tư duy phá hoại về thân. Thân này chẳng thật có, cho bốn con rắn là nhà. Thân này như độc làm hoại đạo thiền của con người. Thân này như voi, tâm không vừa đủ. Thân này như rồng thích ở vực sâu. Đạo Phật vô vi, thanh tịnh không tỳ vết, như hoa sen trong nước mà không nhiễm bùn dơ, như mặt trời chiếu trời đất làm che lấp tất cả ánh sáng của đom đóm. Trong các núi cao, núi Tu Di là trên hết. Trong ánh sáng của các vì sao thì ánh sáng mặt trăng là trên hết. Như Lai hiện ra đời vì đuốc pháp là đệ nhất.
Khi ấy, Thế tôn nói kệ :
Đoạn cấu, diệt trừ tưởng
Tâm trói buộc được mở
Ý niệm định tịch nhiên
Tịnh hạnh được đầy đủ
Trong một ý một niệm
Đoạn diệt cấu kiết sử
Trừ bỏ hẳn kiếp khổ
Chấm dứt không tái sanh
Đạo không tịch vô thượng
Như có, như không có
Người, ta và các pháp
Tưởng như mộng, ảnh, huyễn
Bồ tát tu khổ hạnh
Kiếp số khó lường được
Muốn nói hết căn bổn
Chẳng một, chẳng hai hình
Nếu có người trí tuệ
Giảng nói vô lượng nghĩa
Một nghĩa có ức câu
Mỗi câu đều khác nhau
Hư không lấp đầy được
Nhưng nghĩa ấy không cùng
Ta từ xưa đến nay
Hành sáu độ vô cực
Bố thí trừ xan tham
Thiền định cũng như vậy
Kiếp thiêu, tâm không động
Không đến cõi Phật khác
Nhờ thần lực cảm vời
Trụ kiếp mà giáo hóa.
Nói kệ này xong, Thế tôn liền dùng định ý để tự trang nghiêm thân, nói với đại chúng :
- Về phương Đông-nam, cách thế giới Năng Nhẫn này Ba mươi ba hằng hà sa cõi, có cõi nước tên Lưu Ly, Phật hiệu Tín Giải Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn hiện đang nói pháp, lời nói đầu đều thiện, giữa đều thiện, cuối đều thiện, phân biệt hạnh kiết tường của bốn đạo. Bảy lần sanh, còn lại ba lần không sanh trở lại thì ở ngay hiện đời mà bát Niết-bàn, đoạn khổ - tập - diệt - thủ đạo chứng đắc.
Khi ấy, có vị trời tên Nhãn Tịnh ở trong chúng còn hồ nghi : “Nay ta nên hỏi Như Lai về ý nghĩa đó để cho bạn đồng tu của mình đều được khai ngộ”. Thế rồi thiên tử đứng dậy, quỳ dài chấp tay bạch trước Phật :
- Cúi xin đức Thế tôn nói cho chúng con về nghiệp dâm - nộ - si của đại thừa bình đẳng. Quá khứ, vị lai, hiện tại những chúng sanh si ám nào nhập vào môn giải thoát ?
Phật dạy Bồ tát Nhãn Tịnh :
- Lành thay ! Lành thay ! Đây chính là con mắt khai thị tất cả. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ. Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông. Thế nào, nhãn là sắc phải không ?
Thưa :
- Không phải .
Phật lại hỏi :
- Là phi sắc ư ?
Thưa :
- Không phải.
Phật hỏi :
- Là sắc, là phi sắc ư ?
Thưa :
- Sắc không có chỗ trụ.
Phật dạy Bồ tát Nhãn Tịnh :
- Như vừa rồi ông nói : sắc ấy chẳng phải sắc, là sắc, là phi sắc, sắc không có chỗ trụ thì vì sao đặt danh từ để nói là sắc ?
