Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
III. Tu hành môn:
10. Khuyên không nên giết hại
Tướng Quốc Bùi Hưu viết trong lời tựa Kinh Viên Giác có nói: "Phàm loài có máu huyết đều thuộc hữu tình, phàm loài có tình thức đều đồng thể với nhau, cùng có tánh chơn tịnh diệu minh hư triệt linh thông rõ ràng ai cũng có. Quán sát như thế thì loài bò bay mái cựa, côn trùng vi tế, cùng những thân to lớn như voi, sư tử, rắn ruà cùng với tâm Viên giác Diệu minh hư triệt linh thông của mười phương chư Phật đồng một chơn tịnh đâu có phân hơn kém. Chúng sanh và Phật đã đồng, người tuy chí linh, đâu chẳng cùng đồng một thể tánh với các loại chúng sanh kia, cùng nhận chất bốn đại và ngũ hành, đồng ở trong trời đất, cùng hưởng mưa nắng trăng sao, cùng chịu hoạ phước của thiên nhiên. Từ đó cho biết người và muôn vật, tánh đồng thiên luân. Lại nữa, vật loại cũng có đủ thất tình lục dục như người, biết khổ đau, đều đứt ruột khi mẹ không cứu được con, biết thương loài khác không cùng môi trường sanh hoạt như con thỏ chết, chồn còn buồn. Vì thế, chúng ta con người đâu thể vì thoả mãn miệng bụng, ỷ mạnh bắt những con vật yếu hơn giết để ăn thịt.
Lại nữa, sở dĩ vật loại khác với con người chỉ vì vọng tưởng từ vô thỉ rất nặng, do ác nghiệp dẫn dắt, nên không hiểu biết, sửa đầu đổi mắt khác loại nhận lấy hình hài mà tâm thể vẫn không khác. Thể tánh của chúng đã không khác lại còn cùng chúng ta ở trong vòng sanh tử, vì sao chúng ta nở lòng cắt xương da chúng, mổ lấy máu thịt ruột gan chúng đem ra mua bán, lấy thân thể chúng, xào nấu làm trăm thứ, nhai nát thân thể chúng, cốt để tìm ngon miệng, no lòng chưa từng nghĩ tới đời sau chịu đau khổ nhiều kiếp để trả quả báo, thật đáng để tâm. Con người tự xưng mình trí tuệ cao hơn muôn vật là do nghiệp lực trả vay chưa đến thật ra đâu phải thật lúc nào cũng cao hơn các loài. Huống nữa, những loại kia sau khi báo tận sẽ sanh làm người, làm trời, có khi làm các bậc thánh nhơn, chư Phật Bồ Tát. Con người do ngũ chướng nên không biết cố tình giết hại các loài vì muốn béo thân quý mạng, muốn ngon miệng trong giây lát vội nói rằng "vật dưỡng nhơn” rồi cứ thẳng tay giết hại, an lòng ăn thịt. Họ đâu biết rằng thân ta xưa cùng với chúng đồng loại và chúng cũng đồng thân với ta, trong kiếp luân chuyển, đầu thai xuống lên, biết đâu họ là cha mẹ, anh em, vợ con và các thân bằng quyến thuộc do nghiệp lực mà thay hình đổi dạng. Vì tâm họ mê đắm nên không biết, vọng nói các loài kia là loại thấp hèn phải cung cấp thịt cho ta. Nay chúng ta giết chúng để ăn thịt tức là giết cha mẹ thân thuộc đời trước, lại nữa thân chúng ta không lìa tứ đại, muốn giết thân tứ đại cũ của mình thật là phi lý!
Phật dạy: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì trong tương lai chắc thành Phật, nên cần phải cúng dường cung cấp tưởng như cha mẹ đâu dám giết hại. Nếu có giết cũng là giết hại Phật ở tương lai, đâu chẳng đáng lo sợ ư! Nay ta cố tâm giết hại, không biết nhơn trước, có khi là những người thân ở trong nghịch cảnh, nhiều đời làm việc trái ngược, từ thân khởi oán, từ oán kết thêm hận, oán hận tiếp nối, đời đời trả vay không mất, cứ như thế mà cùng sanh cùng giết, luân chuyển không thôi, như làn sóng ở bể lên cao xuống thấp, tiếp nối không thể dừng nghỉ, xét kỹ điều này thật rất thương tâm. Kinh Phạm Võng nói: Cấm tự mình giết cho đến bảo người giết, phương tiện giết, khen ngợi giết, trù ếm giết và các cách nhơn giết, duyên giết, pháp giết, nghiệp giết đều cần cấm ngặt. Đây là lời dạy chơn thành của mười phương chư Phật. Nếu ta không ngưng việc ăn thịt thì làm cho các thợ lưới thợ săn, nuôi dưỡng gia súc mỗi lúc một nhiều, làm cho tất cả chúng sanh ở dưới nước trên bờ, trong hư không không còn chỗ thoát. Các con vật vừa vào tay người thì đầu chân sừng móng đồng thời bị hủy hoại, tiếng kêu than chưa dứt, liền bị ăn thịt, lại nói trời sanh vật để nuôi người. Họ đâu biết rằng tất cả các loài vật đều có lòng ham sống, sợ chết, cũng đồng như chúng ta. Nếu biết trong các loài vật mà ta cố giết đó, có thể là thân nhân của ta đời trước cùng dứt nghiệp giết, cũng được gọi là người tròn hiếu đạo.
Kinh dạy: Hiếu gọi là giới, chính là chỉ giới sát là hiếu. Ở trước chúng ta biết vật loại có đủ Phật tánh, nhưng chạy không nhằm thời, tránh không nhằm chỗ, huống nữa đất trời rộng rãi ai cũng tìm cách nuôi sống tự thân, vì nghiệp báo rất nặng nên phải sanh vào vật loại, nên không làm chủ sự sống của mình rơi vào tay người vì nhơn đời trước tạo ra nên khó tránh được. Nếu nhơn đời trước khó thế trốn thì nhơn ngày nay chúng ta phải suy nghĩ kỷ tự răn lấy mình, nếu ta không tự răn tạo nghiệp thì trước sau sát hại lẫn nhau, cũng trở lại vết xe cũ, ta giết hại vật đời sau ta làm vật để chúng giết hại lại, làm sao tránh khỏi. Kinh dạy: "Giả sử trăm ngàn kiếp, chỗ làm nghiệp không mất, khi nhơn duyên gặp nhau, quả báo lại tự nhận chịu." đâu chẳng phải là lời dối trá sao! Đức Thế Tôn của chúng ta giác hạnh đã viên mãn, giáng sanh trong cõi người, trong các pháp hội dạy bảo giới sát này, đinh ninh dặn dò đừng có tái phạm. Vì giới này là giới đầu trong các giới người tu phạm hạnh phải nghiêm trì. Ngày xưa vua Lưu Ly giết hết dòng họ Thích, Phật cũng bị quả báo đau đầu là chỉ dạy cho đời, muốn mọi người đều biết nhơn quả khó trốn tránh, mà ngưng những việc giết hại. Hoặc có người nói Phật không bị quả báo mà vì vật loại thị hiện đó thôi. Điều đó sai lầm, vì Phật không bao giờ dối người, tất cả lời nói của ngài đều là sự thật. Đức Phật còn như thế huống chi con người. Nên biết lý nhân quả báo ứng như bóng theo hình. Lại nữa, người đời có người bạn tốt nối khố, hoặc chỉ một lời xúc phạm, một hành động chống trái còn kết oán hận đến chết, huống chi chúng ta dùng dao bén cắt cổ chúng, lấy thịt chè chén vui say, thì oán hận sâu xa đâu có thể quên được.
Sách ở thế gian nói về lòng nhân giết loài vật không được phá ổ, không giết cả bầy, có thể câu mà không nên lưới vì tiếc nhiều mạng, đồng thời cũng khuyên thấy nó sống không đành thấy chết, nghe tiếng kêu không nở ăn thịt, cùng với tiệm giáo trong đạo Phật cho ăn ba thứ tịnh nhục có chỗ giống nhau, tuy không bằng ở Đại Thừa Phương đẳng dứt hẳn sát nghiệp. Còn cấm cả giết vật để tế lễ thánh thần, huống chi người tu hành miệng đều phải ăn chay, thân không mặc lông da cầm thú, ý chuyên từ nhẫn, không làm đau một con vật dù nhỏ cũng tiếc mạng sống nó, dùng đức cảm hoá vô biên, thương cả muôn loại. Ngày xưa đức Phật đi giữa đường gặp đống sọ khô, sọ khô vô tri, không cho dẫm đạp, phải đem chôn cất, hà huống những mạng sống còn máu thịt, đồng một tánh linh, đâu thể giết để ăn được.
Lão Tử nói: Người rượt đuổi săn thú làm chúng phát cuồng, bắn chim bay thú chạy, rung cây đào đất làm chết nhiều mạng đốt rừng phá ổ, cho đến đi đứng nằm ngồi, cử động làm hại vật đều phải kiên cử, ở trong trời đất ai cũng có cuộc sống riêng, phải theo đức ưa sống của thượng đế. Người sát sanh tùy theo nặng nhẹ đều được thần quan ghi lại không sót một vật nhỏ nào. Làm cho người sát sanh lúc còn sống sẽ bị giảm tuổi thọ, gặp nhiều việc không vừa ý, chết bị nhốt vào ngục, chịu các việc khổ. Bị các việc hành hình như núi đao, cây kiếm, cắt xay chưng nấu, mổ ruột, cắt phổi, lột da, xẻ thịt, xay xương, vắt tủy, móc mắt, cắt lưởi, đốt tay nướng chân. Hành hình qua hết các đại địa ngục trải qua vô số kiếp, kiếp địa ngục đã hết lại đọa vào ngạ quỷ trăm nghìn kiếp, mãn kiếp ngạ quỷ đọa vào kiếp súc sanh, để trả báo, hể ngày xưa giết một mạng thì bị trả một mạng. Nếu tâm sát nặng có thể giết một mà phải trả báo đến trăm ngàn, vay trả trả vay, oan trái theo đòi không sai một mảy. Dù may có chút thiện được làm người thì đời đời chịu nghèo hèn cơ khổ, nhiều bệnh chết yểu, đui mù ngọng điếc, bệnh tật bất tri, chịu trăm nghìn việc khổ. Mình làm mình chịu, các cảnh giới oan gia, đều theo đòi mạng, quyến thuộc xa lìa, thân nhân sát hại đều do sát nghiệp sâu dày nên chịu các khổ như thế. Sách Đế quân nói: Người làm ác giết hại sẽ bị giáng trăm thứ tai ương, vì dị loại cũng có tình cảm như người, ai có lòng nhơn đều không nên giết. Như con dê con thấy mẹ đã già không còn ăn cây lá được, dê con quỳ xuống cho mẹ bú để duy trì mạng sống cho mẹ. Con quạ con khi mẹ già nó còn tha mồi về đút cho mẹ nó ăn, loài vật cũng có hiếu. Chó nước hồ liều mình cứu chủ. Con giải trại không phục kẻ gian tà, chỉ cho lòng trung trực đâu khác con người. Con kiến xã hội đều phân biệt nghĩa chúa tôi, con uyên ương vẹn tình chồng vợ. Con hạc trọn tình anh em. Con ánh minh chí tình bằng hữu. Xem các loài tình cảm đối với con người nào có khác gì? Con người tự xưng mình là khôn hơn muôn vật sao lại có thể giết các mạng loài vật để nuôi riêng mình mà gọi là con người nhơn nghĩa linh thiêng hay sao! Đại Phu Lục Hổ hỏi Nam Tuyền Thiền sư: Đệ tử ăn thịt là phải hay không ăn thịt là phải? Nam Tuyền đáp: Ăn là cái lộc của Đại Phu, không ăn là cái Phước của Đại Phu. Nghĩa ấy cũng khá rõ. Dù là người thế tục hội họp, khách bạn, hoặc làm việc tế lễ cũng có thể dùng rau trái cúng tiến, vừa làm người dùng khoẻ mạnh, vừa được vẹn toàn trai giới. Kinh dạy: ngày xưa có một gia đình làm nghề đồ tể, có người con trai duy nhất, xin cha mẹ xuất gia, không chịu theo nghề sát sanh của Cha. Người Cha đem đứa con với con dao và một con dê nhốt vào mật thất dạy nếu không giết con dê tao sẽ giết mi. Đứa con muốn cảnh giác Cha liền dùng dao tự sát. Nhờ công đức ấy được sanh về cõi trời, sống nhiều kiếp ở trên cõi trời được nhiều vui vẻ.
Nên biết, người không sát sanh được sanh về cõi lành, có đời sống tốt đẹp, đời đời được phước báo trường thọ, và cũng có thể để đức lại cho con cháu nhiều đời.
Thời nay Phật pháp sắp diệt, như ngàn cân treo sợi tóc, có nhiều người là đệ tử Phật lại không theo lòng từ bi của Phật ăn thịt, giết hại loài vật làm vui, thấy người ăn chay chê là chấp tướng tiểu thừa, nói ăn chay thành Phật thì con bò trâu ăn chay cũng thành Phật hết sao? Dùng trăm thứ lời nói thêu dệt để bào chửa, tự cho ăn thịt chẳng có hại gì việc tu hành. Những người này chính là người ác, dù thiên thần gặp cũng giận dữ gọi là người la sát. Thế mà cũng có người nghe theo thật đáng buồn. Ngày xưa Tử Sản thả cá còn cho là đắc ý, Tề Vương thấy giết trâu tế lễ còn xin tha, vì chẳng đành lòng để hại đến lòng nhân, người Tái Ký giết thú bị đời cho là bất hiếu, học trò đi thi vì cứu kiến mà trúng tên bảng hổ. Nên biết, giết cùng không giết hại và lợi rõ ràng, huống ta là thuộc bốn chúng con họ Thích lại có thể làm việc sát sanh ư! Kinh Lăng Nghiêm nói: "Có người giết dê, dê chết làm người, người chết làm dê, mày trả mạng tao, tao trả mạng mày, oan trái do nhơn duyên đó, trải qua trăm ngàn kiếp, thường ở trong sanh tử. Sanh sanh tử tử cùng nhau ăn nuốt, ác nghiệp cùng sanh, mãn đời vị lai, trả vay không dứt". Kinh Pháp Hoa nói: " Lưới thú, chài cá, vì lợi sát hại người bán thịt nuôi sống, đừng có gần gủi. Lại có bài kệ: "Nếu muốn giết sanh mạng, nên quán tự thân mình, thân mình không thể giết, mạng vật cũng vậy thôi." Đây là những lời dạy rất chân thành, đâu chẳng rõ ràng. Hoặc có những kẻ tà kiến, nói chúng sanh kia chỉ vọng sanh rồi vọng chết, tội phước vốn không, giết đó không có quả báo gì! Như thế, sao không nói rằng chúng ta cũng vọng cầu vọng ăn, vị lưỡi vốn không, ăn thật vô ích, vì đã có lòng tham đâu không bị cảnh quả báo. Nếu nói các loài gia súc không ăn thịt để dùng làm gì? thì rắn rết bò hung, trùng dế đều vô dụng sao không ăn thịt chúng, chỉ vì tìm con vật ngon thịt để giết hại ăn thịt do lòng ích kỷ mà ra. Cái điều thuật ở trên là muốn xét lại mình, kể loài vật để bình đẳng không được giết hại đó là đạo nhân nghĩa của con người.
Chúng ta là người xuất gia, muốn tu niệm Phật tam muội, muốn thanh tịnh ba nghiệp, giải oan gia, mở kiết nghiệp, để sanh về Tịnh độ, đâu có thể giết sanh mạng kẻ khác để ăn, làm cho khi lâm chung bị chướng ngại không sanh về tịnh độ được. Trong Đại Tạng kinh, có rất nhiều giáo chỉ, chư Phật một lời, trước sau chẳng đổi. Lời dạy của Tam giáo cũng đều như thế. Chỉ muốn chúng sanh trong pháp giới, nghe theo nghĩa này, thể theo đạo mà ưa sống, ghét giết hại, đồng hưởng nhiều tuổi thọ, cùng hết tuổi trời, khỏi các oan trái, đem pháp chẳng sát dạy người đều phát khởi lòng lành, đều được về cõi lạc bang, đồng thành Đạo Phật. 11. Khuyên trì các giới
Có người hỏi: Nay nghe dạy giới sát của người niệm Phật, có thể nói đủ cả sự lý, thật là lời dạy làm lành lợi vật rất quý báu. Xin hỏi chỉ sát nghiệp này phải thực hành nghiêm chỉnh, còn các việc ác khác như trộm, dâm, nói dối có phải giữ trọn chăng? Nếu phải giữ tất cả giới, vì sao chữ nói sơ lược có giết sát thôi?
