Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình.
Kinh Pháp cú
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẦN GIẢI THÍCH VĂN KINH
Giải thích văn kinh. Chia làm hai phần: giải thích đề kinh; giải thích văn kinh.
GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
Căn cứ đoạn kinh A-nan thưa hỏi Đức Phật ở sau, thì kinh nầy có hai tên: Một là Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật Quán Thế Âm Bồ-tát Đại Thế Chí Bồ-tát Kinh. Đây là căn cứ theo tâm và cảnh mà đặt tên. Hai là Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sinh Chư Phật Tiền Kinh. Đây là ý cứ theo việc phá chướng cảm báo mà đặt tên.
Trong tên thứ nhất, chữ “Quán” là chỉ cho trí năng quán; 18 chữ sau là cảnh sở quán. Cực lạc quốc độ tức y báo, bao gồm sáu pháp quán trước. Vô Lượng Thọ … tức chánh báo, bao gồm 10 pháp quán sau. Trong đó quán Phật gồm ba pháp quán trước, quán hai vị Bồ-tát gồm bảy pháp quán sau. Cho nên đề kinh này nêu đầy đủ 16 pháp quán.
“Tịnh Trừ Nghiệp Chướng” trong tên thứ hai là nêu công dụng, năng lực của 16 pháp quán. Quán thành tựu, phá chướng là thấy nhân hiện tại. “Sinh Chư Phật Tiền” là quả vị lai. Không nói riêng đức Phật A-di-đà mà nói “Chư Phật”, tức căn cứ đoạn kinh sau nói “Thấy đức Phật Vô Lượng Thọ, tức thấy vô lượng các Đức Phật trong mười phương v.v…”. Nay các nhà phiên dịch chỉ dùng tên thứ nhất, nhưng đã tỉnh lược, vì chỉ cần căn cứ vào nghĩa Chư Phật thì đã rất hợp với yếu chỉ kinh. Sớ giải của ngài Thiên Thai ghi: “Nêu chánh báo là gồm thâu y báo; nói Giáo chủ là bao hàm đồ chúng. Quán tuy có 16 pháp, nhưng pháp quán Phật là đủ khắp”. Đó là y cứ vào nghĩa nêu điểm chính yếu mà bao gồm tất cả để giải thích. Sớ giải của ngài Huệ Viễn ghi: “Kinh này lấy pháp Quán Phật làm chính, cho nên chỉ nêu pháp quán đó”. Đây là căn cứ theo nghĩa các pháp quán trợ nhau theo tông chỉ của kinh mà giải thích. Nay cho rằng hai cách giải thích sau rất đúng. Vì quán Phật là chính, nên trước phải quán cõi nước để làm nhân duyên gần, rồi từ đó quán chung quanh Phật và đồ chúng để hiển bày ý nghĩa cùng khắp. Do đó quán Phật, trong văn gọi là Niệm Phật tam-muội. Bảy chữ trước “Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật” là tên riêng, chỉ riêng cho kinh này. Còn chữ “Kinh” là tên chung, chỉ chung cho các kinh. Hai chữ “Phật Thuyết” là nêu lên Đức Giáo chủ năng thuyết. Năm chữ “Quán Vô Lượng Thọ Phật” là trình bày pháp quán được Phật giảng thuyết.
Thứ nhất, chữ Phật trong phần năng thuyết là một trong mười hiệu của Phật. Chữ “thuyết” nghĩa là làm vừa ý mọi người. Giáo chủ cõi này nhất định là Đức Phật Thích-ca, cho nên nêu danh hiệu chung. Sợ rằng cảnh sở quán ở sau lạm đến các Đức Phật khác, nên nêu cả hiệu chung và riêng.
Luận Trí Độ ghi: “Tất cả các kinh đều do năm hạng người nói ra: 1. Phật; 2. Thánh đệ tử; 3. các vị tiên; 4. các thiên ma, quỷ thần; 5. người biến hóa”.
Muốn trình bày kinh này là do chính Đức Phật thuyết, chứ chẳng phải người khác thuyết để mọi người tin thọ. Nhưng giáo pháp và giới luật chỉ do Đức Phật thuyết mới hiểu rõ những nghĩa bí mật thù thắng, nên những kinh do những người khác thuyết cần phải có Phật ấn chứng. Nhưng pháp môn Tịnh Độ trình bày trong kinh đã quyết định là do Phật thuyết thì rõ ràng chẳng phải do Tiểu thừa và phàm phu thuyết. Vì thế, có thể những kinh khác thì không cần nêu, nhưng các kinh Tịnh Độ cần phải nêu ra để chúng sinh nhận rõ.
Thứ hai, chữ “Quán” trong phần sở thuyết (Quán Vô Lượng Thọ Phật), là tâm năng quán. Bốn chữ sau là cảnh sở quán.
- Về pháp quán thì Đại thừa, Tiểu thừa đều cho thức thứ sáu (Ý thức) là thể năng quán. Trong ngũ ấm thì thuộc về hành ấm thiện, tâm thể của ba ấm trước hành ấm (sắc, thọ, tưởng) chỉ là vô ký, nên nhất định phải giữ lấy hành tạo thành nghiệp mới có thể cảm báo thọ sinh. Căn cứ đoạn văn kinh sau, hoặc gọi là quán tưởng, hoặc gọi là tư duy. Tên khác nhưng thể đồng, tất cả đều chỉ cho ý tư duy là năng quán.
- Vô Lượng Thọ còn gọi là Vô Lượng Quang, tiếng Phạn là A-di-đà, cũng chính là nguyện thứ 12 “Quang minh vô lượng” và nguyện thứ 13 “Thọ mạng vô lượng” trong 48 lời nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng. Thọ biểu thị cho phước, chính là đức Giải thoát; quang biểu thị cho trí, chính là đức Bát-nhã. Bát-nhã và Giải thoát cùng trang nghiêm Pháp thân. Tức là Đức Giáo chủ hóa độ chúng sinh ở Đồng cư tịnh độ. Lại, bồ-tát Quán Thế Âm là bậc Nhứt sinh bổ xứ, thật có thọ mạng hữu lượng, nhưng so với Thanh văn và phàm phu thì thọ mạng các ngài không thể tính đếm được, nên gọi là vô lượng. Phật, gọi đủ là Phật-đà, Trung Quốc dịch là Giác giả. Giác có hai nghĩa: Một là Giác sát: Tứ trụ[50] như giặc, chỉ có bậc Thánh giác tri mới không bị nó làm hại. Hai là Giác ngộ: Vô minh như ngủ, trí huệ của bậc Thánh một khi khởi thì như tỉnh cơn ngủ. Để phân biệt với giác ngộ của hàng Nhị thừa cho nên gọi là Đại giác; vì vượt Đẳng giác cho nên gọi là Diệu giác. Lại nữa, ở đây chỉ luận một tướng, những tướng khác sẽ nói ở phần Biệt thuyết, còn ánh sáng của thân, sẽ nói rõ trong phần Quán Phật.
Kinh, tiếng Phạn là Tu-đa-la, Trung Quốc dịch là Tuyến, nghĩa là xâu kết nghĩa lí, giữ gìn chúng sinh. Kinh có công năng xâu kết, giữ gìn giống như sợi chỉ; đó là âm thanh, danh từ, câu chữ, đoạn văn…, những phương tiện có thể diễn đạt, trình bày giáo nghĩa. Từ giáo mới biết được lý, nương vào lý mà khởi hạnh tu, nhờ tu tập nên cảm được quả. Ba phần Lý, Hạnh, Quả đều được phát sinh từ Giáo. Cho nên biết rằng vào thời Tượng pháp, Mạt pháp chỉ có Giáo là công hiệu nhất. Giáo chính là nhân duyên chứng đắc đạo quả, là nền tảng căn bản để vượt ra ba cõi. Cổ nhân chê kinh là để phá trừ tình chấp, còn người học đời sau vì vô minh mà sinh tâm khinh thường thì đoạn mất hạt giống Phật, hoại Pháp thân Phật, vĩnh viễn rơi vào đường tà, mãi chịu khổ nạn. Giả sử có người chấp ngón tay là mặt trăng, nhận lầm bè là bờ cũng chỉ bị cách xa duyên giải thoát mà thôi, chứ không mất phước báo trời người. Huống chi căn trí siêu việt thì lợi ích không thể cùng tận. Sớ xưa cho rằng: “Kinh nghĩa là phép tắc, là thường hằng; từ miệng của Thánh nhân nói ra, cho nên gọi là Kinh”.
GIẢI THÍCH VĂN KINH
Văn kinh được phân làm ba phần: Tự; Chánh; Lưu thông.
- Phần Tự: Từ đầu đến câu “Thanh tịnh nghiệp xứ”.
- Phần Chánh tông: Từ câu “Bấy giờ từ giữa chặng mày, Đức Phật phóng ánh sáng” đến câu “Vô lượng chư thiên phát tâm Vô thượng đạo”.
- Phần Lưu thông: Từ câu “Bấy giờ tôn giả A-nan bạch hỏi Phật nên đặt tên kinh này là gì?” cho đến hết.
Việc chia kinh ra làm ba phần để giải thích là bắt đầu từ ngài Di Thiên _ Thích Đạo An, nhưng có lúc đầy đủ, có lúc thiếu sót, tùy theo từng kinh, chứ hoàn toàn không nhất định.
A. PHẦN TỰ
Chia làm hai: 1) Từ đầu đến câu “Đều là Thượng thủ” là Chứng tín tự, dùng sáu việc để minh chứng, khiến cho mọi người không còn nghi ngờ. 2) Từ câu “Bấy giờ tại Vương Xá” trở đi, là Phát khởi tự. Giáo pháp không phải tự nhiên phát khởi mà phải có nguyên do. Chứng tín là tựa chung cho các kinh. Phát khởi là tựa riêng cho mỗi kinh. Lại nữa, trong phần Chứng tín, văn chung, nhưng ý thì riêng, vì pháp như thế chỉ hạn cuộc trong kinh này. Trong phần Phát khởi, văn riêng mà ý thì chung, vì đầu các kinh đều có nêu nhân duyên. Lại nữa, phần Chứng tín, lúc kết tập mới đặt tên, nên gọi là Hậu tự của kinh.
A.I. CHỨNG TÍN TỰ
Có sáu việc: 1/ “Đúng thật như thế!”, chỉ cho pháp được nói trong phần Chánh tông. 2/ “Chính tôi được nghe”, tức đích thân tôn giả A-nan nghe Phật nói, chứ không phải tự mình nói ra. 3/ “Một thời”, thời gian bắt đầu từ lúc thính chúng tập hợp cho đến khi kết thúc thời pháp, để xác định chẳng phải thời gian khác. 4/ “Phật”, đấng Giáo chủ trình bày giáo pháp chứ không phải người khác. 5/ “Thành Vương Xá”, là địa điểm thuyết kinh. 6/ “Đại chúng Tỳ-kheo v.v…” là những người cùng nghe.
1) Pháp được nói trong phần Chánh tông: “Như thị,”, vì xứng hợp với lý nên gọi là “như”; dứt trừ hết sai lầm gọi là “thị”; quyết định có thể tin nhận gọi là “Như thị” (đúng thật như thế!).
2) Chẳng phải tự thuyết: “Ngã văn” (Chính tôi được nghe), bởi vì các pháp đều vô ngã, mà vô ngã thì không nghe. Nhưng thuận theo giả danh[51] thế gian nên gọi là “ngã”.
3) Xác định chẳng phải thời gian khác: “Một thời”, thời gian Như Lai thuyết kinh có vô lượng, không thể xác định được, cho nên nói “một thời”. Vả lại cách tính năm, tháng, ngày, giờ ở Ấn Độ và Trung Quốc không giống nhau, nếu lưu truyền đến các nơi khác người ta sẽ không hiểu được. Lại nữa, có kinh ngay trong hội chưa thể hoàn tất, cho đến khi kết tập mới chỉnh sửa thành văn, do trước sau không đồng thời, khó có thể nêu ra thời gian cụ thể. Như kinh này do vua A-xà-thế tạo tội nghịch, Như Lai thuyết kinh, tôn giả A-nan thuật lại, đâu thể cho là cùng thời gian, cho nên dùng chữ “nhất” mới tóm thâu hết ý.
4) Chủ thuyết giáo: “Phật”, chữ Phật Trung Quốc dịch là Giác. Trong đó Tự giác phân biệt với phàm phu; Giác tha phân biệt với Nhị thừa; Giác mãn phân biệt với Bồ-tát nên gọi là Đại Giác. Ở đây chỉ cho Đức Phật Thích-ca khai thị pháp môn Tịnh Độ.
5) Địa điểm thuyết kinh. Có hai: Nơi giáo hóa và trụ xứ.
a. Nơi giáo hóa: Thành Vương Xá, âm Phạn là La-duyệt-kì-già-la. Luận Trí Độ giải thích: “Do vua sáng lập, nên theo đó mà đặt tên. Tức chỗ ở của vua”.
b. Trụ xứ: Trong núi Kì-xà-quật. Kì-xà-quật, Trung Quốc dịch là Linh Thứu. Vì các loài linh thiêng thường sống ở đây; hoặc cho rằng hình dạng đỉnh núi giống chim thứu, hoặc các chim thứu thường tụ tập nơi đây, nên đặt tên núi là Linh Thứu.