Bồ tát Nhãn Tịnh thưa :
- Tánh sắc hư mục, hiện tại diệt không trụ, quá khứ không hiện. Đời này qua đời sau vĩnh viễn đoạn tận không còn nữa, cho nên nói Vô-dư Niết-bàn.
Phật hỏi Nhãn Tịnh :
- Thức này từ xưa đã có hay từ đâu sanh ? Ngày nay bốn chúng diệt cấu bẩn ba đời, vậy thì đi về đâu ?
Nhãn Tịnh thưa :
- Xưa vốn từ không mà đến, nay trở về không. Trước không, sau không thì có thay đổi gì khác không ?
Phật dạy :
- Không. Ông nên biết rằng: thật tướng của các pháp trước không thể cùng, sau không thể tận.
Phật dạy Bồ tát Nhãn Tịnh :
- Ta từ vô số a tăng kỳ kiếp luôn tu hành phước nghiệp, nghĩ đến tất cả chúng sanh bị đắm chìm mà thương xót cho sự đau khổ của họ, muốn độ họ giải thoát. Vì sao ? - Vì nay ở trong thai, dục mà Ta diệt thì Ta đã diệt sạch hoàn toàn, kết quả nguyện thành ngày nay đã đạt được.
Chúng sanh cõi ấy không lấy việc thành Phật hay không thành Phật cho đây là mối khổ lụy. Vì sao - Vì chúng sanh cõi ấy lập ý dõng mãnh, không ở hữu thai, không ở vô thai, không ở hóa sanh, công đức thành tựu, chẳng phải giác, chẳng phải phi giác.
Thế nào là giác và thế nào là phi giác ?
- Tất cả chúng sanh ngu si Ta đều giác ngộ cho ho, đó gọi là giác. Tất cả những người giác ngộ đoạn trừ hết kiết sử, đó gọi là phi giác.
Khi ấy, Thế tôn nói kệ :
Biết Phật hiện nơi đời
Phóng xa ánh sáng lớn
Khổ tập diệt kiết sử
Đứng yên không dám gần
Giả sử đất chấn động
Ba cõi nát như bụi
Nhiếp tâm nhập định ý
Các tướng đều khác nhau
Niệm Như Lai chí chơn
Trừ tưởng không nhập định
Vào trở lại chúng sanh
Tạo nhân lại tạo duyên
Tinh tấn trí huệ lớn
Giáo hóa kẻ ngu si
Hướng dẫn chúng sanh này
Để độ kẻ chưa độ.
Phẩm thứ 9 : Toàn Thân Xá Lợi
Khi ấy, đức Thế tôn dạy đại chúng :
- Ta nhớ công đức mà xưa kia Ta đã hành xả thân lại thọ thân chẳng phải một chẳng phải hai. Nay Ta sẽ nói cho ông về pháp nhất hành. Sao gọi là pháp nhất hành ?
- Đại địa chủng này dày tám mươi bốn vạn ức dặm mới có gió lớn dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới gió có lửa dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới nước có lửa dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới lửa có cát dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới cát có cõi Kim cang dày tám mươi bốn vạn ức dặm. Toàn thân xá lợi của chư Phật đều trong cõi Kim cang ấy.
Cõi Kim cang dày tám mươi bốn vạn ức dặm, phía dưới có xá lợi thân vụn nát của chư Phật đều ở trong cõi ấy. Cõi ấy có cõi Phật Diệu Âm, Phật hiệu Bất Trụ Như Lai, đầy đủ mười hiệu, hiện đang thuyết pháp, lời nói đầu đều thiện, lời nói giữa đều thiện và lời nói cuối đều thiện ; tịnh tu phạm hạnh, thành tựu quốc độ. Xá lợi Phật ấy rất cực nhỏ, có thể hiện thân Phật có quyến thuộc đệ tử vây quanh để giáo hóa. Như ngày nay Ta ở trong thai giảng pháp, chúng sanh ấy không thấy Ta. Chúng sanh của Ta không thấy cõi kia, phá Hữu đến Vô, luôn luôn vắng lặng, tánh trụ vào chỗ vô ngại. Đó gọi là do một xá lợi chiêu cảm ra.