Đáp: Ông chẳng nghe trong kinh nói về các giới đầy đủ, đâu chỉ có giới sát thôi, chỉ vì sát nghiệp là giới trọng, chung cho kẻ sang hèn, nên người tu khó trừ, người thực hành trước tiên phải đoạn sát nghiệp làm chính, nếu dứt được sát nghiệp, sau mới trọn đủ các giới, nên nói thật rõ ràng, giới thể đâu có lấy bỏ. Nếu giới đức không tu, thì căn cứ vào đâu để lập hạnh, như bình muốn đựng đề hồ, trước phải chịu rửa cho sạch sẽ, người tu tam muội cũng như thế, cần phải giữ giới thanh tịnh thì tam muội mới thành tựu. Dù có nghiệp lực sâu dày, không thể dứt sạch liền, cũng cần dùng phương tiện chế ngự, tự khuyên tâm mình, xét những lỗi lầm đã tạo, tu pháp tứ niệm xứ, biết thế gian vui ít khổ nhiều, vô thường phá hoại, chẳng bao lâu sẽ bị diệt. Tất cả các pháp đều không trong sạch, như mộng huyễn không có ngã. Lập các phương tiện làm cho dứt hẳn. Đâu có thể chạy theo vọng niệm mà mất tự chủ.
Lại nữa, giới đức tuy đủ, nếu không làm cho thân tâm ngưng định, dứt hết tất cả tạp thuật, kỷ năng ở thế gian, cho đến tất cả hoặc thiện hoặc ác nếu cứ ghi nhớ, không chịu buông bỏ thì làm sao có thể nhất tâm tu tam muội này. Tam muội đã không nhất thì do đâu mà được vãng sanh? Tất cả chúng sanh nghiệp thức vô minh trùm khắp pháp giới, nếu khởi một niệm thế tục liền bị các thứ ma đảng trần lao kéo dẫn vào đường ma, chìm đắm toàn tâm không biết bao giờ ra khỏi, như cá bị mắc câu, tuy chỉ một sợi chỉ trói vào cũng bị cái hoạ sát thân mất mạng, tâm niệm còn hại huống là tự thân mình làm ác ư!
Ngày nay đã tu tam muội này là muốn được nhất tâm, không đợi thân này báo tận, mà hiện đời chắc chắn được vãng sanh tịnh độ, đâu có thể phạm giới, tâm chạy lăng xăng, lòng nhiễm dục trần làm tam muội không thành, chịu vào đường ác thật đáng xót thương. Nếu quả thật nghe mà không tự răn khi lâm chung không có ứng nghiệm đừng nói Phật lực không có cảm ứng! 12. Gắng sức khởi lòng tinh tấn
Tinh tấn là không bị tám thứ gió ở thế gian làm lui sụt, lại không bị dị kiến của thân tâm, tất cả bệnh duyên lớn nhỏ đều không làm trể nải việc thực hành, được gọi là Tinh Tấn. Hành giả đã y theo lời khuyên phát tâm tu hành, vĩnh viễn dứt nghiệp sát sanh, lần tu đủ các giới muốn vào tam muội, ở trong tam muội gặp tất cả các thứ ma cứng, mềm, trong, ngoài làm mê loạn, việc làm có lui sụt, phải lập chí mạnh mẽ lại thêm tinh tấn như tràng kim cương, không thể xô dẹp, như lò tu di. Không thể lay động, như bể cả kia không chứa các độc. Giả sữ hành giả nghe một vị Phật dạy rằng: "Ông nay tuy tu hạnh này, cõi an dưỡng kia chắc chẳng đặng sanh." Hành giả liền đáp: Bạch đức Thế Tôn, con trước đã nhận lời Phật dạy cầu sanh về Cực lạc.
Phật Thích Ca nói: Tất cả chúng sanh đều nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia, còn không ngăn cản người nữa, căn thiếu, hạng thập ác ngũ nghịch sắp bị đọa vào A tì huống chi đối với tôi; tôi nay đạo hạnh tuy nhỏ nhưng không tạo ngũ nghịch, chỉ cần niệm Phật mười niệm chắc được vãng sanh, Phật đâu nói dối, trái với bản nguyện. Huống nữa, mười phương chư Phật, hiện tướng lưỡi rộng dài, chứng minh lời dạy ấy là chơn thật. Vì thế, tôi nay quyết định cầu sanh, chẳng dám thối chuyển. Người được như thế gọi là hành giải có năng lực dũng mãnh của Kim Cang Diệu Tràng. Chính một vị Phật nói ra còn không thể thối lui chí ban đầu, hà huống gì bọn thiên ma, ác đảng, trộm cướp, nước lửa cùng với tà ma trong loài người cùng vợ con thê thiếp tình ái mà có thể làm lay động đến hạnh nguyện ư!
Có người hỏi: Tôi thấy có người tu mà không được vãng sanh là vì sao?
Đáp: Vì chỗ thấy không đúng, nên việc thực hành không mạnh mẽ.
Hỏi: Như thế người tu công làm sẽ bị mất chăng?
Đáp: Công làm không bị mất. Người ấy chắc được nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà, đời này chẳng được sanh, đời sau sẽ được sanh, đời thứ hai không được sanh, đời thứ ba sẽ được sanh. Nếu có một niệm, một hành động quy hướng về Phật kia, nhất định nhiều kiếp trong tương lai sẽ được vãng sanh nên gọi điều được không lui sụt. Dù vậy, để đến đời sau mới được vãng sanh, uổng chịu khổ nhiều kiếp luân hồi, nên phải quyết chí đời này được vãng sanh, không thể buông thả chí mình bị rơi vào đời sau mới được vãng sanh. Trong khi tu tập, nếu bị nghiệp đời trước sai sử, nguyện hạnh có chỗ khuyết kém, thường phải nhất tâm tụng chú. "Nhổ tất cả cội gốc căn bản nghiệp chướng được sanh tịnh độ Đà La Ni". Nếu người trì được 1 biến có thể diệt được các tội ngũ nghịch thập ác trong thân mình. Nếu trì được 10 muôn biến liền được không quên mất tâm bồ đề. Nếu trì được 20 muôn biến liền cảm được mầm bồ đề nảy sanh. Nếu trì 30 muôn biến Phật A Di Đà thường ở trên đỉnh người ấy, chắc được sanh về Tịnh độ.
Gần đây có Tam Tạng Pháp sư Sa La Ba dịch âm câu nhiều hơn. Tổ Liên Trì dạy người đọc theo bản cũ hay bản mới đều có linh nghiệm như nhau, nên chúng tôi chép hai bản cũ và mới để tuỳ ý quý vị chọn để hành trì. Bản cũ thường trì tụng
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Bản mới dịch:
Nại ma lặt đát nạp, đặt ra da dã, nại ma a rị dã, A Di đã bạt dã, đát diệt da đát đả, A ra yết đế, Tam me tam bất đạt dã, đát đích dã thát, Án A Di lý đế, A Di lý đả, Ôn ba dĩ, A Di lý đả, tam ba dĩ, A Di lý đã, cát lý tỷ, A Di lý đả, tiết đề, A Di lý đả, đế sát a di lý đả, Di yết lan đế, A Di lý đã, Di yết lan đế, da di nể, A Di lý đã, da da nại, yết lý đế cát lý. A Di lý đả, đốn độ tỷ, tô khuê lý, tát lý khuê, A lặc thát, tát đát nể, tát lý khuê, da lý ma, kiết lý xá, kiết lý dã, cát lý, tá yết.
Chú này cũng gọi "Vô Lượng Thọ Như Lai căn bản chơn ngôn" Tụng chú này được đại tinh tấn, mau được sanh về cõi Tịnh độ. 13. Chánh Hạnh
Như trước đã thuật hai cảnh y và chánh cho đến tinh tấn, tuy đều là mầu nhiệm viên mãn, đều là phương pháp cầu sanh Tịnh độ, nhưng chưa phải là chánh hạnh, những điều trình bày dưới đây mới thật là chỉ thú của chánh hạnh. Vì sao gọi là chánh hạnh? Hành giả đã phát chí này là khiến thân tâm được thanh tịnh, vào trong đạo tràng, trước phải quán sát: Ta và tất cả chúng sanh ở trong cõi hư không vi trần sát hải này, thường ở trong bể lớn sanh tử, nhiều kiếp không bao giờ dừng, nổi trôi chìm đắm ở trong 6 đường, không biết đường về và không ai cứu giúp, nếu không làm cho họ đều được giải thoát thì sao gọi là chánh hạnh. Đối với cảnh quán sát kẻ oán người thân, liền từ cảnh ấy khởi lòng đại bi, như lượng của hư không rộng lớn bao trùm. Lại phải nghĩ rằng: hôm nay thân này của ta chứa đầy tội lỗi, oan nghiệt khổ báo, như bị ghẻ lỡ, nếu không làm việc bố thí cho chúng sanh, giúp họ tu tam muội, đều được giải thoát thì trái lời dạy của Phật, trái với bản nguyện của ta. Chúng sanh chịu khổ thật đáng thương xót. Ta nay phát tâm dũng mãnh như Vua Sư Tử ra khỏi hang, không cần bạn bè không cần ai giúp đở, phát tiếng rống vang, xô dẹp tất cả, nhất định không bị ma vương, bọn ác làm lui sụt. Tâm rộng lớn đã lập, rồi sau mới xét đến chánh hạnh niệm Phật của các bậc cổ hiền, chọn phương pháp tịch tịnh tự nhiên và chẳng phải chỗ khó khăn của tiên đức, để khỏi phí công các bậc Cổ Đức đã tạo ra, rồi đúng pháp mà kiến lập đạo tràng.
Trong đạo tràng ở phía dưới phải có đủ hương đèn hoa quả, phía trên treo tràng phang bảo cái, ở giữa phụng thờ tượng Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, hoặc tượng chín phẩm, thật trang trọng và sạch sẽ, treo khắp tràng phang, đầy đủ hương hoa và các thứ cúng dường, tất cả phải sạch sẽ thơm tho. Kế đó phải mặc áo mới sạch, đốt hương đèn, đăt tọa cụ sẳn. Khởi tâm đem tất cả căn lành đã có từ vô thỉ, khắp vì chúng sanh hồi hướng, dùng hạnh nguyện trang nghiêm Tịnh đọ. Nếu không được như thế hồi hướng làm nhân phát khởi thì đâu được ba tâm cùng phát viên mãn, năm vóc gieo mình.
Quán Phật tướng hảo, hồ quỳ hợp chưởng, cho đến vận dụng tâm duyên khắp tất cả chúng sanh ở vô biên sát hải và thân ta từ trước đến nay trôi nổi không quay lại, thật đáng xót thương! Rơi lệ đau lòng, cầu Phật rũ lòng từ thương xót, chợt thân này như núi lớn đổ, nương về Tam bảo. Tay cầm hương hoa, tưởng khắp pháp giới, khen ngợi công đức Phật, kỉnh lễ chí thành, đem hết tâm tư phát lồ sám hối. Tu hành ngũ hối, cung kỉnh quy y, lúc ấy thân ngồi ngay ngắn, mặt hướng về tây, quán tướng hảo Phật. Tụng kinh niệm Phật vào ra kinh hành, ngày đêm sáu thời, khắc kỳ cầu chứng. Hoặc như hành giả chướng sâu, chưa có cảm ứng, phải lấy cái chết làm kỳ. Trong lúc này không được giây lát nhớ ngũ dục ở đời, một lòng thực hành như thế, nếu không được vãng sanh thì đức Phật là đại vọng ngữ.
Tam muội này có thần hiệu như thế nên chư Phật mười phuơng đều khen ngợi, các bậc thánh đều tôn sùng, ban đầu được đề xướng ở Lô Sơn, sau đó lưu truyền khắp thiên hạ. Bao nhiêu đời hoằng truyền đều ký pháp tu tam muội này làm nơi quy thú. Nghi quỹ tam muội tuy nhiều, chỉ có phương pháp tu tam muội của Sám Chủ Từ Vân chọn ra rõ ràng hơn hết, hành giả cần phải nghiên cứu cho thuần thục. Đây là chỗ làm cao nhất, cảnh giới sâu xa, hành giả cần phải gắng sức nghiên cứu học hỏi, cẩn thận không được bỏ phương pháp tu này chạy theo pháp khác. Hoặc nếu người căn cơ còn kém, thắng hạnh khó hoàn toàn, cần phải ở nơi tịnh thất làm cho trong ngoài thanh tịnh, tùy ý lập hạnh như lễ Phật sám hối mỗi ngày định số bao nhiêu, tinh tấn một lòng, thề không giữa chừng lui sụt. Hoặc chuyên tụng kinh, hoặc chuyên trì chú, hoặc chỉ chấp trì danh hiệu cầu nguyện vãng sanh. Hoặc có thể thâm đạt nghĩa các pháp, quán y báo và chánh báo của Phật, nếu được thấy hảo tướng thì biết tội đã diệt, duyên đã sâu, sẽ được sanh về nước Cực lạc. Như Kinh A Di Đà nói: "Không thể dùng ít căn lành, ít phước đức, ít nhơn duyên mà được sanh về nước kia. Nếu có người nghe nói Phật A Di Đà rồi gìn giữ danh hiệu hoặc 1 ngày, 2 ngày, cho đến 7 ngày một lòng không loạn, người ấy khi mạng chung, Phật và thánh chúng hiện ra trước mặt người ấy tiếp dẫn liền được vãng sanh". Nên biết gìn giữ danh hiệu là nhiều căn lành, nhiều phước đức, nhiều nhơn duyên.
Nếu có người chưa dứt hết duyên đời, tu theo thế thiện, đối với nước Cực lạc tin chắc không nghi, mỗi niệm hâm mộ ưa thích không quên, ở cách làm trong đạo tràng trước tuỳ ý tu tập, trong 4 oai nghi lấy việc hành đạo làm nơi quy thú, gặp cảnh thì đạt được nguồn gốc thực hành, gặp việc thì hết sức dùng phương tiện, khi mạng lâm chung chắc sanh về cõi Cực lạc. Tuy các hạnh nói sơ lược chẳng đồng mà năng lực của pháp ấy thì bình đẳng. Chỉ cần trong lòng quyết chí thực hành, việc kết quả có chậm có mau là do ý chí của hành giả nên Phật cũng ứng hiện có mau có chậm, như bóng theo hình, hành giả cần phải biết rõ. Có pháp môn thập niệm của Ngài Từ Vân, mỗi sáng tối, khi súc miệng, rửa mặt xong, ở chỗ vắng vẻ, mặt hướng về phía Tây, niệm danh hiệu Phật hết một hơi tính một niệm, niệm hết 10 hơi gọi là thập niệm. Đây thật là nhơn ban đầu rất dễ làm, đừng cho qua mất. Các hành tướng tu hành như trên nghĩa đủ, lý rõ, có thể nói là không có nghĩa nào khác nữa.
Hỏi: Tôi trong khi niệm Phật, tuy vận dụng được thân và miệng mà tâm vẫn lăng xăng không thể tự chế, làm sao dụng tâm cho được không tán loạn?
Đáp: Hãy cứ vận dụng thân và miệng không cho gián đoạn tự có thể được nhất tâm. Chỉ cần thực hành liên tục làm chứng, không lo gì tâm còn tán loạn. Ví như đứa con hiếu thảo mới mất cha mẹ, như con rồng mất hạt châu hộ mạng, không mong tâm được nhất mà tâm tự nó nhất. Đâu cần ngăn nó làm cho nó được nhất, thật tâm này không thể ngăn, thật do hành giả siêng năng hay giải đải thôi! 14. Riêng chỉ cách tu Tam muội của người khách không nhà.
Đạo tràng đã đủ, việc cúng đã trình bày, tất cả đều đúng theo nghi thức, đâu để theo thời gian qua suông, phải y theo giáo pháp, vận tâm thì dùng quán huệ, hiểu đó phải dùng diệu cảnh, thừa theo sự thù thắng của tâm này, lập hạnh vô tác thì bể sanh tử chắc khô, cõi Tịnh độ chắc được sanh về. Lúc ấy có một người khác đang ngồi ung dung thanh nhã, đoan trang chánh trực, bên trong chứa cái chí không khiếp nhược, bỗng làm lễ mà hỏi: Nay Đại sư đã dạy thì biết hành giả phải vận tâm rộng lớn, bao quát cả lan sâu, vậy sau mỗi kiến lập đạo tràng, làm cho đồ cúng được đầy đu, mới an tâm tịnh y, mới có thể nói đến chuyện khởi tu. Nếu tôi là kẻ hậu học, căn cơ thấp kém ít nghe hiểu, từ xưa đến giờ lênh đênh sông biển, ruỗi dong nhiều chỗ hoặc đến hoặc đi, tuy muốn ở chỗ yên tịnh để thực hành, mà năng lực chưa được, nếu có thể bôn ba nhiều chỗ, không lập đạo tràng, mà cố gắng sáu thời hành đạo, ba nghiệp không khuyết, tụng chú trì kinh, xưng danh lễ bái, làm đúng theo nghi thức, cầu sanh an dưỡng, đồng với công hạnh tu trong đạo tràng. Như vậy chúng tôi có thể thực hành được không? Ngưỡng mong Ngài rũ lòng từ, triển khai chỉ thú, vạch bày trước sau phương tiện?