6) Đại chúng cùng nghe. Có hai: chúng Thanh văn và chúng Bồ-tát
a. Chúng Thanh văn: “Cùng với chúng Tỳ-kheo 1.250 vị”. Nếu luận về chí nguyện thì Bồ-tát là trước tiên, nay vì theo oai nghi nên Thanh văn đứng đầu. Thanh văn lại chia làm hai. Đại Tỳ-kheo tức hàng đệ tử thượng thủ như ngài Ca-diếp, A-nan, Mục-kiền-liên, Thân Tử v.v… Chữ “Đại” tức là khen ngợi đức hạnh, âm Phạn là Ma-ha, Trung Quốc dịch là Đại, Đa, Thắng. Vì trời người đều tôn kính cho nên nói Đại; thông thạo nhiều kinh sách nên gọi là Đa; hơn các đạo khác nên gọi là Thắng. Nếu theo nhân tu thì gọi là Tỳ-kheo, có ba nghĩa: Khất sĩ, Bố ma, Phá ác. Nếu theo quả chứng thì gọi là A-la-hán, cũng có ba nghĩa: Ứng cúng, Sát tặc và Vô sinh. Âm Phạn là Tăng-già, Trung Quốc dịch là Chúng. Bốn người trở lên sống hòa hợp, không tranh đấu, cùng nhau yết-ma, thuyết giới để giải quyết tất cả những việc diệt ác sinh thiện, cho nên gọi là Chúng. 1.250 người, là những đệ tử quyến thuộc. Ba anh em Ca-diếp có 1000 đệ tử, Mục-liên và Thân Tử gồm có 250 đệ tử. Trước đây họ đều là những người ngoại đạo thờ lửa[52], khổ hạnh lâu ngày mà không mảy may chứng đắc. Nhân một lần diện kiến Như Lai liền chứng Thánh quả, cảm kích thâm ân của Phật, nên các ngài thường theo hầu bên Phật.
b. Chúng Bồ-tát. Có ba: trình bày giai vị, liệt kê số lượng và nêu sơ lược các bậc Thượng thủ.
- Trình bày giai vị: Bồ-tát, âm Phạn là Ma-ha Bồ-đề-chất-đế-tát-đỏa, Trung Quốc dịch là Đại đạo tâm thành chúng sinh. Bồ-tát tuy có lớn nhỏ, hạnh có cạn sâu, nhưng nay đồng nghe thì đều là bậc Bổ xứ.
- Liệt kê số lượng: 32.000 vị là nêu chung quyến thuộc của các bậc thượng thủ.
- Nêu sơ lược hàng thượng thủ: Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử. Văn-thù-sư-lợi (Mađjurỵ) Trung Quốc dịch là Diệu Đức, từ pháp hóa sinh, nối thạnh giống Phật, nên gọi là Pháp vương tử. Kinh A-di-đà Đại bản[53], Tiểu bản đều liệt kê số lượng chúng rất đông. Kinh này chỉ nêu rất sơ lược, vì việc truyền dịch tùy thời mà mỗi mỗi có khác nhau. Tính ra phải nêu chúng khác như trời, người. Phần lưu thông sau có nói: “Vô lượng chư thiên, long, dạ-xoa v.v…”, đủ biết trong phần tựa đã lược bỏ.
A.II. PHÁT KHỞI TỰ
Duyên khởi của các kinh tùy theo sự việc mà không giống nhau. Kinh này lấy tội nghịch của vua A-xà-thế làm duyên khởi, lược nêu hai ý:
- Muốn nêu rõ chúng sinh ở cõi này nhàm chán cảnh xấu ác. Cha mẹ là đấng sinh thành mà còn dám làm tổn hại huống gì người khác. Ý muốn cho chúng sinh đời sau ưa thích Tịnh độ.
- Vì muốn nói chúng sinh ở cõi này nếu không gặp cực khổ thì không nhớ nghĩ đến việc thoát ly, không cầu vãng sinh, cho nen Vi-đề-hi thỉnh Phật: “Thế Tôn chỉ cho con nơi không có ưu não, con sẽ nguyện sinh về, con không ưa thích cõi ác trược Diêm-phù-đề này v.v…”. Đoạn nầy gồm hai phần: 1. Từ đầu đến “Sắc diện tươi vui” (hòa duyệt), là nêu việc A-xà-thế giam tù vua cha. 2. Từ câu “Khi ấy A-xà-thế hỏi người gác cửa” trở xuống là trình bày việc A-xà-thế muốn hại mẹ.
A.II.1. A-XÀ-THẾ GIAM TÙ VUA CHA
Có bốn ý: 1. Vua Tần-bà bị con giam trong ngục cấm; 2. Hoàng hậu bí mật mang lương khô và nước vào phụng dưỡng vua; 3. Cầu thỉnh giới pháp để giải cứu tâm; 4. Pháp thực và lương thực nuôi dưỡng, nên lâu ngày vẫn không chết.
1. Vua Tần-bà bị con trai giam trong ngục
Kinh ghi: “Bấy giờ thành Vương Xá có thái tử tên là A-xà-thế nghe theo lời dụ dỗ của Ác hữu Điều-đạt, bắt giam phụ vương là Tần-bà-sa-la vào ngục cấm bao bọc bảy lớp cửa, ban lệnh quần thần không ai được đến”.
Giải thích: A-xà-thế, Trung Quốc dịch là Vị sinh oán.
Kinh Niết-bàn ghi: “Do lúc chưa sinh, các thầy tướng số đều đoán rằng đứa trẻ này sau khi sinh ra nhất định sẽ giết hại vua cha”. Lại ghi: “A-xà là Không sinh; Thế là Oán. Bởi vì không sinh Phật tánh thì nhất định sẽ sinh phiền não oán”.
Điều-đạt gọi đủ là Đề-bà-đạt-đa, Trung Quốc dịch là Thiên Nhiệt, vì lúc sinh Ông ta thì chư thiên đều nhiệt não, nên biết ông ta ra đời nhất định sẽ phá hoại Tam bảo. Ông ta là con của Hộc Phạn vương, em họ của Phật, anh ruột của A-nan, có 30 tướng quí, xuất gia tụng thuộc 60 ngàn bài pháp, 12 thiên Phệ-đà. Vì thấy Như Lai được các vương công, đại thần quy kính ngưỡng mộ, lợi dưỡng sung túc, nên ông sinh tâm đố kị, liền đến bạch Phật xin muốn được lãnh đạo chúng tăng. Bị Phật quở trách nên ông bày mưu hãm hại Phật. Tôn giả A-nan không biết, nên truyền cho ông ta thần thông, ông vào núi tu tập, thành tựu Ngũ thông, rồi tìm đàn việt ủng hộ. Bởi Thái tử A-xà-thế có tướng làm vua, nên Đề-bà-đạt-đa hiện các thứ thần thông biến hóa khiến cho Thái tử tin nhận. Ông ta nói với Thái tử rằng: “Ta làm tân Phật, Thái tử làm tân vương, há không khoái chí sao?”. Thế rồi, dùng thần thông xô đá đè Phật, lúc ấy có thần Mật Tích Kim Cang dùng chày đánh vỡ đá, một mảnh đá nhỏ văng trúng làm tổn thương ngón chân Phật, đây là phạm tội làm thân Phật chảy máu. Sau đó, Ông ta tự xưng là Phật, rồi lập ra năm tà pháp để giáo hóa người. Năm trăm tỳ-kheo mới học như Tam văn đạt v.v…, thọ nhận tà giáo của Đề-bà-đạt-đa, lập thành đồ chúng đi khất thực riêng, bố-tát riêng, đây chính là phạm tội phá Pháp luân tăng. Tỳ-kheo ni Liên Hoa Sắc trên đường gặp và chê trách, ông ta đánh Liên Hoa Sắc lòi mắt, tức phạm tội sát hại A-la-hán. Phạm ba tội nghịch này phải sinh vào địa ngục. Còn A-xà-thế phạm tội giết cha, hại mẹ cùng tạo năm tội nghịch. Đây là Phật dùng phương tiện rộng lớn để giáo hóa, dù nghịch hay thuận cũng đều là lợi ích chúng sinh, muốn khiến cho chúng sinh đời sau không còn khởi nghiệp ác nghịch.
Kinh ghi: “Hiện tam độc, lại hiện tướng tà kiến, đệ tử ta dùng phương tiện như thế để độ chúng sinh”. Lại, kinh Niết-bàn ghi: “Đề-bà-đạt-đa không từng tạo tội nghịch và đọa địa ngục, v.v…”. Thật ra, đây chẳng phải điều mà Thanh văn, Duyên giác biết được, chỉ các Đức Phật mới thấu suốt mà thôi.
Tần-bà-sa-la, Trung Quốc dịch là Mô Thật, cũng dịch là Ảnh Kiên, nghĩa là thân thể sung mãn, hoặc là nhan mạo đoan chánh.
Bảy lớp ngục thất thì không sợ người lui tới, lại thêm những quy định nghiêm khắc để cho nhà vua mau chết đói.
2. Hoàng hậu phụng dưỡng
Kinh ghi: “Hoàng hậu Vi-đề-hi cung kính Đại vương, nên tắm rửa thân mình sạch sẽ, dùng đề hồ, mật trộn với bột bôi vào thân mình, chứa nước trái cây trong các hạt anh lạc, bí mật mang vào dâng vua dùng”.
Giải thích: Vi-đề-hi, Trung Quốc dịch là Tư Duy. Trước đặt tên này chính là lời dự đoán hôm nay thỉnh Phật thuyết Quán Kinh. Các việc: tắm rửa sạch sẽ, bôi thức ăn vào thân, đổ nước trái cây vào hạt chuỗi anh lạc, rồi lén vào trong ngục cấm, nên gọi là “bí mật”.
3. Vua thỉnh giới pháp
Có ba việc: vua Tần-bà-sa-la trình bày sự việc với ngài Mục-liên, Mục-liên ứng cơ và Đức Phật sai Phú-lâu-na thuyết pháp.
- Vua thỉnh Mục-liên
Kinh ghi: “Bấy giờ, Đại vương ăn cơm, uống nước trái cây và súc miệng xong, chấp tay thành kính hướng về núi Kỳ-xà-quật đảnh lễ đức Thế Tôn và thưa: Bạch Thế Tôn! Đại Mục-kiền-liên là thân hữu của con, cúi xin Ngài mở lòng từ bi trao cho con Tám giới”.
Giải thích: Mục-kiền-liên, Trung Quốc dịch là Thái Thúc Thị, là dòng dõi của vị Tiên nhân thời thượng cổ. Vị Tiên này hằng ngày hái đậu để ăn, nên có họ là Thái Thúc (Hái dậu). Ngài là thầy của Hoàng tộc, nên gọi là thân hữu.
- Mục-liên ứng cơ
Kinh ghi: “Khi ấy, Mục-liên bay nhanh như loài chim ưng, chim cắt đến chỗ vua, hàng ngày thường trao Tám giới cho vua như thế”.
Giải thích: Mục-liên biết đã đúng thời, hợp cơ nên đến. Bay như chim ưng, chim cắt là dụ cho thần thông rất nhanh.
Bát quan trai giới chỉ giới hạn trong một ngày một đêm, nên thọ từng ngày. Đây là quy định của nhiều tông phái. Nếu theo Thành Thật Luận thì không câu nệ thời gian ngắn dài.
- Đức Phật sai Phú-lâu-na thuyết pháp
Kinh ghi: “Đức Phật cũng sai tôn giả Phú-lâu-na thuyết pháp cho nhà vua”.
Giải thích: Phú-lâu-na, Trung Quốc dịch là Mãn Từ Tử, lấy họ cha mẹ đặt tên, là vị đệ tử thuyết pháp bậc nhất. Ngài giáo huấn rất giỏi nên được đức Phật sai đi.
4. Pháp và thức ăn nuôi dưỡng tâm và thân
Kinh ghi: “Trải qua 21 ngày như thế, nhà vua ăn cơm mật, được nghe pháp nên sắc diện được tươi vui trở lại; thức ăn để bổ thân, pháp để dưỡng tâm. Vốn có mưu đồ khiến cho vua cha chết đói, nhưng trái lại, Tần-bà-sa-la vẫn được sung mãn, do đó A-xà-thế phẫn nộ liền truy tìm nguyên do”.
Giải thích: Nếu đối chiếu với kinh Niết-bàn thì kinh này có đôi chút khác biệt. Do đó, cần phải trích dẫn.
Kinh Niết-bàn ghi: “Thái tử của vua Tần-bà-sa-la ở nước La-duyệt-kỳ tên là Thiện Kiến. Do nghiệp nhân nên sinh tâm ác nghịch, muốn hại cha của mình, nhưng việc bất thành. Bấy giờ, kẻ ác Đề-bà-đạt-đa cũng do nghiệp nhân quá khứ, sinh tâm bất thiện muốn hại ta, bèn tu tập Ngũ thông, không bao lâu đạt được thần thông, rồi kết thân với Thái tử. Vì muốn được lòng tin của Thái tử, ông ta hiển bày những phép thuật, Thái tử thấy vậy, sinh tâm cung kính, thiết lễ cúng dường.
Một hôm, Thái tử nói:
- Nay ta muốn thấy hoa Mạn-đà-la.
Đề-bà-đạt-đa liền đến cõi trời Ba Mươi Ba cầu xin loài hoa ấy, vì phước hết nên họ không cho. Khi xin hoa không được, Ông ta muốn lấy trộm, liền mất hết thần thông, phải hiện thân trở lại thành Vương Xá, trong lòng vô cùng hổ thẹn không dám đến gặp Thái tử. Ông ta bèn đi thẳng đến chỗ đức Phật xin được lãnh đạo chúng Tăng, thưa rằng:
- Nguyện xin Như Lai giao phó đại chúng này cho tôi!
Đức Phật nói:
- Kẻ ngu si kia! Những người thông minh trí tuệ như Xá-lợi-phất… ta còn không phó chúc đại chúng cho họ, huống gì ngươi là kẻ ngu si, ăn đàm dãi! (vì khi ông ta hiện thần thông, hiện làm một đứa trẻ ăn đàm dãi của A-xà-thế).
Thế là, Đề-bà càng sinh tâm độc ác gấp bội mới nói:
- Cù-đàm! Tuy ông thu phục được đại chúng, nhưng không bao lâu sẽ bị tiêu diệt.
Vừa dứt lời, cõi đất liền chấn động sáu cách[54], Đề-bà ngã quỵ xuống đất, ngay lúc đó có ngọn gió dữ nổi lên, thổi tung bụi bặm khiến toàn thân ông ta dính đầy bụi dơ.
Đề-bà nói:
- Dù ta có bị đọa vào địa ngục, nhất định phải báo mối thù này!
Đề-bà liền đứng dậy đi đến chỗ Thái tử.
Thái tử liền hỏi: Vì sao dung nhan Ngài tiều tụy, lại có vẽ áo não như thế?
- Hiện nay, tôi và Thái tử là bạn chí thân, người ta chửi mắng Thái tử, làm sao tôi không buồn được. _ Đề-bà nói.
Thái tử hỏi: Người ta chửi mắng tôi thế nào?
- Người trong nước này chửi mắng Thái tử là Vị Sinh Oán. _ Đề-bà nói.
Thái tử hỏi: Vì sao?
Đề-bà nói:
- Khi ngài chưa sinh, tất cả thầy tướng đều bảo rằng: “Sau khi ra đời, đứa bé này sẽ giết cha”. Tất cả mọi người trong cung vì muốn được lòng Thái tử nên gọi là Thiện Kiến. Vi-đề phu nhân nghe lời này, nên sau khi sinh ra ngài, mang lên lầu cao thả xuống đất làm cho Thái tử bị gãy một ngón tay, lại gọi ngài là Bà-la-lưu-chi (Trung Quốc dịch là Chiết Chỉ, Vô Chỉ). Tôi nghe việc ấy mà cảm thấy đau lòng, nhưng không thể đến nói với Thái tử được”.
Đề-bà kể những việc ác như vậy chỉ để xúi dục Thái tử giết cha.
- Nếu Phụ vương ngài chết, tôi cũng có thể giết chết Sa-môn Cù-đàm.
Thế là Thái tử bắt Phụ vương nhốt ngoài thành, dùng bốn loại binh để canh giữ. Phu nhân Tỳ-đề (Vi-đề-hi) bèn đến thăm vua. Lúc đó, người canh giữ không cho phép bà vào. Phu nhân trách mắng. Người canh giữ liền bẩm báo với Thái tử:
- Đại phu nhân muốn vào thăm Phụ vương, Ngài có cho phép vào không?
Thái tử rất tức giận liền đến trước mẹ, nắm tóc kéo, tuốt dao định giết mẹ.
Kỳ-bà khuyên can:
- Từ khi lập quốc đến nay, người nữ dù có phạm tội nặng cách mấy cũng không xử tội chết, huống gì bà ta là người mẹ đã sinh ra ngài! Thái tử nghe lời liền tha cho mẹ. Nhưng không cho Phụ vương dùng y phục, ngọa cụ, thức ăn và thuốc men. Trải qua bảy ngày thì nhà vua qua đời”.
Nay trích dẫn đoạn kinh trên để so sánh với kinh này, dù giống hay khác cũng đều là phương tiện tùy cơ, không có gì lạ.
A.II.2. A XÀ THẾ MUỐN HẠI MẸ
Có bốn đoạn:
- Từ đầu đến câu “Không cho phép ra ngoài”: Vi-đề-hi bị giam trong thâm cung.
- Từ câu “Vi-đề-hi…” trở xuống: Vi-đề-hi chí thành thỉnh Phật.
- Từ câu “Chưa nêu…” trở xuống: Phật biết việc, liền đến.
- Từ câu “Bấy giờ, Vi-đề-hi…” trở xuống: Vi-đề-hi được gặp Phật, thỉnh cầu pháp.
1. Vi-đề-hi bị giam trong thâm cung
Có ba ý: A-xà-thế cầm dao định hại mẹ, hai vị thần khuyên can nên không giết, ra lệnh giam vào thâm cung.
+ Cầm dao định hại mẹ
Có bốn ý:
- A-xà-thế hỏi người giữ cửa xem Phụ vương còn sống không?
Kinh ghi: “Bấy giờ, A-xà-thế hỏi người giữ cửa: Phụ vương đến nay vẫn còn sống sao?”.
- Người giữ cửa trả lời sự thật
Kinh ghi: “Người giữ cửa liền thưa: Tâu Đại vương! Đại phu nhân của Quốc vương bôi cơm mật trên thân, rót nước trái cây đầy trong chuỗi anh lạc, mang vào dâng nhà vua. Sa-môn Mục-kiền-liên và Phú-lâu-na từ trên hư không đến thuyết pháp cho nhà vua, không thể ngăn cấm được. Đại vương ra lệnh quần thần không được nói chuyện với Quốc hậu còn có thể được, nhưng Sa-môn từ trên không bay vào thì không thể ngăn chặn”.
Giải thích: Trình bày lời này là có ý tránh khỏi tội.
- Nhà vua tức giận mắng
Kinh ghi: “Bấy giờ, A-xà-thế nghe lời này rồi, rất tức giận, cho mẹ của mình là giặc, kết bạn với giặc. Còn bọn Sa-môn xấu ác kia dùng chú thuật huyễn hoặc khiến vua ác này trải qua nhiều ngày mà vẫn không chết!”.
Giải thích: Gọi cha là giặc, nên mẹ là bạn của giặc. Bảo Sa-môn dùng chú thuật huyễn hoặc, thì rõ ràng chẳng cho là bậc Hiền triết.
- Cầm dao muốn hại mẹ
Kinh ghi: “Liền cầm dao định hại mẹ mình”.
Giải thích: Như đã trích dẫn văn kinh Niết-bàn ở đoạn trước.
+ Hai vị cận thần khuyên can nên không giết.
Có ba ý:
- Hành lễ
Kinh ghi: “Có một vị cận thần tên là Nguyệt Quang, thông minh, tài trí cùng với Kỳ-bà đảnh lễ vua”.
Giải thích: Nguyệt Quang là tiếng Trung Quốc. Còn Kỳ-bà là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Cố Hoạt. Ông là con của bà Am-la. Sinh thời, một tay ông mang túi thuốc, một tay cầm ống đựng kim, nguyện làm thầy thuốc trị bệnh, cứu sống người, nên theo đức mà đặt tên. Cả hai vị cận thần đều đa mưu túc trí. Ý nói là bậc hiền thần.
- Dùng lời lẽ khuyên can
Kinh ghi: “Tâu rằng: Tâu Đại vương! Thần nghe kinh Tỳ-đà nói: Từ kiếp sơ cho đến nay, những ông vua ác, vì tham vương vị mà giết hại cha mình có đến một vạn tám ngàn người, nhưng chưa từng nghe có vị vua nào vô đạo hại mẹ cả. Nay vua làm việc sát nghịch này, sẽ ô uế dòng Sát-lợi, Thần không nỡ nghe Đại vương là kẻ Chiên-đà-la. Thần không nên sống ở đây nữa!”.
Giải thích: Kinh Tỳ-đà (sách thế gian), còn viết là Vi-đà, giống như sách sử ở Trung Quốc ghi chép việc xảy ra trong nước.
Tham địa vị giết cha, ở đây vẫn còn dung thứ được, nhưng giết mẹ thì trở thành kẻ vô đạo.
Bốn dòng họ ở Tây Trúc là bao gồm tất cả các dòng họ. Trong đó, Sát-đế-lợi và Bà-la-môn là hai dòng họ tôn quý. Còn Tỳ-xá, Thủ-đà là hai dòng họ thấp hèn. Sát-đế-lợi thuộc dòng vua chúa.
Chiên-đà-la, Trung Quốc dịch là Sát giả, tức bọn đầu sỏ chém giết. Vua đã vô đạo thì hiền thần không phụ giúp, do đó nói “không nên ở đây nữa”.
- Khuyên can xong muốn bỏ đi
Kinh ghi: “Bấy giờ, hai vị Đại thần nói lời ấy xong, dùng tay cắm mạnh cây mác xuống rồi lui ra”.
Giải thích: Cắm mạnh cây mác là thị uy khiến A-xà-thế phải khiếp sợ.
- Ra lệnh giam mẹ vào thâm cung
Kinh ghi: “Lúc bấy giờ, A-à-thế kinh hãi bàng hoàng nói với Kỳ-bà:
- Ngươi không vì ta sao?
- Đại vương chớ có hại mẹ! _ Kỳ-bà thưa”.
Giải thích: Vua nghe lời này bèn sám hối cầu cứu, liền buông dao, dừng tay không hại mẹ nữa, nhưng lại ra lệnh quan Nội giám giam bà vào thâm cung. A-xà-thế sợ hiền thần bỏ nước ra đi, chắc chắn xã tắc sẽ bị lâm nguy. “Không vì ta” là lời cầu cứu phò giúp. Kỳ-bà lặp lại lời khuyên can, vua hối hận mới nghe theo. Việc vua ra lệnh giam cầm mẹ trong thâm cung là lí do chính bà phát khởi thỉnh cầu kinh này.
2. Vi-đề-hi chí thành thỉnh Phật
Có ba ý:
+ Gặp cảnh khổ nghĩ đến pháp
Kinh ghi: “Khi bị giam trong thâm cung, lòng ưu sầu áo não, từ xa hướng về núi Kỳ-xà-quật, Vi-đề-hi đảnh lễ Phật”.
+ Dâng lời cung thỉnh
Kinh ghi: “Thưa rằng: Bạch đức Như Lai Thế Tôn! Trước đây, Thế Tôn thường sai A-nan đến thăm hỏi an ủi con, nay con rất buồn khổ. Thế Tôn uy đức vòi vọi, con không thể nào diện kiến được. Cúi xin Ngài cho con được gặp tôn giả Mục-liên và A-nan!”.
Giải thích: A-nan là thị giả của Phật, thường đến an ủi thăm hỏi Vi-đề-hi. Truyền pháp lợi người ắt phải nhờ vào thế lực của vua. Tuy đức Phật là bậc Thánh cao tột, nhưng Ngài uyển chuyển tùy thuận theo thường tình để làm mô phạm cho đời sau. Vi-đề-hi vì tôn kính đức Phật, nên không dám cầu thỉnh Thế Tôn, mà chỉ xin gặp hai vị đệ tử để được nghe pháp yếu.
A-nan, Trung Quốc dịch là Khánh Hỷ, cũng gọi là Vô Nhiễm, hoặc Hân Lạc.
+ Lễ thỉnh rất mực thảm thiết
Kinh ghi: “Thưa như vậy xong, bà than khóc, nước mắt như mưa, hướng về đảnh lễ đức Phật”.
3. Phật biết việc, liền đến
Có hai ý:
+ Cảm kích lòng bà, Phật liền hiện đến
Kinh ghi: “Trong lúc Vi-đề-hi đang đảnh lễ, thì Đức Phật còn đang ở tại núi Kỳ-xà-quật. Biết được tâm niệm của Vi-đề-hi, đức Phật liền bảo Mục-kiền-liên và A-nan, từ hư không đến chỗ của bà. Tù núi Kỳ-xà-quật, Đức Phật ẩn hình, liền xuất hiện ngay tại Vương cung”.
Giải thích: Biết được tâm niệm của Vi-đề-hi là trí Tha tâm thông, cưỡi hư không, ẩn mất, xuất hiện là Như ý thông.
+ Đảnh lễ chưa ngẩng đầu lên đã thấy Phật
Kinh ghi: “Khi Vi-đề-hi đảnh lễ xong, ngẩng đầu lên nhìn thấy Đức Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật với sắc thân vàng ròng, ngồi trên tòa sen báu trăm cánh, tôn giả Mục-liên hầu bên trái, A-nan hầu bên phải, trời Đế Thích, Tứ thiên vương hộ thế và chư thiên từ trong hư không cùng nhau rải hoa trời cúng dường”.
Giải thích: Thấy Đức Phật, có bốn sự thù thắng: Sắc thân, tòa sen, thị giả đứng hầu hai bên, chư thiên cúng dường.
Thích-ca, Trung Quốc dịch là Năng nhân, tức Ứng thân; Mâu-ni, dịch là Tịch mặc tức Pháp thân. Trước có Pháp thân, sau có Ứng thân, thì Báo thân cũng có trong đó.
Thích là Đế Thích, gọi đủ là Thích-đề-hoàn-nhân, Trung Quốc dịch là Năng Thiên, tức chủ cõi trời Ba Mươi Ba.
Phạm là Đại Phạm Thiên vương, tức chủ trời Sắc giới.
Hộ Thế là trời Tứ Thiên vương.
Sớ xưa hỏi rằng: “Tần-bà và Vi-đề đều thỉnh hai vị đệ tử, lí do gì mà trước đức Phật sai đệ tử đến, rồi sau đích thân Ngài đến? Ý này là thế nào?”.
Giải thích: Điều này có hai ý: Một, vì A-xà-thế giết cha, nếu Đức Phật đích thân đến trước thì ông ta khởi lên sự oán hận, vì muốn giữ tâm cho A-xà-thế, nên Đức Phật đến sau. Hai, muốn thực hành Phật pháp cần phải nhờ vào Quốc vương. Tần-bà chết thì nhất định A-xà-thế lên ngôi, nếu Đức Phật đến sau thì sẽ không làm trở ngại việc hoằng dương Phật pháp. Vì để giữ pháp, cho dù Vi-đề-hi không thưa thỉnh, đích thân Ngài đến sau cũng không phương hại gì.
4. Gặp Phật cầu pháp
Có hai ý:
* Chí thành cung kính đảnh lễ
Kinh ghi: “Vi-đề-hi nhìn thấy Đức Phật, liền cỡi chuỗi anh lạc, hướng về Phật gieo mình xuống đất, kêu gào khóc lóc”.
Giải thích: Vì bị giam cầm lâu ngày không biết khi nào mới gặp được đức Phật, nay gặp được, lòng tràn ngập bao nỗi buồn vui, bà vội vàng cỡi chuỗi anh lạc trên cổ để dâng lên đức Phật. “Gieo mình xuống đất” là tỏ lòng rất thành kính.
* Thỉnh pháp
Có hai ý: Hỏi nơi vãng sinh; hỏi nhân vãng sinh.
+ Hỏi nơi vãng sinh cũng có hai ý: Hỏi nhân túc nghiệp; hỏi nơi vãng sinh.
- Hỏi nhân túc nghiệp:
Kinh ghi: “Bạch Đức Thế Tôn! Con gây tạo nghiệp gì mà lại sinh ra đứa con ác nghịch này, lại vì nhân duyên gì mà Thế Tôn cùng với Đề-bà-đạt-đa là quyến thuộc của nhau?”
Giải thích: Tình mẫu tử của Vi-đề-hi xuất phát từ thiên tánh; tình huynh đệ của Phật đồng với thiên luân. Vậy mà họ lại sinh tâm ác nghịch, nhất định có nguyên nhân trong quá khứ! Đây chỉ là lời tự trách, nhưng bao hàm ý muốn hỏi Như Lai; chỉ là lời than thở nghiệp xưa, cũng chính là lí do trình bày thưa thỉnh.
Kinh luận phần nhiều cho rằng từ nhân đến quả, Đề-bà-đạt-đa và Phật thường não hại lẫn nhau. Bởi vì đây là phương tiện khéo léo của Phật và Bồ-tát chứ chẳng phải sự thật. Kinh Pháp Hoa ghi: “Nhờ Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa, nên ta được đầy đủ sáu ba-la-mật, cho đến qua vô lượng kiếp sau, ông ta sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai v.v…”.
- Hỏi về nơi vãng sinh
Có ba ý: Nêu tâm ưa thích và nhàm lìa; trình bày cõi đáng chán; lập nguyện xa lìa. Ba ý này là pháp môn tu hành chính yếu của chúng sinh đời sau. Nếu không đủ thì hành giả tu Tịnh nghiệp nhất định không được vãng sinh.
Tâm ưa thích và nhàm lìa:
Kinh ghi: “Cúi xin Thế Tôn chỉ cho con nơi không có sầu não, con sẽ nguyện sinh về đó, con không ưa thích cõi Diêm-phù-đề ác trược này nữa!”.
Giải thích: Nơi không có sầu não là nơi Vi-đề-hi hỏi. Lời này chung cho toàn kinh. Căn cứ theo lời Đức Phật đáp ở sau thì nơi đó chính là Tịnh độ. Cõi trời, cõi người ở Ta-bà ngũ trược này đều có sầu não, chỉ có y báo chánh báo của Tịnh độ mới tốt đẹp, chỉ thọ nhận những điều vui, không có điều sầu khổ.
Diêm-phù-đề, Diệm-phù-thiệm-bộ, Trung Quốc dịch là Thắng Kim, là đặt tên theo rừng cây. Rừng cây này ở bên sông, phân nửa cây mọc ở dưới nước, dưới đáy sông có vàng ròng chiếu sáng vào thân cây, nên đặt tên theo tên cây đó. Đề hoặc gọi là Đàn, Trung Quốc dịch là Châu, tức chỉ riêng Nam-thiệm-bộ châu. Ngày nay chỉ chung cho cõi Ta-bà, hoặc Diêm-phù-đề, là cõi ác trược nhất trong bốn châu, nên đặc biệt nêu ra.
Trình bày cõi đáng chán:
Kinh ghi: “Cõi ác trược này đầy dẫy địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhiều cảnh bất thiện tụ tập”.
Giải thích: Trược nghĩa là Ngũ trược tức năm thứ phiền não hiện hành, không thanh tịnh, cho nên gọi chung là trược, cũng gọi là Ngũ tể. Ác là Thập ác, tức giết hại, trộm cướp, v.v… Ngũ trược là chỉ chung cho y báo, chánh báo. Còn Thập ác thì chỉ riêng cho hành nghiệp của chúng sinh. Nếu xét về trược ác thì bao gồm cả sáu cảnh giới, nhưng ở đây chỉ nêu quả khổ ba đường để nói rõ cõi Ta-bà đáng nhàm chán.
“Nhiều cảnh giới bất thiện”, tức là các đường ác cùng nhóm họp ở cõi này, hoặc có thể chỉ riêng cho kẻ bất thiện trong cảnh giới người. Như lời nguyện ở sau: “Không thấy người ác, dầu kẻ oán hay người thân, kẻ nghịch hay người thuận cũng đều bất thiện”. Như vua A-xà-thế, Đề-bà-đạt-đa lẽ nào là thiện ư? Trước là giải thích theo văn kinh, sau là luận bàn theo nghĩa. Cõi ác trược này tức chỉ chỗ ở của dân chúng, thân tộc, xóm làng, quận ấp ở thế gian. Trong đó tâm hành muôn vạn sai khác, ba ác đầy dẫy đều là bất thiện. Lại nữa, cõi ác trược, tức chỉ cho tâm thức hiện tiền của chúng ta, từ vô thỉ đến nay, ba nghiệp tạo ra vô lượng vô biên nghiệp chủng[55], hằng ngày thường khởi ba ác nghiệp không thể tính kể hết, nên gọi là đầy dẫy bất thiện.
Lập nguyện xa lìa:
Kinh ghi: “Con nguyện đời sau không nghe tiếng ác, không thấy người ác”.
Giải thích: “Ngũ trược, Tam giới, Ngũ nghịch, Thập ác” đều là lời ác. Chúng sinh ở trong đó tạo nghiệp như vậy đều gọi là người ác. Thế giới Cực lạc không có danh từ ác đạo, nên hoàn toàn không có lời ác. Các bậc Thượng thiện nhân cùng ở một chỗ, nên không có người ác.
+ Hỏi về nhân vãng sinh:
Kinh ghi: “Nay con xin hướng về Thế Tôn, năm vóc sát đất cầu xin sám hối. Cúi xin Thế Tôn dạy con quán nghiệp xứ thanh tịnh”.
Giải thích: Đầu và tứ chi (hai tay, hai chân) gọi là ngũ thể. Năm bộ phận này đều đầy đủ nên gọi là ngũ luân. Năm vóc sát đất là pháp lễ kính cao nhất. Do có tội lỗi trong đời trước cho nên thọ nhận nỗi khổ này, nay muốn lìa bỏ nên cần phải cầu sám hối. Sám hối, âm Phạn là sám-ma, Trung Quốc dịch là hối vãng. Nay nói sám hối là gôp chung âm Hoa và Phạn. Có thuyết cho rằng Sám là đoạn trừ lỗi sau, Hối là ăn năn lỗi trước. Đức Như Lai thuyết pháp phá chướng trừ nghi như mặt trời chiếu soi thế gian, cho nên gọi là Phật nhật. Y báo và chánh báo ở cõi Cực lạc đều do tịnh nghiệp của chủ – bạn (Đức Phật giáo chủ và các Thượng thiện nhân) tạo thành, cho nên gọi là “Thanh tịnh nghiệp xứ”. Theo đó mà Vi-đề-hi chính thức cầu xin pháp quán, cho nên nói “dạy con pháp quán”.
B. PHẦN CHÁNH TÔNG
Có ba phần:
- Từ đầu đến câu “Na-hàm”: Phật phóng ra ánh sáng hiện quốc độ để thẩm định cơ nghi.
- Từ câu “Bấy giờ, Thế Tôn...” trở về sau: Trình bày chánh nhân quán pháp Tịnh nghiệp.
- Từ câu “Khi nói lời này…” về sau: Lợi ích và kết luận khuyên tu tập.
B.I. PHÓNG ÁNH SÁNG HIỆN CÁC QUỐC ĐỘ THẨM ĐỊNH CƠ NGHI
Có ba phần:
- Đức Phật phóng ánh sáng hiện khắp các quốc độ.
- Bà Vi-đề-hi bạch Đức Phật quyết định chọn một phương.
- Tần-bà nhờ ánh sáng chứng được đạo quả.
Đức Phật sợ rằng, chúng sinh đời mạt pháp nghĩ là có Tịnh độ khắp trong mười phương, có thể tuy nguyện vãng sinh, đâu chỉ có quốc độ A-di-đà, nên Ngài đặc biệt hiện điềm lành này để giải quyết mối nghi cho đời sau. Chúng sinh ngày nay phần nhiều có nhận thức nầy, thật đúng như Đức Phật đã tiên liệu.
1. Phật phóng ánh sáng hiện khắp các quốc độ
Kinh ghi: “Bấy giờ, ở giữa hai chặng mày của Đức Thế Tôn phóng ánh sáng màu vàng ròng chiếu khắp vô lượng the giới trong mười phương rồi thâu lại nơi đảnh của ngài, hóa làm đài vàng như núi Tu-di. Các quốc độ tịnh diệu của các Đức Phật khắp mười phương đều ở trong đó; hoặc có quốc độ do bảy báu hợp thành; hoặc có quốc độ toàn là hoa sen, hoặc có quốc độ như cung trời Tự Tại; hoặc có quốc độ như pha-lê. Hiện vô lượng quốc độ các Đức Phật trang nghiêm đáng chiêm ngưỡng như thế để cho bà Vi-đề-hi trông thấy”.
Giải thích: Giữa hai chặng mày của đức Như Lai có tướng lông trắng, dài 1,5 tấc, bên ngoài có tám góc, bên trong rỗng, trắng như ngọc tuyết, xoay tròn về phía phải. Đó là biểu hiện các pháp lưu xuất từ Trung đạo. Trước phân tán sau tụ hội là thâu tạp niệm trở về nhất niệm, đưa các pháp trở về một pháp. Đó chính vì trình bày pháp Nhất Phật thừa viên đốn cứu cánh của kinh, nên thị hiện tướng khác thường này. Đài sáng cao vòi vọi như núi Tu-di, trong đó hiện vô lượng quốc độ, không thể kể hết, nay chỉ đưa ra bốn loại quốc độ là nêu ra những cõi đáng nhìn mà thôi. “Bảy báu hợp thành” là nói quốc độ đó tôn quý. “Toàn hoa sen” là nói quốc độ đó rất tinh khiết thanh tịnh. “Như cung trời” là nói quốc độ đó sung sướng tột cùng. “Như pha-lê” là nói quốc độ đó sáng ngời. Một quốc độ có rất nhiều tướng trang nghiêm, nhưng văn kinh lược bớt, mỗi mỗi chỉ nêu một tướng là muốn nói cõi Cực lạc có đầy đủ những điều tốt đẹp khiến bà Vi-đề-hi nhìn thấy. Đây cũng chính là chủ ý “Phóng ánh sáng hiện quốc độ”.
2. Vi-đề-hi quyết định chọn một phương
Có ba ý:
- Các cõi khác chẳng phải sở nguyện.
- Chỉ cõi Cực lạc mới thích hợp với cơ duyên.
- Cầu thỉnh pháp quán vãng sinh.
Thứ nhất, các cõi khác chẳng phải sở nguyện.
Kinh ghi: “Bấy giờ, bà Vi-đề-hi bạch đức Phật: Thưa Thế Tôn! Các quốc độ Phật này tuy thanh tịnh và đều có ánh sáng, …”.
Thứ hai, chỉ cõi Cực lạc mới thích hợp cơ duyên.
Kinh ghi: “Nhưng nay con muốn sinh về thế giới Cực lạc, chỗ của Đức Phật A-di-đà”.
Giải thích: Bởi vì, ở trong cõi Ta-bà này, tâm phàm phu tán loạn, nếu không chỉ rõ một phương nhất định để chuyên quán một Phật thì khó thành tựu quán hạnh, việc vãng sinh gặp nhiều chướng ngại. Hơn nữa, ánh sáng của Phật A-di-đà thường chiếu, thệ nguyện lớn lao, cho nên sinh về một cõi mà đến khắp các cõi, quán tưởng mot Đức Phật thì đều thấy các Đức Phật. Lý nầy nói rõ trong chương Đức Phật trả lời Phổ Quảng trong luận Thập Nghi. Nghĩa chuyên tu của ngài Thiện Đạo cũng giống như ở đây vậy!
Thứ ba, cầu thỉnh pháp quán vãng sinh
Kinh ghi: “Cúi xin Đức Thế Tôn chỉ dạy cho con tư duy, dạy cho con chánh thọ”.
Giải thích: Trước tu phương tiện, khởi tâm quán cảnh là “tư duy”. Quán tưởng thành tựu, tự nhiên khế hợp gọi là “chánh thọ”. Như trong pháp Quán đất ghi: “Quán tưởng như vậy là tạm thấy được tướng đất của cõi Cực lạc, tức “tư duy”. Nếu đạt được tam-muội thì thấy được đất của cõi kia thật rõ ràng, không thể nói, tức là “chánh thọ”. Huyền Nghĩa của ngài Thiện Đạo căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm cho rằng tư duy, chánh thọ đều là tam-muội, hoàn toàn giống văn trong pháp Quán đất này.
Lại nữa, kinh Quán Phật Tam-muội ghi: “Đức Phật bảo A-nan: Sau khi Như Lai diệt độ, đệ tử nào nghe pháp này, quán pháp này, tư duy pháp này thì trong giấc mộng họ thường thấy Phật”. Lại ghi: “Có người nghe lời này, tư duy pháp này, có người chánh niệm, có người chánh thọ”. Theo đây, có thể biết Tư duy và Chánh thọ đều là pháp quán, có sâu cạn khác nhau. Vả lại, văn kinh ở trước có ghi: “Dạy con quán nghiệp xứ thanh tịnh” thì biết rằng bà Vi-đề-hi chỉ thỉnh cầu pháp quán mà thôi.
3. Tần-bà-sa-la nhờ ánh sáng chứng đạo quả
Kinh ghi: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền mỉm cười, ánh sáng năm màu phát ra từ kim khẩu của Ngài, mỗi mỗi tia sáng chiếu đến đỉnh đầu Tần-bà-bà-la. Khi ấy, Đại vương tuy ở trong chốn tối tăm, nhưng tâm và mắt không bị ngăn ngại, từ xa trông thấy đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ, tự nhiên tăng tiến thành quả A-na-hàm”.
Giải thích: Đây là ý chính về việc Như Lai phóng quang hiện quốc độ. Cơ cảm giao nhau thì thầm hợp, thầm ứng, nên Ngài mỉm cười.
Kinh Quán Phật Tướng Hải ghi: “Thông thường, mỗi khi Đức Phật mỉm cười đều có phát ra ánh sáng năm màu”. Ánh sáng năm màu phát ra từ kim khẩu Đức Phật chiếu trên đảnh đầu nhà vua là nhờ Phật lực gia bị khiến vua chứng đạo quả; nhờ ánh sáng thấy Phật mà tỏ ngộ vô thường, phát trí đoạn hoặc, liền chứng quả A-na-hàm. A-na-hàm, Trung Quốc dịch là Bất hoàn, kết hoặc[56] sắp hết không còn trở lại thế gian. Xét việc “Tần-bà thấy Phật đắc quả” này, lẽ ra cùng nghe pháp quán với phu nhân mới hợp lý. Thế nhưng, trong phần Kết luận nêu lợi ích ở sau, chỉ nêu bà Vi-đề-hi và trăm người thị nữ, thì biết Tần-bà chứng quả, liền nhập diệt.
B.II. CHÁNH NHÂN PHÁP QUÁN TỊNH NGHIỆP
Có hai ý:
- Đức Như Lai hứa khả.
- Chỉ dạy.
1. Đức Như Lai hứa khả
Kinh ghi: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo bà Vi-đề-hi: Nay ngươi biết không? Đức Phật A-di-đà cách đây không xa, ngươi nên chuyên niệm quán tưởng để thành tựu Tịnh nghiệp ở cõi nước kia. Nay ta sẽ nói rõ các thí dụ cho ngươi, cũng khiến cho tất cả hàng phàm phu ở đời vị lai, người nào muốn tu Tịnh nghiệp thì được sinh về cõi Cực lạc Tây phương”.
Giải thích: Trước hết thẩm định “có biết không” la muốn nói: nếu Đức Phật không chỉ bày ra thì không ai biết được Tịnh độ. Kinh A-di-đà ghi: “Từ đây đi qua Tây phương cách mười vạn ức cõi Phật”. Nhưng ở đây nói không xa, có ba cách giải thích:
- Một, dùng Phật nhãn quán thấy, như kinh Lăng-nghiêm nói: “Thiên nhãn quán Đại thiên thế giới như nhìn quả am-la trong lòng bàn tay, huống gì là Phật nhãn?” Giống như đưng trên núi cao nhìn xuống thì thấy suốt cả ngàn dặm.
- Hai, tâm niệm rất nhanh, không có gì ngăn ngại, cho dù cách xa muôn dặm hễ khởi tâm là đến.
- Ba, năng lực Phật nhiếp hộ. Tuy chưa đạt thần thông, nhưng nương vào năng lực của Phật cũng đến được. Như luận Thập Nghi ghi: “Người yếu mà nương theo Luân vương thì một ngày đêm có thể đi khắp thiên hạ, như ruồi xanh bám đuôi tuấn mã”.
Nói “thành tựu Tịnh nghiệp” là gồm chung cả y báo và chánh báo ở cõi kia. Vì chúng sinh chưa nhận biết cảnh giới Cực lạc, Đức Phật dùng vật để so sánh, nên gọi là “thí dụ”. Như văn ở sau ghi: “Như ngàn mặt trời, ánh sáng ấy rực rỡ…”. Nói “cũng khiến cho đời sau” là trình bày bản ý kinh này, chứ không phải chỉ có hàng đương cơ.
2. Chỉ dạy
Có hai ý: Trước trình bày phước nghiệp, sau nói chánh quán.
Thứ nhất, Phước nghiệp
Sở dĩ trước tiên trình bày ba phước, vì đó là việc mà người tu tập quán hạnh cần phải thực hiện. Nếu không có quán thì không biết lấy gì đưa đến phước; không có phước thì không biết lấy gì thành tựu quán. Có quán mà không phươc thì thiếu trang nghiêm; có phước mà không quán thì sẽ bị dẫn dắt vào cõi khác. Thiếu trang nghiêm thì không đạt được quả báo thù thắng; bị dẫn vào cõi khác thì làm sao vãng sinh? Hai pháp này trợ giúp nhau thì mới đạt lợi ích lớn. Gởi lời này đến người học, xin chuyên tâm nghiên cứu, đừng mê lầm giữa hai lối mà lạc bước, sai đường.
Nay giải thích ba phước, có ba ý: Nêu chung, giải thích riêng, tổng kết.
* Nêu chung
Kinh ghi: “Nếu người nào muốn sinh về nước kia, nên tu tập ba phước”.
Giải thích: Muốn sinh là nói đến chí nguyện. Nên tu tập là dạy phải làm.
* Giải thích riêng
Kinh ghi: “Thứ nhất, hiếu dưỡng mẹ cha, phụng thờ sư trưởng, tâm từ không giết hại, tu tập mười nghiệp lành”.
Giải thích: Đã là nhân ba đời của các Đức Phật, thì biết đó là đại hạnh của Bồ-tát, cũng là cộng nghiệp phàm phu, cộng nghiệp Nhị thừa và bất cộng nghiệp Đại thừa.
Trong bốn việc này, hai việc đầu (hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng) là hạnh báo ân cha mẹ sinh dưỡng, ân sư trưởng nuôi dạy. Hai việc sau (từ tâm không giết hại, tu tập mười nghiệp lành) là lìa các hạnh ác. Không giết hại là đứng đầu mười nghiệp lành, cho nên đặc biệt nêu ra. Thân trừ ba hạnh tà, miệng lìa bốn lỗi vọng, ý đoạn ba điều ác.
Kinh ghi: “Thứ hai, thọ trì Tam quy, giữ đầy đủ các giới, không phạm oai nghi”.
Giải thích: Trong ba việc trên, việc thứ nhất là phá dẹp tà Tam quy. Từ xưa đến nay, hàng phàm phu bị trói buộc trong tà ma, nay tác pháp hồi đầu, mong cầu cứu hộ. Nếu người nào chỉ thọ Tam quy thì có thiện mà không có giới. Còn nếu người nào giữ đủ các giới ắt gồm cả Tam quy. Hai việc sau là thọ giới pháp, tại gia năm giới và tám giới, xuất gia mười giới và Cụ túc giới, gọi là “các giới”. Thọ trì không khiếm khuyết nên gọi là “đầy đủ”. Oai nghi cũng là giới, nhưng nhỏ nhặt rất khó giữ, phần nhiều người hay phạm phải, nên phải nêu rõ.
Kinh ghi: “Thứ ba, phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến khích người tiến tu”.
Giải thích: Trong bốn việc này, việc thứ nhất là phát Đại tâm. Bồ-đề dịch là Đạo, là Vô thượng đạo tâm. Thứ hai, khởi tâm rộng lớn: Tất cả nhân quả thiện ác, tâm ta đều hiểu rõ, sợ hãi và thận trọng nên gọi tin sâu. Thứ ba, sinh hiểu biết rộng: kinh giáo vốn là nguyên nhân phát sinh trí tuệ. Thứ tư, tu hạnh lớn: khuyến khích người tu hành không để họ lui sụt. Ba việc trước là tự lợi, một việc sau là lợi tha.
* Tổng kết
Kinh ghi: “Ba việc đó gọi là Tịnh nghiệp. Đức Phật lại bảo Vi-đề-hi: Nay ngươi biết không? Ba nghiệp này là chánh nhân Tịnh nghiệp của các Đức Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai!”.
Giải thích: Quả đức của ba đời nhờ đây mà được thành tựu, nên gọi là chánh nhân.
Thứ hai, chnh quán
Có bốn ý: Bảo lắng nghe lời chỉ dạy; khen ngợi việc thỉnh pháp; khuyến khích dặn dò; dạy pháp.
* Bảo lắng nghe lời chỉ dạy
Kinh ghi: “Đức Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hi: Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Nay Đức Như Lai vì những chúng sinh bị giặc phiền não làm hại trong đời vị lai mà nói Tịnh nghiệp”.
Giải thích: “Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ” chính là Văn huệ và Tư huệ[57]. Vị lai là chỉ cho đời Tượng pháp và Mạt pháp[58]. “Chúng sinh bị giặc phiền não làm hại” chính là hang phàm phu bị trói chặt. “Tịnh nghiệp” chính là 16 pháp quán.
* Khen ngợi việc thỉnh pháp
Kinh ghi: “Giỏi thay Vi-đề-hi! Ngươi khéo hỏi việc này!”.
Giải thích: Làm vui lòng Phật nên gọi là khéo hỏi.
* Khuyến khích dặn dò
Có ba ý: Nói đây là giáo pháp của Phật, nương theo giáo pháp tu hành, nhờ tu tập mà chứng đắc.
- Nói giáo pháp của Phật
Kinh ghi: “A-nan! Ông nên thọ trì đầy đủ rồi, tuyên thuyết lời Phật dạy cho đại chúng! Nay Như Lai dạy Vi-đề-hi và tất cả chúng sinh đời vị lai quán thế giới Cực lạc Tây phương”.
Giải thích: A-nan là đệ tử đa văn, Như Lai khuyên thọ trì lời dạy, là vì ở trong cung số người nghe quá ít. Ý Đức Phật muốn bảo A-nan sau khi trở về Kỳ-xà quật, phải trùng tuyên lời Ngài dạy, nên dặn dò A-nan như vậy. “Nay Như Lai…” là lời phó chúc cho A-nan.
- Nương giáo pháp tu hành
Kinh ghi: “Nhờ năng lực của Đức Phật mà bà Vi-đề-hi thấy được cõi thanh tịnh kia, như cầm gương sáng soi mặt mình”.
Giải thích: Kinh do Đức Phật thuyết là năng lực của Phật, chính là phương tiện đặc biệt của Như Lai.
- Nhờ tu tập mà chứng đắc
Kinh ghi: “Thấy những việc kỳ diệu vui sướng ở quốc độ kia, nên tâm bà vui mừng, ngay lúc đó liền được Vô sinh pháp nhẫn”.
Giải thích: Địa vị Vô sinh pháp nhẫn tương đương với Sơ trụ. Nếu có năng lực cong đức quán pháp mạnh thì hiện đời có thể chứng đắc. Theo văn quán Phật ở sau, tức chỉ cho tướng sinh về nước kia, rồi mới được chứng đắc. Văn sau ghi: “Xả thân ở thế giới khác, sinh về chỗ các Đức Phật, đạt Vô sinh pháp nhẫn!”
* Dạy pháp
Có ba ý: Nêu nguyên nhân bà Vi-đề-hi thấy cõi nước; vì đời sau thưa hỏi phương pháp ấy; Như Lai đáp lời thỉnh cầu.
Thứ nhất, nêu nguyên nhân bà Vi-đề-hi thấy quốc độ
Kinh ghi: “Đức Phật bảo Vi-đề-hi: Ngươi là phàm phu, tâm tưởng thấp kém, chưa được thiên nhãn, không có khả năng từ xa quán thấy các Đức Phật. Như Lai có phương tiện đặc biệt khiến ngươi được thấy các Đức Phật”.
Giải thích: Đó là Phật và Bồ-tát dùng phương tiện khéo léo dẫn dắt chúng sinh đạt đến đạo chân thật, cho nên thị hiện đồng với phàm phu. Thiên nhãn là một trong sáu thần thông, dù chướng ngại, trong ngoài cũng đều thấy được. Hàng phàm tiên, tiểu thánh dù đắc thiên nhãn thì cũng không thể thấy được cõi tịnh ở phương xa. “Phương tiện đặc biệt”, nếu đối với đương cơ, thì chính là thị hiện quốc độ ở trong đài ánh sáng, khiến bà Vi-đề-hi nhìn thấy. Căn cứ theo Luận để trình bày Giáo, thì 16 pháp quán chỉ để giáo hóa chúng sinh đời vị lai. Nói các Đức Phật là muốn nói trí phương tiện của tất cả các Đức Phật đều đồng nhau.
Thứ hai, vì chúng sinh đời sau mà thỉnh phương pháp ấy
Có ba ý: Nêu điều mình thấy được; thương xót người khác không thấy; thỉnh cầu.
* Nêu điều mình thấy được
Kinh ghi: “Bấy giờ, bà Vi-đề-hi thưa Đức Phật: Kính bạch đức Thế Tôn! Như nay, con nhờ năng lực của Phật mà thấy được quốc độ ấy”.
* Thương xót người khác không thấy
Kinh ghi: “Nếu sau khi Đức Phật diệt độ, các chúng sinh ở trong đời ác trược bất thiện, bị năm khổ bức bách”.
Giải thích: Đây là do lòng đại bi của các Đức Phật, Bồ-tát phương tiện hiện ra để cứu độ chúng sinh chứ bà Vi-đề-hi không phải ở địa vị phàm phu! Về năm khổ, Sớ ghi: “Năm đường đều không sung sướng; nếu thêm A-tu-la[59], thì thành sáu. Hoặc theo kinh A-di-đa (Đại bản) thì cho năm ác, năm thống, năm thiêu[60] là năm khổ. Trong đó năm ác chính là năm tội nặng mà Đức Phật đã chế năm giới cấm. Nếu người nào phạm năm việc ác này dẫn đến phạm vào quốc pháp là năm thống, sau đó đọa vào ba đường là năm thiêu.
* Chính thức thỉnh cầu
Kinh ghi: “Làm sao thấy được Đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc?”
Giải thích: Chúng sinh đời sau, sinh ra không gặp Phật, trược ác hưng thịnh, bị nhiều nỗi khổ bức bách. Có những nghiệp chướng như vậy, nên nghi ngờ không thấy được cõi Phật. Vậy, bằng cách nào giúp cho chúng sinh thấy được cõi Phật?
Thứ ba, Như Lai trả lời
Có hai ý: Chỉ dạy cách buộc niệm quán tưởng; nêu 16 pháp quán.
* Chỉ dạy cách buộc niệm quán tưởng
Kinh ghi: “Đức Phật bảo bà Vi-đề-hi: Ngươi và chúng sinh phải chuyên tâm buộc niệm một chỗ, tưởng đến cảnh Tây phương!”.
Giải thích: Giáo quán Tịnh độ quan trọng ở chỗ chuyên nhất, cần chỉ rõ một phương nhất định để tâm hướng đến. Cho nên, phóng ánh sáng hiện cõi Phật là ý này! Do đó, trong luận Thập Nghi gọi là Nhất tướng Tam-muội, kinh Văn-thù Bát-nhã gọi là Nhất hành Tam-muội. Pháp quán nầy có ba điểm bất đồng với các pháp quán khác:
1/ Những pháp quán khác thì không định rõ phương hướng; ở đây chỉ rõ phương Tây;
2/ Những pháp quán khác thì thâu tâm, nhiếp niệm; còn ở đây quán tưởng đến phương kia;
3/ Những pháp quán khác cùng khắp tự tha; ở đây chỉ duyên vào cảnh Thánh, Nghĩa môn đầy đủ, tâm cảnh rõ ràng. Ngược lại với pháp quán này, tu tập pháp khác đều gọi là tà quán.
* Nêu 16 pháp quán
Các Sớ xưa thường nói rộng về Huyền đàm[61], ngay cả văn quán cũng lược bớt rất nhiều. Nay cho rằng văn quán mang yếu nghĩa trọng tâm, nên cần phải giải thích kỹ. Những người nghe và tu tập nhất định phải lưu tâm đến vấn đề này.
Trước tiên, nêu phần tổng quát, sau đó giải thích riêng từng phần; 16 pháp quán này chia làm hai phần: Pháp quán thứ nhất, quán tướng mặt trời lặn là chỉ định phương hướng; 15 pháp quán sau là quán về y báo và chánh báo của cõi Cực lạc.
Pháp quán thứ nhất là tổng thâu 15 pháp quán sau. Các pháp quán sau là quán riêng từng cảnh, chứ không thâu nhiếp nhau. 15 pháp quán sau lại chia làm hai: năm pháp quán trước là quán sự trang nghiêm của y báo và chánh báo, 10 pháp quán sau là quán sự thù thắng của y báo và chánh báo ở cõi Cực lạc. Trong năm pháp quán trước lại chia làm hai: Hai pháp quán trước là quán cảnh giới sở y. Đó là quán nước thành băng, quán băng thành đất. Ba pháp quán sau là quán tướng trang nghiêm ở cõi Cực lạc. Quán quốc độ trang nghiêm không ngoài ba loại: Quán cây là quán rừng rậm, quán ao là quán dòng suo, quán lầu là quán lâu đài. Quán đất là gồm chung cả ba quán trên, bởi vì cây … đều nương trên đất. Mười pháp quán sau lại chia làm bốn: Ba pháp quán trước là quán Phật, trong đó, pháp quán thứ bảy là quán chỗ ngồi của Phật, pháp quán thứ tám là quán tượng, biểu trưng cho Phật thật. Pháp quán thứ chín là quán tướng Phật. Pháp quán thứ muời, muời một là quán thị giả hầu hai bên Phật. Pháp quán thứ mười hai, mười ba là Phổ quán và Tạp quán Tam thánh. Pháp quán mười bốn, mười lăm, mười sáu là quán đồ chúng của Đức Phật có ba bậc thượng, trung, hạ khác nhau.
Nếu theo sự phân chia này, thì yếu chỉ của toàn bộ kinh rõ như trong lòng bàn tay. Còn theo từng pháp quán một thì được trình bày như sau:
Pháp quán thứ nhất: QUÁN MẶT TRỜI LẶN
Có ba phần: Cảnh sở quán, tưởng năng quán, kết luận.
1. Cảnh sở quán
Kinh ghi: “Khởi tưởng như thế nào? Tất cả chúng sinh nếu chẳng phải là người mù bẩm sinh thì đều thấy tướng mặt trời lặn”.
Giải thích: Phương hướng mênh mông, không có vật định hướng. Như mặt trời lặn, người có mắt đều thấy rõ, dễ quán, nên lấy hướng đó làm tiêu chuẩn. Sớ ghi: “Lấy mặt trời lặn treo lơ lững làm mục tiêu quán tưởng” chính là ý này vậy. Khởi tưởng chính là quán.
2. Tưởng năng quán
Có bốn ý:
Thứ nhất, nghi thức tu tập
Kinh ghi: “Khi khởi tưởng niệm phải ngồi ngay thẳng, mặt hướng về phương Tây”.
Giải thích: Khởi tưởng là phát khởi quán, ngồi ngay thẳng là thân có oai nghi; kiết già hoặc bán già, thân ngay thẳng, hai bàn tay xếp lên như ngồi thiền. Cho nên, trong Cao Tăng Truyện các vị cao tăng thời nhà Tấn, khi ngồi không quay lưng về phương Tây là bởi tuân thủ pháp nghi này.
Thứ hai, tướng quán tưởng
Kinh ghi: “Quán thật kỹ chỗ mặt trời sắp lặn, khiến tâm trụ vững, chú tâm quán tưởng không dời”.
Giải thích: Khi đó, tâm cảnh tương ứng, vắng lặng bất động, chính là thể của định.
Thứ ba, thành tựu tướng quán
Kinh ghi: “Thấy tướng mặt trời sắp lặn như trống treo lơ lững”.
Giải thích: Khi sắp lặn thì mây tan, ánh sáng thâu lại, mặt trời tròn như mặt trống treo lơ lững giữa hư không.
Thứ tư, khuyên thường quán
Kinh ghi: “Khi đã thấy mặt trời lặn rồi, dù nhắm mắt hay mở mắt đều thấy rõ”.
Giải thích: Quán tưởng thành thì tướng mặt trời hiện, niệm niệm miên mật, tự nhiên không quên.
3. Kết luận
Kinh ghi: “Pháp quán mặt trời lặn này là pháp quán thứ nhất”.
Trong 15 pháp quán sau, khi pháp quán tưởng nước sắp thành tựu thì thấy cõi này kết thành băng. Còn pháp quán nước ở trong pháp quán thứ năm, chính là quán ao nước ở cõi kia, tên pháp quán tuy giống nhau, nhưng cách thức quán khác, người học cần phải biết.
]
Pháp quán thứ hai: QUÁN NƯỚC
Có hai ý: Cảnh sở quán; kết luận.
Quán tưởng nước chính là quán đất. Đất báu lưu ly toàn cõi này không có, nhưng nói mặt nước đóng băng thì mọi người đều biết. Đó là nhờ cái nầy để thấy cái kia, dùng tương tợ để so sánh với chân thật, cho nên trước quán nước thành băng, sau quán băng thành đất báu. Đó chính là điều Sớ ghi: “Nước kết thành băng, chính là để biểu hiện cho đất lưu ly”.
1. Cảnh sở quán
Có hai: Quán tưởng nước; quán tưởng đất.
Thứ nhất, quán tưởng nước
Có ba ý: Quán tưởng nước; quán nước thành băng; quán băng thành lưu ly.
* Quán tưởng nước
Kinh ghi: “Tiếp đến, quán tưởng nước, quán thấy nước trong suốt, rõ ràng, ý không phân tán”.
Giải thích: Thấy nước trong suốt, vắng lặng không dao động, nên bảo ý chuyên chú không phân tán.
* Quán nước thành băng
Kinh ghi: “Đã thấy nước rồi nên khởi tưởng quán băng”.
* Quán băng thành lưu ly
Kinh ghi: “Thấy băng trong suốt thì khởi tưởng quán lưu ly”.
Thứ hai, quán tưởng đất
Có ba ý: Thể đất trong suốt; dưới đất có tràng nâng đỡ; trên đất có vật trang nghiêm.
* Thể đất trong suốt
Kinh ghi: “Quán tưởng này thành rồi thì thấy đất như lưu ly, trong ngoài đều trong suốt”.
* Dưới đất có tràng nâng đỡ
Có hai ý: Thể tràng; ánh sáng phản chiếu lên.
+ Thể tràng
Kinh ghi: “Dưới có tràng kim cang bảy báu nâng đỡ đất lưu ly, tràng ấy có tám góc, tám mặt; mỗi mỗi mặt được tạo thành bởi trăm loại báu”.
Giải thích: Tám góc tám mặt giống như tòa tháp.
+ Ánh sáng phản chiếu lên
Kinh ghi: “Mỗi ngọc báu có ngàn tia sáng, mỗi mỗi tia sáng có tám vạn bốn ngàn màu sắc phản chiếu lên đất lưu ly, như ức ngàn mặt trời không thể nhìn hết được”.
* Trên mặt đất có vật trang nghiêm
Có bốn ý: Thềm hoa; ánh sáng các báu; ánh sáng báu kết thành lâu đài; tràng hoa và nhạc cụ.
+ Thềm hoa
Kinh ghi: “Trên đất lưu ly có những sợi dây vàng ròng đan xen với bảy báu, tạo thành ranh giới phân biệt rõ ràng”.
Giải thích: Giây vàng và bảy báu đan xen nhau như gạch hoa ở thế gian.
+ Ánh sáng các báu
Kinh ghi: “Trong mỗi loại báu có năm trăm ánh sáng khác nhau, ánh sáng ấy như hoa, cũng giống như trăng sao treo lơ lững giữa hư không”.
Giải thích: Ánh sáng của các báu ấy từ dưới đất phản chiếu lên hư không, nên giống như hoa. Vì từ trên hư không chiếu xuống, nên giống như ánh sáng trăng sao.
+ Ánh sáng báu kết thành lâu đài
Kinh ghi: “Kết thành lâu đài ánh sáng và điện các với trăm ngàn vật báu hợp thành”.
+ Tràng hoa và nhạc cụ
Kinh ghi: “Ở hai bên lâu đài kia có trăm ức tràng hoa và vô số nhạc cụ trang nghiêm. Có tám ngọn gió mát phát xuất từ ánh sáng, thổi vào nhạc cụ này, khiến phát ra âm thanh diễn thuyết khổ, không, vô thường và vô ngã”.
Giải thích: Tràng hoa và nhạc cụ vây quanh bốn phía, khi gió làm lay động phát ra âm thanh thuyết pháp dạy chúng. Gió phát xuất từ tám hướng nên gọi tám ngọn. Ở cõi kia không có thời tiết. Vì đoi với cõi này nên gọi là tám. Pháp khổ, không … là Tứ niệm xứ: Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Dùng bốn pháp này để phá trừ bốn điên đảo. Chữ “không” trong văn là đối với quán thân. Khi những chấp trước sai lầm đều bặt dứt thì chẳng phải “không” là gì?
2. Kết luận
Kinh ghi: “Đây là pháp quán tưởng nước, là pháp quán thứ hai”.
]
Pháp quán thứ ba: QUÁN ĐẤT
Cảnh sở quán đã nêu đầy đủ ở văn trước, cho nên pháp quán thứ ba này chỉ tiếp theo phần trước để khuyên tu mà thôi.
Văn có bốn phần: Tư duy; chánh thọ; nêu lợi ích; phân biệt tà chánh.
1. Tư duy
Kinh ghi: “Khi pháp quán này thành tựu, mỗi mỗi cảnh quán đều rõ ràng, dù nhắm mắt hay mở mắt cũng không bị tán loạn, chỉ trừ thời gian ăn. Hãy luôn luôn ghi nhớ việc này! Nhưng quán tưởng như thế, chỉ mới thấy thô cõi Cực lạc”.
Giải thích: “Mỗi mỗi cảnh quán” là chỉ cả tướng riêng và chung của phần trước. “Trừ thời gian ăn” là cho phép tạm thời gián đoạn. Có bản “Biệt hành”[62] thì cho là thời gian ngủ. Còn tìm hiểu các bản xưa, thì thấy đều ghi là thời gian ăn. Bởi vì người phàm, thì ngủ là việc tự nhiên, đâu cần phải trừ ra? Hoặc có người cho rằng, Đại thừa, Tiểu thừa khi ăn đều đã có pháp quán riêng, nên phải trừ ra. Ở đây chỉ hạn cuộc trong chúng tu tập, chứ không nói chung cho tất cả. Nay cho rằng các pháp quán khác không chọn thời gian và địa điểm. Còn ở đây quán Thánh cảnh, theo lẽ phải tôn kính. Nếu khi ăn mà khởi quán tưởng thì không có lòng tôn kính. Phần Pháp quán tượng trong kinh Quán Phật Tam Muội ghi: “Quán tưởng thành rồi thì chỉ trừ khi ăn, khi đại tiểu tiện, còn trong mọi thời gian khác thường quán tưởng tượng Phật”. Đây là minh chứng không thể thay đổi được! Khi tâm vừa mới quán tưởng thì chưa thành tựu định lực; cho nên nói thấy thô, ý nói thấy chưa rõ ràng cảnh sở quán.
2. Chánh thọ
Kinh ghi: “Nếu đạt được Tam-muội thì thấy đất ở quốc độ kia thật rõ ràng, không thể nói hết được. Đây là pháp quán tưởng đất, là pháp quán thứ ba”.
Giải thích: Tam-muội, âm chính xác là Tam-ma-địa, Trung Hoa dịch là Chánh định, Đẳng trì. Quán tưởng thành tựu thì không cần tác ý mà tự nhiên khế hợp, thấy đất rõ ràng. Như người học bắn cung, khi mới tập bắn thì chưa giỏi, nhưng về sau thành thạo rồi, bắn phát nào trúng phát đó. Ngôn ngữ và suy nghĩ không thể nào thấu triệt, chỉ chứng đắc mới có thể nhận biết được, nên bảo “không thể nói hết”.
3. Nêu lợi ích
Có hai ý: Phó chúc việc truyền bá giáo pháp; nêu lợi ích.
Thứ nhất, phó chúc lại việc truyền bá giáo pháp
Kinh ghi: “Đức Phật bảo A-nan: Ngươi hãy thọ trì lời dạy của Phật, nói pháp quán đất này cho những chúng sinh nào ở đời tương lai muốn thoát khỏi khổ đau”.
Giải thích: Phật Bảo A-nan là bởi hai pháp quán trước chỉ là dùng vật ở phương này để làm cơ sở phát khởi pháp quán tưởng. Đến pháp quán đất báu thì tâm đã thông đạt cõi kia, nhất định thoát được khổ, phá chướng, trừ nghi. Phó chúc việc truyền bá giáo pháp là ý này vậy!
Thứ hai, nêu lợi ích
Có hai: Phá chướng; trừ nghi.
* Phá chướng
Kinh ghi: “Nếu người nào quán tưởng đất thì trừ diệt được tội sinh tử trong 80 ức kiếp”.
Giải thích: Tám mươi ức kiếp, hoặc nói vô lượng kiếp, hoặc năm vạn hay năm mươi ức kiếp, không nhất định, phàm phu không thể biết được.
* Trừ nghi
Kinh ghi: “Xả thân ở thế giới khác rồi, chắc chắn được sinh về cõi Tịnh, tâm không còn nghi”.
Giải thích: Nếu thành tựu pháp quán này thì nhất định được vãng sinh. Như cao tăng Đại Hạnh đời Đường kết am tu tịnh nghiệp ở núi Thái, chưa đến 21 ngày liền thấy đất lưu ly, mắt tâm sáng tỏ. Sau đó Ngài nhuốm bệnh, đất ấy lại hiện ra, Ngài nói rằng: “Ta không quán tưởng, vì sao đất báu lại hiện? Chẳng lẽ không có duyên với cõi An Dưỡng ư?”. Ngay ngày hôm đó, Ngài tịch tại trụ xứ.
4. Phân biệt tà chánh
Có hai ý: Nêu chánh; nêu tà.
Thứ nhất, nêu chánh
Kinh ghi: “Khởi quán như vậy gọi là chánh quán”.
Giải thích: Nói khởi quán như vậy là chỉ cho pháp quán trước, tâm cảnh đã tương xứng, giáo hạnh không trái nhau.
Thứ hai, nêu tà
Kinh ghi: “Quán khác gọi là tà quán”.
Giải thích: Không phải pháp quán ấy nên gọi là quán khác, không chánh nên gọi là tà. Dù là pháp quán của Tiểu thừa hay Đại thừa Phật giáo, nếu không phải pháp quán vãng sinh cõi Tịnh đều cho là tà. Nhưng tà ở đây không phải tà kiến của ngoại đạo.
]
Pháp quán thứ tư: QUÁN CÂY
Có ba ý: Kết luận pháp quán trước dẫn khởi pháp quán sau; nêu quán hạnh; kết luận.
1. Kết luận pháp quán trước nêu pháp quán sau
Kinh ghi: “Đức Phật bảo A-nan và Vi-đề-hi rằng: Quán tưởng đất thành tựu rồi, tiếp theo nên quán cây”.
2. Trình bày quán hạnh
Có hai ý: Sở quán; năng quán.
Thứ nhất, sở quán
Có hai ý: trình bày thể lượng; nói sự trang nghiêm.
* Trình bày thể lượng
Có ba ý: dạy quán khắp; nêu số hàng; độ cao.
+ Dạy quán khắp
Kinh ghi: “Quán cây báu là quán rõ từng cây”.
Giải thích: Cây có nhiều loại, nên gọi là từng cây.
+ Nêu số hàng
Kinh ghi: “Khởi quán tưởng bảy lớp hàng cây”.
Giải thích: Bảy lớp hàng cây bao quanh cõi ấy, hoặc nói nơi nào cũng có bảy lớp.
+ Độ cao
Kinh ghi: “Mỗi mỗi cây cao tám ngàn do-tuần”.
Giải thích: Do-tuần còn gọi là Do-diên, cũng gọi là Du-thiện-na, là khoảng cách giữa hai dịch trạm ở Tây Trúc. Kinh Luật nêu khoảng cách xa gần không nhất định, đa số
các Luận sư lấy 40 dặm làm tiêu chuẩn.
* Nói về trang nghiêm
Có hai ý: Ánh sáng trang nghiêm; hoa quả trang nghiêm.
+ Ánh sáng trang nghiêm
Có ba ý: Lá cây; sắc sáng; lưới ngọc.
- Lá cây
Kinh ghi: “Cây báu ấy có đầy đủ lá bảy báu”.
Giải thích: Lá đầy đủ là không rơi rụng.
- Sắc sáng
Kinh ghi: “Mỗi mỗi hoa lá có các màu sắc báu, trong đó, sắc lưu ly phát ra ánh sáng vàng ròng, trong sắc pha lê phát ra ánh sáng máu hồng, trong sắc mã não phát ra ánh sáng xa cừ, sắc xa cừ phát ra ánh sáng màu xanh ngọc; đồng thời được trang hoàng bằng tất cả các báu như san hô, hổ phách”.
Giải thích: Màu sắc của báu vật và ánh sáng năm sắc chiếu soi, đan xen lẫn nhau. Màu xanh biếc của lưu ly phát ra ánh sáng màu vàng, màu xanh pha lê phát ra ánh sáng màu hồng, màu đỏ mã não phát ra ánh sáng màu trắng, màu trắng xa cừ phát ra ánh sáng màu xanh lục. Nếu căn cứ theo kinh A-di-đà (Đại bản), các cây bảy báu như hổ phách đầy khắp thế giới, những loại cây vàng, bạc, lưu ly, pha lê, san hô, hổ phách, mã não và xa cừ, hoặc có hai báu, ba báu, cho đến bảy báu hợp thành. Đầy đủ như bản kinh ấy đã giải thích, gọi là được trang nghiêm bằng các loại báu.
- Lưới ngọc
Có bốn ý: Số lớp lưới; giữa các lớp lưới có cung điện; đồng tử ở trong cung điện; ánh sáng chuỗi ngọc.
Số lớp lưới:
Kinh ghi: “Trên mỗi cây có bảy lớp lưới diệu chân châu phủ kín”.
Giải thích: Mỗi cây có bảy tầng, mỗi tầng có một lớp, giống như tháp.
Giữa lưới có cung điện:
Kinh ghi: “Giữa các lớp lưới có năm trăm ức cung điện hoa vi diệu, như cung điện Phạm vương”.
Giải thích: Cung điện giữa những lớp lưới như cung điện của Phạm Thiên vương ở cõi Sắc.
Đồng tử ở trong cung điện:
Kinh ghi: “Đồng tử, chư thiên tự nhiên ở trong đó. Mỗi mỗi đồng tử có năm trăm ức chuỗi ngọc ma-ni thích-ca-tỳ-lăng-già”.
Giải thích: “Thích-ca tỳ-lăng-già” Trung Hoa dịch là Năng thánh, Ma-ni là Ly cấu, cũng gọi là Như ý.
Ánh sáng chuỗi ngọc:
Kinh ghi: “Ánh sáng ma-ni kia chiếu xa 100 do-tuần, giống như hòa lẫn trăm ức mặt trời, mặt trăng, không thể nêu hết được. Các loại báu thượng đẳng đan xen qua lại”.
Giải thích: “Các báu đan xen” nghĩa là không chỉ có châu mà còn nhiều loại khác nữa.
+ Hoa quả trang nghiêm
Có hai ý: nêu chung; nêu riêng.
- Nêu chung
Kinh ghi: “Các cây báu này, hàng hàng đối nhau, lá lá kề nhau. Khoảng giữa những chiếc lá có những đóa hoa tuyệt đẹp, trên những cánh hoa kia tự nhiên có quả bảy báu”.
Giải thích: “Hàng hàng đối nhau” là rất đối xứng. “Lá lá kề nhau” là lá này tiếp theo lá nọ.
- Nêu riêng
Có ba ý: Nói về lá; nói về hoa; nói về quả.
Nói về lá:
Kinh ghi: “Mỗi mỗi lá cây, ngang dọc đúng 25 do-tuần”.
Giải thích: 25 do-tuần = 1000 dặm.
Kinh ghi: “Lá cây báu ấy có ngàn màu sắc với trăm đường vạch, như chuỗi ngọc trời”.
Giải thích: Vạch, tức là gân lá, đường nét giống như chuỗi ngọc trời.
Nói về hoa:
Kinh ghi: “Có các loại hoa thượng diệu, được tạo bằng vàng ròng Diêm-phù-đàn, như những vòng lửa xoay chuyển giữa những kẻ lá”.
Giải thích: Ở châu nầy có loài cây mọc từ đáy biển, phát ra ánh sáng vàng ròng tuyệt đẹp, đẩy lùi bóng tối. Màu sắc của hoa cũng giống như vậy, những đóa hoa ấy xoay chuyển như bánh xe gió ở thế gian.
Nói về quả:
Có hai ý: Thể tướng; cờ và lọng.
Thể tướng
Kinh ghi: “Nở ra các quả như bình Đế-thích”.
Giải thích: Bình Đế-thích là chiếc bình lớn không thể tính kể, đặt trước cung điện của Đế-thích, theo lá mà tính thì có thể biết quả lớn đến chừng nào.
Cờ và lọng
Kinh ghi: “Có ánh sáng rất lớn hóa thành cờ, phướn và vô lượng lọng báu. Trong những chiếc lọng này ánh hiện các cõi Phật ở mười phương và tất cả các Phật sự trong tam thiên thế giới”.
Giải thích: Ánh hiện có hai ý: Vô số Phật sự, cõi Phật mười phương. Thị hiện nơi đời, nhập Niết-bàn, thuyếp pháp độ sinh đều gọi là Phật sự.
Thứ hai, năng quán
Kinh ghi: “Quán thấy cây này rồi, nên theo thứ tự quán thấy rõ ràng thân cây, cành cây, lá, hoa và quả”.
Giải thích: Sợ khi quán tưởng bị tán loạn, nên dạy quán theo thứ tự năm phần như thân, cành…
3. Kết luận
Kinh ghi: “Đây là quán tưởng cây, là pháp quán tưởng thứ tư”.
]
Pháp quán thứ năm: QUÁN AO
Có bốn ý: Nêu thể tướng; nói hoa sen trong ao; ánh sáng của ao; kết luận.
1. Nêu thể tướng
Có bốn ý: Nêu số lượng; màu sắc của nước; dòng nước; đáy dòng nước.
Thứ nhất, nêu số lượng
Kinh ghi: “Tiếp theo nên quán tưởng nước. Quán tưởng ở cõi Cực lạc có tám ao nước”.
Giải thích: Một cõi nước có tám ao thông với nhau bởi các dòng kênh.
Thứ hai, màu sắc của nước
Kinh ghi: “Nước trong mỗi mỗi ao được tạo thành bằng bảy báu; báu ấy thật mềm mại được tuôn ra từ ngọc như ý”.
Giải thích: Hai câu trên nói về sắc tướng. Thềm và bờ ao được tạo bằng các loại báu, màu sắc của nước trong ao cũng giống như vậy, nên gọi là bảy báu hợp thành. Hai câu sau nói về xuất xứ. Trung tâm của mỗi ao đều có ngọc báu, dòng nước phát ra từ ngọc rồi chảy vào trong ao, lúc nào cũng đầy ắp.
Thứ ba, dòng nước
Kinh ghi: “Nước trong ao chia làm mười bốn nhánh, mỗi nhánh lấy vàng ròng có sắc bảy báu làm dòng nước”.
Giải thích: Mười bốn nhánh chính là 14 dòng nước.
Thứ tư, đáy dòng nước
Kinh ghi: “Cát dưới đáy dòng nước được tạo thành bởi kim cương nhiều màu”.
Giải thích: Cát kim cương nhiều màu là cát có năm màu lại nhỏ mịn và cứng.
2. Hoa sen trong ao
Có ba ý: Nêu số lượng; kích cỡ; dòng nước giữa hoa.
Thứ nhất, nêu số lượng
Kinh ghi: “Trong mỗi dòng nước có sáu mươi ức hoa sen bảy báu”.
Giải thích: Trong tám ao, mỗi ao đều có sáu mươi ức hoa sen. Tiểu bản kinh A-di-đà nói có bốn màu sắc, bốn ánh sáng, còn ở đây nói bảy báu, cho nên biết có sự khác biệt rất lớn.
Thứ hai, kích cỡ
Kinh ghi: “Chu vi của hoa đúng 12 do-tuần”.
Giải thích: 12 do-tuần bằng 480 dặm. Còn kinh A-di-đà (Tiểu bản) chỉ nói lớn như bánh xe, như vậy thì quá nhỏ.
Thứ ba, dòng nước giữa hoa
Kinh ghi: “Nước ma-ni kia chảy vào giữa hoa, men theo các cây, lên xuống tạo ra âm thanh vi diệu, diễn thuyết các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã và các ba-la-mật. Lại có khi ca ngợi tướng hảo của Phật”.
Giải thích: Phát xuất từ ngọc như ý, nên gọi là nước ma-ni. Ma-ni là nêu cả âm Trung Hoa và tiếng Phạn. Nước theo cành hoa chảy vào trong hoa làm rung động cánh hoa phát ra âm thanh, rồi chảy xuống cành dưới, diễn thuyết ba ý: Tứ niệm xứ, Lục độ và ca ngợi tướng hảo.
3. Ánh sáng của ao
Có hai ý: Ánh sáng phát ra từ ngọc; ánh sáng hóa thành chim linh.
Thứ nhất, ánh sáng phát ra từ ngọc
Kinh ghi: “Từ ngọc như ý phát ra ánh sáng vàng ròng thật vi diệu rực rỡ”.
Thứ hai, ánh sáng hóa thành chim linh
Kinh ghi: “Ánh sáng ấy hóa thành những con chim với màu sắc trăm báu, cùng cất lên tiếng hót êm dịu ca ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”.
Giải thích: Đó là bạch hạc, khổng tước, ở trong kinh A-di-đà (tiểu bản). Nay văn kinh ở sau lại ghi phù, nhạn, uyên ương… thì biết rằng loại chim trân quý này chẳng phải một loại. Ở đây chỉ nêu màu sắc của lông để tổng quát tất cả. Các loài này khen ngợi Tam bảo khiến mọi người quy hướng.
4. Kết luận
Kinh ghi: “Đây là quán tưởng nước có tám đặc tính, là pháp quán tưởng thứ năm”.
Giải thích: Tám đặc tính: Nhẹ, trong suốt, mát, mềm mại, ngọt, không hôi, khi uống vào thì thư thái, uống nước này rồi thì không còn bệnh tật. Tám đặc tính này không ra ngoài bốn trần: sắc, hương, vị và xúc. HẾT QUYỂN TRUNG Chú thích:
[50] Tứ trụ (Tứ trụ địa): chỗ y chỉ căn bản để sinh khởi tất cả Kiến, tư phiền não trong ba cõi:
1. Kiến nhất thiết trụ địa: tất cả Kiến hoặc trong ba cõi.
2. Dục ái trụ địa: tất cả Tư hoặc trong cõi Dục. Trong các Tư hoặc thì tham ái là nặng nhất.
3. Sắc ái trụ địa: tất cả Tư hoặc trong cõi Sắc.
4. Hữu ái trụ địa: tất cả Tư hoặc trong cõi Vô sắc.
Tứ trụ địa này nếu thêm Vô minh trụ địa thì gọi là Ngũ trụ địa. (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4891).
[51] Giả danh: danh từ được giả lập dùng để gọi các pháp do nhân duyên hòa hợp thành. Phẩm diệt tận định trong luận Thành thật, q. 13, chia giả danh ra làm hai: Nhân giả danh và Pháp giả danh.
1. Nhân giả danh: thân người do năm uẩn giả hòa hợp, không có thật thể tồn tại, chia làm hai loại:
a) Giả danh nhân ở uế độ: tức là người ở các cõi ác trược, do năm uẩn hữu lậu nhiễm ô hòa hợp mà thành.
b) Giả danh nhân ở tịnh độ: tức Bồ-tát ở cõi Tịnh, do năm uẩn vô lậu thanh tịnh vi diệu hòa hợp mà thành.
Nếu so sánh Bồ-tát ở Tịnh độ và người ở uế độ thì tuy có thân khác nhau, nhưng đều do năm uẩn hòa hợp nên gọi là Giả danh nhân. Giả danh nhân ở cõi uế và cõi tịnh có nghĩa “Bất nhất bất dị”; người tu hành lúc lâm chung sinh về Tịnh độ, lìa bỏ thân người giả danh ở Uế độ; hóa sinh trong hoa sen thành người giả danh ở Tịnh độ. Trong quá trình này thì người ở cõi uế khi lâm chung lấy niệm trước làm nhân, còn khi trở thành người ở cõi Tịnh thì lấy niệm sau làm quả, cho nên nhân quả niệm trước, niệm sau tương tục.
2. Pháp giả danh: các pháp từ nhiều duyên mà sinh, không có tính cố định, chỉ có tên suông. Theo phái Trung Quán, đứng về Tục đế thì các pháp là “giả”, còn đứng về Chân đế thì các pháp là “không”. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1657).
[52] Ngoại đạo thờ lửa, (Sự hỏa Ngoại đạo): một trong các phi ngoại đạo thời cổ ở Ấn Độ. Phi này thờ phụng các vị thần như Hỏa thiên … vọng chấp rằng sự thờ phụng cúng dường này là nhân để sinh lên cõi trời trong tương lai. Vì Sự hỏa ngoại đạo chủ trương lửa là miệng của chư thiên, cho nên bỏ các vật cúng như ngũ cốc, bơ vào trong lửa để cúng dường chư thiên. Chư thiên được ăn thì ban phước cho con người.
Khi Đức Phật còn tại thế, pháp thờ lửa rất thịnh hành. Sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài có đến thăm ba anh em Ca-diếp thuộc phái Sự hỏa Bà-la-môn bên bờ sông Ni-liên-thiền, trước tiên Đức Thế Tôn hàng phục con Hỏa long, sau đó thị hiện các thần thông, ba anh em Ca-diếp quăng bỏ những dụng cụ thờ lửa xuống sông rồi qui y Phật. (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 4013).
[53]Kinh A-di-đà Đại bản, Tiểu bản: Đại bản: kinh Vô Lượng Thọ, Tiểu bản: kinh A-di-đà, theo sự phân biệt của tông Thiên Thai. (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1206).
[54] Lục chủng chấn động: sáu cách chấn động, tức sáu tướng chấn động của mặt đất.
Theo phẩm Tư, kinh Đại Phẩm Bát-nhã, t1 ghi: “Sự chấn động của mặt đất tùy theo phương hướng mà có sáu tướng: Đông trồi Tây sụt, Tây trồi Đông sụt, Nam trồi Bắc sụt, Bắc trồi Nam sụt, bên trồi giữa sụt và giữa trồi bên sụt”.
Theo kinh Hoa Nghiêm, q. 16 (bản tân dịch), kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân, t.1 ghi: “Sáu tướng là: động, khởi, dũng, chấn, hống và kích (diêu)”.
- Động là lay động không yên. Khởi là từ thấp dần lên cao. Dũng là bỗng nhiên vọt lên. Ba tướng này chỉ cho hình thức địa chấn.
- Chấn là phát ra tiếng động ầm ĩ. Hống là tiếng rống mạnh mẽ của loài thú. Kích là phát ra tiếng dội ầm ầm. Ba tướng này chỉ cho âm thanh địa chấn.
Hình (hình thức) và thanh (âm thanh) mỗi thứ đều có một loại, gọi là chấn động. Sáu thứ đều có ba tướng: Tiểu (độc), trung (biến) và đại (phổ biến, đẳng biến) cho nên cộng chung có 18 tướng là: động, biến động, đẳng biến động, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích. Biến là bốn phía đều lay động, còn phổ biến là tám phía đều lay động. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2527).
[55] Nghiệp chủng (Nghiệp chủng tử, Nghiệp tập khí, Dị thục tập khí, Hữu chi tập khí, Hữu phần huân chủng tử, Hữu thụ tận tướng chủng tử): chủng tử của nghiệp quả, Nghiệp có nghĩa là tạo tác. Những sự tạo tác lành dữ huân thành chủng tử, gọi là Nghiệp chủng tử. Sự tạo tác này không thông qua tám thức mà chỉ thuộc Tư tâm sở, tương ưng với ý thức. Bởi Tư tâm sở lấy tạo tác làm tính, sai sử các tâm, tâm sở khiến thành thiện ác. Tư tâm sở tương ưng với thức thứ sáu, phát động thân, khẩu, ý khiến cho tạo nghiệp thiện ác rồi thành Tư chủng tử. Tư chủng tử này có hai tác lực: Công năng sinh hiện hành của phần mình và công năng giúp cho các chủng tử vô kí kém khác sinh hiện hành. Công năng sinh hiện hành của phần mình vẫn gọi là Danh ngôn chủng tử, không phải là nghiệp chủng tử. Công năng giúp cho chủng tử khác hiện hành mới gọi là Nghiệp chủng tử.
Tóm lại, Nghiệp chủng tử cùng Danh ngôn chủng tử chỉ là một thể, nhưng cứ nơi công năng khác nhau của Tư chủng tử trên phương diện tự tha mà phân biệt. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3115).
[56] Kết hoặc: kết sử, trói buộc chỉ cho phiền não. Vì phiền não trói buộc chúng sinh vào cảnh mê, khiến không thể thoát khỏi cái khổ sinh tử.
[57] Văn huệ và Tư huệ: Văn huệ là trí tuệ có được do nghe người khác giảng nói giáo pháp. Tư huệ là trí tuệ có được do chính mình tư duy. Còn Tu huệ là trí huệ có được do tu hành thật sự. (TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 5974).
[58] Tượng pháp và Mạt pháp: sau khi đức Phật nhập diệt, y cứ vào sự vận hành của giáo pháp mà chia ra làm ba thời: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.
- Tượng pháp là thời kì thứ hai trong ba thời. Thời kỳ mà giáo pháp tương tự với thời Chánh pháp. Thời kỳ này chỉ có giáo thuyết và người tu hành, ít người chứng quả.
- Mạt pháp là thời kỳ sau cùng. Thời kỳ này có nhiều người lãnh thọ giáo pháp tu hành, nhưng không thể chứng ngộ. Lúc bấy giờ Phật pháp suy đồi, tăng chúng trược loạn.
* Trong Ngũ Trược Bộ của Pháp Uyển Châu Lâm, q. 98, ghi: “Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, sẽ có năm thứ loạn:
1. Tỳ-kheo thời vị lai học pháp với hàng bạch y.
2. Kẻ bạch y ngồi trên tòa, hành tỳ-kheo ngồi ở dưới.
3. Tỳ-kheo thuyết pháp, người nghe không tuân hành, vâng thọ; còn kẻ bạch y thuyết pháp lại cho là vô thượng.
4. Tỳ-kheo sinh điên đảo, cho pháp thế gian là chân đạo đế, mà không thấu hiểu chánh pháp của Phật giáo, lấy sự trá ngụy làm tin.
5. Các tỳ-kheo đời vị lai nuôi dưỡng vợ con, tôi tớ, chỉ thích tranh cãi với nhau, không vâng theo lời Phật dạy.
Về thời hạn của ba thời kì, có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng sau khi Đức Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp 1000 năm; có thuyết cho rằng Chánh pháp và Tượng pháp đều trụ thế 1000 năm, rồi mới đến thời kì Mạt pháp, thời kì này trải qua 10.000 ngàn năm, sau đó thì Phật pháp diệt tận; thuyết khác cho rằng Chánh pháp 1000 năm, Tượng pháp và Mạt pháp mỗi thời kì 10.000 năm. Nhưng nhìn chung các kinh luận đều cho thời kì Mạt pháp là 10.000 năm. (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2673).
[59] A-tu-la: một loại quỷ thần hiếu chiến của Ấn Độ bị xem là ác thần và thường tranh đấu với trời Đế Thích; một trong sáu đường, một trong tám bộ chúng, một trong 10 giới. Các kinh thường nêu ra ba nhân sân, mạn và nghi khiến cho chúng sinh sinh vào A-tu-la. Nhưng kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt thì liệt kê ra 10 nguyên nhân sinh vào trong loài A-tu-la: 1/ Thân làm việc ác nhỏ; 2/ Miệng nói lời ác nhỏ; 3/ Ý nghĩ điều ác nhỏ; 4/ Khởi tâm kiêu mạn; 5/ Khởi tâm ngã mạn; 6/ Khởi tâm tăng thượng mạn; 7/ Khởi tâm đại mạn; 8/ Khởi tâm tà mạn; 9/ Khởi tâm mạn mạn; 10/ Lui sụt căn lành. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 56).
[60] Năm ác, Năm thống, Năm thiêu : năm thứ ác: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt (nói ác, nói dối, nói thêu dệt) và uống rượu. Nếu tạo năm điều ác này, hiện đời bị phép vua trị tội, thân gặp ách nạn, gọi là Ngũ thống (năm sự đau đớn); do năm điều ác này, đời sau chịu quả báo đọa ba đường khổ gọi là Ngũ thiêu (năm sự thiêu đốt). (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2909).
[61] Huyền đàm: gồm hai nghĩa:
1. Luận bàn về tựa đề, chỉ thú, thể lệ hoặc tác giả trước khi giải thích phần chánh văn. Như: Khởi Tín Luận Huyền Đàm cua Phổ Ninh, Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Đàm của Trừng Quán.
2. Bàn luận tổng quát về huyền lí của Phật giáo. Như: Thập Huyền Đàm v.v… (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 2011).
[62] Biệt hành: lưu hành riêng biệt. Từ trong một bộ kinh điển lớn trích ra một phần để lập thành một bộ sách độc lập và lưu hành ở đời gọi là Biệt hành. Như phẩm Phổ Môn được trích từ kinh Pháp Hoa, làm thành kinh Quán Âm lưu hành độc lập với kinh Pháp Hoa. (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 540).
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.21.159.223 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.