Phật lại dạy các đại chúng :
- Phía dưới thân vụn xá lợi dày tám mươi bốn vạn ức dặm có cõi tên Thanh Tịnh, Phật hiệu Biến Quang, có đầy đủ mười hiệu. Phật ấy hiện đang thuyết pháp, đầu giữa cuối đều thiện, tịnh tu phạm hạnh. Mỗi màu sắc ánh sáng của Phật ấy khác nhau, mỗi ánh sáng đều hóa thành mỗi đức Phật, mỗi đức Phật đều nói hết sáu độ vô cực.
Sáu độ đó là gì ? - Là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ ; dùng phương tiện thiện xảo điều phục tâm thức, không ngu si, không dâm, không ham muốn ; quán sát rất rõ về các pháp giống như trăng xua tan mây ; tự quán thân mình như ta không khác, tâm đắc không định, đều được thành tựu tất cả ; ngồi ngay thẳng nơi đạo tràng, ca ngợi xiển dương chánh pháp, tâm không sợ hãi.
Cách cõi Phật Quang Minh này về phương dưới tám mươi bốn vạn ức dặm có cõi tên Thí Vô Tận Tàng, Phật hiệu Quán Trợ Như Lai, đầy đủ mười hiệu hiện đang thuyết pháp, lời nói đầu giữa cuối đều thiện, luôn tu phạm hạnh, bố tí tài vật. Người nào tuân theo đều đắc đạo quả. Đó gọi là sự bố thí hiếm có của Như Lai.
Dưới thế giới Vô Tận có thế giới Pháp Cổ dày tám mươi bốn vạn ức dặm, Phật hiệu Thiện Kiến, đầy đủ mười hiệu, hiện đang giảng pháp. Chúng sanh cõi Phật ấy không có nhiều tên, đều cùng một chữ, một họ ; nghe pháp hiểu ngay không cần phải suy nghĩ lại. Chính cõi ấy mới có toàn thân xá lợi. Ức ngàn vạn đức Phật ở quá khứ đều lưu xá lợi lại nơi đây. Xá lợi ở cõi ấy Ta cũng có phần, chẳng phải một chẳng phải hai. Xá lợi Phật ấy không có trụ xứ, cũng chẳng phải không trụ, qua lại xoay vần trong hằng hà sa cõi ; tướng ánh sáng đầy đủ, theo căn cơ chúng sanh mà giáo hóa, không có ai biếng nhác, đoạn diệt ba mươi mốt ức kiết sử và hai vạn hai ngàn vọng tưởng ràng buộc ; có mười tám pháp bất cộng thù thắng, thị hiện giáo hóa, thọ chứng Vô úy.
Khi ấy Thế tôn nói kệ :
Ta từ vô số kiếp
Qua lại đường sanh tử
Xả thân lại thọ thân
Không lìa sanh bào thai
Nghĩ việc Ta trải qua
Nhớ rõ không sai sót
Thường làm thân chó trắng
Xương chất ức Tu-Di
Lấy kim đâm xuống đất
Đều gặp thân thể Ta
Huống gì chó màu khác
Số ấy không thể lường
Ta luôn nhiếp tâm mình
Không cho nó buông lung
Như người đứng Tu Di
Giữ bình thuốc bất tử
Người ở dưới nâng bình
Rót thuốc không rớt ngoài
Trong lúc gian nan ấy
Bị thổi theo gió núi
Thân phàm phu như bụi
Chỉ trừ người Bát trụ
Hai người giữ bình này
Ai là người tối thắng
Người ở dưới chánh niệm
Luôn sợ ngã hai bên
Thọ lạc không mất nghĩa
Nên gọi đạo thần túc
Người trên đại từ bi
Nói ngay không tra cứu
Ý thức đều khác nhau
Thành đạo cũng như vậy
Ta ở cõi khổ nhẫn
Thành Phật giống người dưới
Tích hạnh A tăng kỳ
Mới đạt thành Phật đạo
Cõi này đến cõi kia
Trải ngàn ức như vậy
Như kim quăng xuống biển
Thò tay liền lấy được
Không huệ cầu tháo nước
Nhiều kiếp không lấy được
Người ngu si thế gian
Không phân biệt thiện ác
Núi Tu Di bốn báu
Nói là đống than khói
Đại bàng vua loài chim
Lại cho là ve, muỗi
Trùng ở dấu chân bò
Không thấy biển rộng lớn
Nhật quang là ngựa hoang
Người ngu cho ngọn lửa
Pháp ấy Ta đâu tạo
Người ngu tự làm ra
Thức ra vào liên tục
Tinh luyện thuật đạo thành.