Đáp: Lời hỏi của ông rất hay! Người đời muốn tu tam muội, phải cần có đủ trăm thứ nhu cầu, sau đó mới khởi hành. Nay chí ông thật là siêu xuất. Không có câu hỏi này thì không khai thông hết những điều chất chứa trong lòng ta, là muốn lợi khắp các cơ. Giáo pháp của đức Phật như một trận mưa mà cây cỏ đều được thấm nhuần. Huống chi niệm Phật tam muội là phương pháp trùm khắp các cơ. Ông nếu muốn cầu sanh tịnh độ chỉ cần ở trong 4 oai nghi, đều làm đạo thì đâu có ngại gì ở trong quán trọ ư! Nếu ông muốn lập hạnh tiến tu trước tiên phải có tâm không dối trá, chứa nhóm công đức, không được khoe khoang chỗ hay của mình, phải thấp tâm kỉnh trọng người, cốt yếu trong ngoài đúng cách, kế đó buông bỏ các duyên, dứt hết muôn việc, đọc kỹ các kinh chú tịnh độ, ngũ hối sám pháp làm rất thành thạo, đồng thời cũng tập các oai nghi, làm cho lúc nào cũng đoan trang thanh nhã. Như trước đã nói: hành giả trước phải khởi lòng tin chơn chánh vận dụng trí đại bi, khắp vì chúng sanh, đúng lý quan sát, hai cõi tịnh và uế, hai quả báo khổ và vui, thật lòng nhàm chán cõi uế và ưa thích cõi vui. Hành giả phát khởi hạnh này, dù là khách đi trên đường di chuyển chỗ ở không nhất, như mây như nước, nên không cần trang nghiêm đạo tràng, chỉ cần thanh tịnh thân tâm, ăn mặc tùy theo hoàn cảnh miễn sạch sẽ thì thôi. Vào ngày lục trai, khách dù ở bất cứ chỗ nào cũng phải sắm đủ hương hoa cúng dường Tam bảo tỏ lòng thành kính. Đối trước Tam bảo lễ bái hết lòng, lập nguyện rộng lớn, thề không thối chuyển. Suốt cả đời này lấy đây làm nơi quy hướng, không có hối hận bỏ dỡ nữa chừng. Tuy không có đạo tràng để trang nghiêm, nhưng vẫn lấy ngày phát nguyện này là ngày đầu vào đạo và trọn đời, mỗi ngày sáu thời tu hành pháp này, hương đèn dù có hay không cũng không cần lo chấp.
Hỏi: Người tu tam muội cần phải nhất tâm mà việc đời thì có muôn mối, như vậy làm sao tu hành cho Phật sự và thế sự không bị trở ngại.
Đáp: Như người bắt chim nhốt nó vào lồng, thân nó tuy ở trong lồng mà tâm nó lúc nào cũng nhớ vườn rừng, hai việc ấy không có trở ngại nhau. Lồng chỉ nhốt được thân nhưng không liên hệ đến việc tâm muốn thoát ra. Công việc chỉ trói buộc thân ta chứ không thể trói buộc ý chí vãng sanh của ta. Nên nói ba cõi như lồng, thân ta như chim, mong ra khỏi là ý nguyện vãng sanh, vườn rừng là cảnh giới tịnh độ. Nên biết duyên vọng muôn mối không ngại chơn tâm. Huống chi hoàn cảnh người khác, việc khác rất ít phiền não, mình không liên hệ với nó, thì thân tâm an ổn, đó là chỗ tiến tu rất tốt.
Hỏi: Phương cách tu hành tuần tự, cần được nghe rõ để khi người tấn tu, gặp việc khỏi lầm lẫn?
Đáp: Đêm ba thời, ngày ba thời giữ đúng đừng sai, lấy đó làm thứ lớp. Người khách đang ở xứ lạ quê người, dù vậy đến giờ hành đạo cũng phải chuyên làm, nếu chỗ có tượng Phật hoặc tự mình có tượng mang theo, thì miệng xưng tụng, thân lễ bái, hoặc tụng thầm thân lễ, đối với tượng Phật mà tu. Như không có tượng Phật, hoặc đối với quyển kinh, hoặc chỉ quay về phương Tây làm lễ, hoặc chỉ trừ hướng Đông tùy theo các phương tu lễ bái, phải đủ như nghi thức trong đạo tràng. Nếu có thời gian ở trên đường hoặc lên thuyền và những việc động dụng thân do công tác bất đắc dĩ không thể cưởng lại, không thể bác bỏ thì Phật sự và thế sự cùng làm. Phải nhớ các việc đời mà mình làm đây mục đích nuôi dưỡng thân. Thân ta hành đạo công cũng không bỏ tức cùng tam muội đồng thể vậy.
Hỏi: Tôi nghe nói tâm không dùng 2 việc, nếu được một thì mất một, vì sao ở đây nói hai việc cùng làm?
Đáp: Ông chẳng nghe thí dụ về chim ở trong lồng, tự mình thấu rõ. Như người nhất tâm không ngăn ngại vì mắt thấy, tai nghe, thân làm tâm nhớ, ứng dụng không cùng. Đâu phải chỉ ở trong hai việc, dùng đã không cùng thì nên đem tất cả động dụng, nhất tâm trì tụng kinh A Di Đà một biến, hoặc 9 phẩm trong quán kinh, hoặc chương Viên Thông của đức Đại Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm, hoặc tụng chú tịnh độ hoặc 3 biến, 7 biến cho đến trăm ngàn biến. Xưng niệm danh hiệu Phật hoặc 3 trăm, 5 trăm cho đến ngàn muôn không kể số. Rồi thực hành sám pháp, nghi thức hành lễ này có đủ trong Từ Vân sám nghi. Bắt đầu từ tất cả cung kỉnh lễ Tam Bảo, đốt hương, tán Phật, lễ bái, sám hối, cho đến tam qui y đều có thể tùy theo khả năng mà thực hành. Trong lúc làm tưởng tất cả văn nghĩa tiết đoạn và thân ta đang đối trước Phật ở cõi Tịnh độ, hoặc tưởng ta như đang ở trong Đạo tràng, trước hình tượng Phật, quỳ lạy, đi nhiểu kinh hành, tất cả đều rõ ràng, không cho hôn trầm hoặc tán loạn. Lễ xong liền quán Phật và tướng bạch hào, đúng giờ đã định mới dừng. Cứ như thế niệm tụng kinh, chú, hiệu Phật rồi hồi hướng xong, gọi là một ngày làm Phật sự chỉ có tưởng lễ này và hành pháp ở đạo tràng đồng đạo thêm thân lễ là xong.
Riêng về âm thanh đọc tụng, tuỳ theo hoàn cảnh có tốt xấu mà đọc có lớn hoặc nhỏ nhưng tiếng tụng phải trang trọng, tưởng như cùng chúng tụng ở đại đạo tràng. Lời tụng của ta mọi người cùng nghe, tuyệt đối không được nói chuyện trong lúc trì tụng. Hành giả khi chưa làm việc ở trước Phật đốt hương cầu nguyện, hoặc ở chỗ không có bàn Phật, chỉ cần chấp tay tưởng như ở trước Phật, thắp hương cầu nguyện, trong giờ ấy chuyên tâm tưởng Phật. Các giờ khác chỉ nên ngồi một mình hoặc đi một mình, xa lìa các chỗ ồn náo, hoặc nhóm họp chuyện trò, giỡn múa nhảy nhót, vui cười ca ngân, khen vịnh bút nghiêng làm cho mình và người quên mất chánh niệm, đó là phần buổi sáng trong ngày. Hoặc phần giữa ngày và phần đêm cũng thực hành như phần buổi sáng. Đó gọi là 6 thời hành chánh pháp. Nên nhớ người thực hành giữa đêm, cảnh vắng vẻ, tùy ý thực hành khác hơn buổi sáng.
Hành giả đã vì sanh tử làm việc lớn đâu có thể tùy theo giải đải mà buông lung ngủ nghỉ, dù có hoàn cảnh nóng hay lạnh cũng đừng cởi áo. Áo tràng và xâu chuổi phải để kế bên, khăn tay nước lạnh không xa giường nằm phải luôn rửa tay sạch sẽ để khi cầm kinh, cầm chuỗi, áo tràng không bị lỗi ô uế. Nếu có nhu cầu gì trước phải dự bị. Cần phải nghĩ mình ít phước, không dám làm nhọc người, đừng để người nhàm chán. Thấy hoàn cảnh không có trở ngại, khi tụng kinh thì tụng nhỏ như đàn cầm đàn sắt nhỏ mà trầm trọng, lớn mà không ồn làm cho thiên thần hoan hỉ đến giúp đỡ, loài quỷ súc nghe tiếng được giải thoát thì công ấy rất lớn. Hành giả hoặc lúc ở trên thuyền, hoặc ở trọ nhà người đều phải xét cảnh, xét người, một lòng tinh tấn, phương tiện uyển chuyển dùng hết sức để tu hành. Sự quan trọng là không được thấy lỗi người, chỉ chỗ xấu của người, tuy không thể hoan nghênh hết mọi việc làm của người khác, nhưng phải thành thực nhận thấy cái hay của người.
Dù gặp thời gian bất tiện hoặc gặp những người khác việc khác làm chướng ngại, cũng phải tìm chỗ vắng vẻ ngồi ngay ngắn hướng về Tây, chấp tay lễ xá, tiếng niệm tụng lớn nhỏ tuỳ nghi, giống như ở trước nói về tưởng lễ và làm việc. Nếu ở trong lúc làm việc, việc đã xong, thân được rảnh, không luận sám nhiều hay ít, cho đến chỉ một câu một lạy, liền phải lên tiếng tụng niệm, đến chỗ bàn Phật thì thân lễ được viên mãn. Nếu ở trước Phật lễ bái bỗng có việc khác gấp phải làm, cũng không câu chấp là sám hối nhiều ít cho đến chỉ một câu một lễ, liền theo đến chỗ làm việc, tưởng lễ đến viên mãn. Cần nên biết không nên vào sám chưa lâu mà khởi sám lại, vì làm như vậy coi như điều ép buộc bất đắc dĩ mà làm, cũng không phải mượn thời tưởng lễ để giải đải thân mình. Lại cũng không thể dùng tưởng lễ này mà thêm thời gian làm việc, làm cho thời gian thêm trống trải. Đối với người có lòng tin ít, không nên khuyên tu bằng người có lòng tin sâu, cũng không thể không thầm chỉ rõ làm cho người kia bỏ nữa chừng. Lại không nên dạy công đức tu hành bằng nhau để họ sanh lòng ham, vì người y theo đạo tràng mà tu gọi là thuận và dễ làm, còn người khách ở giữa đường mà tu gọi là nghịch và dễ làm. Nếu dùng nghịch dễ làm so với thuận dễ làm cách xa nhau một trời một vực. Người dùng nghịch dễ làm phải gia công rất nhiều.
Hỏi: Tưởng lễ và thân lễ đồng chăng?
Đáp: Đồng. Ông đâu chẳng nghe, trong ba nghiệp, ý là chủ của thân khẩu. Chủ đã chú tưởng thì thân khẩu đâu có thể tạo nghiệp. Lại như trong sám hành giả tưởng nhớ hương hoa và ý chí tưởng thân tâm cùng khắp, như vậy chỗ nào cũng đều niệm tưởng, cứ suy theo đó có thể biết rõ.
Hỏi: Nếu đã như vậy thì chỉ cần vận dụng tâm tưởng lễ không cần vận dụng thân khẩu được chăng?
Đáp: Ý nghiệp tuy thù thắng, nếu gồm cả thân và khẩu mới gọi là ba nghiệp viên tu, căn cứ vào ý nghĩa yên lặng mà tụng, cũng có thể biết được. Lại nữa, có thể dùng cách tưởng lễ này ở trong lúc thời gian nhàn rỗi việc làm càng tốt hơn.
Hỏi: Ngoài sáu giờ hành pháp, dụng tâm thế nào?
Đáp: Hoặc quán tướng hảo Phật, trì chú, tụng kinh, xưng danh, đảnh lễ thực hành các hạnh như thế, mỗi niệm không bỏ, định kỳ vãng sanh. Như người đi đứng bước nhanh đi mau, bước hưỡn đi chậm, nên như thế ấy mà dụng tâm. Nếu người thân tâm yếu ớt, không thể hành pháp sáu thời, chỉ cần chia định tụng kinh, bái sám, mỗi ngày hoặc 3 thời, năm thời, tuy không có lúc giải đải, lúc tinh tấn, cũng không thể lúc tăng giảm sửa đổi những điều đã lập hạnh trước đây.
Hỏi: Khách đi đường tu tam muội đã nói là viên dung thứ lớp ở đời ít được nghe, nếu như vậy thì không cần y theo đạo tràng mà tu có được không?
Đáp: Như có người rơi xuống biển, tìm thuyền chưa được, chợt gặp một tấm ván liền nương nó mà vào bờ, đâu thể có thuyền kề bên mà tìm ván hoặc gổ để tự mất mạng hay sao? Huống chi khách đi hay ở tùy chủ nhàm chán hay ưa thích được không trở ngại thì làm sao mà không tinh tấn công phu.
Những điều nói trên là chỉ cho những người khách đang di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác tu tam muội. Tam muội này cảnh giới rất sâu xa, công năng rất rộng lớn hợp với tâm Phật, ca ngợi mãi cũng không hết, trong bốn thứ tam muội hành, trụ, toạ, ngọa thì tam muội này gọi là phi hành phi tọa, tam muội cũng gọi là tùy thuận tứ oai nghi tam muội, chính là trang bị cho bậc đại cơ, còn những hàng tiểu trí, tiểu căn, tùy theo phần mà nhận được lợi ích. Vì tam muội này so sánh với đạo tràng tam muội chỉ thiếu có thân lễ còn các nghi khác vẫn đồng, ông nên dùng tam muội này tinh tấn thọ trì, một lòng về Tây, cần thiết không được chần chừ mà phải xuôi theo dòng sanh tử.
Gần đây xét thấy trong đời có 2 hạng người muốn tu tam muội này, có người vừa nghe nói dễ, liền tưởng là dễ liền nói dối là được chứng tam muội, có người vừa nghe nói khó, liền sanh lùi sụt liền mất hết ý chí tiến tu. Hai hạng như thế dù có lòng tin tha thiết, cũng bị lôi cuốn vào đường tà, lại nói bí mật trao truyền cho nhau, làm nhiều người lầm lẫn. Pháp trao truyền cho nhau có thiên hình vạn trạng, không làm sao nghe cho hết. Tất cả đều là dối gạt lòng người, tự phản bội chính mình làm cả Thầy lẫn trò đều bị nguy hiểm.
Khách làm lễ rồi thưa: Con làm khách giang hồ đã lâu, mỗi khi tưởng nhớ đến sanh tử vô thuờng, muốn tu mà chưa được, chỉ lo nuôi sống bản thân, đối với pháp tu hành đạo trong đạo tràng, không được thực hành lòng rất lo buồn. Hôm nay duyên may từ đời trước được nghe lời dạy này, có thể nói là được cam lồ quán đảnh, mát mẻ tận xương, nên con quyết chí thọ trì. Tất cả những điều thắc mắc từ trước đến nay đều tan biến, từ đây không bỏ thân tâm, không màn thế sự, tự tại an nhiên, nguyện đời đời kiếp kiếp vâng giữ thọ trì, thà bỏ thân mạng không cho thối lui. Khắp khuyên tất cả những người đồng cảnh ngộ như con, đều được hiểu rõ, ở trong chỗ thuận hay nghịch, không trở ngại hành đạo, đều thành tam muội. Có thể đây là điều rất may của chúng sanh và cũng là điều rất may cho những người học Phật.
Người tu pháp tam muội này thì biết được tất cả công việc bôn ba theo thế tục, trôi nổi bốn phương, lao khổ vì miếng cơm manh áo, buôn bán đầu tư, kỷ nghệ công tác. Tất cả trai gái già trẻ, nô tỳ huỳnh môn đều phải làm việc cực khổ, không được tự do. Đối với tất cả việc đi đứng ngồi nằm của họ, cho đến lúc mặc áo ăn cơm, nói nín động tịnh và bị ở trong lao ngục. Đối với việc mừng giận thương vui, bất cứ lúc nào cũng có thể tu được. Huống chi bốn chúng xuất gia, bốn dân tại gia, có chỗ ở, có chỗ tạm mượn có thể tu, chỗ muốn đều đầy đủ, đều được tự tại, đâu nên không cố gắng tinh tấn thực hành? Nay có người nghe nói cõi Cực lạc rất xa cách đây 10 muôn ức cõi, nên lo sợ đường quá xa, nghe nói người sanh về cõi kia phần nhiều một đời được bổ xứ đi làm Phật, hổ mình không theo kịp thì thế nào?
Đáp: Các ngài không biết như trên đã nói cõi hư không trong 10 phương đều là tâm ta, tâm đã tịnh thì mười muôn ức cõi đâu có xa gì! Nếu tâm cấu uế thì trước mắt cũng xa, chỉ cần tâm tịnh, cần gì tính đường xa hay gần như người ngủ trong giây lát, mơ thấy đi xa ngàn dậm, đâu có thể dùng thời gian bình thường mà so sánh được. Lý đã có cõi có thể sanh, cần thiết không nên nói: chỉ cần tâm tịnh là phải mà không cần sanh đến cõi kia.
Khách lại lễ và thưa: Con mới nghe pháp tam muội này, trước kia chưa từng nghe, Sư đã theo ý kiến của con mà ban bố cho pháp ngữ. Nay nghe tin tam muội này mới biết được rút ra từ kinh điển Tịnh độ, thật hợp với cơ nghi, như trời trưa sáng tỏ, thật là một lời dạy bảo quý báu cho những người hậu học, con nguyện ghi lấy để làm kim chỉ nam cho đời sau làm pháp môn chánh tu sau trước rõ ràng ở trong đạo tràng, lợi ích nhiều người.
Đáp: Rất hay, ông nên đem hết sự hiểu biết của mình mà nói lại cho kẻ hậu học đời sau. Vị khách cung kỉnh đảnh lễ mà lui. Người khách ấy tên Nhất Hạnh tự Chí Tây tự nói đã đọc Kỷ Vạn Thiện Đồng Quy của Trí Giác Thiền sư. Sau đó đến Lô Sơn gặp di tích của sơ Tổ Huệ Viễn nhơn đó mà phát nguyện niệm Phật. 15. Nghi thức Tu Tam Muội
Nghi thức tu tam muội theo Từ Vân sám chủ, hành giả phải kiến lập Đạo tràng, sắm đồ cúng dường, dự bị y phục giầy dép mới, giặt y tắm gội, kiết giới không cho ra vào, phương tiện chánh tu, thiền tụng sám lễ, các pháp tắc thanh tịnh đã nói đủ, ở đây không chép lại. Đúng ngày vào đạo tràng, phải trước đó 7 ngày, lo tất cả mọi việc chu tất, trước phải làm cho thân và tâm tịnh định, sám hối nội chướng cho đến khi thấy được hảo tướng. Bắt đầu vào đạo tràng nên dùng vào ngày lục trai, phát nguyện tu trì hoặc 3 hoặc 7 ngày. Ở trước Phật tiền phải cẩn thận cúng dường hương hoa tịnh thủy. Bởi vì ở trong đạo tràng có Phật trời giáng lâm, nên phải trang nghiêm cẩn thận để trừ các ma sự và các chướng uế ác, làm cho hành giả ở trong đạo tràng tam muội dễ thành tựu. Vì thế ở đạo tràng nên tưởng là Tịnh Độ, nên tưởng là nơi giải thoát, nên tưởng là nơi bảo sở, nên tưởng chắc chắn được vãng sanh, không được xem thường. Đồng thời phải xét thấy rõ cái khổ ở thế gian thật vô cùng, phải xem như oan gia cần phải xa lánh, vĩnh viễn không trở lại. Không được đem những việc khó cắt đứt, khó dứt bỏ, chứa giữ trong lòng, lo nhớ niệm khác làm lúc sám hối bị chướng ngại, chánh hạnh không thăng tiến, mất hết công phu, không giữ được chánh niệm liên tục, nên trong nghi nhập đạo tràng nói không được trong giây lát nhớ đến năm món dục lạc ở đời.
Trong đạo tràng, hành giả chừng 10 người trở lại, nhiền hơn thì không nhận, phải dự liệu chọn những người nào có thể tu tam muội được mới cho vào. Phải xét những hành động hằng ngày của hành giả, tánh ít thô tháo, lòng tin bền chắc, không có tánh bốc đồng nhất thời, tiếng nói phải hoà nhã, phẩm hạnh đoan trang, chấp nhận người chủ thất chỉ bảo, vì sanh tử mà vào đạo tràng, không sanh lòng hối hận buồn bực, tánh vui vẻ khiêm nhường, có thể cùng tu. Nếu không chọn được người như thế, chỉ cần 3 hay 4 người cũng đủ. Hoặc một mình cũng tốt, tránh nhiều người làm bại hoại quy tắc, rối loạn việc thanh tịnh tu hành. Lại ở trong chúng cần suy tôn một người có đức lớn, thực hành thuần thục, hoặc riêng thỉnh những bậc thầy sư phạm làm chủ phương đẳng đạo tràng. Sám chủ thực hành sám pháp, phải dạy cho mọi người hiểu rành nghi lễ, nghe lời sám chủ chỉ bày, khởi lòng y chỉ. Ở trong đạo tràng, hoặc gặp những tướng thuận nghịch, không được thấy lỗi người, phải xét lại lỗi mình, nhã nhặn hoặc tham dự hoặc lui đi.
Nghi thức lễ tụng hoặc lạy hoặc quì, hoặc ngồi hoặc đứng, chấp tay cung kính đi nhiểu, tất cả phải trang nghiêm nhã trọng, mắt thấy tai nghe đều nhiếp cảnh về tâm. Người chưa hiểu, phải hỏi bậc hiểu trước, cẩn thận đừng tự thị cho mình có đủ sức làm thân và tâm lay động cần phải cảnh sách.
Chúng tham dự vào đạo tràng, trước đó một ngày phải tắm gội, giặt dũ, thay đổi y phục giầy dép mới sạch, đồ đạt đầy đủ cho ngày dự tu theo lời sám chủ đã dặn. Khi vân tập sám chủ dẫn khánh, dẫn chúng vào đạo tràng, chỉ cho 2 người nội hộ vào, ngoài ra không cho bất cứ người nào không phận sự vào đạo tràng. Mọi người đốt nhang xong, y theo pháp sám hối, lạy Phật 3 lễ chí thành cầu Phật cảm ứng, lễ xong đứng dậy đi kinh hành trở về chỗ đứng. Sám chủ ra khỏi chúng đọc văn bạch một thiên, tán Phật, tán thuỷ, cầu xin Tam bảo gia hộ chứng minh, để trong lúc chánh tu khỏi bị ma chướng được sanh tịnh độ. Cầu nguyện xong cử bài tán Khứ Chánh Pháp Minh, niệm chú Đại Bi 7 biến, chú Như Ý Luân 7 biến, chú Tỳ Lô Quán Đảnh 7 biến. Sám chủ trong lúc tụng chú dùng tay cầm chén nước, tay dâng lò hương đến nửa thời dụng mới đưa cho người bên hữu cầm, kế đó dâng cát, dâng hương, dâng hoa cũng như vậy, rồi đứng dậy đi kinh hành lần lượt 3 vòng, ba phần chú đã xong, lại cử đại bi chú, rưới nước tẩy tịnh chung quanh và các chỗ mà mình sắp đi qua, trước đốt đèn sáng, chú ý đèn phải làm sáng con đường đi kế đó mới cầm chén rưới nước, kế đó rãi cát tán sa, kế đó cầm lư cúng hương, sau đó tuỳ theo mỗi chỗ tán hoa. Lãnh chúng từ sau Phật toà kinh hành, trước ở trong đạo tràng đi vòng bên hữu, đốt hương, tái tịnh đầy đủ 3 lần, làm cho cát và nước đều rải khắp. Kế đó từ phía ngoài đạo tràng, chỗ phóng sanh, trai đường cũng nhiểu một vòng. Kế đó tịnh trù chỗ tắm gội, vệ sinh, chỗ yên nghỉ, chỗ thiền hành. Phàm chỗ nào chúng đi qua hoặc phòng ốc cũng phải sái một vòng, vì sái các nơi chúng đến nên gọi là kiết giới. Kinh dạy: "Giới như vách thành bằng kim cương" tuân theo ý này nên phải vún sa, đổi thành tịnh địa gọi là kiết địa giới. Người dâng hương tưởng mây hương như lọng che trên hư không, kiết hư không giới. Người tán hoa biểu hiện sáng rở sạch sẽ trang nghiêm pháp giới. Như cách dùng tất cả pháp ở trên đều nhờ vào bậc đại bi thánh chủ gia trì và sức thần chú gia trì, nên cát nước đến chỗ nào là thành cõi đất báu của Phật. Nhờ vào nhân duyên này mà tà ma không thể vào, ngoại đạo không thể làm phá hoại, nên tam muội dễ thành.
Tướng của giới tràng này cẩn thận không thể phá hoại, nếu phá hư giới tướng là điềm chẳng lành làm cho đạo hạnh bị nhiều chướng ngại khó thành tựu. Vì sao gọi là giới tướng. Tướng giới có hai là nội tướng và ngoại tướng. Nội tướng là bốn góc trong của đạo tràng tu sám pháp. Ngoại tướng là những nơi ở ngoài đạo tràng mà ta kiết giới, chỗ ấy có cắm cọc đã đem nước và cát tưới đến chỗ ấy. Người ở trong đạo tràng chỉ đến nêu ngoại giới thì dừng không được ra ngoài, nếu bước ra ngoài nêu gọi là phá giới. Người ở ngoài đạo tràng vào đến nội giới phải dừng lại, vượt khỏi nội giới gọi là phá giới. Hoặc người lo công việc dùng tay chỉ, đi vào nội giới một phần cũng gọi là phá giới hoặc cho người xấu vào ngoại giới thời gian ngắn cũng gọi là phá giới. Nên biết pháp này không được tuỳ hỷ cho người khác vào. Dấu hiệu phá giới là một điềm không tốt. Như ý chỉ trong kinh nếu giới bị phá phải kiến lập lại đạo tràng, lại hành sám pháp trở lại mới được gọi là khỏi tướng phá giới, hành giả phải kiên dè đó.
Nếu người nào cảm thấy sức khoẻ thân tâm đối với pháp tu trong đạo tràng không thực hành đủ hết sáu thời, có thể tu năm thời, bốn thời, ba thời, hoặc hai thời, việc thực hành tuỳ ý lập lời phát nguyện. Sau khi đã lập chắc và phát nguyện rồi không cho sửa đổi, chỉ có tu tăng thêm, không cho sụt giảm, dù có bị bệnh hay việc quan, cũng phải tưởng niệm, đâu thể tuỳ ý siêng năng hay giải đải, hoặc hứng hoặc bỏ, sớm lập chiều sửa đổi, làm cho chánh hạnh không được thuần nhất.
Người muốn tu pháp này trước phải hiểu rõ phép tắc niệm Phật và các kinh điển tịnh độ và sám pháp, trì chú, bày bố trước sau, tùy ý nhiều ít, phải xét nghiệm kỹ lưỡng, xét đi xét lại ba lần, xem coi mình có thể thực hành nổi không? Như có người muốn lội qua sông, trước phải xem xét dòng nước lớn hay nhỏ, mình có đủ sức lội qua bên kia không? Người tu đạo tràng tam muội cũng vậy, quán pháp khó dễ, tự mình có làm đến nơi đến chốn hay không. Không nên vì hăng hái nhất thời mà lập ra, sau đó làm không nổi liền bỏ. Cũng không được khi tụng trì mà tâm không chuyên chú, như người bắn tên, tâm chuyên nhất thì trúng. Pháp môn niệm Phật cũng thế, nếu một lòng chuyên chú thực hành, niệm Phật chắc được vãng sanh, dạo chơi cõi Cực lạc trong mỗi niệm được công đức không thể nghĩ bàn. 16. Hiển dương sức giáo hoá của Phật
Từ trước đã thuật các thứ phương tiện với mục đích làm cho chúng sanh khởi tâm tiến đến thực hành để cầu qủa vô thượng mà không biết nguyện lúc Đức Thế Tôn ta hết lòng hoá độ, dùng các thứ phương tiện, không chỗ nào mà chẳng đến so với tâm cầu thượng qủa của chúng sanh gấp trăm ngàn muôn phần lao khổ là một điều thiếu sót. Trong kinh nói: Ánh sáng từ bi của Phật A Di Đà chiếu khắp pháp giới, che khắp tất cả chúng sanh luôn luôn làm việc cứu giúp lớn không cho bị đọa lạc. Nguyện lực từ bi của Phật A Di Đà cùng khắp pháp giới, tiếp dẫn khắp chúng sanh làm việc nhiếp thọ lớn, không cho hư mất. Thân Ấm nhập giới của Phật A Di Đà khắp đồng Pháp giới, khắp chỉ chúng sanh làm cho họ được liễu ngộ không bị thối chuyển. Vì thế, tất cả chúng sanh trong 10 phương thế giới đều được nguyện lực của Phật A Di Đà thủ hộ, giống như mẹ hiền, thương chìu con nhỏ, ôm ấp cho bú nuôi dưỡng chẳng phút nào quên. Cha mẹ thường con chỉ có một đời, khi báo thân đã mãn thì thôi, Phật nhớ chúng sanh nhiều kiếp nhiều đời không bỏ. Vì nghĩa ấy có thể nói đại nguyện của Phật chúng sanh chỉ một lần xưng danh có thể diệt đến 80 ức kiếp tội trọng sanh tử, ý chỉ này thật đáng tin. Nguyện lực của Phật A Di Đà là thường ở thế gian cứu khổ chúng snah, vì vậy, chúng sanh khởi niệm làm sao Phật không mau ứng được. Như người mẹ kia cứu nạn nước lửa cho con, đâu đợi con cầu xin, nếu con muốn cầu thì mẹ càng thương nhiều hơn. Duy những đứa con nhiều kiếp trốn chạy, cam lòng chịu khổ, không nhận sự cứu giúp của cha mẹ mới thât là khó cứu.
Dù có người tạo đủ ngũ nghịch mười ác đầy lòng, huỷ báng vọng ngữ, nói pháp dối trá, không tội ác nào mà không làm khi mạng lâm chung, phải đoạ vào địa ngục A tỳ tướng địa ngục đã hiện, người ấy nhất định bị đoạ vào địa ngục. Người ấy nếu gặp thiện tri thức dạy bảo niệm Phật, người ấy bị khổ bức ngặt, chợt có một niệm cải hối, có thể xưng danh niệm Phật A Di Đà mười niệm. Còn có thể biến tướng địa ngục làm Tịnh Độ liền được vãng sanh. Nếu có thể dùng quán hạnh trang nghiêm và có thể trước khi nghiệp đã tạo hiện ra thì chắc chắn Đức Phật sẽ tức khắc ứng hiện tiếp dẫn. Ngày xưa có ông tiều lên non đốn củi quá sợ cọp nên la thất thanh ba chữ Nam Mô Phật, sau lúc Phật Thích Ca đắc đạo được độ làm Tăng tu thành chánh quả. Huống chi chúng ta khi mạng sắp lâm chung khổ sở bức bách, mạnh mẽ xưng niệm hiệu Phật mười niệm mà không được cảm ứng ư!
Hỏi: Tôi nghe nguyện lực Phật A Di Đà khắp tất cả chỗ nay xét những lới vừa nói chỉ có thể cứu người sắp vào địa ngục và người mạng chưa chết, còn người đã vào địa ngục hay đã chết hình như không thể cứu. Nếu không thể cứu thì biết rằng nguyện lực của Phật A Di Đà và Chư Phật có chổ chưa khắp đủ?
Đáp: Ông đâu không nghe các pháp sanh ra do tâm hiện mà có, tất cả nhơn quả thế giới và vi trần đều do tâm làm thể. Nếu biét các pháp không thể xa lìa tâm chúng sanh, đâu có thể lìa bản thể Di Đà mà nguyện lực có thể trùm khắp được!.
Hỏi: Nếu như thế thì vì sao người ở trong địa ngục nghiều kiếp bị khổ, chưa nghe có người cứu độ.
Đáp: Ông hãy xem hàng thịt trong chợ, họp nhau giết hại sinh mạng ngày đêm không dứt, chưa nghe có một giờ không sát sanh, nhơn sát sanh đã không dừng, bị quả báo cũng không thể cứu đâu, có trường hợp nào người kia giết mà ta bị quả báo, chỉ vì nhơn quả khó trốn, đâu phải nguyện lực Phật Di Đà không trùm khắp, mà không cứu hộ những người ở địa ngục sao? Ví như có người trước đã biết kinh nghĩa, hợp diệu tâm của Phật mà đối với các thứ ác nghiệp thân khẩu ý đã tạo nhiều đời nhiều kiếp không thể dứt trừ. Do nghiệp đời trước chưa dứt, người ấy khi mạng chung không gặp thiện hữu khuyên bảo niệm Phật, nên bị nghiệp lôi vào địa ngục, ở trong địa ngục chịu vô lượng khổ. Tuy chịu các khổ mà nhơn lành không dứt, đối với các việc khổ đều có thể quán sát, xúc cảnh biết tâm, đã biết tâm này cũng biết chúng sanh và Phật cùng một thể, vì một thể nên biết được thân vi diệu thanh tịnh của Như Lai. Do có thể hiểu rõ chúng sanh và Phật là một nên đương lúc người ấy chịu khổ đều xem như việc ở trong chiêm bao, hiểu rõ tướng khổ chính là Bồ Đề, tâm ấy mỗi ngày thuần thục không có nhầm lẫn, có thể bớt đi quả báo nhiều kiếp chịu khổ địa ngục, sự chịu khổ mỗi lúc một nhẹ đi. Người ấy tuy chịu các khổ mà được không có tướng khổ, lại khởi tâm vì chúng sanh mà chịu khổ, không cầu ra khỏi. Vì có hiểu biết mầu nhiệm hợp với tâm Phật. Người kia xưa đã từng cúng dường Phật, cho đến từng ở nơi hình tượng quy kính Phật và khi đọc kinh có chổ tin hiểu Phật, hoặc nhớ tưởng cơ cảm của Phật A Di Đà, quy y về với Phật. Đức Phật kia sẽ theo cảnh giới đã hiểu của người ấy mà hiện ra, lượng lớn như hư không, oai Đức của Phật vòi vọi, ánh sáng vô biên, các tướng hảo thần thông, hiện ra rõ ràng. Phật hiện đến đỉnh của Địa ngục kia, khảy móng tay dùng lời lành dạy bảo, thân thể Phật phóng ánh sáng lớn, âm thanh theo ánh sáng chiếu đến tận đáy địa ngục, các dụng cụ tra tấn như núi đao, cây kiếm, vạc than, vĩ sắt cho đến thành sắt, cửa sắt, lưới sắt, cột đồng, tất cả do ánh sáng chiếu đến đều bị cháy tiêu như bóng như gió mất hết không còn dấu vết.
Tất cả ngưu đầu, mã viện, ngục tốt, chó đồng, nhạn sắt, rắn sắt, rết sắt, các thứ chim, trùng ở trong địa ngục ấy nhờ ánh sáng chiếu đến, hiện tướng Bồ tát, yêu mến giúp đỡ. Người chịu khổ và các thứ bị nhốt trong ngục khổ, bỗng thấy được bản tâm, thân nhiều niệm lành, thấy ánh sáng kia và nghe lời lành dạy bảo, như ngồi đáy giếng nhìn thấy trời xanh, vừa mở mắt ra thấy được thân Phật, vui vẻ reo mừng, đầu mặt đảnh lễ, sám hối tự trách, đồng cùng các người khổ, phát khởi tâm Bồ-đề, theo ánh sáng bay thẳng lên trên, đến chỗ Phật đứng, Đức Phật rờ đảnh thọ ký, cùng nhau đảnh lễ, nghe Phật thuyết pháp, liền được ngộ đạo, liền khi ấy có thể bay đi, dùng thần thông dạo chơi, đến các tịnh độ của Phật, đồng ở chỗ Phật, như các bậc Đại Bồ Tát, thành vô thượng đạo, giáo hoá chúng sanh, nhiều đến vô số.
Hỏi: Nếu theo nhân quả thì ánh sáng đức Phật đây những người thắng giãi ra khỏi ngục, các người vật khác bị nhốt không thể được ra, vì sao tất cả cùng lúc đồng ra khỏi hết?
Đáp: Thí như có một người làm việc ác nghịch, bị nhà vua bắt nhốt vào ngục, do việc ác nghịch của người ấy mà các tai hoạ đều sanh, làm cho cha mẹ, vợ con, chú bác, bạn bè đồng chịu quả khổ. Khi người làm lành ra khỏi ngục cũng như vậy. Người phạm tội ác nghịch đã được giải tỏa thì thân nhân của anh ta cũng được giải toả theo. Lại nữa, những người quyến thuôc, nhờ sức Phật lần lượt sanh thiện tất nhiên được sanh về chỗ vui. Vì thế, nguyện lực của Phật A Di Đà, thật có công năng cứu hộ khắp cả thời gian và nơi chốn, đâu không thể cứu hộ chúng sanh đã vào đia ngục ư! Nếu nói quả báo địa ngục chưa hết, muốn làm cho họ ra khỏi trước thì không được, vì nhơn của địa ngục là chẳng thiện, ánh sáng của Phật là thuần thiện, mà muốn ánh sáng của Phật chiếu đến được, ngoại trừ người ấy tự phản tỉnh và sám hối.
Hỏi: Nếu khi quả báo địa ngục mãn thì ánh sáng Phật mới chiếu đến, đâu có ích lợi gì, vì quả báo đã dứt, họ tự ra khỏi cần gì ánh sáng Phật chiếu đến?
Đáp: Nếu khi quả báo địa ngục hết mà không có ánh sáng của Phật, dù ra khỏi nhưng trong ba đường dữ chưa biết chỗ nào sanh, thì bị lôi vào luân hồi từ nặng đến nhẹ, trải qua rất nhiều kiếp, có thể vô lượng kiếp hoặc kiếp số không thể nghĩ bàn, mới được đầu thai làm người, vẫn bị quả báo nghèo hèn hạ tiện, tật nguyền nhiều bệnh, chịu các khổ to lớn. Vì cầu không được nên niệm ác mỗi lúc càng nhiều, nếu không tạo được chút phước lành, lại đọa vào địa ngục trở lại, như người mù lạc vào rừng cây làm sao có thể ra khỏi. Nếu được oai lực ánh sáng của Phật chiếu đến thì có thể chuyển tội nặng thành nhân quả báo nhẹ, chuyển dài thành ngắn, chuyển nhiều thành ít. Lại có thể một lần ra khỏi địa ngục, liền sanh về cõi Phật, nên đâu có thể nói là không cần ánh sáng của Phật chiếu đến ư! Nếu người có cái chấp này phải chịu nhiều tội nặng. Kinh dạy: Giả sữ trong đại thiên thế giới có lửa dữ thiêu đốt, nhất tâm niệm đức Phật kia liền được thoát nạn, điều đó không nghi, hà huống chỉ có một chút lửa đốt thân mà không thoát được sao? Lại nữa: Như Lai A Di Đà lòng từ bi tha thiết dù ở trong đại hỏa luân của địa ngục vô gián đều bằng lòng thay chúng sanh chịu các thứ khổ não, dùng phương tiện cứu thoát và tiếp dẫn về cõi An Dưỡng, huống người chưa bị đọa mà không cứu hộ sao? Năng lực từ bi của Đức Phật kia trùm khắp tất cả chúng sanh ở thế gian. Dù ở nơi thân Phật kia có bị hành hình, nhưng do sức từ bi luôn luôn tiếp dẫn, nên nguyện lực Phật A Di Đà dạy bảo chúng sanh với tấm lòng tha thiết, nhìn vào 48 đại nguyện chúng ta có thể thấy rõ. Huống chi, Phật dùng các thứ hình đồng với chúng sanh, ở trong mọi thời gian hết lòng giáo hóa, thật không làm sao nói hết. Nếu không tin chắc thì chưa gọi là người hiểu về pháp môn Tịnh độ, và cũng không biết toàn thể chúng sanh là Phật, chưa biết ai là người cứu và ai là người bị cứu. Mong xét kỹ. 17. Mười hạnh trở ngại
Chỗ nhất tâm đều bình đẳng, thể tánh không hai, chúng sanh tuy bị trói buộc trong nghiệp thức, nhưng đâu không có chí ra khỏi cõi trần. Nhưng vì vừa muốn đến đạo, cảnh ma ngăn ngang, chạy theo việc mà mất tâm, muôn việc thiện đều tan hết, thành ít hư nhiều, có được cũng hoàn không, huống hồ lòng ham muốn thúc bách, việc sanh tử đổi dời, muốn được thành công, vẫn lùi lại chỗ cũ. Vì thế, Đức Như Lai ở trong ba a tằng kỳ kiếp, bỏ vô số đầu mắt, tủy não, vợ con thành nước, thân thể tay chân, giữ giới nhẫn nhục tinh tấn, phụng sự tri thức, chẳng tiếc thân mạng, tu hành các đạo phẩm, thực hành các pháp môn, do các chướng ngại này làm tâm lui sụt. Nếu chúng ta không biết điều chướng ngại để tránh, một ngày nào đó khi chúng ta mất, chướng ngại theo mình đâu chẳng phải là điều thương tâm sao! Chúng ta ngày nay là con đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nếu chúng ta không vượt qua các thứ trở ngại trên đường tu, và làm cho chúng sanh pháp giới sau này mất đi con mắt huệ, không khác gì tự cắt thân mình. Vì thế, chúng tôi y theo kinh sáng lập mười thứ hạnh trở ngại gọi là mười thứ hạnh không mong cầu. Hành giả tuy không muốn mình bị trở ngại, chỉ vì khi trong giai đoạn tu hành, hoặc khi bất đắc dĩ có tất cả chướng ngại hiện ra, tuy thân tâm ta ở chỗ chướng ngại mà các ma và các cảnh chướng ngại không thể làm hại và không thể chướng ngại hành giả, ví như vàng và lửa cùng một lò, lửa tuy đốt vàng mà vàng được thành đồ. Mười thứ hạnh đại ngại được kể như sau: 1.- Nhớ thân không mong cầu không có bệnh. 2.- Xử thế không mong được dễ, 3.- Xét tâm không cầu không chứng. 4.- Lập hạnh không cầu không ma. 5.- Mưu sự không mong dễ thành. 6.- Giao tình không mong lợi cho mình. 7.- Đối với người không cầu thuận lợi. 8.- Ban đức không cầu báo đáp. 9.- Thấy lợi không mong được phần. 10.- Bị oan không cần bày giải. Mười thứ hạnh đại ngại này gồm tất cả chướng ngại chỉ người thượng trí mới có thể gánh vác, người bậc hạ bậc trung không dám hy vọng.
Nếu có người nghe mười hạnh không mong cầu này, ở trong các thứ chướng ngại, mỗi thứ đều có thể soi xét giác ngộ, xét tự thân mình để hợp đạo, gìn giữ không mất, thời có thể vào các cảnh ma, không bị bọn ma làm tâm mình thối chuyển, dù trải qua sắc thinh cũng không bị sắc thinh làm rối loạn ý chí, cho đến các cảnh thương ghét, danh lợi trong trường nhơn ngã được mất. Trong lúc ấy tâm ta đã ở trong trở ngại thì các cái trở ngại kia đâu thể làm ngại được ta. Nếu ở chỗ trở ngại mà không bị ngại thì với việc hành đạo cũng có thể thẳng tiến, huống gì người tự nhiên được cảnh vô ngại, thì việc hành đạo làm sao chẳng tiến tới được. Ví như cây ở bờ cao, tuy gặp trời hạn lâu như thiêu dốt, vẫn không đổi vẻ xanh tươi, huống chi mưa móc dầm dề, lại ở vào ba tháng mùa xuân, đâu chẳng tươi tốt xum xuê vượt bậc ư! Như người có chút trở ngại vì một căn thiếu kém, việc vận dụng tuy hơi khó, nhưng vì cầu kế sống, họ cũng có đủ khéo léo để thực hành, người cầu đạo nếu được phương kế giải thoát, thì lòng cầu đạo tha thiết, đâu có thể vì trở ngại mà không thể hành đạo ư!
Nên biết rằng các chướng ngại này là bậc thiện tri thức cho tất cả chúng sanh, cũng là phước điền giúp hộ chúng sanh, có thể nhờ đây mà được liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Đối với thế gian, tất cả cao lương mỹ vị, kim cương, châu ngọc, tất cả châu báu cũng không bằng mười hạnh này, vì nếu không thông việc trở ngại thì việc không trở ngại lại thành trở ngại. Vì sao? Vì thân không mong cầu không bệnh, thân không bệnh thì tham dục dễ sanh. Xử thế không mong được dễ, xử thế không khó, lòng kiêu sa chắc khởi. Xét tâm không cầu không chướng, tâm không chướng thì chỗ học vượt bực. Lập hạnh không cầu không ma, lập hạnh không ma thì thệ nguyện không bền chắc. Mưu sự không mong dễ thành, mưu sự dễ thành thì lòng sanh khinh mạn. Giao tình không mong lợi mình, giao tình lợi mình thì thiếu mất đạo nghĩa. Đối người không cầu thuận lợi, đối người thuận lợi thì trong lòng tự khoe. Ban đức không cầu báo đáp, ban đức mong báo đáp thì ý có mưu đồ. Thấy lợi không mong được phần, nếu mong được phần thì lòng si ắt động. Bị oan không cần bày giải, nếu bày giải thì nhân ngã chưa quên. Hiểu được nghĩa này, thời biết đạo của mười vô ngại thường sanh ra lỗi lầm như thế.
Hiểu được điều này rõ ràng đây là điều không tốt cũng là nhân duyên chứng đạo. Vì sao? Vì tham dục sanh thì phá giới thối đạo, lòng kiêu sa khởi thì khi lấn tất cả, học vượt bực thì chưa được nói được, nguyện không bền thì chưa chứng nói chứng, chí khinh mạn chắc nói mình có tài, khuyến đạo nghĩa chắc thường thấy lỗi người, trong lòng tự khoe thời chấp ta là đúng, ý có mưu đồ thì ắt muốn phô bày hư danh, tâm si động ắt ham lợi hại mình, còn nhơn ngã ắt oán hận sanh nhiều. Đây là 10 thứ lỗi lầm từ nơi vọng tưởng phàm phu sanh ra, tất cả đều gọi là tà kiến, lần lượt sanh khởi ra vô lượng ác pháp, đầy cõi hư không, chắc chắn làm cho chúng sanh bị đoạ vào địa ngục, đâu nên không sanh lòng cẩn thận.
Nếu người nhận ra cảnh ngại này, biết nhân duyên bệnh, hiểu tánh bệnh vốn không thì bệnh không thể làm não loạn được. Hiểu được cảnh giới hoạn nạn, thể của hoạn hạn vốn từ vọng tưởng, thì hoạn nạn không thể làm hại. Biết chướng không có gốc rể thì chướng tự diệt, chướng không làm ngăn ngại. Thấu rõ ma là do vọng mà có, xét cho kỹ thì ma không có gốc rễ thì ma làm sao nhiễu loạn được. Lượng về sự là tùy tâm, thành sự là theo nghiệp, nên sự không đủ khả năng dẫn nghiệp. Xét về tình thì có nguyên nhơn, nên tình không thể cưởng ép, vì tình hệ thuộc theo duyên. Người giác ngộ xử thế phải quán người thường làm theo vọng, chuyên theo sự thù đáp. Biết được đức không có tánh thật, chiếu đức đều vô thường, chính đức cũng không phải là thật. Cái lợi ở đời vốn không, người muốn lợi nên sanh phiền não, thấy lợi đừng mong cầu, gặp việc oan ức phải nhẫn nhục, nhịn được việc oan ức là đức tánh khiêm cung thì oan ức nào hại ta được. Vì thế, các bậc thánh dạy người lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm giải thoát, lấy chướng ngại làm tiêu diêu, lấy bọn ma làm bạn pháp, lấy việc khó làm an lạc, lấy giao tình tệ hại là tư lương, lấy người chống đối làm vườn rừng, lấy việc bố thí đức làm đôi dép rách, lấy ít lợi làm giàu sang, lấy chịu oan ức làm phương pháp tu hành.
Nếu được như thế thời ở chỗ trở ngại lại thành thông, muốn cầu được thông trái lại bị trở ngại. Người khéo áp dụng thì đối với chướng ngại này đều thành cảnh giới mầu nhiệm. Nên chỗ được và mất là tự mình không thể không biết, chỉ vì những người thực hành ở trong đó mà sanh ra lấy bỏ. Vì thế, Đức Như Lai của chúng ta ở trong chỗ chướng ngại mà được đạo Bồ Đề như Ương Quật Ma La cố tâm giết Phật, bọn Đề Bà Đạt Đa dùng voi say, lăn đá hại Phật, nhưng Phật cho rằng đó là các hàng tri thức giúp Phật mau thành chánh giác và Ngài thọ ký cho các vị ấy sau này sẽ thành Phật. Chúng ta đâu không lấy cái nghịch kia mà làm cái thuận của ta, lấy cái hủy báng kia mà làm thành tựu của ta. Huống chi thời nay nhằm thời mạt pháp, đời ác lẫy lừng, việc người khác thường, nên đối với người học đạo làm sao không có chướng ngại. Thời nay, nếu trước không ở chỗ trở ngại, thời khi trở ngại đến không thể đối phó làm cho vật rất quý báu của đấng Pháp Vương do đây mà bị mất, đâu chẳng đáng tiếc lắm ư! Đây là những lời xuất phát tự đáy lòng, chúng tôi y theo kinh gắng thuật chỗ hiểu của mình, nếu vị nào nghe được ý nghĩa ở đây, khi gặp chướng ngại hiện tiền mà có thể dũng mãnh tinh tấn hành đạo thì có thể gọi là đạt được ý chỉ mong muốn. 18- Hiển bày các nghĩa
Niệm Phật Tam muội có tên là Nhất hạnh Tam muội, vì người thực hành kia đã hiểu ý chỉ một cách sâu xa, có thể trì được nhất tâm, chỉ niệm cõi kia, chỉ nhớ đức Phật kia, biết thân và cõi không hai, hiểu rõ nhớ, niệm là một nên có tên là Nhất hạnh. Tuy nói chỉ có một hạnh nhưng phải dùng các pháp thế gian và xuất thế gian, vô lượng công đức kia dùng làm trợ đạo thì việc vãng sanh mới mau thành tựu. Vì thế, tất cả các hạnh đều tu đường thẳng tịnh độ, không có một đường tẻ nào, nên gọi là nhất hạnh. Như các dòng sông chảy về biển, đồng được tên của biển, muôn thiện đồng về gọi là nhất hạnh. Vì nghĩa này nên tất cả các pháp như Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo, Tứ hoằng, Lục độ đều là hạnh tu Tịnh độ. Cho đến các việc thiện nhỏ như sợi tơ, và tán tâm niệm Phật, hoặc một lần xưng danh hiệu Phật, hoặc đưa một tay, hoặc lễ một lễ, hoặc khen một lời, hoặc một lần chiêm ngưỡng. Cho đến hoặc dâng một nén hương, một bát nước, một cành hoa, một ngọn đèn, một món cúng dường, hoặc một niệm tu tập cho đến 10 niệm. Hoặc phát khởi một lần bố thí, một lần giữ giới, một lần nhẫn nhục, một lần thiền định trí lực, tất cả thiện căn hồi hướng Cực lạc, nguyện gắng sức giữ, tuy có chậm hoặc mau đều được vãng sanh.
Trong kinh có thí dụ: Xưa có người dùng một giọt nước nhỏ giử vào biển lớn, nguyện giọt nước không hoại không mất, không đổi không khô, tuy trải qua nhiều kiếp cũng còn giữ nguồn gốc là nước. Người kia trải qua nhiều kiếp, trở lại lấy giọt nước, giọt nước vẫn còn nguyên không mất. Người niệm Phật cũng vậy dùng chút ít căn lành hồi hướng Cực lạc, như giữ giọt nước trong bể cả, tuy trải qua nhiều đời, căn lành ấy không mất, chắc chắn được vãng sanh không còn gì nghi ngại. Vì thế, Đại thừa Tiểu thừa, tán tâm định thiện, sự tưởng quán huệ đều gọi là Nhất hạnh, tất cả đều được vãng sanh, duy trừ chủng tánh ngoại đạo. Nên nói: "Chỉ nói quyết tâm chắc không còn gì để lo ngại. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Một lần xưng Nam Mô Phật, đều đã thành Phật Đạo." Thật khá đáng tin! Nếu có người nhơn tu chưa phát khởi, thiện hạnh chưa lập chí, thân tâm chưa gội rửa tham sân phiền não mà muốn có được cảm ứng như trên không thể có được. Vì thế, Đức Thích Ca Thế Tôn, một đời thuyết giáo dạy vô lượng tam muội, vô lượng giải thoát, vô lượng hạnh nguyện, tổng trì tương ưng vô lượng pháp môn, chỉ có một môn niệm Phật bao gồm đầy đủ tất cả không còn sót. Như biển cả kia thâu nạp hết các dòng sông chảy về mà biển không tăng giãm, như hạt Bảo châu Như ý đăt ở trên tràng lao, tự nó làm đầy đủ tất cả nguyện cầu của chúng sanh, thể không thiếu giảm. Tam muọi bảo vương này có khả năng bao gồm hết các tam muội, có khả năng làm đầy đủ các điều mong muốn như Châu Như ý kia.
Đức Như Lai của chúng ta đem tam muội này dạy bảo khắp các hội, trong các hội những kẻ sĩ thuộc hàng đại căn như Văn Thù, Phổ Hiền cùng các bậc Thánh Hiền trong tam thừa, trời rồng bát bộ đều hết lòng quy tín. Đến khi Pháp tam muội này truyền sang Trung Hoa, có bậc Đại Chí ở Lô Sơn, hoằng truyền giáo huấn. Người tin và thực hành nhiều vô kể, mọi người đều ngợi khen Pháp tam muội này là toàn mỹ. Từ Phật nhập diệt đến nay hơn hai ngàn mấy trăm năm, người tu tam muội này có các bậc thánh hiền, cao tăng, cư sĩ, nho sĩ, nông công thương, nô tỳ, huỳnh môn, hoặc tự thực hành và khuyên người thực hành, hoặc viết văn làm lời thệ nguyện, trọng pháp như của báu, kính thân mạng như vi trần, gặp nạn không sợ, gặp chết không lo, quên mình lập hạnh, gắng hết sức mình tu hành, tam muội này nhiều vô số kể. Hoăc có người thấy tu rồi tùy hỉ, hoặc có người tin nhận quy y, cho đến có người quyết thực hành đến trọn đời, số đó rất nhiều. Dù có những người dụ dự, bán tín bán nghi còn được sanh về biên địa nghi thành ở cõi Cực lạc, huống là những hành giả chánh tín thực hành từ trước đến nay nhiều không bút mực nào chép hết.
Đối với các pháp tự lực riêng tu đạo phẩm chỉ nhờ vào năng lực tự tâm, đa số thường bị tai hại thối chuyển hoặc bị ma quấy phá, chỉ có pháp tu tam muội này, nương nhờ vào sức Phật, người tu chắc thành tựu, không bị nghiệp ma, vĩnh viễn không thối chuyển. Lại nữa tam muội này người tu không bị các hoạn nạn, thiên tai, nhân họa như nước lửa, trộm cắp, người ác gia hại, hoặc hổ lang thú dữ, trùng thư, quỷ mị yêu tinh, những việc không tốt không thể xảy đến. Và cũng không bị các thứ dịch lệ, thương hàn, các thứ bệnh không thể làm não hại, như người hạnh nguyện không thiếu đều có thể thoát khỏi, còn người chạy theo danh dự, lợi dưỡng, lời ngon tiếng ngọt, lòng vẫn còn giữ tham sân si, tuy có sức Phật gia trì, nhưng tự người ấy tạo nhiều lỗi lầm, nên Phật dù đại từ bi cũng không thể cứu. Hành giả luôn luôn phải tin sâu và tinh tấn mới phá được các ma, nếu khởi một niệm lơ là chắc bị ma cướp đoạt. Những thứ ma nhỏ này chỉ hại những kẻ lòng tin cạn, tham sân làm mất chánh niệm. Nếu người tinh tấn mãnh liệt như lửa đốt sắt, gặp nước làm sắt cứng hơn. Vì thế, hành giả nếu bị ma khảo mà tinh tấn được thì không những chỉ thân này an lạc mà còn được tam muội thành tựu, được nhơn thiên hộ trợ, lâm chung chánh niệm vãng sanh.
Người được vãng sanh thụy ứng chẳng phải một, hoặc thiên nhạc trổi trên không, hoặc hương lạ đầy nhà, hoặc ánh sáng chiếu thân, hoặc toà báo hiện tiền, hoặc Phật A Di Đà tự đến đưa tay tiếp dẫn, hoặc Bồ Tát cầm đài sen trao tay tiếp dẫn. Cho đến dự biết giờ khắc vãng sanh, chánh niệm hiện tiền, các chướng tiêu tan, tự mình tắm gội ngồi kiết già, hội chúng thuyết pháp, xoa tay cáo biệt, hoặc khuyên người tiến tu đạo nghiệp, hoặc viết kệ, ném bút, chấp tay mà tịch. Hoặc sau khi lâm chung thân thể như sống, răng xương quyện lại thành hạt châu đốt mãi không cháy, ánh sáng hực hỡ khác thường, toả ra năm màu, phóng vọt trên không, xây vòng chẳng tan, khói lửa vừa nhóm xá lợi thành châu. Đó là những điềm lành mà mọi người thường thấy, nếu lúc bình thời không chắc thật tu hành, chánh niệm minh bạch, gắng hết sức tinh tấn thì đâu có thể cảm được thụy ứng như thế.
Đời nay, có người tu mà không công hiệu, bởi vì họ lòng tin cạn cợt, nhân lành chẳng thật, chưa từng lập hạnh trước muốn được người biết. Trong lòng thì tự khoe, bên ngoài thì muốn hiển bày chỗ chí diệu để được người cung kính cúng dường. Còn tự nói mình có chỗ sở đắc, thậm chí nói được thấy tịnh cảnh, hoặc thấy tiểu cảnh và trong mộng có tướng lành. Chưa biết phải quấy, liền vội khoe khoang. Những người này là bạn của ma, lui sụt hạnh nguyện, bị chạy theo đường khổ sanh tử, cần phải cẩn thận.
Tuy hành giả có đạo tràng trì tụng, sám nguyện nghi thức, không được bị người sai sử làm hành giả tu hành bất đắc dĩ, đặc biệt chỉ làm theo hình thức lộ liễu bên ngoài, làm cho quán hạnh bên trong bị bại hoại. Hành giả cần biết rõ việc ấy phải xét kỹ, âm thầm thành thật tự thực hành, trong lòng luôn luôn cảm thấy xấu hổ, đừng phô bày đức hạnh của mình, cho đến khi trở về nơi trụ xứ cũng không bị hai thứ ma thái quá và bất cập làm mê hoặc. Trong lúc tu hành có các thứ chướng đời trước muốn được dứt, cần phải sám hối đến khi thấy hảo tướng. Như mình không được thấy hảo tướng, không chứa nhóm được công đức thì việc thực hành chưa hiệu nghiệm đầy đủ. Vì thế, Huệ Viễn đại sư ba lần thấy Phật, bình nhật chưa từng nói cho người nghe, chỉ đến khi lâm chung mới nói, thật rất thâm diệu. Tam muội này thể tánh tròn đầy nên chỗ giải cũng rộng lớn, chỗ thực hành cũng phải tế nhị đầy đủ, xa rời lỗi lầm, dù chỉ có chút lỗi lầm cũng phải lo sợ ngăn trừ. Nên biết tam muội này không phải chỉ cho các bậc Đại thừa thực hành mà còn bao gồm cả Tiểu thừa. Hàng Tiểu thừa hướng về Đại thừa, việc tu không có gì phân biệt, chỉ cần hướng thượng là đủ. Kinh nói: "Hiếu dưỡng cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, lòng từ không giết hại, tu mười nghiệp lành, thọ trì tam qui, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi, phát tâm Bồ Đề, tin sâu lý nhơn quả, đọc tụng kinh điển đại thừa, khuyến tấn hành giả." Mỗi câu trên đây là một phương pháp thực hành từ thấp lên cao.
Người xưa đều có phương pháp dạy hành thiện như phải có lòng tốt giúp người, không được khoe khoang, dụng tâm thanh nhã, tụng kinh đại thừa, hiểu nghĩa thứ nhất, gần gũi bạn lành, thưa hỏi với bậc tiên giác, chẳng chấp chỗ thấy của mình, chẳng khoe chỗ hay của mình, chí thường nhẫn nhục, việc làm đều theo kinh, nghe học chánh pháp, không chê phạm tăng ni, dứt hết các tạp thiện ở đời, chẳng tham danh lợi, xa lìa bọn tà ác, xử việc rất trang thành, nhận lỗi về mình, răn dè lời nói, một lòng chẳng loạn, xem người như Phật, bỏ hết nghề hay, chỉ mong vãng sanh, giữ thân thanh tịnh, vô lượng các việc hành thiện vừa kể ở trên cần phải tu tập chánh đạo, dứt hẳn các thứ nhiễm ở đời nhất là hai cảnh ưa ghét, không làm các điều ác, giữ tâm như nhất chắc được vãng sanh, công ấy rất lớn không thể thuật hết. Cho nên trong pháp tu tam muội này, nhiều người tu âm thầm, thành công rất cao mà không cần nêu tên, người tu pháp này được sanh về cõi Cực lạc nhiều không thể kể xiết, có thể nói những truyền ký còn ghi lại chỉ là giọt nước so với biển cả mà thôi.
Người nào y theo lời dạy của Phật, tu theo hạnh này, còn có thể lợi ích vô lượng chúng sanh nhiều oan nghiệp hà huống cha mẹ, thầy bạn, quyến thuộc, đồng đạo, anh chị em, hoạn nạn hằng ngày, oan gia cừu địch đều được giải tỏa. Nên biết, hành giả tu hạnh này các ân đều trả, các oán đều giải, vì thế, cần phải một lòng nhớ niệm Phật A Di Đà và 2 đại sĩ, cảnh giới ấy rất sâu xa, đối với người ở trong biển khổ khó được thân cận, khó được nhớ niệm. Vì sao? Vì người thường nhớ niệm liền được giải thoát, nghe tên còn khó huống là được thân cận. Trong kinh nói: “Nếu thiện nam và thiện nữ nào chỉ được nghe danh hiệu Phật và hai vị Bồ tát sẽ trừ được tội sanh tử trong vô lượng kiếp huống chi là nhớ niệm”. Nếu thấy người niệm Phật phải biết người này là Hoa Phấn Đà Lợi trong loài người, Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí là bạn tốt, đang ở trong đạo tràng, sống trong nhà chư Phật. Cho nên 10 phương Như Lai hiện tướng lưỡi rộng dài, ân cần khuyên bảo, giáo chủ cõi Ta Bà hết lời dặn dò xác định chúng sanh trong đời ngũ trược tu theo pháp niệm Phật này chắc chắn được thoát sinh tử. Vì sao? Vì chúng sanh trong đời ngũ trược thân và tâm đều khổ, lấy khổ làm mạng sống, bức bách như lửa cháy nước sôi, mà Phật đặc biệt đối với cõi khổ, mở lòng từ bi rất lớn, nên hợp mọi căn cơ, như nước lặn nguyệt hiện, cảm và ứng hợp nhau.
Vì thế, Đức Thế Tôn từ khi mới thành chánh giác đến lúc vào Niết Bàn, không nói hai lời, trong lúc thuyết pháp trước từ Hội Hoa Nghiêm, cuối cùng ở Đạo tràng Pháp Hoa, lời vàng tuyên thuyết, xưng tán không cùng. Trong các Pháp hội có những bậc sĩ chí cao lòng lớn, thừa tiếp ý chỉ Phật đều phát nguyện cầu sanh, huống chi chúng ta ở vào đời mạt pháp lại thuộc hàng căn độn nổi trôi trong sanh tử, biết được pháp tu này cần phải ghi lòng để dạ. Đây là nguyện lực Phật A Di Đà không bao giờ dứt, ở đời thiếu gì người biết, các bậc thánh nhơn đề xướng trước tiên, các bậc hiền tiếp nối theo sau đó, tự nhiên phổ biến khắp mười phương ba đời, thấm nhuần trong sáu đường bốn loài, đâu phải chỉ ở trong loài người, thiên thần tu tập, quỷ vật thuận tùng, hoặc người, hoặc phi nhơn thảy đều khen ngợi, chép các việc tu hành đầy dẫy ở trong sách vở, chứa đầy hải tạng ở long cung, truyền bá khắp nhân gian thiên thượng đều biết, gốc sâu rể chắc phù hợp các cơ đều do nguyện lực Phật A Di Đà mà tạo thành tam muội. Phật dạy: "Cuối cùng đời ác, pháp ta diệt hết chỉ còn giáo điển tu tịnh độ này lưu lại vài trăm năm để độ các loài." Vì thế, pháp tu tam muội này đâu chẳng phải là lời dạy tha thiết sau cùng.
Có một con chim cù dục tên Bát bát, tuy là bị đọa làm thân súc sinh thuộc loài ngu si vọng tưởng, vì học nói theo tiếng người và theo người niệm Phật, được nương nhờ sức tam muội, khi chôn, lưỡi còn trỗ đóa hoa sen. Huống chi chúng ta là người mà không bằng loài súc sanh, há chẳng xấu hổ ư! Tôi (Diệu Khấu) sanh vào thời mạt pháp, nên căn cơ cạn cợt nghi hoặc chẳng tin, lại bị dị kiến tà giải đều chấp trước chẳng đồng, quyến dụ sai sử làm cho việc thực hành chánh hạnh phần nhiều bị hoặc loạn nên thương cảm trong lòng không bao giờ dứt. Vì thế, chúng tôi tập hợp các văn Tịnh độ, Thiền giáo và các kinh điển, lựa lấy những nghĩa cốt yếu mầu nhiệm, thuật thành Niệm Phật Trực Chỉ này lưu truyền thế gian mục đích phá tà hiển chánh, khắp nguyện chúng sanh trong pháp giới đối với thuyết này vừa nghe liền hiểu, tỏ ngộ chơn tâm, biết được y chánh Phật A Di Đà ở tại Tây phương, rõ y chánh ở Tây phương không rời bản tánh, tất cả hàm thức đều được vãng sanh, đồng về chín phẩm. Lại nguyện các bậc cao minh không tiếc từ bi, thấy người chưa ngộ, y theo pháp này chỉ bảo. Gặp người mê muội cũng tùy theo căn bệnh cho thuốc, chia chẻ chỗ nhiệm mầu, hết lòng bày tỏ.
Nếu người nào có một niệm tin hiểu thì hạnh nguyện chắc thành, vãng sanh có kỳ, công đức không thể nói hết. Dù có người cố chấp, lòng tin ưa chẳng sâu, chỉ cần một câu vào hồn liền thành hạt giống, lần lượt lợi ích không hết không cùng, công đức khuyên bảo thật là rất lớn. Nếu người không có lòng kiêu mạn, khi không vọng, tùy theo phương pháp chính yếu này dạy người không biết mõi mệt, dù tự mình không thực hành, tức là tự mình đã làm; dù tự mình chưa học, tức là đã học. Vì sao? Vì một tướng pháp giới không có mình và người vậy. Xưa có một người trong đời chưa từng tu hành, chỉ có hai lần dùng tâm bình đẳng nhất tâm, mở hội khuyên người cùng niệm Phật. Khi mạng chung cũng được vãng sanh, việc này có chép rõ ràng trong sách vở tịnh độ. Nên biết rằng: Người phát tâm từ bi là có tướng nhiếp thọ, khuyên người niệm Phật làm họ được nhiều lợi lành, khuyên mỗi lúc mỗi nhiều, người ấy trở thành sứ giả của đấng pháp vương. Nên không thể chấp cho mình không có thời gian tu hành. Vì thế, Tam muội sâu xa, pháp môn rộng lớn, việc làm lợi ích làm sao nói hết. IV. Chứng nghiệm môn:
19. Chỉ một nguyện gồm 4 nghĩa
Hỏi: Nói về tam muội niệm Phật đã rõ nhưng có chỗ nói chưa hết, xin tóm lại một câu có thể nói hết nghĩa ấy được chăng?
Đáp: Không cần dùng đến một câu, có thể dùng một chữ cũng có thể nói hết ý nghĩa tam muội. Cái gì là một chữ? Đó là chữ nguyện. Cái gì gọi một câu? Đó là câu giới giải hành hướng. Cái nghĩa của toàn bộ này không ngoài câu giới giải hành hướng. Câu giới giải hành hướng phát xuất từ chữ Nguyện, nên gọi chỉ dùng một chữ mà nói hết ý nghĩa, hoặc nói rộng nói hẹp, cuốn vào mở ra tự do đâu có thể bị trói buộc vào một vấn đề gì!
Vì sao gọi là giới? Hành giả muốn tu tam muội nếu không giữ giới, tuy có lòng tin cũng bị ác duyên tạp nhiễm của thế gian cướp đoạt, khó khỏi trần lao, hư hoại pháp thân, làm cho sự hiểu biết theo tà ma, không được vãng sanh. Trong kinh nói: "Nếu một ngày đêm trì giới Sa di, trì giới cụ túc liền được vãng sanh." Vì vậy cần phải trì giới.
Vì sao gọi là hiểu biết (giải)? Hành giả tu hành tam muội cầu sanh Cực lạc, nếu không dùng sự hiểu biết mầu nhiệm của trí huệ, biết rõ cõi Ta Bà uế ác đáng chán, cõi tịnh độ ở phương tây an lạc đáng ưa thích. Cõi phương đông và cõi phương tây hoàn toàn trái ngược chân thật không lầm. Lại biết hai cõi uế và tịnh này hoàn toàn có đủ ở trong tâm ta, không lìa đương niệm, phải theo phương pháp nào tu có thể sanh về cõi tịnh. Trong kinh nói: "Đọc tụng kinh điển đại thừa, hiểu đệ nhất nghĩa đế, liền được vãng sanh." Vì thế hành giả cần phải hiểu rõ.
Vì sao gọi là hành? Hành giả cầu sanh tịnh độ, huệ giải đã đủ cần phải y chỗ hiểu mà lập hạnh thực hành, sáu thời hành đạo, ba nghiệp không khuyết, thẳng tiến không lui, quyết định sanh về cõi kia. Kinh nói: "Tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện một ngày cho đến 7 ngày liền được vãng sanh". Nên người tu tam muội cần phải lập hạnh.
Vì sao gọi là hướng? Hành giả muốn chắc được vãng sanh nhờ giữ giới, liễu giải, thực hành tạo ra công đức và từ vô thỉ cho đến ngày nay, tất cả căn lành lớn nhỏ đều hồi hướng về tịnh độ thì lâm chung mới chắc được vãng sanh. Trong kinh nói: "Hồi hướng nguyện sanh về nước Cực lạc như người trước khi đi sắp đặt việc nhà ổn thỏa, khi trở về sẽ được sử dụng tùy ý thích." Vì thế, cần phải phát tâm hồi hướng.
Bốn pháp môn này ý nghĩa chỉ cần một câu mà bao nhiếp hết tất cả pháp lành như người làm ruộng mùa xuân gieo, mùa hạ cấy, mùa thu trổ bông, mùa đông gặt, từ gieo đến gặt phải đúng thời gian, nếu thiếu một thì không thành. Bốn pháp môn này cũng thế, nếu bỏ thiếu một pháp thì tam muội khó thành. Cho nên, hành giả phải tu đủ 4 pháp mới viên mãn được ý nguyện.
Hỏi: Chỉ một câu này lại thành nhiều câu chăng?
Đáp: Nhiều câu chính là một câu, một câu tức nhiều câu. Một câu hay nhiều câu đều bao gồm hết ý nghĩa. Không thể nói nhiều câu nghĩa rõ ràng, một câu ý nghĩa sơ lượt. Lời nói rộng hẹp tuy khác nhau, vì đối với căn cơ, nhưng vẫn hiển bày được chánh đạo, đâu nên nói một câu hay nhiều câu phân biệt mà chỉ tùy căn cơ và tùy duyên thôi.
Hỏi: Trong làng tôi có ba gia đình, đàn ông đàn bà đều quê mùa dốt nát, không biết gì là một chữ bốn nghĩa như nói ở trên, chỉ nhất tâm xưng danh hiệu Phật, hoặc chỉ chuyên cần lễ bái mà được vãng sanh, lâm chung có thụy ứng rõ ràng là cớ làm sao?
Đáp: Chỉ trong nhất tâm (một lòng) này có pháp nào không đủ, các vị ấy đã từng hiểu rõ (giải), tin có hai cõi tịnh và uế, phát khởi hạnh trì danh (hành) hồi hướng cầu sanh tịnh độ (hướng), đã hiểu rồi hành đồng hướng về tịnh độ thì đâu có thể phá giới (giới) của Phật. Như thế bốn nghĩa đã đủ các hạnh không cần lập mà cũng thành, liền được vãng sanh thành đạt sở nguyện, đâu cho họ là ngu dốt được ư!
Hỏi: Nếu như vậy thì hành giả chỉ cần nhất tâm, các hạnh tự đủ, đâu cần lập 4 nghĩa mà làm gì?
Đáp: Nếu trước biết được 4 nghĩa mà sau được nhất tâm là người có nền tảng vững chắc, nên khi thực hành vĩnh viễn không lui sụt. Nếu người trước nhất tâm rồi sau mới biết 4 nghĩa, tuy được vãng sanh, nhưng ở trong khi đang thực hành bỗng gặp bọn tà ma ác đảng thì phần nhiều bị lui sụt. Nên biết trước khi thực hành mà hiểu 4 nghĩa là ưu tú và quyết định.
Hỏi: Tôi nghe sách khuyên tu tịnh độ từ xưa đến nay, người viết rất nhiều, lời nghĩa thuần thiện đều hợp cơ nghi đã lưu truyền khắp nhơn gian, người y theo lời dạy được vãng sanh rất nhiều, có thể nói ý nghĩa đã lan khắp, vì sao hôm nay Ngài lại viết thêm nữa, làm cho người học có chỗ hiểu khác. Nay đọc kỹ tập sách này, nghĩa nếu thuật theo cổ nhơn, thì cổ nhơn đã viết rõ rồi, không cần nói lại, nếu nghĩa quyển này có chỗ biệt lập, người nay không hiểu e thành ức kiến chăng? Nếu không phát xuất từ cổ nhơn, không biệt lập mà nói không biết đây có phải vì danh lợi chăng? Mong nghe được chỗ cốt yếu ấy?
Đáp: Lời hỏi thật dốt nát! Ông thật là kẻ khó dạy khó hiểu. Ta nghe các bậc cổ nhân khi lập ngôn đều dựa vào kinh của Phật Tổ. Đã là kinh của Phật Tổ tuy chỉ là một câu dù tất cả chúng sanh trong đại thiên số như vi trần có trí tuệ như Bồ Tát Phổ Hiền tuyên nói trãi qua một kiếp, lý thú vẫn còn chưa hết, đâu thể cổ nhơn đã nói mà người nay không thể nói ư! Đâu thể trước Phật đã nói rồi mà cổ nhơn không thể nói ư! Không biết rằng người nay không thuật lời của cổ nhơn thì lời nói và việc làm của cổ nhơn không được hiển bày. Cổ nhân không để lại lời dạy cho người nay thì ý chí và kinh nghiệm của người nay không có chỗ làm bằng chứng. Lại nữa nghĩa tuy thuật theo cổ nhân mà ý thú chẳng trùng lập, lời tuy biệt lập mà lý không khác cổ nhân. Chỉ vì thời nay cách Phật đã xa, người giải thường tạo ra nhiều mối dị đoan, tuy nói để giải quyết nghi của anh Giáp, lại thêm bệnh cho anh Ất, bệnh anh Ất vừa thuyên, bệnh anh Bính lại sanh, lần lượt chia thành nhiều ngã tẽ, giữ thêm bệnh chấp.
Sách của các Bậc Thánh Hiền tuy nhiều nhưng bị tiêu mất cũng nhiều, người hậu học căn cơ yếu chậm, cũng khó tằm và nghiên cứu. Vì thế, ở trong nhiều sách kia, chúng tôi rút những nghĩa tinh hoa giảng yếu, để giải cái lầm đương thời, góp nhiều bài thanh quyển mục đích trị lành những bệnh trầm kha, đâu có gì gọi là danh lợi. Chỗ hỏi của Ông thật sai lầm! Ví như biển cả thêm một dòng nước chảy vào, bể đâu cho trở ngại với việc sâu rộng, núi cao thêm một nắm đất, núi đâu có ghét đất làm trở ngại độ cao. Cái nghi của người đời nay, người xưa chưa nghe, chỗ thấy người xưa, người nay khó đến. Thời nay cách Phật đã xa, phải y theo kinh để biện minh cái nghi của người nay. Lại nữa, như đầy nhà chứa toàn thuốc quý, nếu không biết bệnh, chọn thuốc phù hợp cho uống, chẳng phải bệnh chẳng lành mà mạng cũng khó giữ. Lời Kinh nói ra một nghĩa có nhiều cách giải, nhiều cách hiểu đâu có lo gì lời nói được nghe lại nhiều lần, mà chỉ lo lời nói chí lý âý chưa được nghe.
Ông nay đã có duyên nghiên cứu tam muội này rõ ràng, nên lập đại nguyện, thẳng tiến trên đường đạo, cầu sanh Tịnh Độ. Cẩn thận đừng đợi đến lúc sắp lâm chung, yêu cảnh, tiếc thân, trong cảnh đau nhức như rùa bị lột võ, muôn khổ trói tâm, lúc đó ăn năn thì đã muộn. 20- Niệm Phật Diệt Tội
Hỏi: Niệm Phật tam muội trực chỉ, trước nói về cảnh y chánh cõi Cực Lạc, cuối cùng chỉ cách hành nguyện cầu sanh, tất cả đều đầy đủ không có gì phải nghi. Duy có trong Kinh dạy: “Xưng danh hiệu Phật một tiếng có thể diệt được 80 ức kiếp tội trong sanh tử.” Tôi nghe lời này không thể không nghi, nếu quả có lý ấy thì ngày nay xét những người trong thế gian, dù giàu hay nghèo, đều có xưng danh hiệu, họ sẽ được diệt tội trọng, đều sanh về thế giới Cực Lạc hết rồi, vì sao hiện tại người ở đời vẫn y theo nghiệp thức mênh mang, luân chuyển luân hồi, xuống lên không biết chỗ, thì nghĩa diệt tội làm sao đúng? Không lẽ lời Phật là hư vọng sao? Xin ngài giải thích cho?
Đáp: Lời hỏi đúng lắm! Những người ở thế gian chưa giác ngộ nhờ câu hỏi của Ông sẽ không thối chuyển tu tam muội này sanh thẳng về Tịnh Độ. Người tu hành đời nay đều cho thuyết này là lời phương tiện khuyến tấn, đâu biết rằng là lời chân thật của Phật chắc chắn không chê lời tôi nói. Ông há chẳng nghe tôi thường nói: Ông ở vô lượng kiếp về trước cùng với Đức Thích Ca Mâu Ni là phàm phu, mà Đức Thế Tôn của chúng ta thành Đạo đến nay đã trải qua kiếp số nhiều như bụi của trái đất. Kiếp số này trong Kinh Pháp Hoa trong Phẩm Như Lai Thọ Lượng đã nói rõ. Chúng ta ở số kiếp trần sa kia là hạng phàm phu xuống lên sáu nẽo, tạo vô số lượng kiếp nghiệp, không có số lượng nào kể xiết. Chúng ta đồng là phàm phu như Phật từ lúc ấy đến nay, lâu xa không khác gì, như kiếp trần sa này nhiều đâu thể nói hết.
Giả sử có người ở trong một đời không nói một lời nào khác, chỉ xưng niệm danh hiệu Phật, trọn đời niệm Phật không ngớt, tùy theo chỗ xưng danh ấy cứ mỗi một câu đều diệt được 80 ức kiếp tội nặng sanh tử, hết đời ấy và tiếp đời sau cũng niệm Phật suốt đời như thế. Số kiếp diệt tội tuy 2 đời rất nhiều, nếu so sánh tội đã diệt trong 2 đời với tội kiếp số trần sa của người ấy đã tạo giống như đem bụi trong móng tay mà so sánh với bụi của toàn trái đất. Kinh dạy: Dù trải qua trăm ngàn kiếp, chỗ tạo nghiệp chẳng mất, nhơn duyên khi hội ngộ, quả báo phải nhận lấy. Vì thế, đâu thể mới xưng danh hiệu Phật có thể diệt nhiều kiếp tội mà có thể sạch hết các tội từ vô lượng kiếp đến nay mà không có gì làm chướng ngại cho việc sanh Tịnh Độ của ta ư! Họ đâu biết rằng tội chưa diệt, kiếp số lâu dài chưa trả hết, nó vốn vô thỉ vô tế (bờ mé) đồng với tuổi thọ của Phật. Thật ra, số 80 ức kiếp tội nặng sanh tử so với tội chúng sanh đã có như một bó đuốc lớn tuy nóng, muốn làm tan một khối tuyết như quả đất thì làm sao tan được. Vì thế, người niệm Phật được diệt tội mà không được sanh chính là nghĩa này.
Huống nữa, hàng phàm phu suốt đời tạo nghiệp, tâm bền chắc như người lưới cá, mỗi ngày giết cả vạn mạng mà cứ giữ nghiệp sát trọn đời; niệm Phật thời gian rất ít, mà tâm lại giao động, mỗi ngày chỉ niệm nửa giờ, hoặc một giờ; lại nữa, tâm thường giải đải, lui sụt rất dễ mà ít người tiến lên. Những người phàm phu bây giờ cùng Phật ở trần sa kiếp là phàm phu, mà Phật thành Phật đã trần sa kiếp. Phiền não, vô minh có từ vô thỉ mà mới phát tâm gần đây, tội làm sao diệt hết, cần phải nghĩ đến. Nay nói một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn liền được vãng sanh, hoặc khi lâm chung nhất tâm bất loạn xưng niệm một danh hiệu Phật liền diệt được 80 ức kiếp tội nặng sanh tử, cho đến người cực ác ngũ nghịch lúc lâm chung tướng lửa địa ngục hiện ra, xưng niệm được 10 danh hiệu Phật liền sanh về Tịnh Độ. Vì nhờ công đức uy thần xưng niệm danh hiệu Phật diệt tội, nhờ Phật dùng năng lực đại nguyện giúp hộ, ví như một tướng quân chinh chiến bị rơi vào vòng vây, nguy hiểm sắp đến bên mình, chợt được một dũng sĩ giúp cho một cây cung tốt, một bảo đao và một con ngựa khỏe thiện chiến. Người ấy ý chí trở nên hăng hái, phóng mình lên lưng ngựa, hăng hái như xưa, hết sức dùng bảo kiếm đột phá ra khỏi vòng vây. Chiến thắng thành công cướp đất đoạt thành đem về dâng chủ, vĩnh viễn được hưởng bổng lộc cao, cả đời vui vẻ. Đức Phật tiếp dẫn chúng sanh về cõi Cực Lạc, ý nghĩa giống như chàng dũng sĩ cứu hộ kia. Nói xưng niệm hiệu Phật một câu diệt 80 ức kiếp tội trọng sanh tử, không giống như người niệm Phật, ngày nay ba câu, ngày mai bốn câu vẫn còn do dự, hoặc gặp cảnh thanh sắc bày ra trước mặt liền bị kéo đi, không khác gì người chưa từng niệm Phật. Niệm Phật như thế, mà muốn niệm một câu Phật, diệt được nhiều kiếp tội, đề khỏi bị nghiệp chướng lôi kéo, được sanh về Tịnh Độ làm sao có được.
Người niệm Phật như thế, không phải mỗi tiếng không được diệt tội 80 ức kiếp sanh tử, chỉ vì sơ tâm chậm trễ nên quả báo vãng sanh cũng chậm trễ, chỉ có thể làm nhân duyên vãng sanh cho đời khác về sau. Hoặc có người xưng niệm không thôi mà tâm tán loạn, tuy thành tựu một số công đức, đâu thể so sánh với người tâm định, chỗ ưu hoặc liệt, cảm ứng có chậm mau được. Nếu có người tinh tấn nhưng tâm không định, khác nào dùng tay trái bắn cung chắc chắn không trúng. Nên biết rằng người tán tâm niệm, tuy có chí thành mà chẳng lìa vọng tưởng, hoặc bị các tội của nhiều kiếp trước làm chướng ngại, quả báo chỉ được vào đời khác, không thể có chính đời này được công hiệu. Nếu người quyết chí dũng mãnh niệm Phật, thì có thể diệt được tội kiếp này, nhờ vào sức dũng mãnh quyết lòng và tội các kiếp khác không làm chướng ngại, chỉ cần 10 niệm là thành tựu vãng sanh Tịnh Độ. Nghĩa này rõ ràng, có thể hiểu được, quyết định không còn gì nghi ngờ. Người niệm Phật đâu có thể niệm một cách lơ là, y theo nghiệp thức cũ mênh mang, khi chết không biết về đâu, dãy dụa rên la mà nghi lời Phật là nói dối ư!
Nên biết sức Phật rộng lớn, trùm khắp tất cả thế gian, nơi chốn, có thể nhiếp cái tiểu thiện của ta vào cái Đại Nguyện của Phật, làm thành một vị, dẫn chúng sanh về cõi An Lạc, làm cho tất cả tội kiếp trần sa đều được tiêu diệt vì không còn điều kiện hiện hành, đâu phải chỉ diệt tội 80 ức kiếp mà thôi. Như thế, xưng danh hiệu Phật, công đức thật không thể nghĩ bàn. Đại thừa viên đốn, siêu vượt ý chỉ gieo trồng, trong Luận Thập Nghi nói: “Thí như 10 cuộn dây tơ, trói chặt trăm người, sức của trăm người không thể phá. Một đứa trẻ con dùng một con dao bén cắt trong chốc lát rời thành hai đoạn” Trong Quán Kinh, hạ bối vãng sanh căn cứ vào thí dụ kể trên cho rằng vừa niệm Phật diệt tội liền được vãng sanh. Ngày xưa, khi Phật còn trụ thế, có một người ở chúng hội Phật cầu xin xuất gia, cầu khắp các vị Thánh Chúng, các vị dùng đạo nhãn xem năm trăm kiếp trước người ấy không có căn lành nên không nhận, sau vị ấy đến chỗ Phật, được Phật độ cho. Các Thầy Tỳ Kheo đem việc ấy hỏi Phật. Phật dạy: “Người này tuy 500 kiếp trở lại đây không có căn lành; chỉ ở vô lượng kiếp trước, đạo nhãn hàng Nhị Thừa không thể thấy, người này là một ông tiều đốn củi, bị cọp rượt quá gấp, leo lên cây để trốn, cọp vừa vồ tới, người ấy thất thanh niệm Nam Mô Phật. Vì một lần xưng danh này mà ở trong kiếp này gặp ta và được độ, sau này sẽ được tấn đạo nghiêm thân. Điều đó cho thấy một đời niệm Phật chưa được quả báo liền, có thể ở đời sau mới được vãng sanh.
Qua câu chuyện kể trên thì biết chỉ một lần xưng chữ Phật, tuy chưa biết rõ là Phật nào, còn có thể làm người ta diệt tội đắc đạo, hà huống nguyện lực của Phật A Di Đà vượt qua chư Phật mười phương, nếu người chuyên chú niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì công đức và diệt tội chướng có thể nghĩ bàn được ư! Kinh Pháp Hoa nói: “Một lần xưng Nam Mô Phật, đều đã thành Phật đạo”. Lời này đủ để chứng minh. Nên biết, nếu có thể niệm danh hiệu Phật A Di Đà, niệm niệm không dứt, công đức ấy thật khó so lường, tuy người có chướng nặng, tán tâm thối chuyển, chắc chắn được vãng sanh ở tương lai. Xưng niệm Phật thuộc về miệng chỉ luận theo công, niệm Phật ở tâm bèn hiển ở đức, luận công thì ở nơi ta không mõi mệt, hiển đức thì thấy Phật hiện tiền, hai nghĩa chẳng đồng, chỗ hơn kém có thể thấy. Miệng xưng còn vậy, huống là tâm niệm ư! Cho nên, hôm nay ta vì lời hỏi của Ông, y kinh thuật rõ, nếu người muốn đi con đường này, hy vọng trong nghĩa này theo đúng lời nói mà tu hành, cẩn thận đừng nghi kỵ. 21. Chư Tổ thực hành
Pháp môn Tịnh độ rộng lớn bao gồm hết các cơ, dễ tiến mà công cao, các pháp môn khác khó bì kịp. Ban đầu từ Hoa Nghiêm thắng hội đại chúng đồng về, truyền đến Chấn Đán sáng ngời ba thừa cùng chứng, giáo hóa rất thạnh, vang cổ dậy kim, có thể nói pháp môn này rất rộng lớn, vi diệu không thể nghĩ bàn. Đến thời Đông Tấn, Tổ sư Huệ Viễn xướng lập thành một tông phái, người cùng chí hướng gồm có 123 văn nhân nhã sĩ cùng nhau ở Lô Sơn tu tập. Tổ Huệ Viễn ba lần thấy Thánh tướng, đúng theo nguyện vãng sanh. Triều sĩ Lưu Di Dân lập thệ cũng thấy Phật A Di Đà thân tự sờ đỉnh đầu, lấy y đắp trên thân thể. Lại có đồng chí Khuyết Công Tắc sau khi mạng chung đã hiện về đúng theo ý muốn, các truyền ký này đã ghi rõ ràng, ở thế gian mọi người đều biết rõ.
Thời nhà Tấn, Hàn lâm Đại học sĩ Trương Hàn chỉ trì Đại Bi chú 10 muôn biến cầu sinh Tịnh độ, đến sắp lâm chung, Hàn thấy cõi Tịnh độ ở trong nhà phía Tây, niệm Phật giây lâu rồi mất. Thời Lưu Tống, đất Giang Lăng, có vị Tăng tên Đàm Giám hằng ngày làm được chút ít việc lành, đều hồi hướng Tịnh độ. Một hôm Đàm Giám thấy Phật A Di Đà lấy nước rửa mặt cho và nói: “Ta rửa bụi nhơ cho Ông, sạch tâm niệm cho Ông, thân miệng ý của Ông đã trong sạch rồi”. Lại thấy trong bình bát hoa sen nở. Sau khi xuất định, Ông họp tăng nói lời từ biệt rồi niệm Phật mà thoát hóa. Thời Nam Tề, đất Dương Đô, có vị Tăng tên Huệ Tấn nguyện tụng Pháp Hoa làm hạnh Tịnh Độ, Huệ Tấn tụng kinh quá nhiều sanh bệnh, nên nguyện in 100 bộ Pháp Hoa ấn tống cho người, giúp cho việc tụng của mình, in kinh xong bệnh lành, bỗng nghe trong hư không có lời khen ngợi, Ông niệm Phật theo hơi thở mà vãng sanh.
Thời Hậu Ngụy, có vị Tăng tên Đàm Loan bỏ Tiên học Phật, cho tu Tịnh độ thật là pháp trường sanh bất tử, khi lâm chung bảo đệ tử cao tiếng niệm Phật. Ngài hướng về Tây khấu đầu mà mất, ở trên không nhạc trời trổi lên và theo hướng Tây mà đi.
Thời Nhà Tùy có vị Tăng tên Đạo Dũ lấy cây chiên đàn điêu khắc tượng Phật A Di Đà cao ba tấc, phát nguyện cầu sanh. Một hôm ông chết khá lâu rồi tỉnh dậy, Ông thuật lúc vào chỗ u minh gặp Phật A Di Đà. Đức Phật nói: “Giờ ngọ ngày mai ta sẽ đến tiếp dẫn Ông”. Đúng giờ ngọ hôm sau, Ông ngồi niệm Phật mà thoát hóa. Cùng những bậc Đại hạnh như thời Đường có Thiên Đạo Hòa Thượng, ở Hoài Châu có Pháp sư Hoài Ngọc, ở Hoài Châu có hai vị Phương và Quả, ở Chơn Châu có Tăng Tự Giác, ở Lục Châu có Thiếu Khương, ở Tinh Châu có Duy Ngạn. Các vị này đều y theo Đại Thừa kiến lập thệ nguyện, tu hành Tịnh độ, linh nghiệm hiển nhiên, cảm động trời người, mây pháp trùm khắp, thu nhiếp các căn vô cùng, mưa pháp tràn trề, đạo đức cao siêu không thể thuật hết.
Thời Trần Tùy có Quốc Sư Thiên Thai Trí Giả, có Bạc Truyền, có Pháp Liệt, Pháp Trí, Từ Vân. Thời Tống có Vĩnh Minh Thiền sư, Trường Lô, Từ Giác Thiền Sư. Đây là bậc Đại Thánh sư, hạnh vượt hẳn trời người, đức trùm ba cõi, là mặt nhật huệ chiếu nẽo tối tăm, là Đạo sư phá khổ. Tất cả các vị đều dùng Tam muội này mà tự lợi, lợi tha, là con đường hóa đạo cao tột, hóa nghi đã tròn đều về thượng phẩm.
Thời nhà Đường, ở Trường An có Ni Tịnh Chơn tụng kinh Kim Cang 10 muôn biến, năm tháng trước khi lâm chung thấy Phật 10 lần, thần dạo Cực lạc hai lần. Đời Đường, Phùng Chư nhờ khuyên một người niệm Phật mà cảm động đến U Minh. Ở Trường An, Lý Tri Diệu niệm Phật ngũ hội, thấy trên không thần Tăng đến tiếp vãng sanh Tịnh độ. Diêu Bà niệm Phật đứng mà thoát hóa. Ở Tinh Châu, vợ của Ôn Tịnh Văn tu hành nguyện đều được ứng đúng ý mình.
Trương Chung Húc, Trương Thiện Hòa hai người làm nghiệp sát, khi lâm chung, tướng địa ngục đã hiện, niệm 10 niệm về Tây. Thời Tấn có Tăng Trí Thông, thời Tống có Tăng Khả Cửu, Tăng Quán Trí, theo lời dạy trong kinh điển Tịnh độ, nhất tâm tu tập, thần dạo cõi Tịnh độ, thấy tên nêu ở Tòa Hoa, khi xuất định đúng như chỗ thấy. Thời Tống, Kim Thái Công, Huỳnh Đã Thiết, Ngô Dao, ba người này ban đầu đều làm ác nghiệp, nhờ cải hối tinh tu mà lúc lâm chung đều có thụy tướng. Kinh Vương Phu nhơn, Quán Âm Huyền Quán, Phùng Thị Phu nhơn tuy là thân nữ mà đức hạnh khá cao vãng sanh thân chứng.
Nên biết rằng, pháp môn thù thắng này phàm người có lòng đều có thể tu hành, đâu có phân biệt Tăng tục, nam nữ, già trẻ, ngu trí, hàng dị lưu cực ác, tối nghịch đơn đề. Loài vật nghe niệm Phật còn sanh về thiện đạo, người chuyên niệm Phật chắc được về Tây. Như thế, chỉ lo chúng ta không tu, đừng lo Phật không cảm ứng. Ở đây y theo truyện ký vãng sanh ghi lại, chỉ mong các đồng đạo, thấy người Hiền mong được bằng, thấy người vãng sanh mà quyết tâm niệm Phật hằng ngày theo gương xưa mà cảnh tỉnh. 22. Hồi hướng vãng sanh
Nguồn gốc của tà kiến là do Thầy bạn bất chánh dạy, tuy bị nghiệp đời trước chiêu cảm, đâu khỏi từ tự tâm mình có kiến hoặc, sự mê lầm không rời khỏi tự tâm thì quả báo sẽ đến không thể thoát được nẽo khổ. Huống chi chúng sanh một khi bị nhiễm ô ở trong thức, muôn lần sửa đổi cũng khó trở về, vì vậy, Trực chỉ niệm Phật từ đó mà được tạo ra. Tôi vừa lập chí này liền dùng tâm duyên theo đại khổ của nghiệp ở cõi Ta Bà, nhớ y chánh cõi Cực Lạc thật tiêu diêu, tịnh và uế cùng tham, chúng sanh và Phật đồng hiển lộ, nghĩa mầu vô lượng nhóm ở nơi tâm. Pháp hỷ tràn đầy, lý sự vô ngại, thân và độ viên dung, không thể dùng lời nói hoặc bút mực có thể chép và nói cho hết được. Người tu Tam muội này, công đức thực vô lượng vô biên, tôi nay nguyện đem công đức như trên suốt đời vị lai, quán tưởng phát tâm cầu sanh Tịnh độ, tất cả căn lành, như lý pháp tánh, lưu chuyển không cùng, từ quả theo nhân, trùm khắp các cõi, thực hành hạnh nguyện hồi thí chúng sanh, tất cả viên thành sanh về Tịnh độ.
Nguyện theo năng lực niệm này làm cho tất cả chúng sanh ở các cõi trong mười phương và thế giới Ta Bà này, được như chỗ nguyện của tôi hoặc đồng hoặc khác, y chánh, sắc tâm đồng thời vào thẳng trong bạch hào đoan tướng của Giáo chủ Vô Lượng Quang cõi Cực Lạc, đều ở trong cõi Cực Lạc, biến hiện tự tại, du hí thần thông, như chỗ Phật ở, vĩnh viễn không sai sót, thì nguyện tôi mới mãn. Lại nguyện tất cả hành giả hoặc Đại thừa hoặc Tiểu thừa, do tu ba nghiệp, tất cả vô lượng thiện căn đều hiện trước mắt, khắp cùng tất cả chúng sanh một lòng hồi hướng về cảnh giới Cực Lạc, ngưỡng cầu thần lực của chư Phật, nguyện lực của Phật A Di Đà và năng lực công đức của hai Đại sĩ từ bi gia hộ. Nguyện pháp môn này, nguyện thiện căn tu tập này làm cho sáu căn tôi cảnh trí tự tại, khắp cả hư không đều tuyên thuyết pháp môn này, tất cả tu tập không hề mõi mệt. Có kệ rằng:
Thế giới Cực Lạc rất thanh tịnh,
Trang nghiêm vi diệu hơn thế gian,
Nguyện lực Di Đà như hư không
Tướng hảo, ánh sáng cũng như vậy.
Hằng nhớ không rời chúng sanh khổ,
Quyết độ chúng ta về Lạc Bang,
Chúng ta cam lòng chịu sanh tử
Nhiều kiếp chìm đắm không ra khỏi.
Từ Phụ đưa tay đợi đã lâu
Mong mõi đợi chờ rất khẩn thiết.
Muốn được ánh sáng hoa sen nở,
Nay đúng là lúc nguyện sanh về.
Thân vốn vô thường giờ đã qua,
Các khổ trói buộc nên xa lìa
Nguyện mau niệm Phật đồng tu hành
Mãn báo thân này về Cực Lạc.
Nguyện pháp môn niệm Phật trong tập này, thường còn trong đời, như pháp thân Phật, làm người bạn không mời mà đến, lợi lạc tất cả mọi người, đồng sanh về nước An dưỡng. Nguyện Tám Bộ Trời Rồng thường đến hộ trì, làm cho pháp môn này không bị hủy diệt, như pháp lý tánh, vĩnh viễn lưu thông, thường trụ như Phật./.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.86.143 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.