Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Nguyên Chiếu
Cõi Ta-bà ô nhiễm, muôn loài chúng sinh cùng chung ở; miền Lạc Bang thanh tịnh, các bậc Thượng thiện thảy đồng cư. Biết là rừng gai[1], thai ngục[2] nên quyết chí vĩnh viễn xa lìa; cõi báu[3], ao vàng[4] cần lắng tâm một đường về thẳng. Lời Thế Tôn (triều âm[5]) hết lòng khen ngợi cõi Lạc Bang, đều chép khắp trong kinh điển; việc đại chúng chuyên tu chứng đắc tòa thượng phẩm, được ghi nhiều trong sử truyện. Bởi vì căn cơ chúng sinh có nhiều khác biệt, cho nên phương tiện giáo hóa cũng lắm pháp môn. Hoặc thời khóa mật chú, hoặc chuyên niệm danh hiệu Phật, hoặc định thời gian tọa thiền, hoặc trường trai giữ giới v.v…, mỗi mỗi đều hợp thời tiết và căn cơ, tất cả được ghi rõ trong khắp kinh sách. Song, chỉ có pháp quán chân chánh này mới hoàn toàn đạt đến vô sinh. Thật là pháp môn nhiệm mầu để trừ nghi dẹp chướng, là phương thuốc thần diệu để trường sinh bất tử vậy!
Xét kỹ, từ xưa người tụng đọc rất nhiều, đến nay kẻ thích nghe cũng không ít. Từ nhỏ, kẻ hèn tôi đã sớm nghiền ngẫm văn này, nên chẳng còn than dài vì muôn kiếp trước không biết lối về, mà lại rất vui mừng, từ đây về sau đã có chỗ qui hướng. Thế nhưng, các Luận sư biên soạn, mỗi mỗi đều chuộng một tông chỉ riêng, khiến người học đời sau khi xem đọc chẳng rõ hướng hành trì. Vì lẽ đó, nên tôi xét kỹ những danh lý[6], đối chiếu cổ kim, chọn lấy những điều hay tốt, lược bỏ những ý rườm rà, chỉ thuật lại chứ không trước tác, nào dám khinh thường những bậc tiền nhân, hệ thống tất cả lại cho có tông chỉ, ngõ hầu lưu lại cho người học đời sau. Văn tuy ngắn gọn, nhưng ý thú ở chỗ hành trì. Muốn thấy được mặt trăng phải nương theo ngón tay, thấy được trăng rồi thì không nên chấp vào ngón tay; muốn qua được bờ kia cần phải nhờ đến thuyền, qua được bờ rồi thì hãy bỏ thuyền lại.
Thương xót chúng sinh đời vị lai, để khỏi phụ lời thỉnh cầu của hoàng hậu Vi-đề-hi; kính vâng lời di chúc thuở xưa, nào dám quên ân trùng tuyên của tôn giả A-nan-đà.
Mong rằng những lời trình bày trên đây sẽ trợ giúp cho hành giả được vãng sinh Cực Lạc vậy!
Giải thích kinh này, trước tiên nêu ra nghĩa môn để biết rõ được đại ý, rồi sau mới giải thích nghĩa văn kinh. PHẦN NGHĨA MÔN
Nghĩa môn được chia làm bốn phần:
- Lý do khởi giáo.
- Phạm vi giáo pháp bao trùm.
- Xác định tôn chỉ.
- Phân biệt dị đồng.
I. LÝ DO LẬP GIÁO
Có hai phần:
- Nêu chung lý do một đời lập giáo của Đức Phật.
- Nêu riêng lý do lập giáo của kinh này.
I.1. LÝ DO VỀ MỘT ĐỜI LẬP GIÁO
Đức Đại Giác Thế Tôn từ Bản địa mà hiện Thùy tích[7] vì muốn khai thị cho chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật[8]. Thế là Ngài nương thời cơ thị hiện mà thực hiện việc độ sinh, tạo nên một công nghiệp vĩ đại.
Kinh ghi: “Tất cả các việc chư Phật làm đều chỉ vì một việc, đó là chỉ bày cho chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật”. Biết rằng, từ khi thị hiện đản sinh cho đến nhập diệt, Thanh giáo[9] trong một đời của đức Phật tuy có Bán giáo, Mãn giáo[10] khác nhau, nhưng đều khiến cho tất cả phàm phu liễu ngộ được chân tâm của chính mình bình đẳng, không sai khác với thể tánh của pháp giới chúng sinh và các đức Như Lai trong mười phương. Tâm này có đầy đủ vô lượng vô số công đức thù thắng trùm khắp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, thanh tịnh bản nhiên, rộng lớn không bờ mé. Nhân quả, y báo, chánh báo, núi, sông, đất, biển, cõi nước như cát bụi trong mười phương pháp giới đều là vật trong tự tâm của chúng ta, giống như đám bọt nước nổi trôi giữa biển lớn, như một áng mây lơ lững trên bầu trời. Như kinh ghi: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, biển Chánh biến tri[11] của các đức Phật đều từ tâm tưởng sinh ra. Nên biết tâm này chính là thể vốn thanh tịnh của Bồ-đề Niết-bàn, chính là Nhất thật cảnh giới[12] của Đại thừa, chẳng phải pháp nào khác”. Cho nên kinh Chiêm Sát[13] chép: “Nhất thật cảnh giới nghĩa là tâm thể của chúng sinh, là nhất tướng rốt ráo từ xưa đến nay không sinh không diệt, tự tánh thanh tịnh tròn đầy khắp mười phương. Nhưng vì chúng sinh bị vô minh si ám huân tập nhiều đời, mà vọng hiện ra các cảnh giới, rồi khởi tâm chấp trước ngã và ngã sở, chìm đắm trong sinh tử, không tự liễu ngộ”. Đức Phật Như Lai đã giác ngộ được tâm này, thương xót những chúng sinh chưa ngộ, đem lòng từ bi mở bày nhiều phương tiện diễn nói các kinh. Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm ngầm chỉ môn đốn ngộ; giảng lý Tứ đế hiển bày pháp tiệm tu. Thể tánh chân như không khác, nhưng phương tiện có nhiều môn.
Kinh ghi: “Người trí kém ưa thích pháp Tiểu thừa, không tự tin mình có thể thành Phật”. Lại ghi: “Tuy nói nhiều pháp môn nhưng thật ra chỉ có một Phật thừa”; hoặc đối với việc phá mê chứng thật ở cõi này, cần phải vận dụng tự lực, cho nên diễn thuyết các kinh Đại thừa, Tiểu thừa; hoặc sinh về phương khác nghe pháp ngộ đạo, cần phải nương vào tha lực, cho nên trình bày về vãng sinh Tịnh độ. Đây, kia tuy khác nhưng tất cả đều là phương tiện khiến ngộ được tự tâm, thấu suốt được các pháp, rồi sau mới phát tâm Đại thừa, tu đạo Bồ-đề, thượng cầu hạ hóa[14] để rốt ráo thành Phật. Vì trí tuệ, cho nên không ở trong sinh tử; vì từ bi, cho nên không trụ vào Niết-bàn. Thị hiện sinh diệt để thuyết pháp độ sinh, trải qua vô số thế giới như bụi trần. Chúng sinh vô tận thì hạnh nguyện thân độ[15] cũng vô tận.
Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Ta biết tất cả các đức Phật trong mười phương hoàn toàn không nhập Niết-bàn, chỉ vì muốn điều phục chúng sinh mà thị hiện như vậy!” Kinh Lăng-già cũng dạy: “Không có Phật nhập Niết-bàn, cũng không có Niết-bàn của Phật, đó là Phật thị hiện nơi đời vì một Đại sự nhân duyên[16]. Mười phương các đức Phật đều như thế cả, đâu chỉ riêng gì đức Phật Thích-ca!” . Giáo pháp được thành lập chính là lý do này vậy!
I.2. NÊU RIÊNG LÝ DO LẬP GIÁO NÀY
Do hoàng hậu Vi-đề-hi khải thỉnh mà phát khởi giáo Tịnh Độ. Vì vương tử A-xà-thế bội nghịch, giam vua cha khiến ông chịu khổ trong ngục, nên bà sầu khổ thống thiết, bèn từ xa hướng về Kỳ sơn[17], cầu thỉnh Phật cứu độ. Đức Phật thương xót liền đến ngục tối, trước trình bày ba tịnh phước[18] để làm duyên cứu vớt chung, rồi sau mới giảng về 16 pháp quán để chỉ diệu thuật vãng sinh. Nay trình bày sơ lược 10 ý trong kinh Quán Vô Lượng Thọ:
1) Vì thương xót chúng sinh nhẫn chịu các khổ không sao giải thoát được.
Kinh ghi: “Nếu sau khi Phật diệt độ, các chúng sinh bị năm thứ khổ [19] trược ác, bất thiện bức bách”.
Lại ghi: “Vì tất cả chúng sinh ở đời vị lai muốn cầu thoát khổ nên nói pháp Quán địa[20] này”.
2) Vì thương xót chúng sinh bị các nghiệp trói buộc không cách nào giải thoát.
Kinh ghi: “Trừ tội nặng sinh tử trong 80 ức kiếp, đến vô lượng ức kiếp”.
3) Vì thương xót chúng sinh bị phiền não chướng che phủ không thể đoạn trừ.
Kinh ghi: “Như Lai ngày nay vì thương xót tất cả chúng sinh đời vị lai bị phiền não nhiễu hại, nên giảng thuyết nghiệp thanh tịnh”.
4) Vì thương xót chúng sinh phước đức cạn mỏng, chịu khổ nghèo hèn.
Kinh ghi: “Chỉ quán tưởng tượng Phật mà được vô lượng phước, huống gì quán đầy đủ thân tướng của Phật”.
Lại ghi: “Như thế, Bồ-tát chỉ nghe danh hiệu Phật còn được vô lượng phước huống gì chí thành quán kỹ”.
5) Vì thương xót chúng sinh cách Phật quá xa, theo tà bỏ chánh.
Kinh ghi: “Nếu có người nào niệm Phật thì sẽ ngồi nơi đạo tràng, được sinh vào nhà các đức Phật v.v…”
6) Vì muốn khiến cho chúng sinh xa lìa các nhiễm trước, an trú vào cảnh giới thanh tịnh.
Kinh ghi: “Nếu có người nào niệm Phật nên biết người ấy được hóa sinh trong hoa sen trắng[21]”.
7) Vì muốn khiến cho tâm chúng sinh dễ dàng đắc định.
Kinh ghi: “Nên chuyên tâm buộc niệm một chỗ, chỉ nhớ tưởng Tây phương; nếu không đạt được định ở một phương thì khó được thành tựu tam-muội”.
8) Vì muốn khiến cho chúng sinh thấy được thân tướng Phật để thành tựu niệm Phật Tam-muội.
9) Vì muốn giúp cho chúng sinh thấy được thân tướng Phật, được gặp Phật Vô Lượng Thọ.
10) Vì muốn khiến cho chúng sinh sớm thành quả vị Phật.
Kinh ghi: “Lúc tâm nhớ tưởng Phật thì tâm ấy chính là 32 tướng v.v…”. Kinh A-di-đà ghi: “Người sinh về nước Cực Lạc đều không lui sụt Vô thượng Bồ-đề”.
Ý chỉ của Phật sâu mầu, hàng phàm phu không thể suy lường hết được. Cho nên, nêu ra 10 ý bao quát tất cả thì lý do thuyết kinh này đã rõ ràng như kẻ chỉ lòng bàn tay vậy!
II.PHẠM VI GIÁO NGHĨA THU NHIẾP
Có ba mục:
- Nói về sự lập giáo thuần và tạp ở hai cõi.
- Phân biệt Đại Tiểu, Tiệm Đốn.
- Phân biệt Liễu nghĩa và Bất liễu nghĩa.
II.1. NÓI VỀ SỰ LẬP GIÁO THUẦN -TẠP Ở HAI CÕI
Có hai phần: giáo quán vào đạo ở cõi Ta-bà; giáo quán vãng sinh Tịnh độ.
1) Giáo quán vào đạo ở cõi Ta-bà
Cõi Ta-bà có năm thứ ô trược, hoặc nghiệp của chúng sinh có nặng có nhẹ, căn tánh sai khác. Do căn cơ đã tạp, thì giáo nghĩa cũng không thuần, cho nên mới có pháp Đại, Tiểu chẳng đồng, Thiên, Viên sai khác. Các bậc Tông sư xưa nay phán định giáo pháp một đời của đức Phật không đồng, thay nhau phế bỏ, dựng lập. Điều này được nói rất nhiều trong các bộ luận khác, ở đây không thể trình bày hết.
2) Giáo quán vãng sinh Tịnh độ
Ở cõi Cực Lạc toàn là bạn tốt thanh tịnh, tu tập thuần nhất pháp Đại thừa. Chúng sinh sinh về cõi ấy tuy phân ra làm chín phẩm, nhưng tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nỗ lực công phu, nhất định đạt được quả vị Bồ-đề vi diệu, không bao giờ lui sụt. Do đó, luận Vãng Sinh ghi: “Hàng Nhị thừa không sinh về, tuy cõi ấy có đệ tử Thanh văn, nhưng đều là những vị trước đã phát tâm Đại thừa, tạm thời tu tập Quyền thừa[22], nhưng không trụ quả Tiểu thừa.
Do đó, biết rõ việc lập giáo ở hai cõi không giống nhau. Thế thì các kinh nói về Tịnh độ không cần phải nhọc công phán định.
II.2. PHÂN BIỆT ĐẠI, TIỂU, TIỆM, ĐỐN
Trong phần Phán Giáo Tướng của Thiên Thai Sớ chỉ ra rằng kinh này thuộc về giáo nghĩa Phương đẳng Đại thừa. Theo Nhị tạng thì giáo nghĩa này thuộc về Bồ-tát tạng. Theo Tiệm, Đốn, thì kinh này thuộc về Đốn giáo. Sớ giải của ngài Huệ Viễn[23] cũng cho kinh này thuộc về Đốn giáo pháp luân. Vi-đề-hi v.v… đều từ hàng phàm phu mà chứng được Vô sinh, chứ không từ Tiểu thừa. Cho nên biết kinh này là Đốn giáo. Căn cứ theo giáo pháp trong một đời của đức Phật thì giáo quán kinh A-di-đà là pháp Viên đốn Nhất Phật thừa, hoàn toàn không thuộc thừa nào khác. Pháp sư Từ Vân nói: “Xem khắp toàn bộ kinh Tiểu thừa hoàn toàn không có một chữ nói về Tịnh Độ, huống gì nói đến chuyện khuyên vãng sinh. Lại nữa, trong Tiểu thừa không hề bàn luận đến Đức Phật khác, cũng không hề có một chữ nói về Phật A-di-đà. Thế thì, Tịnh độ A-di-đà một khi lọt vào tai, là đã gieo hạt giống Đại thừa thành Phật”. Như vậy người không nghe, không tin, há chẳng phải mất mát lớn ư?
II.3. PHÂN BIỆT LIỄU NGHĨA VÀ BẤT LIỄU NGHĨA
Ngài Từ Vân nói: “Giáo pháp của Phật có hai loại: Một là giáo pháp Tiểu thừa bất liễu nghĩa; hai là giáo pháp Đại thừa liễu nghĩa. Đại thừa lại có liễu và bất liễu nghĩa”. Tịnh độ chính là pháp Liễu nghĩa trong Đại thừa liễu nghĩa. Kinh ghi: “Tìm cầu kỹ khắp mười phương, hoàn toàn không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa”. Đó chính là nói về nghĩa này vậy! Nói Liễu nghĩa là liễu Tịnh độ kia chính ở ngay nơi tâm mình, chẳng ở đâu xa; ngộ được Phật A-di-đà tức tự tánh ta, đâu có Phật nào khác. Như thế thì thần thức gá trong nghìn cõi nước, thật ở ngay tại tâm mình; thể chất gởi nơi chín phẩm sen, đâu vượt khỏi một sát-na! Cho nên kinh ghi: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, chính là chỉ bày tri kiến Phật cho chúng sinh. Đại thừa liễu nghĩa há lại vượt hơn giáo nghĩa này ư?
Phần Thế Chí Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm ghi: “Nếu chúng sinh nào tâm luôn nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại, tương lai nhất định gặp Phật, cách Phật không xa” (ý nói sớm thành Phật). Đến như kinh Pháp Hoa nói đích thân Như Lai thọ ký vãng sinh. Phẩm Dược Vương chép: “Nếu có ai thọ trì kinh này liền được vãng sinh về thế giới Cực Lạc v.v…”; giáo Hoa Nghiêm cũng nêu đích thân bồ-tát Phổ Hiền phát nguyện hồi hướng. Đoạn kết của phần Phổ Hiền Đại Nguyện ghi: “Đến lúc lâm chung, trong khoảng sát-na, liền được sinh về thế giới Cực Lạc v.v…”. Do đó, nên biết cõi nước hay báo thân, thanh tịnh hay cấu nhiễm đều do tự tâm của chúng sinh. Chỉ vì thể tánh rỗng lặng, nên việc vãng sinh không chướng ngại; lại do chân tâm trùm khắp, nên việc lấy bỏ chẳng trở ngăn.
Than ôi! Người học đời sau không đạt được nghĩa Duy tâm[24], chỉ được một chút sáng suốt, liền cho là Tịnh độ, tự cho rằng tâm tịnh thì cõi nước tịnh mà không cần nương nhờ vào tha lực; rằng Phật tức là tâm ta, đâu cần phải tìm cầu bên ngoài, cho Phật A-di-đà ở ngoài tâm, chế nhạo Cực Lạc là cõi nước khác. Cho nên ngài Từ Vân nói: “Có người cho rằng Tịnh độ ở ngay nơi tâm, cần gì phải tìm cầu bên ngoài, tâm tịnh thì cõi nước tịnh, lẽ nào lại nhọc công cầu sinh về Tịnh độ phương xa ư?”.
Giải thích rằng: Ông không hiểu rõ nghĩa cõi nước và tự tâm, rồi cho rằng tâm mình hạn hẹp, lien thấy Tây phương ngoài tâm. Nếu liễu ngộ được một niệm tâm trùm khắp, thì một hạt bụi cũng biến khắp, mười vạn ức cõi nước ở trong gang tấc, há ở ngoài tâm ư? Người đời chỉ nói lý suông, phế bỏ nhân quả. Nếu nói chỉ có tâm, không tin có các pháp bên ngoài, như thế, không chỉ chê bai pháp mà còn tự phỉ báng cả tâm, để rồi phải chịu đọa muôn kiếp, thật đáng xót thay! Dối lập thị phi làm ngăn ngại Tịnh độ, thật là ác tri thức vậy! Các bậc Thánh hiền xưa hết lòng thương xót, mỏi miệng chỉ bày, nếu chú tâm nghiên cứu tinh tường thì nhất định nhân đây sẽ được liễu ngộ vượt bực vậy!
III. LUẬN VỀ TÔNG CHỈ
Có ba mục:
- Xác định tôn chỉ của kinh.
- Trình bày sự lý.
- Phân biệt pháp quán không đồng.
III.1. XÁC ĐỊNH TÔNG CHỈ CỦA KINH
Tông là nghĩa chính của một bộ kinh, cho nên cần phải trình bày. Ngài Thiên Thai nói: “Kinh này lấy tâm năng quán làm tông”. Đây là lập tông theo năng quán. Quán y báo, chánh báo của Phật, chẳng phải là tâm quán sao? Tổ Huệ Viễn và Thiện Đạo đều nói: “Tông thú được trình bày trong các kinh, mỗi mỗi đều khác nhau. Kinh này lấy quán Phật Tam-muội làm tông”. Đây là lập tông theo năng quán và sở quán. Tuy có 16 pháp quán về y báo, chánh báo không giống nhau, nhưng chủ yếu là quán Phật, như đoạn kinh sau nói: “Ngay trong khi quán, thân đạt được niệm Phật tam-muội, niệm chính là quán”. Nếu nói chung về các Đức Phật, thì còn liên quan đến các kinh khác, nhưng ở đây, đề kinh đã xác định rõ là Phật Vô Lượng Thọ.
Kinh Quán Phật Tam-muội ghi: “Phật bảo A-nan: Quán Phật Tam-muội này là phương thuốc của tất cả chúng sinh phạm tội, là bức tường phòng hộ cho người phá giới, là người hướng dẫn cho kẻ lạc đường, là con mắt của kẻ mù lòa, trí tuệ của kẻ ngu si, là ngọn đèn sáng ở chốn tối tăm, là vị tướng dũng mãnh diệt trừ giặc phiền não, là nơi du hóa của các đức Phật Thế Tôn, là nơi phát xuất các đại định Thủ Lăng-nghiêm…”. Lại ghi: “Nếu người nào thường hay quán một lỗ chân lông của Phật thì người ấy gọi là thực hành định niệm Phật. Vì niệm Phật, cho nên mười phương các Đức Phật thường ở trước mặt giảng nói chánh pháp cho nghe, người này liền có thể sinh ra các đức Phật trong ba đời, huống gì niệm đầy đủ sắc thân của Phật”.
Lại ghi: “Nếu có người trong bốn chúng đệ tử của Phật hủy báng kinh Đại thừa, tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn giới trọng, trộm vật của Tăng-kỳ, phá phạm hạnh Tỳ-kheo ni, phá giới Bát quan trai, làm nhiều điều tội ác, phát khởi nhiều tà kiến …, nếu một ngày một đêm, buộc niệm ngay trước mặt, hết lòng quán tưởng một tướng quí của Phật thì các tội ác nghiệp chướng đều được trừ sạch”. Theo đó mà biết được công đức quán tưởng Phật thật khó nghĩ bàn. Bởi vì thâu nhiếp tâm hư vọng để thầm hợp với cảnh chân thật. Nương vào phước trí của Phật mà giúp ta hết cảnh khó nghèo; nhờ vào từ bi của Phật mà cứu ta ra khỏi trầm luân. Đó là trận đầu diệt ác, là cửa trước tiên vào đạo. Cho nên kinh Lăng-nghiêm nói: “Không nhờ vào phương tiện mà tự tâm được khai ngộ, giống như người xông hương mà thân có được mùi thơm, đó gọi là Hương Quang Trang Nghiêm”.
III.2. TRÌNH BÀY SỰ LÝ
Lý là tên gọi gượng chỉ sự rỗng lặng; Sự là từ gọi chung tất cả các hành vi. Danh tuy có hai, nhưng Thể chân thật nhất như, giống như nước nếu động thì nổi sóng, mực viết thành chữ. Sóng, tuy hiện muôn hình vạn trạng, nhưng tánh ướt chỉ một; chữ, dẫu có trăm sai ngàn biệt, nhưng màu mực không hai. Nếu tâm an trụ nơi vắng lặng, năng sở đều bặt, đó chính là Lý quán. Tâm loạn động, lấy bỏ rõ ràng, đó chính là Sự quán. Thế thì Lý _ Sự đối ngược nhau, chưa được viên dung. Nay căn cứ theo Thiên Thai Thập Nghi Luận[25] ghi: “Bậc trí cầu sinh Tịnh độ mãnh liệt, đạt được thể của sinh là bất khả đắc, đây chính là Chân vô sinh. Người ngu bị sinh mạng trói buộc, nghe nói đến sinh liền khởi kiến giải sinh, nghe nói vô sinh liền khởi kiến giải vô sinh, mà không hề biết sinh tức vô sinh, vô sinh tức sinh. Không hiểu được lý này rồi loạn sinh thị phi. Thật sai lầm biết bao! Do đó nên biết rằng đạt Sự tức Lý; Lý không ngoài Sự. Đó là Chân vô sinh, cho nên gọi là diệu quán”.
Lại căn cứ theo Lý sám hối và Sự sám hối của Luật tông Nam Sơn mà chia ra làm hai loại căn cơ: Lợi căn và độn căn. Hàng lợi căn đạt lý thì tất cả các pháp đều ở nơi tâm; hàng độn căn chưa đạt thì phải nương theo sự mà hành trì. Các kinh khác nói về Lý quán chỉ có ở bậc thượng căn. Pháp quán trong kinh này gồm chung cả lợi căn lẫn độn căn. Hàng lợi căn tu tập thì tất cả đều là Lý quán; kẻ độn căn tu tập đều quy về Sự tưởng. Lợi, độn tuy tu tập khác nhau, nhưng đều được vãng sinh, sau khi sinh về cõi kia rồi thì giai vị có sâu cạn khác nhau, đạt đạo có nhanh có chậm vậy! Nhưng xưa nay có ba thuyết giải thích khác nhau: Thuyết thứ nhất cho rằng 16 cảnh diệu quán đều là Lý quán; thuyết thứ hai căn cứ kinh điển cho rằng trước sau đều là Sự quán; thuyết thứ ba cho là chỉ có cảnh thứ chín – Quán Phật[26] là Lý quán, còn 15 pháp kia là Sự quán.
Ở đây cho rằng thuyết thứ nhất thì loại bỏ hàng trung căn và hạ căn; thuyết tiếp theo thì không nói đến bậc thượng căn; còn thuyết sau cùng thì lại nói Lý _ Sự hai đường riêng biệt, hoàn toàn không dung thông.
Hễ đạt lý thì các pháp đều là Lý, sao lại có chuyện pháp này đúng, pháp kia sai? Tôi đã từng xem kỹ các kinh, chỉ thấy nêu ra cảnh sở quán chứ không phân biệt sự khác nhau giữa Lý và Sự. Như thế há chẳng phải người năng quán có lợi có độn, kiến giải có thông có bít, tùy theo phần lượng của chúng sinh như thế nào cũng đều có thể thú nhập[27] ư?
Cao tăng Biện Tú đời Đường từng nói với người rằng: “Xưa nghe pháp môn tu hành vãng sinh về Tây phương là Đại thừa hữu tướng. Đây chính là lời nói nông cạn, không có giá trị, chẳng đạt được lý quán. Vì sao? Bởi vì hễ lời nói ra tức là tánh; ý phát khởi đều là như, mỗi sắc mỗi hương đều là Trung đạo, huống gì chánh niệm của ta?” Xét kỹ lời này thì biết đã thể hội sâu được tông chỉ của kinh, nhưng chưa rõ kinh này thâu nhiếp cả hạng trung căn và hạ căn.
Hỏi: Tu tập Lý quán trong kinh nầy như thế nào?
Đáp: Có hai phương pháp tu tập:
1- Tâm năng quán, tức dùng tâm thức nhớ nghĩ hiện tiền làm thể. Như kinh nói: “Nên khởi tưởng quán xét kỹ mặt trời”.
2- Cảnh sở quán, tức lấy y báo chánh báo trang nghiêm của Phật A-di-đà làm thể, tức 16 cảnh được nêu ra trong kinh.
Năng quán, sở quán thầm khế hợp nhau mới thành tựu quán hạnh.
Hỏi: Khởi tâm duyên cảnh đâu gọi là lý quán?
Đáp: Hiểu rõ tâm cảnh này hoàn toàn là nhân duyên sinh, mà nhân duyên sinh tức vô sinh, thể không sinh diệt tức là lý vô sinh vậy.
Thập Nghi Luận chép: “Pháp không sinh, không diệt là các pháp duyên sinh hòa hợp, không chấp giữ tự tánh, tìm cầu thể của “Sinh”, hoàn toàn không thể được”. Pháp sinh này khi sinh thì không từ đâu đến, cho nên gọi là bất sinh; pháp này khi diệt thì không có chỗ đi, cho nên gọi là bất diệt. Không thể cho rằng ngoài nhân duyên sinh, có một pháp không sinh không diệt khác!”
Nay trình bày lý quán hoàn toàn căn cứ theo văn của luận, dùng tâm duyên sinh quán cảnh duyên sinh; tâm cảnh tuy khác, nhưng duyên sinh chỉ một. Năng quán là tâm, cảnh quán là Phật. Pháp tâm, pháp Phật đều không thể nghĩ bàn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba pháp: Tâm, Phật và chúng sinh không sai khác, tức là nghĩa này vậy!”. Cho nên các hành giả, trước tiên phải khai mở trí huệ, thông đạt chẳng nghi, rồi sau mới sớm tối chuyên cần, niệm niệm buộc tâm, nhớ nghĩ đến cảnh y báo, chánh báo tốt đẹp của cõi Cực Lạc, dõng mãnh cầu vãng sinh, mới không phương hại tâm cảnh. Thể vốn tự vô sinh, chẳng thể do tạo tác mà vô sinh. Vậy thì biết rõ chỗ phát sinh tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, cho đến nói năng, im lặng đều là diệu lý. Không chỉ có pháp quán này mà các pháp quán Đại thừa được kiến lập trong một đời thuyết giáo của Phật cũng đều là diệu lý.
- Kinh Pháp Hoa ghi: “Quán tất cả pháp là không, là tướng như thật, là bình đẳng, không điên đảo”. Lại nói: “Tất cả các pháp không có sở hữu, không thường trú, không sinh diệt”.
- Phổ Hiền Quán nói: “Nên biết tất cả pháp đều là Phật pháp”.
- Kinh Duy-ma-cật nói: “Tất cả pháp tức tướng Bồ-đề”.
- Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả pháp vô sinh, tất cả pháp vô diệt”. Lại nói: “Hiểu rõ tự tánh của tất cả pháp không có sở hữu. Như thế, hiểu rõ được pháp tánh tức thấy được Đức Phật Tỳ-lô-xá-na”.
- Kinh Kim Cang Bát-nhã nói: “Tất cả pháp hữu vi như mộng, như huyễn, như bọt nước, như hình bóng v.v…”.
Như thế, tất cả được ghi chép khắp trong kinh tạng, không thể nêu ra hết. Nếu lìa các pháp mà bàn luận diệu lý thì rơi vào tà kiến, cách xa chân đạo. Kinh Duy-ma-cật nói: “Thí như cung điện, nếu xây trên đất trống thì dễ dàng, không gì ngăn ngại; còn ở nơi hư không thì không thể nào xây được!” Các Đức Phật thuyết pháp thường y cứ vào Nhị đế[28], không phá giả danh, đồng thời nói thật tướng của các pháp. Tâm lượng của Phật như thế thì chánh lý đều nhất như, nếu muốn tiến tu thì cần phải nghiên cứu, khảo xét kỹ.
III.3. PHÂN BIỆT PHÁP QUÁN KHÔNG ĐỒNG NHAU
Pháp quán được trình bày trong một đời thuyết giáo của Phật được chia làm năm:
1) Quán chung các pháp, như kinh nói: “Quán tất cả các pháp đều không”.
2) Quán riêng tự tâm như Chỉ quán, Hoàn nguyên quán, Pháp giới quán, Tịnh tâm quán v.v….
3) Quán riêng về sắc, như kinh nói: “Quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như thế, cho đến quán bất tịnh, quán xương trắng v.v…”.
4) Quán cả sắc lẫn tâm, như kinh nói: “Quán chiếu thấy năm uẩn đều không, quán 12 nhập, quán 18 giới, quán sổ tức v.v…”.
5) Quán các đối cảnh thù thắng, như trong kinh nói: “Quán Phật, quán Bồ-tát v.v…”.
Pháp quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, chính là pháp quán thứ năm.
Trong pháp quán cảnh thù thắng này lại có năm loại:
Quán tướng quí của Phật, tức quán 32 tướng của các Đức Phật.
Quán hành pháp của Bồ-tát Phổ Hiền, tức quán thân tướng Bồ-tát cỡi voi trắng sáu ngà.
Quán Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng, tức quán sắc tướng và hạnh nguyện của hai vị Bồ-tát này.
Quán cõi Đâu-suất của Phật Di-lặc, tức quán cầu sinh vào Nội viện của cung trời Đâu-suất.
Quán y báo, chánh báo cõi Phật A-di-đà để cầu sinh Tịnh Độ, tức pháp quán trong kinh này.
Ba pháp quán trước là diệt nghiệp phá chướng, hai pháp quán sau là ưa thích nguyện cầu vãng sinh.
Lại nữa, pháp quán thứ tư là quán cảnh giới của chư thiên ở cõi Ta-bà, pháp quán thứ năm là quán cảnh giới thanh tịnh ở Tây phương Cực lạc. Nhưng phương pháp vào đạo ở cõi này chủ yếu là ở quán tâm[29]; còn vãng sinh Tịnh độ cần phải tưởng Phật. Ở đây nêu ra sáu điểm để so sánh pháp Quán tâm ở cõi này với pháp quán trong Quán kinh:
Quán tâm thì nhiếp tưởng trở về tâm; kinh này thì hướng tâm đến cảnh bên ngoài. Kinh nói: “Nhất tâm buộc niệm quán kỹ đức Phật A-di-đà”; Thiên Thai Sớ nói: “Quán tướng mặt trời lặn treo trên hư không, là để chỉ phương hướng chú tâm quán tưởng”.
Quán tâm thì không hạn cuộc trong bốn oai nghi; còn kinh này thì cần phải ngồi ngay thẳng.
Quán tâm thì không câu nệ vào nơi chốn; còn kinh này thì nhất định phải xoay mặt về phương Tây.
Quán tâm thì không phân biệt khác thời; còn kinh này thì cần phải trừ thời gian ăn uống, đại tiểu tiện. Kinh Quán Phật ghi: “Trừ thời gian đại tiểu tiện”; kinh Địa Quán ghi: “Chỉ trừ thời gian ăn uống”.
Quán tâm thì đoạn hoặc chứng lý; còn kinh này thì thành tựu Tịnh nghiệp, cảm ứng vãng sinh.
Quán tâm thì nghiệp ma dễ phát khởi; kinh này thì được oai đức của các Đức Phật hộ trì.
Trình bày sơ lược sáu điểm khác nhau như thế, thì biết được Quán tâm và Quán môn Tịnh độ cách xa trời vực.
Hỏi: Mười sáu cách quán ở đây có thể gọi là Quán tâm không?
Đáp: Nếu đạt cảnh do tâm, thì y báo chánh báo của Phật A-di-đà đều là tâm! Chỉ e rằng trở lại tìm cầu nơi tự thân để thể nhận tánh linh thì đều là thuyết của các kinh khác, chẳng phải pháp quán chân chánh trong kinh này.
Hỏi: Có người cho rằng Phật pháp quá cao, pháp giới chúng sinh quá rộng, chỉ nên lấy quán tâm làm chính yếu; kinh này thì quán Phật, lẽ nào không trái nghịch nhau?
Đáp: Pháp quán bao trùm khắp các căn cơ, nhưng mỗi căn cơ đều có yếu pháp riêng. Nếu đoạn hoặc chứng chân, vào đạo ở phương này thì lấy quán tâm làm chính yếu; còn nếu vãng sinh Tịnh độ, tu nhân cảm báo thì quán Phật là tối ưu. Những kinh khác nói đoạn hoặc chứng chân, lấy quán tâm làm chính cho nên mới có lời này. Không thể cho rằng chúng sinh và Phật là hai pháp hoàn toàn không dung thông. Quán Phật Tam-muội đều bao trùm cả vị lai, nghĩa này chẳng phải hư vọng!
Hỏi: Tâm và Phật không sai biệt là pháp thượng thừa liễu nghĩa, nay nói pháp quán, vì sao lại phải gượng chia như thế?
Đáp: Lý, bản tuy dung hợp, nhưng hạnh, tướng có sai khác. Nếu tu tập có chỗ nương nhờ, ắt phải có cảnh trí tương ưng. Cổ đức nói: “Quán Phật có hai: Một là quán tự tâm, từ tam-muội thấy được Phật; hai là quán Tây phương, từ nhân mà cảm Phật quả”. Quán tâm ở trong các kinh khác tức là quán tự tâm mà thấy Phật; còn mười sáu pháp quán ở kinh nầy chính là quán Tây phương mà thấy Phật quả. Căn cứ vào hai cách phân biệt này, thì không còn gì nghi ngờ.
Thiên Thai Thập Nghi Luận ghi: “Người cầu vãng sinh từ tâm khởi tưởng, duyên tướng hảo rực rỡ của Phật A-di-đà. Lại quán bảy báu trang nghiêm ở cõi Cực Lạc, như 16 pháp quán trong kinh Vô Lượng Thọ…. Đó là minh chứng cho pháp Quán Phật ở kinh này.
Hỏi: Kinh nói: “Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai”. Nay quán cảnh Phật, há chẳng phải là dùng âm thanh và sắc tướng để cầu Phật đó sao?
Đáp: Ba mươi hai tướng quý cũng như vầng trăng sáng tỏ hiện ở trăm sông; Tứ biện[30], Bát âm[31] tựa hồ tiếng vang dội từ hang thẳm. Nhưng, nếu lặn xuống nước để vớt trăng, vào hang sâu để tìm tiếng thì hoàn toàn không hiểu Tánh không, không thể thấy Phật. Người đạt lý thì không như thế! Hiểu rõ sắc chẳng phải sắc thì đâu trở ngại gì đến việc chánh tưởng tôn dung Phật; thông đạt được tiếng chẳng phải tiếng thì nào có chướng ngăn gì đến việc lắng nghe diệu pháp. Cho nên kinh Hoa Nghiêm ghi: “Sắc tướng không phải là Phật, âm thanh cũng lại như thế, cũng không thể xa lìa sắc tướng, âm thanh để thấy sức thần thông của Phật”. Nghe được những lời vi diệu này, há lại còn nghi ngờ sao?
IV. PHÂN BIỆT DỊ ĐỒNG
Có hai phần: Trình bày chung và riêng về Báo thân và Báo độ; phân tích việc phá bỏ và kiến lập của các thuyết xưa nay.
IV.1. TRÌNH BÀY CHUNG VÀ RIÊNG VỀ BÁO THÂN VÀ BÁO ĐỘ
Có hai: Trình bày về Báo thân Phật; trình bày về Báo độ của Phật
1. Trình bày về Báo thân Phật
Thân Phật có nhiều loại. Kinh luận tùy theo cơ nghi mà nêu ra, không nhất định. Nay căn cứ theo Thiên Thai Giới Sơ, nêu ra bốn thuyết:
Một thân: Pháp thân.
Hai thân: Chân thân, Ứng thân.
Ba thân: Pháp thân, Báo thân, Ứng thân.
Bốn thân: Pháp thân, Báo thân, Ứng thân, Hóa thân.
- Luận ghi: “Đức Phật Tỳ-lô lấy chánh pháp biến diệu làm thân; đức Phật Xá-na lấy hạnh mãn báo quả làm thân; đức Phật Thích-ca lấy ứng tích[32] cảm phó làm thân, tùy duyên biến hóa bất định làm thân. Tất cả các đức Phật đều đầy đủ bốn thân”. Về thân Phật A-di-đà thì kinh nói: “Các đức Phật Như Lai là Pháp giới thân, tức Pháp thân, Báo thân. Sáu mươi vạn ức na-do-tha tức Ứng thân Tịnh độ; hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, hoặc hiện thân nhỏ một trượng sáu và vô số các Hóa Phật trong viên quang[33]”. Lại nói, “Hóa thân của Phật Vô Lượng Thọ vô số, cho đến chim bạch hạc, khổng tước, le le, nhạn, uyên ương v.v… đều là do Phật A-di-đà biến hóa ra, đều là Hóa thân”. Như thế, nếu hợp chung Ứng thân và Hóa thân lại thì thành ba thân, nếu chia ra thì thành bốn thân. Nên biết thân quả đức của Phật A-di-đà ở Tây phương chính là Pháp thân, là Báo thân, là Ứng thân, là Hóa thân. Thân Phật đồng một thể, chẳng phải một chẳng phải khác, tùy theo cơ cảm mà Ngài thị hiện. Như từ Bản thân hiện ra Tích thân thì một thân thành vô số thân; cho đến thâu nhiếp Tích trở về Bản, thì từ vô số thân thành một thân. Kinh Hoa Nghiêm nói tất cả thân các Đức Phật là một Pháp thân, chính là nghĩa này!
- Sớ Giải của ngài Huệ Viễn ghi: “Như thế thọ mạng của các Đức Phật có Chân thân có Ứng thân. Chân thân thì không tận cùng, Ứng thân thì có dài ngắn”.
- Kinh Quán Âm Thọ Ký ghi: “Thọ mạng của Đức Phật A-di-đà tuy vô lượng, song sẽ có kết thúc. Bởi vì sau khi nhập Niết-bàn thì Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ được bổ xứ hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai”. Căn cứ theo đây, nhất định biết được đó là Ứng thân!
- Thập Nghi Luận ghi: “Phàm phu hữu lậu, tùy phần được thấy tướng thô của thân Phật, đó là Ứng thân Phật; Bồ-tát thấy tướng vi tế, là Báo thân”. Cho nên biết, thấy Báo thân hay Ứng thân đều tùy theo căn cơ, chứ thân Phật đâu nhất định như thế! Như bóng trăng hiện trong nước, tùy thuộc vào đồ vật đựng nước mà nó không giống nhau. Nếu vật đựng nước lớn thì bóng trăng tròn; vật đựng nước nhỏ thì bóng trăng khuyết. Tròn hay khuyết là do vật dụng chẳng phải do bóng trăng giãn ra hay thâu lại. Nước trong thì ảnh hiện, nước đục thì ảnh mất. Hiện, mất đều do nước trong hay đục, đâu phải do bóng trăng đến hay đi. Dùng ví dụ này để dụ cho thọ mạng Pháp thân, thì mọi nghi ngờ đều được đả thông. Cho nên kinh Niết-bàn ghi: “Phật bảo Thuần-đà: Nay ông chớ nên suy nghĩ về thọ mạng của các Đức Phật dài hay ngắn. Bởi vì tất cả các pháp đều là tướng huyễn, Như Lai ở trong đó dùng sức phương tiện để giáo hóa mà không bị nhiễm trước”.
Lại nữa, kinh Hoa Nghiêm ghi: “Tạng pháp thân Như Lai bao trùm khắp thế gian, tuy ở trong thế gian, nhưng không bị nhiễm trước. Ví như nước có trong đục chứ bóng trăng không có đến đi. Nên biết Pháp thân ở cùng khắp thế gian cũng như thế”. Lại nói: “Như nhà ảo thuật, biến hiện muôn ngàn cảnh, cảnh ấy đến không nơi xuất phát; đi cũng không chỗ qui hướng”. Tánh huyễn chẳng hạn lượng, cũng chẳng phải không hạn lượng mà ở trong đại chúng thị hiện hạn lượng hay không hạn lượng, dùng tâm tịch định này tu tập các thiện căn, xuất sinh tất cả các đức Phật. Phi lượng, phi vô lượng, hữu lượng và vô lượng đều là tướng hư vọng. Thông đạt được tất cả cõi, không chấp trước lượng hay vô lương. Theo đó mà biết rõ Thể của thân Phật không thể lường được, ngôn từ và ý nghĩ không thể diễn đạt được. Há có thể luận bàn được ư?
2. Trình bày về Báo độ của Phật
Có hai phần: trình bày Báo độ; phân biệt những sai lầm.
Thứ nhất trình bày Báo độ
Cõi nước của các Đức Phật có nhiều vô lượng.
Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Cõi Phật nhiều như số cát bụi trong thế giới không thể tính kể”.
Kinh Pháp Hoa ghi: “Ví như đem số cát bụi nhỏ trong tam thiên đại thiên thế giới mài làm mực, rồi đi qua ngàn cõi nước phương Đông, cứ mỗi cõi nước chấm một điểm, cứ như thế, lần lượt hết số mực đó v.v…”.
Kinh A-di-đa ghi: “Trong mười phương đều có hằng hà sa số cõi nước các đức Phật”.
Như thế biết rằng cõi Phật không thể nào cùng tận. Nói tóm lại, cõi Phật không ngoài hai loại:
* Cõi Pháp tánh
Kinh Viên Giác ghi: “Phật và chúng sinh cùng một Pháp tánh”.
Kinh Phổ Hiền Quán ghi: “Đức Phật Tỳ-lô-giá-na biến khắp mọi nơi, trụ xứ của Ngài gọi là Thường Tịch Quang. Pháp tánh thường trụ là trụ xứ mà các Đức Phật thường qua lại, gượng cho là Báo độ, nhưng thật ra chẳng phải Báo đo”. Đây gọi là Duy tâm tịnh độ. Cất chân lên là đạo tràng, chẳng tịnh chẳng uế, mà không trở ngại tịnh uế; không đến không đi mà chẳng chướng ngăn đến đi.
Ngài Từ Vân nói: “Tịnh uế khắp mười phương đồng thâu vào tâm trong khoảng sát-na; ba thời đến đi mà vết chân chưa dời trong chừng một niệm. Bởi vì Pháp tánh này, chúng sinh mê muội nhưng không mất, tuy trọn ngày dùng nó mà không hay biết; các Đức Phật chứng ngộ mà không thủ đắc, nên nương phương tiện để khởi dụng”. Chỉ có người đạt được quả Diệu giác mới có thể an trụ.
Kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: “Chỉ có Đức Phật mới ở Tịnh độ, tức là Báo độ này vậy!”
* Cõi Ứng hóa:
Cõi Phật nhiều như cát bụi, hoặc tịnh hoặc uế cũng đều do các Đức Phật tùy căn cơ ứng hiện ra để nhiếp hóa chúng sinh. Trong đó, Ứng với hàng Bồ-tát thì có cõi Thật báo.
Kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: “Tam hiền Thập thánh trụ ở Báo độ này”. Ứng với hàng Nhị thừa thì có cõi Phương tiện.
Luận Đại Trí Độ ghi: “Ngoài ba cõi có Tịnh độ, hàng Thanh văn, Bích-chi xuất sinh trong đó, thọ nhận thân Pháp tánh, chẳng phải do thân Phần đoạn sinh”. Ứng với hàng thánh và phàm phu thì có cõi Đồng cư. Cõi Đồng cư có hai: Đồng cư uế độ và Đồng cư tịnh độ. Đức Phật Thích-ca thị hiện ở cõi uế, nhưng không phải không có cõi tịnh; Phật A-di-đà giáo hóa ở cõi tịnh, nhưng không phải không có cõi uế. Như thế nơi Đồng cư uế độ, hàng Thánh tức Đại, Tiểu tam thừa; hàng phàm phu là gồm cả sáu đường thiện, ác. Ở Tịnh độ đồng cư, hàng Thánh tức những bậc Đại thừa đốn ngộ; hàng phàm phu thì chỉ có trời và người. Hai Báo độ này rõ ràng đã nêu các cõi đều tùy cơ duyên chúng sinh. Pháp tánh là sở y, còn Ứng hóa là năng y.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Hư không sinh trong Đại giác, như bọt nước nổi giữa biển, cõi vi trần hữu lậu, đều nương hư không sinh”. Đại giác tức cõi Pháp tánh, cõi vi trần tức cõi Ứng hóa. Cõi Ứng hóa nương vào hư không; hư không nương vào cõi Pháp tánh. Nếu tư duy kĩ có thể hiểu rõ được năng, sở, bản, mạt. Nay cõi được trình bày trong kinh chính là Tịnh độ đồng cư mà đức Phật A-di-đà đang giáo hóa. Lại nữa, phương Tây thì có vô số cõi Tịnh, quả vị Phật thì có A-di-đà đồng cư. Nay cần phải chỉ chính xác. Thuở xưa Tỳ-kheo Pháp Tạng phát nguyện tu thành tựu quả vị Phật A-di-đà ở Cực lạc Tịnh độ. Ý nghĩa của Quang đài hiện độ[34] chính là ở đây vậy!
Thứ hai, phân biệt để trừ sai lầm
Tịnh độ là danh từ mà nhiều kinh sách lạm dụng, cho nên cần phải phân biệt rõ. Như nói “Tâm tịnh thì quốc độ tịnh”. Mọi người tuy dùng câu này để dẫn dụ, nhưng không biết rõ ngọn nguồn. Câu này vốn có xuất xứ từ kinh Duy-ma-cật. Kinh ấy cho rằng Bồ-tát chọn lấy cõi Tịnh, vì Tịnh độ của các Đức Phật ắt nương vào cộng nghiệp của chúng sinh trong mười phương tạo thành. Trải qua muôn kiếp giáo hóa chúng sinh tu tập thiện nghiệp, rồi gom lấy tịnh nghiệp của chúng sinh để tạo thành cõi Tịnh ấy. Kinh ghi: “Bồ-tát tùy thuận chúng sinh được giáo hóa mà chọn lấy cõi Phật. Nên biết trực tâm là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, chúng sinh không có tâm siểm nịnh đều sinh về cõi ấy. Cho đến Thập thiện là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, chúng sinh tu Thập thiện sinh về cõi ấy. Cho đến nói Bồ-tát muốn cõi nước được thanh tịnh nên thanh tịnh tâm mình, tùy theo tâm mình thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh”. Văn kinh nói về ý này rất nhiều, ở đây không thể trình bày đầy đủ.
Kinh Kim Quang Minh nói: “Nguyện con đời sau đạt được cõi Tịnh có công đức vi diệu thù thắng này như đức Phật Thế Tôn”.
Kinh Pháp Hoa ghi: “Dạy ngàn ức chúng sinh, an trụ pháp Đại thừa, tự thanh tịnh cõi Phật”. Lại nói: “Ít muốn, nhàm sinh tử, là tự thanh tịnh cõi Phật”.
Kinh Tịnh Danh nói: “Thường tu Tịnh độ, giáo hóa chúng sinh”. Tất cả việc ấy đều nói rõ Bồ-tát tu tập pháp Tịnh độ. Lại, kinh Tịnh Danh ghi: “Phạm vương Loa-kế[35] nói với tôn giả Xá-lợi-phất rằng: Ta thấy cõi nước của đức Phật Thích-ca thanh tịnh như cung trời Tự Tại. Đức Phật dùng ngón chân cái ấn xuống đất, lập tức các thứ trân bảo trong đại thiên thế giới trang nghiêm cõi nước, như Tịnh độ của Phật Bảo Trang Nghiêm”. Lại nói: “Cõi Phật thường thanh tịnh như thế”.
- Lại, kinh Niết-bàn ghi: “Khi đức Phật sắp Niết-bàn, rừng Ta-la biến thành Tịnh độ”. Kinh nói: “Bấy giờ, do thần lực của Phật mà đất trong đại thiên thế giới đều mềm mịn, các thứ báu trang nghiêm giống như thế giới Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây”. Lại như Tịnh độ Cực lạc hiện trong Quang đài và cõi nước mà đại chúng thấy, ghi trong phần kết luận về lợi ích[36] của kinh này đều do thần lực của Như Lai biến hiện ra. Đó gọi là trên đầu sợi lông hiện cõi Bảo Vương.
Kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: “Chỉ có Phật mới ở Tịnh độ”.
Kinh Viên Giác nói: “Cõi nước chúng sinh cùng một pháp tánh; địa ngục, cung trời đều là Tịnh độ”. Đây đều là cõi Lý pháp tánh, gọi là cõi Thường Tịch Quang.
Kinh Pháp Hoa nói: “Khi kiếp số tận, chúng sinh bị nạn lửa lớn thiêu đốt, nhưng cõi nước của ta không bị thiêu hủy”. Đó chính là quả báo độ của đức Phật Thích-ca.
Tịnh độ được trích dẫn trong các kinh trên đều chẳng phải Tịnh độ Cực lạc của Đức Phật A-di-đà mà kinh này nói đến. Loại Tịnh độ này, trong các kinh luận nói đến rất nhiều. Căn cứ theo trên mà phán định thì sẽ không sai lầm, lẫn lộn.
IV.2. LUẬN VỀ VIỆC PHÁ BỎ VÀ KIẾN LẬP CÁC PHÁP XƯA NAY
Phần này có năm ý:
- Trình bày phước quán[37]
- Giải thích rõ Định thiện và Tán thiện[38]
- Trình bày địa vị
- Giải thích ma thuyết
- Nêu rõ sự lạm truyền
1. Trình bày phước quán
Kinh ghi: “Vi-đề-hi thỉnh rằng: Cúi xin đức Thế Tôn dạy cho con tư duy, dạy cho con chánh thọ[39]!”.
Giải thích: Đức Phật dùng Tam phước để chỉ bày tư duy, dùng 16 phép quán để hướng dẫn chánh thọ.
Quán Kinh Huyền Nghĩa Phần[40] của ngài Thiện Đạo ghi: “Các Luận sư dùng tư duy kết hợp với tam phước; dùng chánh thọ kết hợp với 16 pháp quán”. Ở đây không cho như vậy.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tư duy và chánh thọ chỉ là tên gọi khác của Tam-muội”. Lời thỉnh trước của Vi-đề-hy chỉ nói: “Dạy con quán về nghiệp xứ thanh tịnh”, tức biết tư duy và chánh thọ là chỉ hỏi về cách quán. Phương tiện trước khi quán gọi là tư duy, thành tựu chánh quán gọi là chánh thọ. Nhưng người tu quán cần phải tu Phước nghiệp để trợ giúp cho thành tựu quán trí. Trước trình bày tam phước, sau nêu ra quán hạnh. Tam phước như của báu, quán trí như cột buồm của chiếc thuyền. Như thế thì sự và lý trợ giúp lẫn nhau, phước trí cùng vận hành. Vậy làm sao tu quán mà có thể ngồi yên một chỗ, không thờ thầy tổ, cha mẹ, không giữ giới, không tụng đọc kinh điển Đại thừa? Cho nên hành giả cần phải tu tập các nghiệp thiện để trợ giúp thành tựu chánh quán, như xe một bánh, chim một cánh thì đến được đâu? Đến đoạn văn sau sẽ giải thích chi tiết rõ ràng hơn.
2. Định thiện và Tán thiện
Quán Kinh Huyền Nghĩa Phần của ngài Thiện Đạo ghi: “13 phap quán trước là Định thiện; ba phước, chín phẩm là Tán thiện”. Ở đây không chấp nhận như thế. Bởi vì nếu như theo sự phán định ấy thì lẽ ra chỉ có 13 phép quán, đâu thể gọi là 16 phép quán được? Huống chi phần kết phẩm thượng trong chín phẩm ở đoạn dưới cho rằng: “Đây là pháp quán của hàng thượng phẩm thượng sinh, là phép quán thứ 14”. Bậc trung và hạ cũng vậy. Vì sao gọi ba phép quán sau là Tán thiện được? Chỉ lấy đây để cầu vãng sinh thì không đánh cũng tự phá. Kinh Niết-bàn một mực khuyên răn: “Nương theo pháp chứ không nương theo người”. Đến phần nói về Chín phẩm sau sẽ phân biệt rõ hơn.
3. Trình bày địa vị
Huyền Nghĩa cho rằng: “Từ xưa nay, các Luận sư đều cho hàng Tam hiền, Thập thánh của Đại thừa tương ưng ba phẩm bậc Thượng; hàng Lưỡng phàm Tứ quả[41] của Tiểu thừa tương ưng ba phẩm bậc Trung; hàng phàm phu và sơ học của Đại thừa tùy tội nặng hay nhẹ mà tương ưng ba phẩm bậc Hạ”. Văn đã bác phá, ở đây không cần trích dẫn. Nay cho rằng căn cứ theo chín phẩm vãng sinh nói ở sau rồi mới được luận bàn về địa vị như các luận sư. Lại nữa, căn cứ theo văn kinh thì cõi này cầu vãng sinh đều là phàm phu, nên cần phải y theo thuyết trong Huyền Nghĩa. Văn trích dẫn 10 đoạn kinh để minh chứng, nghiệm xét lại, có thể nói các thuyết xưa không đúng.
Kinh ghi:
1. “Ta nay sẽ nói các thí dụ cho ông rõ, cũng khiến cho tất cả phàm phu đời sau muốn tu tịnh nghiệp được vãng sinh Tây phương”.
2. “Nay Như Lai vì những chúng sinh đời sau bị giặc phiền não làm hại mà nói nghiệp thanh tịnh”.
3. “Nay Như Lai sẽ dạy Vi-đề-hi và chúng sinh đời sau quán thế giới Tây phương Cực lạc”.
4. “Vi-đề-hi bạch Phật rằng: “Nhờ vào oai lực của Phật mà con thấy được cõi Cực Lạc. Nếu sau khi Phật diệt độ các chúng sinh đời ác trược bị năm thứ khổ bất thiện bức bách, làm sao thấy được cõi Phật A-di-đà?”.
5. “Ngươi và chúng sinh cần nên chuyên tâm, cho đến những hạng người chẳng phải mù lòa bẩm sinh đều thấy mặt trời lặn”.
6. “Phật bảo A-nan: “Ông phải giữ gìn lời dạy của Phật vì những chúng sinh muốn thoát khổ đời sau mà nói phép quán đất”.
7. “Vi-đề-hi bạch Phật: “Con nay nhờ oai lực của Phật cho nên được thấy Đức Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tá., Chúng sinh đời sau nên quán như thế nào?”
8. “Phật bảo Vi-đề-hi: “Ngươi và chúng sinh đời sau muốn quán Phật A-di-đà phải nên khởi niệm quán tưởng v.v…”
9. “Các Đức Phật Như Lai là Pháp giới thân nhập vào tâm tưởng của tất cả chúng sinh, do đó, khi tâm của các ông quán tưởng Phật…”.
10. “Như trong chín phẩm, mỗi mỗi đều nói: “Nếu có chúng sinh v.v…”.
Mười đoạn văn kinh trên minh chứng Đức Như Lai nói 16 phép quán cho chúng sinh bị chìm đắm trong sinh tử luân hồi, chứ không nói cho bậc Hiền thánh Đại thừa, Tiểu thừa, (đây đều là văn trong Huyền Nghĩa). Rõ ràng các đoạn văn 1, 2, 4, 5 trong mười đoạn văn trên rất quan trọng, nên biết kinh này dành riêng cho hạng phàm phu bị trói buộc trong đời ác trược tu tập để mau chóng được sinh về cõi Tây phương Cực lạc .
4. Giải thích ma thuyết
Có người cho rằng tu tập Tịnh nghiệp để vãng sinh Tây phương, khi sắp chết cảm các tướng hiện đến đều là cảnh ma. Đây là do những người không tụng đọc kinh sách, không thích tu trì, ưa nói lời tà, chướng ngăn chánh tín của người khác, gây tai hại không ít, cho nên cần phải giải thích rõ ràng.
Ma có bốn loại[42]: 1) Ngũ ấm ma; 2) Phiền não ma; 3) Tử ma; 4) Thiên ma. Ba loại ma trên đều ở nơi thân tâm của ông, chỉ có loại thứ tư - Thiên ma là ở trời cõi Dục. Đó là do các Đức Phật, Bồ-tát tùy cơ thị hiện giúp chúng sinh bỏ ác tu thiện. Chỉ những bậc có công hạnh lớn mới có khả năng lay động loại ma đó. Hàng phàm phu tu đạo mà tâm không chánh định, ắt bị ma quấy nhiễu. Nếu tâm chân thật thì ma không có khả năng nhiễu loạn. Do đó, biết rõ ma chính là ở nơi ông, chứ chẳng phải từ nơi khác đến. Thí như ở đời có yêu tinh dùng sắc đẹp đến mê hoặc lòng người, nhưng với người tâm ngay thẳng, sắc mặt nghiêm nghị thì ắt hẳn yêu tinh kia không dám đến gần. Giả sử người cố ý liếc nhìn, nhất định sẽ bị nó mê hoặc. Nay dẫn chứng nhiều thuyết để diệt trừ các mối nghi:
Có thuyết cho rằng: Trong Đại quang minh không có việc ma. Giống như giữa ban ngày thì kẻ trộm hoạt động khó thành.
Có thuyết cho rằng: Cõi này nên quán tâm, ngược lại, nếu quán thân tướng thì sẽ sinh nhiều việc ma. Kinh này quán cảnh giới quả đức chân thật của Phật A-di-đà, cho nên không có việc ma.
Có thuyết cho rằng: Người niệm Phật đều được các đức Phật hộ niệm. Đã được các đức Phật hộ niệm thì làm gì có ma?
Có thuyết cho rằng: Người tu Tịnh nghiệp nhất định có phát sinh ma sự, thì lẽ ra đức Phật phải chỉ bày cách phá trừ như kinh Bát-nhã, Lăng-già v.v…. Nếu đức Phật không chỉ bày thì chúng sinh sẽ rơi vào lưới ma. Nay các kinh Tịnh độ đều không nói đến ma, tức biết rõ pháp này hoàn toàn không có ma.
Pháp sư Sơn Âm Khánh Văn tin chân chánh pháp môn này nên trình bày rất rõ. Nay xin trích dẫn:
Hỏi rằng: Có người nói, lúc sắp chết thấy Phật và Bồ-tát phóng hào quang, bưng đài, trổi nhạc trời, hương lạ đến tiếp dẫn vãng sinh đều là việc ma. Lời này như thế nào?
Đáp: Có người y kinh Thủ Lăng Nghiêm tu tập tam-muội, có khi phát động ấm ma. Có người y theo luận Đại Thừa tu tập tam-muội có khi phát động ngoại ma (Thiên ma). Có người nương theo luận Chỉ Quán tu tập tam-muội, có khi phát động thời mị[43]. Những người này đều tu thiền định, họ chỉ dựa vào tự lực, do tâm vốn có hạt giống ma, nay bị định kích động, cho nên mới có ra những việc ma này. Ví như người biết được, dùng cách đối trị thì có thể trừ diệt. Nếu khởi tâm chấp có thánh có phàm, đều bị ma chướng. Ở đây cho rằng pháp tu Niệm Phật tam-muội chính là nương nhờ vào Phật lực. Như gần bên nhà vua thì không có ai dám phạm. Bởi vì, Đức Phật A-di-đà có sức từ bi lớn, sức thệ nguyện lớn, sức trí huệ lớn, sức tam-muội lớn, sức oai thần lớn, sức diệt tà lớn, sức hàng phục ma lớn, năng lực của thiên nhãn nhìn thấy xa, năng lực nghe của thiên nhĩ cùng khắp, năng lực thấu triệt tâm chúng sinh, năng lực quang minh của Như Lai chiếu soi cùng khắp che chở, giữ gìn người niệm Phật. Do có những năng lực công đức không thể nghĩ bàn như thế, há chẳng thể hộ trì người niệm Phật khi sắp chết không bị chướng ngại được sao? Nếu không thể hộ trì được thì năng lực từ bi ở đâu? Nếu không trừ được ma chướng thì năng lực trí huệ, năng lực tam-muội, sức oai thần, năng lực dẹp tà ma, năng lực trừ chướng ngại ở đâu? Nếu không quán sát, để người niệm Phật bị ma làm chướng ngại thì năng lực của thiên nhãn nhìn thấy xa, năng lực của thiên nhĩ nghe cùng khắp, năng lực thấu triệt tâm chúng sinh… ở đâu? Kinh ghi: “Tướng hảo quang minh của Đức Phật A-di-đà chiếu soi khắp mười phương thế giới, chúng sinh niệm Phật được che chở, giữ gìn”. Nếu cho rằng người niệm Phật lúc lâm chung vẫn bị ma chướng thì năng lực quang minh của Như Lai chiếu soi cùng khắp che chở, giữ gìn người niệm Phật ở đâu? Huống chi người niệm Phật lúc lâm chung cảm được những cảnh tốt nói trong các kinh đều là lời Phật dạy, đâu thể chế nhạo là ma chướng. Nay cần phải quyết phá trừ tà nghi để sinh chánh tín.
Kinh Lăng-nghiêm ghi: “Trong tâm thiền định, thấy đức Phật Lô-xá-na ngự trên Thiên quang đài có mười đức Phật vây quanh”. Đây là cảnh chấp thủ của tâm linh ngộ, bởi vì tâm trí sáng suốt chiếu soi khắp các thế giới, tạm thời đạt được như thế chứ chẳng phải là chứng Thánh.
Tư Trung Sớ ghi: “Nếu tu niệm Phật tam-muội, cảnh giới hiện tiền này đúng với Khế kinh đã nói thì gọi là chánh tướng. Nếu tu các pháp quán khác, giả sử thấy hình tướng Phật cũng chẳng phải là chánh tướng, vì tâm cảnh không tương ưng”. Huống nữa quán chân như vốn không chấp giữ các tướng mà lại có chỗ đắm trước, há chẳng phải là ma sao? Tư Trung Đống phán định thật là chính xác. Nhưng vẫn dẫn chứng đầy đủ các thuyết trước để vĩnh viễn đoạn trừ nghi chướng.
5. Nêu ra sự lạm truyền
Giáo pháp Tịnh Độ được bắt đầu từ Bạch Liên Xã ở Lô Sơn, thời Đông Tấn. Về sau, các tổ tông Tịnh Độ như Thiện Đạo Huệ Nhật, Thiếu Khang …. cho đến các vị Thiền sư, Giảng sư đời trước ở triều ta, phần nhiều cũng diễn xướng pháp môn Niệm Phật. Song chỉ có pháp sư Từ Vân ở chùa Thiên Trúc nghiên cứu tột cùng giáo lý và truyền bá hưng thịnh một thời. Pháp sư biên soạn các tác phẩm Đại, Tiểu Di-đà Sám Nghi, Vãng Sinh Truyện, Chánh Tín Kệ, Niệm Phật Tam-muội Thi và các biểu đồ minh họa được lưu hành ở đời, nhưng về sau ít người kế thừa.
Thời gian biến chuyển, sự vật đổi thay, việc truyền thừa có nhiều sai phạm, giáo pháp Tịnh Độ này không bao lâu sẽ bị diệt. Cho dù đã từng nghe và tu tập, nhưng phần nhiều chỉ phỏng đoán. Nếu không phân biệt rõ ràng thì e rằng người học đời sau càng bị nhầm lẫn. Nay trích dẫn đại khái năm ba việc, để các bậc thức giả hiểu rõ điều này!
Ở Trung Quốc, sách Nho cũng nói về Tây phương, như Chu Thư Dị Kí nói: “Khi Đức Phật đản sinh, mây lành hiện trong hư không”. Thái sử Tô Do dâng tấu lên vua rằng: “Có bậc Đại Thánh nhân ra đời ở phương Tây, ngàn năm sau, giáo pháp của Ngài sẽ bao trùm khắp cõi này”. Về sau, khi Phật diệt độ, bầu trời xuất hiện 12 đường cầu vồng trắng xuyên suốt từ Nam đến Bắc. Thái sử Hỗ Đa dâng tấu rằng: “Đó là điềm báo bậc Đại Thánh nhân ở Tây phương nhập diệt!”.
Lại nữa, Liệt Tử nói: “Thuở xưa, Thái tể Bĩ nhà Thương hỏi đức Khổng Tử: Ai là bậc Thánh nhân? Khổng Tử đáp: Ở phương Tây có bậc Thánh nhân! Không cai trị mà dân không loạn, không giảng nói mà dân tự tin theo, không giáo hóa mà dân tự thực hành theo…”.
Văn Trung Tử nói: “Phật pháp là giáo ở phương Tây, còn Trung Quốc chỉ có Trọng Ni!”.
Về sau, các nhà Nho phần nhiều cho Phật giáo là giáo phương Tây, vì Thiên Trúc ở phía Tây nước Trung Quốc. Như thế, không đúng với phương Tây được nói trong kinh này.
Thử trình bày sơ lược: Một mặt trời, một mặt trăng, một tòa núi Tu-di, bốn châu thiên hạ, thì gọi là một thế giới. Như vậy, 1000 thế giới gọi là Tiểu thiên thế giới; 1000 Tiểu thiên thế giới gọi là Trung thiên thế giới; 1000 Trung thiên thế giới gọi là Đại thiên thế giới. Cảnh giới Đức Phật Thích-ca đang giáo hóa, kinh này gọi là Nam Diêm-phù-đề, chỉ là một châu trong một thế giới. Trung Quốc này chỉ là một góc của châu. Nước Ngũ Thiên Trúc[44] nằm ở chính giữa châu Diêm-phù-đề; Trung Quốc nằm ở góc Đông Nam của nước đó. Từ phương này nhìn sang phương kia, cho nên gọi là Nam Thiên Trúc là Tây phương. Nếu luận bàn về Tịnh Độ của đức Phật A-di-đà thì nằm ngoài Đại thiên thế giới, lại vượt xa hơn 10 vạn ức cõi nữa.
Ngài Trí Giả nói: “Tây phương Tịnh độ vượt ngoài ba cõi”. Như thế, đủ biết rõ Tây phương Tịnh độ so với Tây Thiên Trúc của Diêm-phù-đề này gần xa khác nhau trời vực, làm sao có thể cho là như nhau được!
Trộm xét, xưa nay có hai phương diện làm chướng ngại khiến mọi người không tin Tịnh độ: do người khác làm chướng ngại (tha chướng) và tự mình làm chướng ngại (tự chướng).
Thứ nhất, tha chướng
Thế gian lưu truyền dị thuyết, không phân biệt đúng sai, nên không tin thọ lời Phật dạy. Nay chỉ nêu sơ lược vài điều chứ không thể trình bày hết được.
Như truyện Huệ Bố trong Tục Cao Tăng Truyện, q.7 chép: “Cõi này tuy thanh tịnh, nhưng chẳng phải sở nguyện của ta. Cho dù thọ hưởng pháp lạc trong hoa sen 10 kiếp cũng không bằng chịu cực khổ trong tam đồ để cứu vớt chúng sinh”. Ở đây cho rằng Bồ-tát đạt được pháp nhẫn mới có thể chấp nhận được thuyết này, còn Bồ-tát chưa đạt được pháp nhẫn thì không thể tự cứu mình làm sao cứu được người khác.
Luận Đại Trí Độ ghi: “Phàm phu bị phiền não trói buộc mà có lòng đại bi cứu chúng sinh, hoàn toàn không có lý này”. Rõ ràng như luận Thập Nghi phá mối nghi thứ nhất. Có người cho rằng: “Nếu tâm thanh tịnh chính là tự tánh Tây phương, cần gì phải cầu sinh về Tịnh độ phương khác?”. Thật có lý này, nhưng đây là Pháp tánh lý độ trong giáo, không phải là điều mà kinh này trình bày. Như vậy phàm phu còn trói buộc chưa đạt được pháp nhẫn, giả sử đốn ngộ tự tâm, thì cũng đâu có thể hằng giữ thanh tịnh? Pháp dù có cao siêu nhiệm mầu đến đâu, nhưng không thâu nhiếp được khắp căn cơ, thì chỉ là lời nói suông, làm sao mà thể nhập.
Lại cho rằng: “Tây phương cách xa cõi này 10 vạn tám ngàn dặm”. Đây cũng là ngộ nhận Tây Trúc là Tây phương Tịnh độ. Kinh ghi: “Từ đây qua phương Tây cách hơn 10 vạn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực Lạc”, chứ đâu chỉ khoảng 18 ngàn dặm?
Nêu đại khái một vài ngộ nhận, còn những ngộ nhận khác không cần phải bàn.
Có người cho rằng mười sáu pháp quán này chỉ dành cho hàng hạ căn. Ở đây cho rằng kinh này là pháp tu của hàng thượng thừa viên đốn thành Phật. Câu “Tâm này là Phật” rút ra từ kinh này! Vi-đề-hi vừa nghe liền phá trừ vô minh, chứng đắc Vô sinh nhẫn, 500 thị nữ phát bồ-đề tâm. Há đều là hạ căn sao?
Lại cho rằng người niệm Phật, khi sắp chết cảm được Phật và Bồ-tát đến tiếp dẫn đều là nghiệp tự tâm hiện ra, thật ra không có Phật ở phương khác đến. Nay xét kỹ lời này thì có rất nhiều điểm sai lầm.
- Thứ nhất, không tin lời Phật dạy. Bởi vì cảnh chín phẩm mà người niệm Phật sắp chết cảm được trong Quán kinh đều là lời Phật dạy.
- Thứ hai, không tin vào nguyện lực của Phật. Với lòng đại từ bi, các đức Phật và Bồ-tát thệ nguyện cứu khổ ban vui, không bỏ sót một chúng sinh nào.
- Thứ ba, không tin vào Phật tánh. Thể tánh của các Đức Phật và chúng sinh đều bình đẳng, có cảm tất có ứng. Nếu Phật không ứng, không đầy đủ ba thân thì chẳng phải là Phật.
Người bị ba điều bất tín này chướng ngăn, làm sao có thể tin được?
Lại có người nói: “Chỉ có hàng phàm ngu học Phật mới cầu vãng sinh”. Ở đây cho rằng kinh Vô Lượng Thọ nói các Bồ-tát trong mười phương đều nguyện vãng sinh Tịnh độ, huống gì các bồ-tát Phổ Hiền, Thế Chí đều nguyện vãng sinh Tịnh độ. Các bậc Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, chứng đắc Bất thoái chuyển, lẽ nào là hàng phàm ngu sao? Lại nữa, trong Lương Cao Tăng Truyện có nêu ra các cao tăng đời Đông Tấn như Đạo Sinh (355 – 434), Đạo Dung (? - ?), Huệ Viễn (334 – 416), Huệ Trì (337 – 412), Nam Nhạc Huệ Tư (515 – 577), Thiên Thai Trí Khải (538 – 597), và 18 vị cao hiền ở Lô Sơn đều tu pháp môn Tịnh Độ này, lẽ nào cũng là hàng phàm ngu sao? Ông nay bị trói chặt trong ba cõi, trôi lăn trong năm trược, chịu đủ các thống khổ mà không muốn cầu giải thoát, hoàn toàn trái ngược với bậc trí, thật là điên đảo! Nếu có được sức nhẫn, thích ở trong ba cõi để cứu độ chúng sinh, thì đâu nói ra lời này làm trở ngại người khác tu tập!
Lại cho rằng: “Niệm Phật, tu quán để cầu sinh Tịnh độ đều là chấp trước và thủ tướng, thật trái với pháp tu vượt ra ba cõi!”. Ở đây cho rằng “trước” và “bất trước”, “thủ” và “bất thủ” đều do chỗ thấy có sáng suốt hay mê muội. Lẽ nào hễ thấy tu trì đều cho là trước tướng; còn buông lung, không thúc liễm tâm ý đều là người thông đạt ư? Hơn nữa, Phật dạy không trước tướng nghĩa là không chấp trước vào bốn tướng[45]: ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả, không trụ vào các tướng pháp đang tu để phá trừ chấp nhân và chấp pháp, hầu đạt được nhân không và pháp không, đâu từng cho buộc niệm, tiến tu là trước tướng?
Vả lại, người đời cạnh tranh nhân – ngã, khoa trương quyền lực, tham đắm sắc thanh, chạy theo danh lợi, gom góp tài sản, quyến luyến vợ con…. Các việc này trói buộc người từ vô thỉ, Đức Phật khuyên cần phải xa lìa, nhưng trái lại, càng thêm đắm trước. Niệm Phật tam-muội từ vô thỉ chưa từng thực hành, Phật khuyên tu tập, nhưng ngược lại nghi ngờ cho là trước tướng. Chúng sinh thật mê muội, điên đảo đến như vậy đó! Ở đây cho rằng tu niệm Phật tam-muội, nhất định không phải là trước tướng. Vì sao? Bởi vì thân Phật là vô tướng, có gì để chấp. Cho nên luận Trí Độ ghi: “Người gieo trồng vào ruộng phước Phật, gọi là chuyên tâm bám chắc vậy! Do đó, nên tùy thuận dâng hương hoa cúng dường vô tận Đức Phật”. Luận sư Long Thọ[46] há chẳng hiểu “Bát-nhã” ư, lẽ nào cũng cho “bám chắc” là trước tướng sao? Bát-nhã pháp không, vốn giúp cho người tu Lục độ không trụ tướng, nếu không tu Lục độ thì đâu cần Bát-nhã! Bậc chân chánh đắc đạo thì liễu đạt được “tu vô tu, niệm vô niệm”. Đây gọi là “trọn ngày tu mà chẳng thấy tu, suốt ngày niệm mà chưa từng niệm”. Kinh Kim Cang Bát-nhã ghi: “Không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả mà tu tất cả thiện pháp thì nhất định chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Cho nên biết bậc Bồ-tát đã liễu đạt đều đã từng tu thiện.
Lại có người cho rằng: “Khi sắp chết, nếu hành giả thấy tràng phan, hoa sen v.v… hiện trước mặt đều không nên bỏ”. Ở đây cho rằng: “Cảnh giới trước mặt hiện đến khi sắp chết, cũng có cảnh do chánh niệm thiện nghiệp cảm ứng; cũng có cảnh do tà tâm tạo ác chiêu tập, đâu thể hoàn toàn cho là việc ma. Huống chi cảnh giới ác đã mặc nhiên hiện ra theo nghiệp dẫn, há có thể do ý ông muốn lấy hay bỏ được sao? Như người tạo nghiệp đáng bị đọa vào tam đồ, khi sắp chết cảnh giới ác hiện ra trước mặt, sao không bỏ được? Cho nên biết đó là lời nói sai lầm, không đáng tin nhận!
Có người phát nguyện rằng: “Con nguyện từ nay cho đến khi thành Chánh giác, nếu chưa đạt được đạo, thì thân không mắc tật bệnh, không bị chết yểu, ngay lúc lâm chung không thấy cảnh giới ác. Sinh làm người thông minh chánh trực, không sinh vào các nước xấu ác, không gặp bạo chúa; bất cứ sinh vào chốn nào cũng được gặp Phật, nghe pháp, đồng chơn xuất gia, sống hòa hợp trong tăng chúng”. Ở đây cho rằng, nếu sinh về Tịnh độ thì hoàn toàn không có các thứ tai hoạn như tật bệnh, yểu mạng, nước ác, bạo chúa… đương nhiên được gặp Tam bảo, xuất gia làm tăng. Chỉ vì không biết có Tịnh độ nên mới phát nguyện này. Cũng giống như Trần Trừ Lăng nguyện rằng: “Nguyện được trở lại làm người, sinh vào những nơi đồng bằng thành thị…”. Ông ta là nhà Nho, nên cũng không đáng chê trách, nhưng có những vị thiền sư giảng đạo cũng có nhiều kiến giải như thế. Họ đều nói: “Chỉ nguyện đời sau không mất thân người nam, được xuất gia học đạo”. Vậy thử nói rằng: “Ông nay đã là người nam xuất gia rồi, chỉ nên cầu vượt ra ba cõi, cớ sao lại cầu được làm người nam, để trở lại xuất gia, hoàn toàn không có chí cầu tiến sao?”
Thứ hai, tự chướng
Có sáu loại:
Có người tự cho rằng Tịnh độ khó sinh về, ta không đủ sức lực, không dám mong cầu quá sức, chỉ cầu không mất thân người là đủ rồi.
Có người lại cho rằng ta phá giới phạm trai, tạo nhiều ác nghiệp, tội nặng sâu dày, làm sao có thể sinh về Tây phương Tịnh độ!
Lại có người cho rằng đức Phật giảng Tây phương là phương tiện quyền biến để dẫn dắt chúng sinh chuyên tâm làm thiện, chứ hoàn toàn không có thật. Cho nên họ thấy người tu Tịnh nghiệp thì sinh tâm cười nhạo.
Có người cho rằng, người thông minh tài trí căn cơ lanh lợi, ngộ thẳng tâm mình, những việc làm của mình đều khế hợp với đạo, há có thể cùng một hạng với những người thấp kém tu hành niệm Phật kia sao?
Có người cho rằng sinh mạng con người là do khí huyết giả hợp tạo thành gọi là thân, đến khi chết đi thì cốt hài tan nát, tất cả đều trở về không, làm gì có Tịnh độ để sinh về?
Có người nói lúc sắp chết khởi tưởng đoạt thai ấm, trong khoảng sát-na liền thay đổi quả báo, không trải qua giai đoạn gá bào thai.
Ở đây cho rằng nghiệp báo thân tâm do nhiều đời tạo thành, làm gì có thần ngã để đoạt lấy quả báo. Trộm nghĩ, thần thức linh diệu đã gá vào thai kia từ trước rồi, báo hết thì thọ sinh, chứ chẳng phải thai ấm nào khác. Giả sử có thể đoạt được, nhọc tâm khởi tưởng cầu nhập bào thai, chưa biết vì ý gì mà trái ngược lại chí nguyện xuất gia, trái với pháp môn giải thoát như thế? Huống chi Đức Phật dùng lòng từ bi chỉ bày Tịnh độ, ân cần khuyến hóa dẫn dắt cùng khắp trong kinh điển Đại thừa. Mắt thấy tai nghe mà còn nghi ngờ hủy báng, thì tự cam chịu chìm đắm luân hồi, không mong giải thoát khỏi ba cõi. Như Lai gọi những người này là kẻ đáng thương vậy. Bởi vì chúng sinh không biết pháp môn này đặc biệt, dị thường, không phân biệt hiền ngu, chẳng kể Tăng tục, không luận tu hành mau chậm, chẳng cần biết tạo tội nặng nhẹ, chỉ cần phát khởi lòng tin quyết định, liền được hạt giống vãng sinh.
Pháp sư Từ Vân nói: “Chỉ có pháp môn An dưỡng tịnh nghiệp là đường tắt đáng nên tu tập. Nếu bốn chúng, người nào muốn mau chóng phá trừ vô minh, vĩnh viễn diệt sạch tất cả các tội nặng, nhẹ, như năm tội nghịch, 10 tội ác v.v… thì nên tu theo pháp môn này. Nếu có người muốn giới thể Tỳ-kheo, Sa-di được thanh tịnh trở lại, đạt được niệm Phật tam-muội, thành tựu các pháp Ba-la-mật của Bồ-tát, nên tu học pháp này. Nếu có người muốn lúc sắp chết lìa được các cảnh sợ hãi, tự tâm được nhẹ nhàng, các bậc Bồ-tát đến trước đưa tay dẫn dắt, vừa lìa trần lao, liền đạt bất thoái; không trải qua nhiều kiếp, liền được Vô sinh, thì nên tu tập pháp môn này”. Pháp ngữ của các bậc Hiền xưa, há không tin theo sao?
Năm ý trên chỉ trình bày sơ lược những điểm cốt yếu, còn những điểm khác, không thể nêu ra hết được, trong văn giải thích sẽ trình bày chi tiết.
Xem trong Khai Nguyên Tạng Lục[47] thì kinh này có hai bản dịch. Bản dịch trước đã mất. Bản này do ngài Cương-lương-da-xá dịch.
Trong Cao Tăng Truyện ghi: “Cương-lương-da-xá, Trung Quốc dịch là Thời Xứng. Sư là người ở Tây Vực, tánh tình cương trực, lòng ít ham muốn, tinh thông Tam tạng. Vào năm Nguyên Gia thứ I (424), đời Lưu Tống, Sư đến Kinh Ấp, Trung Quốc. Vua Văn Đế rất kính phụng, nên ban chiếu thỉnh Sư trụ trì tinh xá Đạo Lâm ở Chung Sơn. Ở đây, ngài Tăng Hàm thỉnh Sư dịch kinh này và kinh Quán Dược Vương Dược Thượng, Tăng Hàm ghi chép. Về sau Sư đến du hóa ở Mân Thục[48], không bao lâu Sư trở về và thị tịch ở Giang Lăng”.
Vả lại, trong những triều đại trước cũng đã có một số Luận sư giải thích kinh này. Như đời Tùy có pháp sư Huệ Viễn[49], đại sư Thiên Thai Trí Giả đều soạn chương sớ giải thích; đời Đường có hòa thượng Thiện Đạo cũng soạn Huyền Nghĩa. Tất cả đều được lưu hành ở đời, nhưng mỗi mỗi vị đều theo chủ trương riêng mà thay nhau phế bỏ, hưng lập. Những giải thích được trình bày ở đây đều chọn lấy những ý hay, tất nhiên có nhiều chỗ sai lầm, nhưng đã được chỉnh sửa. HẾT QUYỂN THƯỢNG Chú thích: [1] Rừng gai: cõi Ta-bà uế trọc.
[2] Thai ngục: thai sinh, một trong Tứ sinh. Nỗi khổ mà người nằm trong bụng mẹ phải chịu giống như ở trong ngục. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5024).
[3] Cõi báu: cõi Tây phương Cực lạc
[4] Ao vàng: ao Bảy báu ở cõi Cực lạc.
[5] Triều âm, (Hải triều âm): âm thanh vang rền như tiếng sóng biển, thường dùng để ví dụ cho âm thanh của Phật và Bồ-tát hoặc chỉ cho sự ứng hóa của Phật và Bồ-tát.
- Kinh Đại Bảo Tích, q. 40 (Đại 11,231 hạ) ghi: “Ngôn ngữ của Như Lai tùy theo từng loài mà hiện ra để chuyển hóa họ, không thể nghĩ bàn, nay ta sẽ nói sơ lược. Này Xá-lợi tử! Lời nói của Như Lai dễ hiểu, dễ biết, hòa nhã (…) là tiếng nói Phạm thiên, tiếng nói như hải triều, mây sấm, (…) lượng như hư không, là tiếng nói thành tựu bởi tất cả các thứ nhiệm mầu”.
- Kinh Đại Phật Đảnh Thủ-lăng-nghiêm, q. 2 ghi: “Đức Phật phát khởi lòng từ bi, thương xót A-nan và đại chúng, dùng tiếng như hải triều, dạy bảo khắp chúng hội”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1755).
[6] Danh lý (Danh nghĩa): danh xưng và nghĩa lý. Như nói “Chư hành vô thường” thì “chư hành” là “Danh”; còn “vô thường” là “Nghĩa”.
Danh: tên, biểu hiện bản thể các pháp.
Nghĩa: nghĩa chân thật của bản thể các pháp.
Danh tức là tên gọi (danh) nhờ đó hiểu rõ nghĩa chân thật của bản thể các pháp. Nhưng trong đó, danh chỉ là giả lập, mặc dù nêu lên được nội dung, ý nghĩa vẫn không phải là bản thể của các pháp. Cho nên với nghĩa có hai mối quan hệ là Tương tức và Bất tức.
- Tương tức: như trong danh hiệu các Đức Phật và Bồ-tát, đã bao hàm nguyện lực và công đức rộng lớn bất khả tư nghị của các Ngài, nên danh hiệu với thật nghĩa của pháp thể không khác, danh tức nghĩa, nghĩa tức danh, gọi là danh nghĩa tương tức, danh nghĩa bất li, danh nghĩa bất nhị, cũng đồng nghĩa với Danh thể bất nhị. Ngoài ra chân ngôn, chú ngữ v.v… cũng thuộc về danh nghĩa tương tức.
- Bất tức: như lúc nói lửa thì không có nóng (nói lửa thì chỉ là Danh chứ chưa phải là lửa thật, nên không nóng). (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1034).
[7] Bản Địa, Thuỳ Tích: (còn gọi là Bản Tích): Phật và Bồ-tát vì cứu độ chúng sinh, từ chân thân của chính mình biến hóa ra rất nhiều phân thân thị hiện ra đời để hóa độ chúng sinh. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã thành Phật từ lâu xa (Bản môn), nhưng thị hiện ra liệt ứng thân 1 trượng 6 (Tích môn) để hóa độ chúng sinh. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 274; t. VI, tr. 5664).
[8] Khai Thị Ngộ Nhập: từ ngữ trong kinh Pháp Hoa nói về mục đích của Đức Phật xuất hiện ở thế gian. Khai: khai mở Như Lai tạng; Thị: hiển thị, chỉ bày; Ngộ: liễu ngộ, giác ngộ; Nhập: thể nhập vào tri kiến Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2263).
[9] Thanh giáo: Giáo pháp được tuyên thuyết bằng âm thanh. Đây chính là thanh trần trong Lục trần thuyết pháp của Phật. Ma-ha Chỉ Quán 7, hạ ghi: “Tức là Tiệm, Đốn, Bất định, Bí mật, Tạng, Thông, Biệt, Viên, nếu hiểu được ý này thì biết được Thanh giáo khai hợp, hóa đạo. (PQĐTĐ, q. 7, tr. 6496)
[10] Bán Mãn: Bán Mãn nhị giáo. Bán tự giáo và Mãn tự giáo. Bán tự là chữ cái, còn Mãn tự là ghép những chữ cái thành từ và câu. Trong năm chương của luận Tì-già-la, chương Tất-đàm thứ nhất nêu rõ Bán tự sinh ra từ; nếu học hết năm chương thì gọi là Mãn tự.
Phật giáo mượn từ Bán tự giáo để chỉ chín thể loại kinh của Thanh văn Tiểu thừa, còn Mãn tự giáo chỉ kinh Phương Đẳng của Đại thừa.
Theo kinh Niết-bàn, q. 8, ban đầu thuyết pháp, Đức Phật nói bán tự, cho là căn bản các pháp, như: kí luận, chú thuật, văn chương, các ấm đều thuộc về thật pháp. Phàm phu học lấy cho là căn bản, sau đó mới biết được pháp ấy chẳng phải là thật pháp. Lại nữa, thế pháp là bán giáo, xuất thế pháp là mãn giáo.
Tóm lại, về mặt phán giáo mà nói thì toàn bộ giáo thuyết của Phật phân làm Bán, Mãn hay Quyền, Thật. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 266 ).
[11] Chánh biến tri hải: biển chánh biến tri, tức Chánh biến tri của Phật vì sự hiểu biết của các Đức Phật đúng đắn sâu rộng như biển, không thể đo lường được nên dụ như biển. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 929).
[12] Nhất thật cảnh giới: 1. Cảnh giới giác ngộ bình đẳng chân thật; 2. Tâm thể tự tánh thanh tịnh của chúng sinh; 3. Pháp thân Như Lai. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3241).
[13] Chiêm Sát kinh: kinh, gồm hai quyển, do ngài Bồ-đề Đăng dịch vào đời Tùy, Trung Quốc, được xếp vào Đại Chính Tạng,17. Nội dung kinh nói về những giáo pháp do Bồ-tát Địa Tạng vâng ý Phật hướng dẫn chúng sinh ở đời mạt pháp tu thiện nghiệp. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 917).
[14] Thượng cầu hạ hóa: trên cầu giáo pháp của các đức Phật, dưới hóa độ chúng sinh, là nội dung hành Bồ-tát hạnh. Tự lợi, lợi tha tu hành một cách chân thật thù thắng, tự cầu bồ-đề và hóa độ chúng sinh làm cho họ chứng được bồ-đề. Thượng cầu bồ-đề là tự lợi, hạ hóa chúng sinh là lợi tha, muôn hạnh Bồ-tát không ra ngoài hai điều này. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5723).
[15] Thân độ: thân thể và quốc độ mà phàm phu hoặc Phật, Bồ-tát lãnh thọ. Tức chánh báo và y báo. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5146).
[16] Đại sự nhân duyên (Nhất đại sự nhân duyên): cảm ứng một việc lớn. Tam Tạng Pháp Số ghi: “Nhất” tức nhất thật tướng; vì thể tánh của Nhất thật tướng rộng lớn nên gọi là “Đại”; nghi thức mà Như Lai xuất thế độ sinh gọi là “Sự”; chúng sinh vốn có nhất thật tướng này mà khéo thành cơ cảm Phật nên gọi là “Nhân”; Như Lai đã chứng Nhất thật tướng này mà khởi ứng độ sinh nên gọi là “Duyên”. Tất cả Như Lai xuất hiện ở đời đều vì khai thị Thật tướng mà chúng sinh vốn có, khiến tất cả được ngộ nhập tri kiến Phật. Lìa việc này thì chẳng phải là bản hoài xuất thế của Như Lai. Một việc lớn (Nhất đại sự), chỉ việc chuyển mê khai ngộ. Luận theo các kinh thì Đại sự trong kinh Pháp Hoa là Phật tri kiến, kinh Niết-bàn là Phật tánh, kinh Vô Lượng Thọ là vãng sinh Cực Lạc. Phẩm Phương Tiện, kinh Pháp Hoa ghi: “Các đức Phật Thế Tôn chỉ vì một Đại sự nhân duyên mà xuất hiện nơi đời”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1307).
[17] Kỳ sơn (Kì-xà-đa sơn, Quật sơn): núi Kỳ-xà-quật. Trung Hoa dịch là Linh Thứu sơn, Thứu Đầu Linh sơn. Núi này ở phía Đông Bắc thành Vương Xá, thủ đô nước Ma-kiệt-đà thuộc Trung Ấn Độ, là nơi đức Phật thường đến thuyết pháp, rất nổi tiếng.
Có thuyết cho rằng đỉnh núi giống hình chim thứu, lại có thuyết cho rằng trên đỉnh núi có rất nhiều chim thứu trú ngụ, nên có tên là núi Thứu.
Đây là nơi mà đức Phật đã nhiều lần diễn thuyết diệu pháp. Vua Tần-bà-sa-la (S. Bimbisra), nước Ma-kiệt-đà, sống đồng thời với đức Phật, vì muốn đến nghe pháp nên ông đã lập nhiều công ttình to lớn từ lưng chừng núi đến đỉnh núi như đoạn đường lên núi dài khoảng 3km được lát đá thành bậc cấp, mỗi bậc rộng hơn 10 bước. Trên đỉnh núi có một đài thuyết pháp của đức Phật thuở xưa… Ngoài ra, nơi đây ông Đề-bà-đạt-đa lăn đá hại Phật. Thạch thất là nơi đức Phật và ngài Xá-lợi-phất cùng hàng Thanh văn nhập định, chỗ Tôn giả A-nan gặp Ma vương nhiễu loạn, nơi đức Phật tuyên thuyết kinh Pháp Hoa, kinh Đại Phẩm Bát-nhã, kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, kinh Vô Lượng Thọ. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2115).
[18] Tam Chủng Tịnh Phước (Tam chủng tịnh nghiệp): ba chính nhân Tịnh nghiệp, cũng là ba nhân vãng sinh Tịnh độ:
1- Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ phụng sư trưởng, từ tâm bất sát, tu tập mười nghiệp lành;
2- Thụ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi;
3- Phát tâm bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4079).
[19] Ngũ khổ: năm thứ khổ não. Ngũ khổ này, kinh luận đều nói khác nhau. Ở đây nêu ra theo kinh Ngũ Khổ Chương Cú: 1. Chư thiên khổ; 2. Nhân đạo khổ; 3. Súc sinh khổ; 4. Ngạ quỷ khổ; 5 Địa ngục khổ.
[20] Quán địa pháp: pháp quán tưởng đất, một trong 16 pháp quán. Quán tướng phía dưới có kim tràng bảy báu nâng mặt đất lưu li, trên đất lưu li có dây vàng ròng đan khít nhau, mỗi thứ báu đều có 500 tia sáng nhiều màu sắc. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5246).
[21] Phân-đà-lợi hoa (puṇḍarỵka): bạch liên hoa, tức hoa sen trắng. Hoa Phân-đà-lợi rất to và thơm ngát, cánh hoa màu trắng lung linh như bạc, thường mọc trong ao A-nậu-đạt. Hoa này mọc trong bùn nhưng không bị bùn làm nhiễm ô, cho nên trong kinh luận thường dụ cho Phật tính, Pháp tính tuy ở trong phiền não mà không bị phiền não làm ô nhiễm. Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khi hoa này chưa nở thì gọi là Khuất-ma-la (Utpala), khi sắp tàn thì gọi là Ca-ma-la (Kamala), khi đang nở gọi là Phân-đà-lợi. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3583).
[22] Quyền thừa: còn gọi là Quyền giáo, Phương tiện giáo, là giáo pháp quyền lập, tức giáo môn được lập bày bằng phương tiện quyền giả để thuận theo ý của chúng sinh; là pháp phương tiện được lập ra để dẫn dắt hành giả vào Thật giáo, sau khi đạt đến cảnh giới Thật giáo rồi thì phải phế bỏ Quyền giáo.
Đối lại với Quyền giáo là Thật giáo hay Chân thật giáo là giáo pháp chân thật rốt ráo, tức giáo pháp được nói ra từ thật nghĩa nội chứng của đức Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3892 – 3893).
[23] Sớ giải của ngài Huệ Viễn: Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ (1 quyển), do ngài Huệ Viễn Tịnh Ảnh đời Tùy soạn.
[24] Duy tâm: tất cả sự tồn tại trong vũ trụ đều do tâm biến hiện, ngoài tâm khơng có pháp nào tồn tại. Tâm là bản thể chân thật duy nhất của vạn hữu. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1147)
[25] Thiên Thai Thập Nghi Luận (Tịnh Độ Thập Nghi Luận, A-di-đà Thập Nghi Luận, Tây Phương Tập Nghi): Luận, 1 quyển, do ngài Thiên Thai Trí Khải soạn vào đời Tùy, được xếp vào Đại Chính Tạng, tập 47. Nội dung y cứ vào pháp môn vãng sinh Tịnh Độ mà nêu ra 10 câu hỏi, sau đó theo thứ tự giải đáp… (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5261).
[26] Quán thứ chín: Phật Quán (Phật thân quán, Biến quán nhất thiết sắc thân tưởng): quán tưởng chân thân của Phật Vô Lượng Thọ. Thực hành pháp quán tưởng này sẽ thấy được tất cả các đức Phật.
[27] Thú nhập: Kinh Du-già, tr. 22, q. 37 ghi: “Thú nhập nghĩa là đạt được sức tăng thượng tịnh tín; hoặc tại gia xa lìa hạnh ác, thọ trì học xứ; hoặc xuất gia xa lìa các dục, thọ trì học xứ”.
[28] Nhị đế: Chân đế và Tục đế.
Chân đế (Thắng nghĩa đế, Đệ nhất nghĩa đế): lí chân thật bình đẳng mà chỉ có trí của bậc Thánh mới nhận biết.
Tục đế (Thế tục đế, thế đế, Phú đế): chỉ cho sự tướng thế gian mà mê tình nhận biết. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3313)
[29] Quán tâm: quán chiếu tâm mình để làm sáng tỏ bản tính của tâm. Tông Thiên Thai đặc biệt thường dùng từ “Quán tâm”, như Nhất tâm tam quán, Nhất niệm tam thiên … đều là những dụng ngữ có liên quan đến quán tâm. Tu nhất tâm tam quán tức là đối với một niệm vọng tâm của chính mình phải quán nó là Giả, là Không, là Trung. Đối tượng để quán sát có: Tâm, Phật và Chúng sinh, trong đó, tự quán tâm mình là dễ dàng nhất. Vả lại, quán tâm mình cũng là quan trọng nhất, vì tâm mình là cội gốc của tất cả sự vật, cho nên nhấn mạnh việc quán bản tính của tự tâm. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa 2, q. thượng ghi: “Pháp môn được trình bày ở trên có gì khác với tâm? Chỉ vì chúng sinh pháp thì quá rộng mà Phật pháp thì quá cao siêu, rất khó đối với kẻ sơ học. Nhưng tâm, Phật và chúng sinh cả ba không sai khác, chỉ cần quán sát tự tâm thì dễ dàng hơn”. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3812)
[30] Tứ biện (Tứ vô ngại biện, Tứ vô ngại giải): bốn năng lực lí giải (tức trí giải) và năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ (tức biện tài) một cách tự do tự tại không trệ ngại. Bốn thứ này đều lấy trí huệ làm bản chất nên gọi là Tứ vô ngại trí; nếu nói theo năng lực lí giải thì gọi là Tứ vô ngại giải, còn nói theo năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ thì gọi là Tứ vô ngại biện. Đây là pháp hóa độ chúng sinh nên cũng gọi là Tứ hóa pháp.
Theo luận Câu-xá 27 thì Tứ vô ngại giải là:
1) Pháp vô ngại giải (Dharma-pratisaṃvid): tự tại diễn bày, lãnh ngộ danh cú, văn chương của Pháp, đồng thời quyết đoán được vô ngại.
2) Nghĩa vô ngại giải (Artha-pratisaṃvid): tinh thông nghĩa lí được trình bày bởi pháp, đồng thời quyết đoán được vô ngại.
3) Từ vô ngại giải (Nirktipratisaṃvid): tinh thông phương ngôn của các địa phương một cách vô ngại, tự tại.
4) Biện vô ngại giải (Pratibhna-pratisaṃvid): tùy thuận chính lí, tuyên dương vô ngại cũng gọi là Nhạo thuyết. Tức khéo tùy thuận sự mong cầu của người khác mà ưa thích nói pháp. (TĐPH Huệ Quang, t.V, tr. 4898).
[31] Bát âm: (Bát chủng thanh tịnh âm, Bát chủng phạm âm thanh, Bát phạm): tám loại âm thanh. Tiếng nói của Như Lai là lời nói thanh tịnh hòa nhã, có tám thứ công đức thù thắng, khiến cho các chúng sinh nghe rồi liền giải ngộ:
1) Cực hảo âm (Duyệt nhĩ thanh): tất cả chư thiên, Nhị thừa, Bồ-tát tuy vị nào cũng có âm thanh rất hay, nhưng chưa đạt đến chỗ tột cùng; chỉ có tiếng nói của Phật khiến cho người nghe không nhàm chán mà được vào diệu đạo. Đó là tiếng hay nhất trong tất cả tiếng.
2) Nhu nhuyến âm: do tâm tốt lành, Phật nói ra lời dịu dàng làm cho người nghe vui ưa thích, bỏ tâm cố chấp.
3) Hòa thích âm: Phật thường trụ trung đạo, khéo giải thích một cách thong dong, phát ra tiếng hòa nhã, đúng đắn, khiến người nghe sinh tâm ưa thích, thể hội được lí.
4) Tôn huệ âm: địa vị oai đức của Phật tôn quí, trí huệ thông suốt, tiếng Phật nói ra khiến người nghe tôn trọng và trí huệ được khai mở sáng suốt.
5) Bất nữ âm: Phật ở trong định Thủ-lăng-nghiêm có uy đức đại hùng, tiếng Ngài nói ra khiến tất cả người nghe kính sợ, thiên ma ngoại đạo đều qui phục.
6) Bất ngộ âm: trí huệ của Phật tròn sáng chiếu soi không ngăn ngại, tiếng nói ra chín chắn, chân thật, không sai lầm, khiến người nghe đều được chính kiến.
7) Thâm viễn âm: trí của Phật thâm sâu, địa vị hạnh nguyện cao tột, tiếng Ngài nói ra từ gần đến xa, khắp đến 10 phương, gần nghe không lớn, xa nghe không nhỏ khiến đều ngộ được lí cực kì sâu xa.
8) Bất kiệt âm: hạnh nguyện của Như Lai không cùng tận, ngoài ra trụ pháp tạng vô tận, nên tiếng Ngài nói ra khiến người nghe tìm được ý nghĩa.
Tám điều trên là nói về đức âm thanh của Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 366).
[32] Ứng tích: ứng hóa thùy tích. Phật, Bồ-tát thích ứng theo cơ duyên của chúng sinh mà từ bản thể thị hiện các thứ thân để cứu độ chúng sinh. (TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 5934).
[33] Viên quang: hào quang, vầng sáng hình tròn phóng ra từ đỉnh của Phật, Bồ-tát.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ (Đại 12, 343 trung) ghi: “Viên quang của đức Phật A-di-đà ví như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới, trong viên quang có trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 6029).
[34] Quang đài hiện độ: trong đài vàng hiện ra Tịnh độ. Quang đài là đài vàng được tạo thành do hào quang của Đức Phật. Theo phần Tựa kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Bấy giờ Đức Thế Tôn phóng hào quang ở giữa chặn mày, ánh sáng đó có sắc vàng ròng, chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương, rồi thâu trở về trên đảnh của Đức Phật, hóa thành đài vàng như núi Tu-di, các cõi nước thanh tịnh vi diệu của các đức Phật mười phương đều hiện bày trong đó”. Phu nhân Vi-đề-hi chán ngán, muốn xa lìa các khổ vui, mong cầu vãng sinh Tịnh độ, nhân thấy trong các Tịnh độ, thế giới Cực lạc ở phương Tây là thanh tịnh nhất, liền cầu sinh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà.
Thật ra, các Tịnh độ ở mười phương do đức Thế Tôn thị hiện ra vốn không hơn kém nhau, sự đoạn hoặc chứng chân, hạnh mãn quả viên của các đức Phật cũng như nhau, nhưng vì tùy cơ ẩn hiển, hóa độ theo căn cơ nên đức Thế Tôn ẩn đi sự thù thắng của các Tịnh độ khác mà chỉ hiển bày sự ưu thắng của Tịnh độ Tây phương của đức Phật A-di-đà để tiếp dẫn phu nhân Vi-đề-hi. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3828); (Từ Điển Đinh Phúc Bảo).
[35] Phạm vương Loa Kế: vị Phạm thiên vương có búi tóc hình xoắn ốc trên đảnh đầu. Vị này đã từng cùng tôn giả Xá-lợi-phất vấn đáp trên hội Duy-ma. Kinh Tâm Giới Quán Pháp, q. thượng, ghi: “Đức Loa Kế phạm vương có năng lực thấy được Tây phương Tịnh độ (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2471).
[36] Đắc ích: một khoa trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ do ngài Thiện Đạo đời Đường, Trung Quốc phân chia khi trùng tân kinh văn trong hội Vương Cung của kinh Vô Lượng Thọ.
Thông thường, kinh văn được chia thành ba phần: phần Tựa, phần Chính tông, và phần Lưu thông, tức là Tam phần khoa kinh. Nhưng ngài Thiện Đạo đem ba khoa vốn có trong hội Vương Cung chia làm bốn khoa, tức sau phần Chính tông có thêm phần Đắc ích. Phần này bắt đầu từ câu “Thuyết thị ngữ thời…” đến câu “chư thiên phát tâm”. Theo cách phân biệt của ngài Thiện Đạo thì gồ có năm hạng mục: Nội phần tổng điệp (toàn bộ phần trong), Năng văn pháp nhân (người có thể nghe pháp), Vi-đề đắc ích (Vi-đề được lợi ích), Thị nữ đắc ích (người hầu nữ được lợi ích), chư thiên đắc ích (chư thiên được lợi ích). (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1461).
[37] Phước quán: còn gọi là phước huệ, tức là sự trang nghiêm của phước đức và trí huệ. Phước là tu các nghiệp thiện như bố thí, v.v…. Quán là Quán niệm chân lý. Phước thuộc về lợi tha, Quán thuộc về tự lợi. Trong Tịnh Độ Nguyên Lưu Chương Huyền Tự ghi “Phước Huệ song tu” (Từ điển Đinh Phúc Bảo)
[38] Định thiện, Tán thiện: Định thiện là định tâm tu thiện, là pháp tu quán Phật Tam-muội. Tán thiện là Thiện nghiệp được tu tạo với tâm tán loạn. Các ngài Huệ Viễn, Trí Khải, Cát Tạng đều cho 16 pháp quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là Định thiện và Tán thiện. Ngài Huệ Viễn cho rằng tu tập ba thứ phước gọi là Tán thiện vãng sinh, tu tập 16 chính quán gọi là Định thiện vãng sinh. Nhưng ngài Thiện Đạo thì cho 13 phép quán trước là Định thiện, ba phép quán sau là Tán thiện.
Quán Kinh Huyền Nghĩa Phần (Đại 37, 246 trung) ghi: “Yếu môn chính là Định môn và Tán môn trong Quán Kinh này. Định là dứt nghĩ để lắng tâm, Tán là bỏ ác để tu thiện”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1531; t. V, tr. 4243).
[39] Chánh thọ: (Sampatti): trạng thái thiền định đã dứt hết loạn tưởng, duyên lự, lãnh thọ được cảnh sở quán. Nhờ sức định khiến cho thân tâm được an lạc, cũng như gương sáng vô tâm hiện rõ mọi vật. Quán Kinh Huyền Nghĩa Phần ghi: “Chánh thọ: tâm tưởng đều dứt, tất cả duyên lự đều quên, tam-muội tương ưng”. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 945).
[40] Huyền Nghĩa phần: phần nói về yếu chỉ sâu xa của một bộ kinh. Huyền Nghĩa Phần này được thấy trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (4 quyển) của ngài Thiện Đạo đời Đường. Nội dung gồm một bài kệ phát nguyện qui y Tam bảo và bảy môn huyền nghĩa như Tự đề, Thích danh v.v…. để giải thích về yếu chỉ của kinh Quán Vô Lượng Thọ. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 2016).
[41] Lưỡng phàm Tứ quả:
* Lưỡng phàm, tức Nhị phàm: hành giả Tam thừa trước giai vị kiến đạo là phàm vị. Phàm vị có hai:
1. Ngoại phàm: chỉ người do nghe giáo pháp mà tin, như bậc Tam hiền Tiểu thừa, hay giai vị Thập Tín của Đại thừa.
2. Nội phàm: chỉ người chân chính thực hành giáo pháp và gần đến Thánh vị, như Tứ thiện căn của Tiểu thừa, hay giai vị từ Thập trụ Đại thừa trở lên. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, t. 3332).
* Tứ quả: bốn quả vị mà hàng Thanh văn thuộc Tiểu thừa chứng được. Giai đoạn theo thứ lớp là: quả Dự Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Hoàn và quả A-la-hán. Ngoài ra, luận Câu-xá 6, có liệt kê: quả An Lập, quả Gia Hành, quả Hòa Hợp và quả Tu Tập. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4837)
[42] Bốn ma (S. Catvro mrh): bốn thứ ma cướp đi sinh mạng và huệ mạng của con người.
1. Uẩn ma (Skandha-mra): cũng gọi là Ngũ ấm ma, Ngũ chúng ma, tức là năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức chứa nhóm thành quả khổ sinh tử. Pháp sinh tử này có tác hại cướp đi huệ mạng.
2. Phiền não ma (S. Kle‘sa-mra): tức là 108 phiền não trong thân làm não loạn tâm thần của chúng sinh, cướp đi huệ mạng, làm cho không thành tựu Bồ-đề.
3. Tử ma (Mṛyu-mra): làm phân tán thân tứ đại của chúng sinh, gây ra sự chết chóc, làm cho người tu hành không thể kéo dài huệ mạng.
4. Thiên tử ma (Deva-putra-mra): Cũng gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên tử ma: Ma vương ở từng trời thứ sáu của cõi Dục, thường làm hại việc thiện của người, ganh ghét pháp Hiền thánh, gây ra những việc nhiễu loạn làm cho người tu không thành tựu thiện căn xuất thế.
Trong bốn loại ma trên, ba loại ma trước thuộc nội ma, loại ma thứ tư thuộc ngoại ma. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4083).
[43] Thời mị (Tinh mị quỉ): một trong ba thứ quỉ. Vào giờ Tí (nửa đêm), quỉ này hóa thành tinh linh con chuột hoặc hình dáng thiếu nam, thiếu nữ hoặc biến ra các tướng đáng sợ để dọa nạt hay mê hoặc người tọa thiền. Bấy giờ, người tọa thiền đều biết giờ ấy là giờ gì, nếu là giờ Tí, biết nó là loài chuột, kêu thẳng tên nó thì nó sẽ tự tan biến. (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5619).
[44] Ngũ Thiên Trúc: năm khu vực: Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung của nước Ấn Độ thời Trung cổ.
Theo Đại Đường Tây Vực Kí 2, địa phận của Ngũ Ấn như sau: chu vi rộng hơn 90.000 dặm, ba mặt đều giáp biển, phía Bắc giáp núi Tuyết, về địa hình thì phía Bắc rộng, phía Nam hẹp, có hình bán nguyệt, gồm hơn 70 nước (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3029).
[45] Tứ tướng, (Ngã nhân tứ tướng, Tứ kiến, Thức cảnh tứ tướng): bốn tướng lầm chấp đối với cá thể thân tâm của chúng sinh được nói trong kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật do ngài Cưu-ma-la-thập dịch, đó là:
1. Ngã tướng: đối với pháp ngũ uẩn, chúng sinh vọng chấp Ngã sở là thật có.
2. Nhân tướng: đối với pháp Ngũ uẩn, chúng sinh vọng chấp Ngã sinh trong nhân đạo là người, khác với các đường khác.
3. Chúng sinh tướng: đối với pháp Ngũ uẩn, chúng sinh vọng chấp Ngã nương năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hòa hợp mà sinh.
4. Thọ giả tướng: đối với pháp Ngũ uẩn, chúng sinh vọng chấp Ngã được sống trong một thời gian (từ sinh đến chết), dài ngắn khác nhau, do người mà có khác nhau. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4854).
[46] Luận sư Long Thọ (Long Mãnh, Long Thắng): Tổ của phái Trung Quán ở Ấn Độ, Tổ thứ 13 phó pháp trạng Trung Quốc, Tổ của tám tông tại Nhật Bản, sinh vào khoảng thế kỉ II, III thuộc dòng dõi Bà-la-môn, Nam Ấn Độ. Từ nhỏ, Ngài rất thông minh, đĩnh ngộ, học thông bốn bộ Phệ-đà, thiên văn, địa lí, sấm vĩ, bí tạng và các đạo thuật. Ngài từng cùng ba người bạn thân học phép tàng hình, lén vào cung vua để hành lạc. Sự việc bại lộ, ba người bạn bị vua chém đầu, riêng Ngài thoát khỏi. Do việc này, Ngài cảm ngộ được ái dục là gốc của sự khổ đau, liền vào núi đến trước tháp Phật xuất gia thọ giới. Sau khi xuất gia, Ngài nghiên cứu Tam tạng nhưng thấy chưa đủ, lại đến núi Hymalaya, được gặp một lão Tì-kheo trao cho kinh điển Đại thừa, mặc dù biết thật nghĩa, nhưng Ngài chưa thể thông suốt. Bởi Ngài từng đả phá giáo nghĩa của Luận sư ngoại đạo, cho nên sinh khởi tâm tà mạn, tự lập ra giới mới, mặc áo mới, ở riêng trong căn phòng thủy tinh. Khi ấy bồ-tát Đại Long thấy vậy thương xót, liền dẫn Ngài vào Long cung, trao cho vô lượng kinh điển Đại thừa. Lúc bấy giờ, vua Nam Thiên Trúc tin thờ Bà-la-môn giáo, công kích Phật giáo, Ngài đến đó giáo hóa, khiến vua bỏ Bà-la-môn giáo, quy y Phật giáo. Từ đó về sau, Ngài nỗ lực hoằng pháp, viết nhiều sách chú thích kinh điển Đại thừa, dựng lập thể chế cho giáo học Đại thừa, khiến cho học thuyết Bát-nhã Tánh Không đựơc truyền bá rộng rãi khắp Ấn Độ. Về già, Ngài ở núi Hắc Phong, có vị đệ tử là Đề-bà. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2491).
[47] Khai Nguyên Tạng Lục (Khai Nguyên Lục, Khai Nguyên Mục Lục, Trí Thăng Lục): mục lục, 20 quyển, do ngài Trí Thăng biên soạn vào năm Khai Nguyên 18 (730) đời Tống, Trung Quốc, được xếp vào Đại Chánh tạng, tập 55. Toàn bộ mục lục được chia làm hai phần:
1/ Tổng Quát Quần Kinh Lục: (từ quyển 1 đến quyển 10), tương đương với Đại Lục. Phần này theo thứ tự thời gian phiên dịch để nêu lên 176 tên người dịch 2278 bộ Kinh, Luật, Luận thuộc Đại, Tiểu thừa, tổng cộng 7046 quyển trong thời gian 664 năm, từ năm 67 đời Đông Hán đến năm 730 đời Đường….
2/ Biệt Phần Thừa Tạng Lục: (từ quyển 11 đến quyển 20), phần này phỏng theo cách phân loại mục lục của Pháp Kinh Lục, tương đương với Tiêu Chuẩn Nhập Tạng Mục Lục và Hiện Tạng Nhập Tạng Mục Lục. Biệt Phần Thừa Tạng Lục này lấy Kinh làm chủ yếu, phân làm bảy loại:
a) Hữu dịch hữu bản lục: có tên người dịch và có bản dịch (q. 11 đến 13).
b) Hữu dịch vô bản lục: có tên người dịch nhưng không có bản dịch (q. 14 đến 15).
c) Chi phái biệt hành lục: những bản kinh lưu hành có riêng một chi phái (quyển 16).
d) San lược phồn trùng lục: lược bỏ những rườm rà trùng lặp (q. 17).
e) Bổ khuyết thập di lục: thêm vào những chỗ còn thiếu sót (q. 17).
f) Nghi hoặc tái tường lục: giải thích rõ lại những nghi hoặc (q. 18).
g) Ngụy vọng loạn chân lục: mục lục các bản ngụy kinh (q. 18).
h) Nhập tạng mục lục: mục lục của 1076 bộ kinh điển gồm 5048 quyển được đưa vào Tạng (2 quyển cuối).
Câu “Tất cả gồm trên 5000 quyển kinh điển” bắt đầu từ đây.
Sách này ghi chép rất đầy đủ và rõ ràng, là khuôn mẫu cho các Kinh Lục và Đại Tạng Kinh đời sau. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2255).
[48] Mân Thục: tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
[49] Pháp sư Huệ Viễn (523-592) (còn gọi Tùy Viễn, Tiểu Viễn, Đại Viễn, Bắc Viễn): danh tăng Trung Quốc, thuộc phái Nam Đạo, tông Địa Luận, sống vào đời Tùy, họ Lý, người Đôn Hoàng (Cam Túc). Năm 13 tuổi Sư lễ sa-môn Tăng Tư cầu xuất gia. Năm 16 tuổi, theo Luật sư Trạm đến huyện Nghiệp Đô (tức huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam), nghiên cứu nhiều kinh điển Đại Tiểu thừa. Năm 20 tuổi, Sư y chỉ ngài Pháp Thượng thọ giới Cụ túc, học Luật Tứ Phần và những bộ luật khác với ngài Đại Ẩn….
Thời Bắc Chu, vua Vũ Đế ra lệnh phá hủy kinh tượng, bắt sa-môn hoàn tục, chúng tăng không ai dám kháng cự can ngăn, chỉ có một mình Sư dũng cảm ra biện bác. Sư nghiêm giọng tâu vua rằng: “Nay Bệ hạ cậy mình là vua nên phá diệt Tam bảo, đó là người tà kiến. Địa ngục A-tì không lựa sang hèn, Bệ hạ không sợ hay sao?” Vua nổi giận nói rằng: “Nếu làm cho trăm họ được an vui, trẫm sẵn sàng chấp nhận mọi điều khổ ở địa ngục”. Rốt cuộc nhà vua cũng phá diệt Phật pháp. Lúc ấy Sư ẩn tu ở Tây Sơn, quận Cấp, chuyên tâm trì tụng kinh Pháp Hoa, kinh Duy-ma để nguyện cầu cho Phật pháp không bị diệt mất.
Đến khi nhà Tùy hưng khởi, Sư mới khai đường giảng pháp ở Lạc Ấp, danh tiếng vang khắp xa gần, người đến qui y rất đông. Sư lại được vua Văn Đế kính trọng, ban sắc cho Sư làm chức Sa-môn Đô ở Lạc Châu. Sư mở thêm giảng đường ở các nơi như Trạch Châu, Định Châu, Thượng Đảng v.v…. và nhiều lần vâng chiếu trở về Tây Kinh, đích thân vào cung thuyết pháp cho vua quan. Vua rất vui mừng, bèn ban sắc cho Sư trụ chùa Hưng Thiện. Không bao lâu lại xây chùa Tịnh Ảnh, chuyên việc giảng dạy. Vì Sư trụ ở chùa Tịnh Ảnh nên còn gọi là Tịnh Ảnh Tự Huệ Viễn, để phân biệt với ngài Lô Sơn Huệ Viễn. Năm 587, vua sắc phong cho Sư danh hiệu Đại Đức. Năm 592, Sư lại được vua ban sắc chủ trì Dịch trường, chứng nghĩa và nhuận sắc văn. Về già, Sư lại thọ học Nhiếp Đại Thừa với ngài Đàm Thiên. Vì Sư nghiên cứu sâu xa hầu hết các học thuyết đương thời và tinh thông văn lí nên người đời gọi Sư là Thích Nghĩa Cao Tổ.
Sư thị tịch vào năm 592, thọ 70 tuổi.
Tác phẩm: Đại Thừa Nghĩa Chương (26 quyển), Thập Địa Kinh Luận Nghĩa Kí (14 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Sớ (7 quyển), Đại Bát Niết-bàn Kinh Nghĩa Kí (20 quyển), Pháp Hoa Kinh Sớ (7 quyển), Duy-Ma Kinh Nghĩa Kí (4 quyển), Thắng Man Kinh Nghĩa Kí (3 quyển), Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ (1 quyển). (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 2007).
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.119.167.189 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.