Khi ấy, Thế tôn liền đọc chú :
- Y nhĩ ma nhĩ, trà thệ ly thệ thuần đồng xí ly xí ly.
Bấy giờ, Đại Thiên Vương Tỳ sa Môn liền đứng dậy, đầu mặt đảnh lễ chân Phật, thưa :
- Con luôn ủng hộ thiện nam, thiện nữ, người thiện hành pháp, ủng hộ ba ánh sáng ba bóng của thân người ấy. Ba ánh sáng ba bóng là gì ? - Như ngày nay con thống lãnh chúng La-sát, là bóng của thân, bóng thân của thân, bóng của bóng. Ảnh của thân là gì ? Bóng thân của thân là gì ? Bóng của bóng là gì ?
Khi ấy Thế tôn nói kệ :
Thân do bốn đại hợp
Địa, thủy, hỏa, phong thành
Qua lại ở xoay vần
Ở cũng không thấy ở
Thân và thân của thân
Hết đời lại thoát thân
Nghĩa ba câu bóng bóng
Như Phật lưu thần quang
Vải gói thuốc Ma-kỳ
Cách xa mùi vẫn thơm
Pháp giải thoát của Phật
Thanh tịnh không tỳ vết
Bóng thân thân giáo hóa
Độ người không được độ
Ai thấy pháp thân tướng
Nhập định niệm thân thân
Bóng bóng không hồ nghi
Đều thành đạo Vô thượng.
Khi ấy, Đề Đầu Lại Tra muốn ủng hộ các Pháp sư liền nói chú :
- Y hê, ma hê, Diêm phù, Diêm lam phù đột đột lặc xí. Ta sẽ ủng hộ Pháp sư trong ức ngàn trăm vạn do-tuần để không có ai quấy nhiễu vị ấy được.
Tỳ Lâu lặc Xoa thiên vương liền đứng dậy thưa trước Phật :
- Con cũng sẽ ủng hộ Pháp sư chân thật.
Và liền nói chú :
- Già lê, già lê, ni trĩ, cứu bát trĩ , làm cho trong ức trăm vạn do-tuần không có ai làm hại quấy nhiễu cả.
Tỳ Lâu Bác Xoa Vương liền đứng dậy, đầu mặt lạy sát chân Phật và thưa :
- Bạch Thế tôn ! Con sẽ ủng hộ vị Pháp sư chân chánh.
Và liền nói chú :
- Xá nhĩ, xá nhĩ, bát bà thiên ma lâu hê, khiến cho trong trăm ức do-tuần không có ai đến quấy nhiễu.
Bấy giờ, Thế tôn liền nói kệ :
Hoa thơm sắc tuyệt đẹp
Cảm động các cõi Phật
Do Phật không tưởng niệm
Thành Phật luôn hướng đạo
Sức nhẫn không biên giới
Phá hữu - vô ba thừa
Tướng toàn thân xá lợi
Rất nhỏ như bụi trần
Cứu giúp cả hằng sa
Không đọa ba đường ác
Phật hiện kiếp cần khổ
Che chở hành đại bi
Chúng sanh không biên giới
Để thành đạo vô thượng.
Khi ấy, trong đại hội có ba mươi hai ức chúng sanh liền phát tâm Vô thượng bình đẳng.
Phẩm thứ 10 : Thường - Vô Thường
Bấy giờ, trong đại chúng có Bồ tát tên Quán Kiến Vô Thường đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:
- Lành thay ! Lành thay ! Bạch Thế tôn! Ngài hãy mau nói nghĩa này. Chánh pháp của chư Phật không thể nghĩ bàn. La-hán, Bích Chi Phật không thể nào theo kịp. Vốn nó không có chơn tánh, không thể cùng tận. Như Lai hiện thân ra một vào một, biến hóa đủ cách, khi làm nát thân xá lợi, hoặc giữ toàn thân xá lợi, hoặc ẩn mất không hiện, hoặc lưu bố trong thế gian, hoặc hiện cảnh giới một đức Phật, hoặc hiện rất nhiều cảnh giới chư Phật, thần thông biến hóa, đạo lực tự tại, kỳ lạ đặc biệt như cõi hư không. Thường cũng là vô thường, vô thường cũng vô thường. Trụ cũng vô trụ, vô trụ cũng vô trụ. Biến đổi chẳng phải một. Nguyện muốn nghe Như Lai nói về nghĩa thường, vô thường. Như ngày nay con ở trong cửu địa là thường hay vô thường ?
Khi ấy, Thế tôn dạy Bồ tát Thường Vô Thường :
- Nay Ta hỏi ông, ông hãy đem tánh chân thật để trả lời cho Ta. Thế nào, này tộc tánh tử! Sắc là thường phải không ?
Trả lời :
- Thưa không.
Thế tôn hỏi :
- Sắc là vô thường phải không ?
Trả lời :
- Thưa không.
Thế tôn hỏi :
- Sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường , phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Thế nào, này tộc tánh tử ! Sắc là hữu dư phải không?
Trả lời:
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Sắc là vô dư phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Sắc là hữu dư, vô dư phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Sắc chẳng phải hữu dư, chẳng phải vô dư, phải không ?
Trả lời :
- Thưa không.
Phật dạy:
- Tộc tánh tử ! Thọ - tưởng - hành - thức là thường phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Thọ - tưởng - hành - thức là vô thường phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Thọ - tưởng - hành - thức là thường, là vô thường phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Thọ - tưởng - hành - thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Thọ - tưởng - hành - thức là hữu dư phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Thọ - tưởng - hành - thức là vô dư phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Thọ - tưởng - hành - thức là hữu dư vô dư phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Thọ - tưởng - hành thức chẳng phải hữu dư chẳng phải vô dư, phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Phật hỏi Bồ tát Thường Vô Thường :
- Niết-bàn là tịnh phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Niết-bàn là bất tịnh phải không ?
Trả lời :
- Thưa không .
Thế tôn hỏi :
- Niết-bàn là tịnh bất tịnh phải không ?
Trả lời :
- Thưa không.
Phật dạy Bồ tát Thường Vô Thường :
- Thật tánh của Niết-bàn thật sự đứng ở chỗ nào :
Trả lời :
- Đứng mà không có chỗ đứng.
Phật hỏi :
- Phi hữu chúng sanh, phi vô chúng sanh phải không ?
Trả lời :
- Thưa không.
Phật dạy :
- Duyên vị đoạn từ năm tụ tánh cho đến ba mươi bảy phẩm, không, vô tướng, vô nguyện.
Duyên vị đoạn không lìa, chẳng phải không lìa, không sanh chẳng phải không sanh, cho nên đứng mà không có chỗ đứng.
Vì sao ? - Vì tánh tự nhiên là không. Đây không, kia không, trong không, ngoài không, Niết-bàn không. Như Lai xuất hiện nơi đời năm trược không thấy có sanh diệt chấp đoạn. Không thấy có định có loạn. Không thấy trì giới phạm giới. Không thấy có nhẫn có sân. Không thấy tinh tấn giải đãi. Không thấy có phiền não định tâm (ý). Không thấy có ngu si trí tuệ. Không thấy có ý thức tư tưởng. Không thấy đạo - tục - ba la mật. Không thấy cõi Phật thanh tịnh. Không thấy tịnh tu đạo tràng. Không thấy có chúng sanh đoạn cấu. Đó gọi là Bồ tát đứng mà không có chỗ đứng.
Khi ấy, Thế tôn nói kệ :
Phạm hạnh tâm thanh tịnh
Phá hoại cảnh giới ma
Ức nhẫn đạo vô thượng
Yên định không nghĩ bàn
Ta từ vô số kiếp
Luôn đứng không chỗ đứng
Một lòng nhập không huệ
Thân trang nghiêm các tướng
Đương lai tộc tánh tử
Và những người hiện tại
Sẽ đứng không chỗ đứng
Hiểu tánh thường vô thường
Các trần các chướng ngại
Hoại nghiệp thiện của Ta
Rửa sạch hết trần cấu
Như vàng không tỳ vết
Huệ là tướng thế gian
Hướng dẫn người mắt mù
Khiến cho người ngu si
Hiểu rõ pháp chơn như
Đạo nhân duyên vô vi
Thông đạt sáu thần thông
Kho đại pháp vô tận
Ban bố người thấp kém
Thích thọ ba giải thoát
Ba đời không chấp trước
Hiện tại tất cả pháp
Hết cấu, nhập định Phật
Đại huệ quang Như Lai
Đoạn trừ pháp nghi ngờ
Tướng si trong lặng tịnh
Hiểu đạo không,vô thường
Bao nhiêu người cho thường
Dính chặt trong sanh tử
Không lìa pháp hữu vi
Bị phiền não trói buộc
Pháp sáu độ ba tuệ
Trân báu và vợ con
Dứt ái không thương tiếc
Xuất gia đạt thành đạo
Người có niệm thiện ác
Những hạng sơ, trung, hạ
Luân chuyển trong năm đường
Tánh sanh diệt không thật
Khổ vốn vô lượng số
Đời đời không dừng nghỉ
Trống pháp vang ngàn cõi
Chấn động cảnh giới ma
Loài quần sanh các ngươi
Nương tựa sáu thần thông
Thân tùy theo tâm niệm
Đến chỗ không chướng ngại
Năm tháng tu đạo hạnh
Ngày đêm không trái thời
Chứa đức như Tu Di
Thành tựu chứng quả Phật
Sanh diệt như huyễn hóa
Cũng như bóng trong gương
Thọ nhập ba mươi sáu
Nhập định mới thành đạo
Tánh chơn thật Như Lai
Không nhiễm không chấp trước
Hành từ vượt bảy độ
Các báu tự anh lạc
Ba mươi hai ức kiết
Trói buộc không thể mở
Cốt dùng kiếm trí huệ
Chặt đứt không còn gì
Lại lấy tám giải thoát
Như vị pháp cam lồ
Để kẻ khát ái kia
Sung mãn không còn nghĩ
Xưa Ta chưa thành thiền
Luôn ở trong ngu si
Kết chặt bốn điên đảo
Cầu giải thoát khó được
Nhập Tứ vô ngại thiền
Tự tại không sợ sệt
Định tâm ý vững chắc
Tận đời không tái sanh.
Khi Thế tôn nói kệ xong, có tám mươi bốn ức chúng sanh phát tâm đạo chánh chơn vô thượng, đối với tín hành không thối chuyển.
BỒ TÁT XỬ THAI
Hết quyển 3

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 7 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.227.0.21 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập