Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ [寶王三昧念佛直指] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ [寶王三昧念佛直指] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Thích Hồng Nhơn

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Niệm Phật Tam Muội gọi là Bảo vương là một Tam Muội tối thượng trong tất cả Tam Muội, ban đầu đề xướng ở Lô Sơn và sau đó lưu truyền khắp thiên hạ. Nhiều người trong đời tin tu vãng sanh rất nhiều, trước tác văn chương ghi những điều chứng nghiệm chẳng phải ít. Từ xưa đến nay hoằng dương rộng rãi, nên dù thiền hay giáo đều rất tôn sùng, hoặc thánh hay phàm cùng chung qui ngưỡng. Nhưng tiếc nỗi trong thời Mạt pháp nhiều người căn cạn, không dùng thuốc đúng bệnh, cho rằng muốn về Tịnh độ Cực Lạc không cần hướng về Tây phương mà chỉ cần phân biệt duyên ảnh tự tâm. Người có kiến chấp này thì nhọc công mà không lợi ích, tuy có tu mà không có cảm ứng và kết quả. Chính vì thế, chúng tôi (Diệu Khấu) lượm nhặt những diệu chỉ từ những sớ sao của các Tôn trong các kinh Tịnh độ, biên thành lời thuật, tuy văn chương sơ sài, nhưng đó là hoài bảo từ trong tim óc dùng để cảnh tỉnh cho mình và cho người khác, nên lấy tên là Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ gọi tắt là Trực Chỉ Niệm Phật.
I. Tín giải môn
1. Y báo và chánh báo cõi Cực lạc.

Đức Thế Tôn là một bậc Vô Thượng Chánh biến Tri, ứng khắp các cơ, từ cung trời Đâu Xuất giáng trần, ròng rã suốt 49 năm thuyết pháp có hơn 300 dư hội với hoài bảo làm cho chúng sanh đồng chứng chơn thường. Cho đến hội cuối cùng ở Linh Sơn mới nói Kinh Pháp Hoa khai thị chúng sanh ngộ vào tri kiến Phật, đó là bản hoài mà đức Phật muốn đề xướng. Nhưng cái Đạo độ chúng sinh thoát khỏi luân hồi không phải chỉ có một mình đức Thích Ca, mà các đức Như Lai trong 3 đời đồng truyền chánh giáo. Tuy vậy, trong một đời thuyết giáo của đức Thích Ca Mâu Ni, ngài dùng rất nhiều pháp môn tùy theo căn cơ thích hợp mà giáo hoá, nhưng pháp môn hợp thời cơ, có duyên sâu dày giữa Phật và chúng sinh, pháp tu rất thẳng tắt, dễ làm mà có hiệu quả cao, không có pháp môn nào hơn pháp môn Tịnh độ.
Pháp môn niệm Phật này ban đầu do Tỳ kheo Pháp Tạng ở vô lượng kiếp trước làm vị Đại Quốc Vương, nghe Phật Thế Tự Tại Vương thuyết pháp, liền bỏ nước xuất gia làm Tỳ kheo. Đức Phật Thế Tự Tại Vương vì nguyện vọng của Tỳ kheo Pháp Tạng mà rộng nói và thị hiện 210 ức cõi Phật trang nghiêm gồm cả các việc thô tế, thiện ác của người trời mỗi cõi chẳng đồng nhau. Tỳ kheo Pháp Tạng nghe rồi, liền ở trước Phật Thế Tự Tại Vương phát 48 đại nguyện: “Nguyện khi thành Phật nhân dân trong nước không có các thứ như: 3 đường, 3 độc, 8 khổ, 8 nạn, 9 não, 10 trói buộc và các thứ chướng ngại. Người sanh về nước tôi sẽ thành bậc chánh định, được pháp nhẫn, ngộ chơn tâm, có trí giải thoát thù thắng. Người muốn được sanh, khi lâm chung chỉ cần niệm Phật cho đến 10 niệm liền được sanh, nếu không được như vậy thì tôi không ở ngôi chánh giác”. Khi ấy cõi đất chấn động, trời rưới hoa đẹp, nhạc hư không tự trổi. Đức Phật Thế Tự Tại cũng thọ ký cho Tỳ kheo Pháp Tạng đã đắc quả thành Phật đến nay đã hơn 10 kiếp. Do ngày xưa phát đại nguyện thù thắng, công đức thần thông, ánh sáng, 10 lực, vô sở úy vượt qua các cõi Phật ở 10 phương hiệu là Phật A Di Đà.
Tịnh độ Phật A Di Đà ở từ thế giới Ta Bà này thẳng về hướng Tây cách 10 muôn ức quốc độ, gọi là Cực lạc cũng gọi là An Dưỡng. Hiện nay Phật A Di Đà đang ở cõi ấy, vì đại nguyện và sức thần thông nên hiện đang thuyết pháp, nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật trong 10 phương. Chúng sanh nào được sanh về cõi ấy đều ở vị bất thối chuyển, người sinh về cõi ấy nhiều vô lượng, chỉ dùng số hằng hà sa vi trần để thí dụ thôi.
Quốc độ Cực lạc được trang nghiêm vô cùng thắng diệu, vượt qua các cõi Tịnh độ trong 10 phương. Ao báu ở trong cõi ấy lớn nhỏ đều dùng bảy báu tạo thành. Ao lớn cõi ấy rộng khôn kể xiết, đáy bằng cát vàng, chung quanh có đường đi, bên đường có lầu gác cả nghìn tầng rộng lớn đẹp đẻ, ánh sáng chói lọi nói không thể hết. Ở trong ao có nước bát công đức trong suốt, thơm ngát đầy dẫy. Có 14 cây phun nước, phun lên rơi xuống thành tiếng diễn nói vô lượng pháp môn. Ở trong nước ấy có đến 60 ức hoa sen bảy báu, nở tròn tươi đẹp, nước rơi vào cánh sen bốn màu phát ra bốn thứ ánh sáng. Những người vãng sanh ở ba bậc hoặc chín phẩm sắp theo thứ lớp, hương thơm vi diệu, ánh sáng rực rỡ cả nước.
Cõi ấy đất báu bằng phẳng do nguyện lực mà thành, ở trên đất ấy có 7 lớp lan can, 7 lớp hàng cây, tràng phang thòng xuống được kết bằng châu anh lạc, mỗi thứ đều có vô lượng vẻ đẹp thù thắng, phất phơ đẹp đẻ trang nghiêm khắp nước. Ở trong hư không rưới các áo trời, hương trời, hoa trời, lụa trời, nhạc trời, mỗi thứ đều có đến vô lượng, tung bay tản mạn đầy khắp hư không, các món trang nghiêm vô lượng như thế đều làm bằng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, tỳ lăng già, ngỏa thúc ca, Như Ý châu vương, kim cang Ma Ni, không thể tính đếm, đều do trân bửu mà thành. Trong mỗi thứ trân bửu đều phóng ra vô lượng trăm ngàn muôn ức màu đẹp, cùng nhau chiếu sáng, mỗi thứ đều chiếu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, các ánh sáng ấy giao tiếp hoà hợp không hề chướng ngại, trùm khắp hư không, nói không cùng tận. Vô lượng các thứ trang nghiêm, vô lượng các thứ ánh sáng như thế. Các thứ ánh sáng, các thứ trang nghiêm cùng với thiên nhạc, hương hoa trên hư không, chim hót lưới reo, tiếng ấy cung thương đúng nhịp, điệu tiết hoà hợp, phát ra vô lượng vô biên tiếng mầu nhiệm. Tiếng ấy liên tục cùng khắp không hề gián đoạn, tất cả đều diển nói các ba la mật khổ không vô ngã, tán thán đạo Bồ Đề, ca ngợi Phật Pháp Tăng, hoặc nói Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Y Túc, Ngũ căn, Ngũ Lực, Thất giác Chi, Bát Thánh đạo, Lục độ Vạn Hạnh, 10 Lực, 10 Vô Sở Úy, 18 Pháp Bất Cọng, đại từ đại bi, đại hỷ đại xả, vô lượng pháp môn không thể nghĩ bàn. Chỗ thuyết pháp ấy nói về y chánh và sắc tâm của chư Phật ba đời dung thông không ngăn ngại, đồng nhau khuyến tấn kẻ tu hành như tiếng pháp âm của Phật không khác. Chúng sanh ở trong nước ấy nghe pháp rồi mỗi niệm đều được thỏa đáng an vui, mau được hạnh thù thắng của Tam thừa, tất cả đạo phẩm, vô lượng giải thoát như từ Phật nghe chẳng có sai khác. Dù là phàm phu, nghe pháp này rồi tự nhiên tinh tấn, còn không có chút ý niệm mõi mệt, làm sao có ý thối chuyển.
Ở cõi Cực lạc thuần nhất có con trai, không có con gái, từ hoa sen sinh ra, không ở bào thai, mặc đồ xinh đẹp, thân thể thơm tho, luôn luôn vui vẻ, tùy theo ý muốn mọi vật đều hiện đầy đủ ra. Không có ngày đêm, lạnh ấm, không có sanh già bệnh chết, không có các thứ núi đất, không có ba đường ác đạo. Đi qua lại trong hư không, kinh hành dưới cây, muốn làm các Phật sự, thị hiện thần thông đều từ tâm niệm liền hiện đến. Nhân dân ở đây sống lâu vô lượng, có đủ các thứ khoái lạc như thế nên gọi là Cực lạc.
Lại nữa, Đức Thế Tôn A Di Đà có công đức ánh sáng, oai thần tướng hảo, mỗi thứ đều có đến 84.000, như núi vàng tía, ngồi trên đài hoa sen, tòa sư tử, trang nghiêm rực rỡ, cao vọi trên không to bằng bốn biển lớn, lông hào quang ở giữa chặng mày có năng lực lớn phát ra ánh sáng, như mặt nhật lên cao các đèn đều đẹp. Trong ánh sáng hoá Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, mỗi vị đều phóng ánh sáng lớn, chiếu thấu đến các cõi nước ở xa, nhiếp thọ chúng sanh. Quan Âm Đại Sĩ và Thế Chí Đại Sĩ cũng đều phóng quang như vậy. Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, các Đại Bồ tát đều ở nước kia một đời bổ xứ, số ấy rất nhiều, các bậc thiên nhân họp về một chỗ, đều là bạn lành thờ Phật làm thầy, thân cận bên Phật, nghe đệ nhất nghĩa, vượt khỏi ba cõi, liền chứng vô sanh, mười địa vượt qua, hai giác viên mãn. Có thể ở trong mỗi niệm cúng dường Tam Bảo ở mười phương, thành tựu tất cả pháp môn, có du hí thần thông, tịnh quốc độ Phật. Cho đến vào chốn ba cõi sáu đường, phóng quang phá tối, cứu khổ chúng sanh. Hoặc lại phân thân trăm nghìn cõi nước, tùy duyên hoá đạo, theo bệnh cho thuốc, như lòng lành ban bố của Phật, ở trong mỗi niệm viên mãn hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, đủ sức trí huệ của Bồ Tát Văn Thù, có năng lực của Bồ tát Đại Thế Chí, như đức Quán Thế Âm, đồng chứng Bồ đề, đồng ở chỗ Phật. Tánh của tất cả chúng sanh vốn tối tăm, được nghe pháp này đều rất hoan hỉ mà sanh lòng tin vui. Việc trang nghiêm diệu độ tuy có đủ trong tâm của chúng ta, nếu không có đức Như Lai A Di Đà, ở trong thuở quá khứ, vì độ chúng sanh, thực hành đạo bồ tát, công khó không thể nghĩ bàn đâu có được thành tựu như ngày hôm nay. Nên biết rằng: Đức Phật A Di Đà có hạnh nguyện vô lượng vô biên, trang nghiêm vô tận, cho nên, Như Lai A Di Đà ở quốc độ kia, nguyện lớn viên mãn, cõi báu mới viên thành, y báo, chánh báo trang nghiêm, tất cả đều viên mãn. Sự trang nghiêm y chánh cảnh giới như thế dù tất cả chư Thanh văn, Duyên giác như số cát sông Hằng trong mười phương dùng sức đại biện tài, xưng tán chân thật, dù suốt đời vị lai cũng không khen ngợi cho hết.
Nếu có người thiện nam tín nữ nào nghe nói y chánh trang nghiêm ưa muốn sanh về cõi kia, cầu theo lời Phật dạy, phải phát khởi đủ ba thứ tâm (trực tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm), giữ đầy đủ các giới đã thọ, không phạm oai nghi. Sau đó, dùng tâm chơn thật, quán quốc độ kia, tất cả cảnh giới thắng diệu vô lượng, y chánh trang nghiêm và thân đức Như Lai kia có 8 muôn tướng hảo công đức, ánh sáng thanh tịnh. Hoặc lại tùy giữ lấy một cảnh một tướng cho đến lông trắng giữa chặng mày của đức Như Lai, xa lìa hư vọng. Hoặc một niệm đến 10 niệm, hoặc 1 ngày đến 7 ngày, nhanh như tráng sĩ co tay, trong chốc lát liền được vãng sanh. Hoặc có người tin chắc có quốc độ Cực lạc và có Phật A Di Đà với nguyện lực đại thần tiếp dẫn chúng sanh; chẳng sanh chút nghi hoặc, từ đó một lòng gìn giữ danh hiệu, không cần đợi lâu cũng được vãng sanh, đâu cần đợi quả báo của sắc thân này mãn mới được vãng sanh. Nên biết, đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sanh ra khỏi cảnh khổ, Ngài thương chúng sanh hơn cha mẹ thương con. Ở trong các kiếp trước đây đã lập thệ nguyện lớn, không có khổ gì mà không nhận, không có việc khó nào mà chẳng làm, không có nguyện nào mà không lập, không có pháp nào mà chẳng nói để độ chúng sanh, dùng đến trăm ngàn phương tiện để độ sanh. Hôm nay là lúc hằng ngày mõi mắt trông chờ, đưa tay chờ tiếp dẫn đã hơn 10 kiếp, mỗi niệm không rời, héo hắt gan lòng, cho đến một lòng chí thiết vào trong sanh tử, qua khắp ba đường, lửa dữ địa ngục không hề sợ nhọc. Chúng ta nếu quay về niệm Phật như con nhớ mẹ, an ủi lòng trông mong của mẹ dù chỉ một niệm cũng được vãng sanh đâu cần trãi qua 10 niệm mới được vãng sanh.
2. Phá vọng hiển chơn
Hành giả muốn sanh về nước Cực lạc, thoát ly sinh tử, trước phải biết rõ tâm chơn và vọng cầu sanh Tịnh độ. Phải biết thế giới Cực lạc là ở tại cảnh hay tại tâm. Nếu ở tại tâm thì hoàn toàn thuộc về hư tưởng, không có cảnh giới để sanh về. Nếu ở tại cảnh, tuy có chỗ sanh về nhưng lại mất tâm. Nếu nói cầu sanh về cả tâm và cảnh thì thân và tâm là một, đâu thể nói vãng sanh từ chỗ này đến chỗ khác. Nếu nói tâm và cảnh là một, thì khi nhất tâm cầu sanh thì tự thấy tâm cảnh rõ ràng không thể nói là một. Lại nữa Cực lạc và Ta bà hai cõi tịnh và uế chẳng đồng. Huống nửa đức Thế Tôn ân cần dặn bảo phải bỏ cõi uế, cầu sanh về cõi Tịnh nghĩa ấy làm sao đúng. Bốn câu có, không, chăng phải có, chẳng phải không đã chẳng thể tìm, hoặc nói mỗi chỗ đều là Tây phương Cực lạc, hoặc nói tâm tịnh thì nơi ấy là Cực lạc, hoặc nói Cực lạc không rời tâm mình, nếu hiểu như vậy đều gọi là tà kiến, nên tôi không thể lặng yên. Nếu nói Cực lạc tại tâm liền nhận lầm tâm này ở trong thân ta, đã nói ở trong thân thì chỉ gọi cầu tâm sao lại gọi cầu sanh. Đức Thế Tôn ta há chẳng biết Cực lạc tại tâm sao, lại nói ở hướng Tây cách mười muôn ức cõi nước có cõi Cực lạc ở ngoài ư! lại không chỉ ở nội tâm mà chỉ nói ngoại cảnh làm gì! Hôm nay, thế giới Cực lạc ở phương Tây, Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp, cảnh đó sự thật rõ ràng. Đây là lời vàng của bậc Đại Thánh nói thật, ta đâu dám chẳng tin, mà không biết cõi Cực lạc ngoài tâm cảnh duyên này chính là chơn tâm của ta. Chơn tâm của ta này như biển lớn kia không tăng không giảm, cái mà ta vọng nói là cảnh Cực lạc tại tâm duyên ảnh ấy như một hòn bọt trong biển, sanh diệt toàn là vọng mà ông dối nói là tâm. Nếu ông cố chấp vọng kiến không trừ ngoài có Cực lạc, tin trong tâm duyên ảnh của ông có Cực lạc là sai, vì cái ảnh tâm mà ông duyên không có thể, nên không dùng tâm cầu sanh về tâm mà không biết rằng cõi Cực lạc kia tuy ở phương tây, nhưng phương tây ấy vẫn còn nằm trong chơn tâm của ta. Chơn tâm không có tánh tức là danh thể cõi kia dùng để hiển bày tâm ta. Danh thể vốn không, cũng tức là chỉ cái tướng của tâm ta, tâm cảnh một thể, chúng sanh và Phật cùng nguồn, cầu Phật kia là cầu tự tâm, chẳng phải cầu ở bên ngoài. Muốn khảo cứu tự tâm phải tìm ông Phật kia thì đâu có lỗi lầm gì! Hiểu như thế thì việc lấy bỏ, ưa chán thật rõ ràng, dù ta có cầu cũng đâu phải ngoài tâm vì tâm có đầy đủ cả. Như thế nên biết trong tâm nầy có đầy đủ y báo, chánh báo, cảnh giới, cho đến sắc tâm, tịnh uế, chúng sanh Phật, nhân quả, các pháp trong ba đời ở mười phương, bao gồm khắp cả, cùng một thọ dụng, cầu một tướng bên ngoài cũng không thể được, tuy không có tính ngoài, không chia mà chia, nên tịnh và uế rõ ràng. Như thế nên biết việc cầu phải là cầu ở vọng tâm ư! Như nguyện cầu Phật ấn khả, cùng với những người thế gian chẳng biết bổn tâm, ngu si không tới, chẳng cầu Phật ở Tây phương Cực lạc, chỉ hướng vào cái thân thịt cùng vọng tâm duyên ảnh cầu gọi là Duy Tâm Tịnh độ, bản tánh Di Đà thật khác xa. Cõi nước Cực lạc kia, không y theo vọng tâm duyên ảnh và sắc thân Phật A Di Đà kia cũng không phải ở trong ấm thể của chúng sanh. Nếu hướng vào trong thân tâm duyên ảnh tứ đại của ta mà cầu ông Phật tự tánh của chính mình mà không cầu ông Phật ở Tây phương thì vọng tâm sanh diệt, nên Phật cũng sanh diệt, vì Phật sanh diệt nên Tam Muội chẳng thành, dù cầu có được chăng, cũng chỉ thành ông Phật sanh diệt mà thôi và trở lại cõi sanh diệt không thể thành tựu hạnh chơn chánh được.
Kinh nói: "Đem tâm luân hồi, sanh ra cái chấp luân hồi thì tánh viên giác kia cũng đồng luân chuyển". Nếu muốn lìa các vọng chấp để sanh thẳng về nước kia, chỉ cầu đức Phật A Di Đà ở cõi Cực lạc cách đây 10 muôn ức quốc độ, dùng đúng tánh diệu quán mà quán tưởng làm cho bản giác và tướng hảo của đức Như Lai kia hiển hiện, hợp với thể giác của chúng sanh thì chơn tâm từ đó phát minh, thủy giác và bản giác hợp nhau, Phật và chúng sanh cùng có cảm ứng, tam muội liền thành, chánh hạnh do đây mà lập, cõi không sanh diệt mới có thể sanh về được. Nên biết rằng tâm này trùm khắp tất cả chỗ, còn không bỏ địa ngục, vì sao không chứa cõi Cực lạc. Chỉ vì địa ngục là chốn khổ nên nay thuận theo tánh mà cầu xa lìa, Cực lạc chín phẩm nay cũng thuận tánh mà cầu sanh. Y theo khế kinh, thuận theo pháp âm của Phật cầu lìa khổ được vui, từ phàm vào thánh, thật không ra ngoài tâm tánh của chúng ta, nên gọi là Duy Tâm Tịnh Độ, Bản Tánh Di Đà. Đâu phải nói từ trong vọng tâm cầu, vọng tâm vốn không thể làm sao gọi là duy tâm bản tánh của Phật được?
Ông hướng theo vọng tâm duyên ảnh của tự mình để cầu dùng sắc thân và núi sông đại địa, mười phương cõi nước là ngoại cảnh, còn đây là hướng chơn tâm bất đọng của chính mình để cầu thì núi sông đại địa, cõi nước trong mười phương thì ở trong nội tâm. Nếu biết 10 phương cõi nước đều từ nội tâm thì tâm cảnh đập thành một khối, chừng đó ta mặc ý ở trong tâm bỏ uế lấy tịnh, chán đông ưa Tây, không ra ngoài tâm vì thật có nguyện lớn kia, chắc chắn đức Phật đến tiếp dẫn nên cầu đều được toại nguyện. Nếu nói cõi nước trong mười phương là cảnh ngoài tâm thì đập thành hai phía, nên vừa động niệm liền trái pháp thể, liền mất diệu dụng, chẳng được tự tâm, dùng tánh sẳn đầy đủ của Phật trở thành không có lực dụng, nên tuy có cầu mà không được. Lại nữa, cái vọng tâm có là cái duyên ảnh hư vọng, lầm cho là ở trong sắc thân, không có cõi để sanh, chơn tâm dung chứa tất cả cõi nước, vốn sẳn có đủ y báo chánh báo cõi Cực lạc cầu đó liền được sanh. Vọng tâm bỏ ngoài chạy vào trong, chơn tâm tức ngoài là trong, trong không có ngoài nên cầu Phật quả hữu tướng tức cầu tự tâm. Vọng tâm chạy vào trong chẳng phải thật, nên cầu trong không có chủ thể chỉ duyên theo ảnh chẳng thấy tự tâm, vọng tâm chia tâm và cảnh rõ ràng còn chơn tâm chính tâm là cảnh; vọng tâm sanh diệt không chỗ y cứ, chơn tâm chẳng động chẳng lai; vọng tâm ở nhân không có quả trước sau sanh diệt; chơn tâm nhân quả nhất trí, tánh tu giao triệt. Nên biết từ chơn tâm mà cầu hoặc vọng tâm mà cầu rất là sai khác. Nếu luận cho hết thì dù trải qua số kiếp cũng không hết, càng luận thì như trời vực cách xa. Luận về thể thì chơn tâm tròn đủ thập hư, còn vọng tâm chỉ ở trong thân ngũ uẩn. Luận về dụng thì chơn tâm ngay vượt khỏi Ta bà, dứt hẳn sanh tử, còn vọng tâm mà cầu như lấy cát muốn nấu thàn`h cơm, trãi qua số kiếp khó thành. Vì thế, hành giả phát Bồ đề Tâm cầu sanh Tịnh độ, đâu nên chỉ cầu vọng tâm duyên ảnh của tự thân mà không cầu ông Phật thật ở Tây phương, thật là điều đáng thương? Như người muốn về Tây mà mặt cứ theo đông, muốn leo lên cao mà cứ khư khư ôm đá, vạch nước tìm lửa, moi lửa tìm nước làm sao có được!
Thương thay cho người đời nay, không biết chơn tâm trùm khắp cả chỗ, lấy sắc hiển thể vọng nhận duyên trần cảnh tự cho là bản tánh, đó là điều lầm lớn, như người nhận giặc làm con, tiền bạc trong nhà chắc bị tiêu diệt, người vọng nhận ảnh sự phân biệt mà cho là tâm cũng như thế! Nếu hoặc biết con là giặc thì giặc không làm hại được. Biết ý phân biệt là vọng thì vọng làm sao hại được mình, chỉ không nhận được nó là y chánh cõi Cực lạc thôi.
Pháp Trí Đại Sư dạy: "Sở dĩ có chỗ chỉ vọng tức là chơn hoặc nói quán tâm là quán Phật hoàn toàn không có ý bác thật cảnh y chánh cõi Cực lạc, vì sao đời này bọn tà kiến nổi dậy, bọn ma dấy động, phá diệt Phật pháp, đoạn hột giống Phật, vọng nói cõi Cực lạc ở trong tâm duyên ảnh của ta mà không chịu cầu sanh Tây phương, thật là điên đảo rất nhiều. Những kẻ phá hoại kia chưa nghe chánh pháp nên đem tà kiến này mật trao truyền cho nhau, làm người mê lầm, tuy khó tránh khỏi khổ báo địa ngục chẳng nói làm chi, còn chúng ta là những kẻ xuất gia đầu tròn áo vuông nếu đồng kiến giải với người mê lầm thật đáng thương tiếc, nếu thật vì sanh tử thì tà thuyết này là một điều trở ngại của người chướng nặng, ở trong pháp môn niệm Phật không thể tùy thuận được. Chúng ta cần xét kỹ biết rằng cảnh giới vọng tâm duyên ảnh là cảnh giới hư vọng không có thật thể, nếu không thật thể, thì tùy theo cái ngã mà có sanh diệt, liền vọng nhận cho là ngã, nên nói tâm này ở trong sắc thân ở trong thế giới ngày nay, nói thế giới này ở trong hư không. Tánh hư không này rộng lớn không lường, bao hàm các cõi nước như thế thì hư không lớn, cảnh giới thì nhỏ. Tâm thì yếu ớt ở trong thân, một niệm chuyển dời, không thể dấy động. Như thế đâu có thể dùng một niệm không thể của vọng tâm yếu ớt mà có thể cầu sanh về diệu cảnh cõi Cực lạc y chánh trang nghiêm được. Những việc không thể cầu mà cố gắng cầu, đâu chẳng là một điều mê lầm lớn lắm ư!
Biết rõ được nghĩa này thì biết tánh hư không rộng lớn vô biên, tuy không thể đo lường, nhưng nguồn gốc nó phát xuất từ trong đại giác thanh tịnh tâm của ta, như một mảnh mây điểm ở trong thái hư huống là cái thế giới ở trong hư không ư! huống là sắc thân ở trong thế giới ư! huống là vọng tâm ở trong sắc thân ư! Nên biết vọng tâm do thân nhỏ bé chấp cảnh giới do hư không to lớn tròn đủ nhưng dù nhỏ hay lớn cũng không ngoài bản tâm, nên biết chơn tâm của ta như hư không bao la, còn cái không của vọng thân như không trong lòng chén, tâm ta rộng lớn không bờ mé, trùm khắp 10 phương ba đời tất cả hư không, các cõi nước như vi trần, tất cả chúng sanh sắc thân đều do vọng niệm lại muốn cầu một pháp ở ngoài tâm trót không thể được, làm sao có thể nói Tây phương Cực lạc ở ngoài tâm ư! Dù tạo các thứ vọng tưởng điên đảo cũng không thể rời tâm mà cầu, huống là tịnh hạnh trang nghiêm, sinh về Cực lạc, thoát ly sanh tử mà có thể cầu ngoài tâm được sao?
Kinh nói: “Nhận ngộ trong mê, tối tăm làm không, cái không ở trong chỗ tối tăm kết tối làm sắc, sắc lộn với vọng tưởng, cái tướng của tưởng là thân, các duyên nhóm ở trong thì lay động, buông lung chạy bên ngoài tướng, tối tăm dùng làm tâm tánh, một khi đã mê thì tâm quyết định mê lầm vì trong sắc thân, không biết ngoài sắc thân cho đến núi sông đại địa đều không phải vật ngoài Diệu Minh Chơn Tâm. Ví như bỏ hết trăm ngàn biển lớn chỉ nhận có một hòn bọt biển coi đó là toàn bể cả tràn đầy diệu dụng, người ấy thật là một kẻ mê gắp bội, như nắm tay ta không có gì khác. Diệu Tâm Giác Minh trùm khắp cõi nước ở 10 phương, nuôi dưởng các quốc độ của các Như lai trong 10 phương, trang nghiêm thanh tịnh cõi Diệu Giác Vương. Hư không trong 10 phương sanh ở trong tâm ông như một phiến mây điểm giữa trời xanh, huống là các thế giới ở trong hư không ư”!
Đem nghĩa của đoạn kinh Lăng Nghiêm trên để quán sát thì cõi nước 10 phương hư không y báo chánh báo sắc và tâm ta đều có đủ. Ta nay quyết chí cầu sanh về cõi mà ta có, cầu thấy ông Phật sẳn có làm sao không thành công được, mà nói là cầu bên ngoài. Ta đã nguyện cầu tâm có thể cảm nên Phật kia vì ta mà hiển hiện chính là tự trong nhà ta vốn có Tâm và Phật hiển hiện. Tâm Phật đã chơn thật thì sao gọi là cầu bên ngoài. Nếu đã không cầu từ bên ngoài thì Đức Phật kia hiện ra, tức là tâm ta hiện ra, khi tâm ta hiện ra, thì Đức Phật kia cũng hiện ra, như thế tâm ta tức là tâm đức Phật kia, đức Phật kia tức là Phật của Tâm ta một thể không hai, vì tánh vốn viên dung. Vì sao có thể ông Phật cõi Tây phương Cực lạc trong tâm kia mà vọng chấp riêng có ông Phật Duy Tâm ư!
Có người lại hỏi: “Tuy là vọng tâm trong ấy cũng có đủ pháp y báo và chánh báo, hà tất bảo người cầu cảnh ở ngoài?”.
Đáp: “Vọng tâm dù có đủ tất cả pháp y và chánh đâu chẳng đủ Tây phương Cực lạc, nếu biết Tây phương Cực lạc là một thật cảnh như cõi Ta bà có thể cầu vì tâm có đủ. Nếu nói tâm chơn như này thì ngoài tâm không có cảnh thật, cảnh đây chỉ là hư tưởng của vọng tâm, làm sao có thật mà gọi là tâm có đầy đủ Tâm chánh là cảnh gọi là chơn tâm, tâm lìa cảnh gọi là vọng tâm, nên chơn vọng tuy đồng, chính sự ly cảnh mà có sai khác nên nói chính thì được, ly thì mất, chính (tức) phải ly quấy, ý chỉ ấy rõ ràng. Cũng như Pháp sư Thiếu Khương khi niệm Phật mỗi câu có một vị Phật từ miệng hiện ra, tiếp nối như vòng châu, vẫn còn đủ tướng, làm cho chúng trong hội niệm Phật đều được thấy. Phật đã có tướng thì cõi Phật làm sao không có thật. Nếu nói sự thì có, còn lý thì không, hoặc nói mỗi nơi đều là Tịnh độ, thật đáng thương thay! Hạng người này mê lầm sâu khó bỏ. Ngày xưa, Thiền Sư Nam Dương Quốc sư vì thiền khách đề cử công án "vô tình thuyết pháp", tuy không chuyên về chỉ thú Tịnh độ, nhưng cũng đau thương đời mạt hướng theo duyên ảnh mà cầu Phật, đủ để giải rõ”.
3. Quở trách việc hiểu lầm
Niệm Phật Tam Muội gọi là vua của các Tam muọi vì cảnh giới rất sâu xa, người trí kém khó hiểu được cứu kính. Từ xưa đến nay, các Đại sư truyền trao đều có chỗ chẳng đồng. Tông Thiên Thai diễn tả rất đầy đủ, Tông Hiền Thủ mỗi vị đều dẫn giải chỗ sở trường cho đến Thiền Tông của chúng ta càng hiển bày rành rõ. Chỉ vì kẻ hậu học căn cơ nhỏ hẹp, chưa được nẽo về, đã chẳng vào được cổng làm sao có thể vào thất, tìm cửa chưa được nên chỗ thấy nhiều đường, bèn đem Đại sư Lục Tổ của Thiền tông chỗ nói Tịnh độ ở trong Kinh Pháp Bảo Đàn, với ý thức mù mờ, tùy theo ngôn ngữ mà sanh dị giải, nói rằng không có Tịnh độ, chẳng cần cầu sanh; mà không biết rằng Đại sư của chúng ta, lời nói tùy theo kẻ đương cơ, thật nghĩa luôn luôn phù hợp với ý chỉ của kinh. Dù có theo lời ngài nói đi nữa ngài cũng đã dạy: "Tịnh độ không cầu sanh", lời đó rõ ràng không phủ nhận Tịnh độ. Tịnh độ đã có thì việc cầu sanh lý ấy đã rõ ràng. Vì sao những kẻ sơ cơ chấp ngón tay cho là mặt nguyệt. Nếu y theo lời nói của Đại sư: "Người mê niệm Phật cầu sanh về nước kia, người ngộ tự tịnh tâm mình. Lại nói: người phương Đông chỉ tâm tịnh tức vô tội, tuy người ở phương Tây tâm không tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh Tây phương, người Tây phương tạo tội cầu sanh nước nào? Kẻ phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết tịnh độ trong thân, nguyện đông nguyên tây, người ngộ ở chỗ nào cũng vậy. Lại nói: “Nói Tịnh độ gần hay xa chỉ tùy theo thiện căn của chúng sanh không đồng mà cõi Phật có gần có xa khác nhau." Ngài nói không cần cầu sanh, cốt yếu dạy chúng sanh vĩnh viễn dứt 10 điều ác, tám điều tà, tu đủ mười Thiện, bát Chánh. Lại chỉ chỗ chí diệu của tâm địa không lìa thân này, chỉ mê ngộ có khác. Nếu ngộ thì thường làm từ bi, hỷ xả, hay làm cho thân thiện chánh trực, bình đẳng, nếu được như vậy tức là Quan Âm, Thế Chí, Thích Ca, Di Đà. Nếu mê thì phân biệt nhân, ngã, tâm tà, hư vọng, trần lao khác nhau tức là cảnh núi Tu Di, biển nước, trời, rồng, quỷ, địa ngục.Nay hiểu rõ ý chỉ của Đại sư là chỉ tịnh thân mình thì theo đó ở chỗ nào cũng tịnh, thật cùng trên hội Duy Na chân Phật bấm xuống đất, biến cõi uế thành cõi tịnh. Tất cả đại chúng trong hội đều tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu, nghĩa ấy thật không hai. Vì thế kinh nói tùy theo tâm mình tịnh thì cõi Phật tịnh. Điều thuyết minh ấy đủ cho thấy lời bày giải của Đại sư, đâu chẳng hợp với tâm Phật, phù hợp hoàn toàn ý chỉ kinh điển. Chỉ vì các bậc Thánh nhân thuyết pháp có chỗ ngắn (giải) biểu hiện (biểu) chẳng đồng, người chưa đến địa vị ấy thì đừng dẫn những lời ngăn dạy mà tự dối mình. Huống chi trong Đại tạng giáo điển khi nói lời ngăn dạy thì tất cả đều chẳng phải (phi) cần gì cầu sanh. Hoặc khi nói biểu hiện thì tất cả đều phải (thị) cần phải cầu sanh. Hai điều thuyết pháp này đồng từ miệng Phật nói ra, nghĩa nó không hề sai khác. Đâu có thể thiên chấp lời nói ngăn dạy, liền bỏ lời nói biểu hiện ý nghĩa cầu sanh tịnh độ. Nếu quả thực Đại sư nói thẳng về độ, không cần bỏ uế lấy tịnh mà chỉ cần tịnh tâm mình thôi, thì ngài phải nói với mọi người chỉ có tâm tịnh mà thôi, không cần bảo người đoạn các nghiệp ác, tu các nghiệp lành làm gì? Nếu đã bảo mọi người dứt ác làm lành thì đối với độ phải bỏ uế (ác) lấy tịnh (thiện) nghĩa ấy thật rõ ràng. Cho nên khi Phật nói lời ngăn dạy chính là muốn hiển chỗ hiện bày cầu sanh Tịnh độ. Khi nói hiện bày chính là muốn từ chỗ ngăn dạy mà biết vô sanh.
Nên biết Đại Sư Tào Khê dạy người nhơn cảnh tâm mình trước tịnh thì báo cảnh tự tịnh chẳng phải cầu sanh là lời ngăn dạy. Còn Tổ Huệ Viễn ở Lô Sơn dạy người vào báo cảnh Tịnh của Phật thì nhơn của tâm tự tịnh, dạy cần phải cầu sanh là lời biểu hiện. Phật và Tổ thuyết pháp nhân quả không hai, chẳng trước chẳng sau, hai nghĩa chưa từng lìa nhau; tuy dạy người chỗ vào không đồng mà thể của pháp vốn một. Vì sao, người đời nay nghe lời ngăn dạy (giá thuyên) liền cho là phải, nghe nói lời biểu hiện (biểu thuyên) liền cho là quấy, tự sanh ra chứng ngại lui sụt, thật đáng thương. Không biết rằng đại Sư nói lời giá thuyên này, bảo không cần cầu sanh Tịnh độ chính là muốn hiển bày biểu thuyên dạy cầu sanh Tịnh độ vậy. Lại nữa như đức Thích Tôn một đời tuyên dương giáo lý, nói ra nhiều thời, nhiều bộ đều là một vị giải thoát. Nhưng trong khi thuyết pháp về hiển, phần nhiều khen ngợi về hiển giáo. Trong khi nói ý nghĩa của mật, đặc biệt ca ngợi mật giáo. Các tôn phái căn cứ vào tôn chỉ của mình mà nói riêng phần mình, nhưng Phật đâu có nói riêng chỗ mầu nhiệm, chỉ muốn hợp với căn cơ, làm cho chúng sanh nhận ra thọ trì được nhất chí không do dự. Thời nay nhằm thời tượng Pháp sau cùng, người phò tôn, học giáo đâu phải không chỗ hiển bày. Lục Tổ muốn hoằng dương nhất hạnh tam muội lý phải vượt hẳn các thừa, Tổ Huệ Viễn ở Lô Sơn muốn đơn dương niệm Phật Tam muội, làm cho học giả vượt ngang ba cõi chính là muốn nhiếp hết các cơ. Kẻ hậu học đâu nên vọng sanh thành hai thứ chấp, phải xét kỹ chỗ đó.
Ngài lại nói: "Người phương đông hoặc người phương tây nếu tâm tịnh thì không tội, tâm không tịnh thì có lỗi". Điều đó cho thấy người phương đông cảnh ác thô bạo, Phật đã diệt độ, khó làm cho tâm tịnh được, như những người ở thế tục, nhà lửa đốt cháy muôn lần, dù cố gắng tu cũng bị mất, cũng như hòn đá nhỏ bỏ vào nước liền chìm, nên phải cầu sanh về Tây phương, Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện tại, cảnh thù thắng, việc làm dễ dàng, như con đi lạc đã về Phật thân dạy bảo, như người xuất gia ở chùa, duyên lành đầy đủ, không bị thối chuyển. Nên sanh về cõi kia tâm tịnh không có lỗi, như viên đá lớn kia nhờ có thuyền vào nước không chìm. Lại nữa, Đông phương Tây phương lý vốn một thể, quốc độ của đức Phật kia, chẳng phải chỉ có cảnh trí thù thắng, mà quan trọng nhất là đức Phật đang hiện thuyết pháp có thể xoá trừ hết nẽo lầm, tội lỗi, tâm chắc được thanh tịnh, bậc Thánh có thể tiến lên, nên cần phải xa lìa cõi Ta bà, cầu sanh về Cực lạc. Nếu bậc căn khí thù thắng như đức Lục Tổ Tào Khê còn có thể vào trong bể khổ sinh tử, tìm tiếng kêu cứu khổ, giáo hoá chúng sanh, cần gì phải cầu sanh! Nếu người nào đạo lực chưa đủ, cố bắt chước bậc Tiên giác, tự mình không cầu vãng sanh và dạy người không cầu vãng sanh, chắc chắn như người cứu kẻ chết chìm, mà mình không biết bơi và không có thuyền bè thì cả hai đều chết đuối, thật chẳng đáng thương ư! Lại nữa, Đại sư của chúng ta là Tổ Đắc Pháp thứ sáu hoằng truyền Thiền Tông, lời nói đều hiển bày Thiền của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Như nói: "Tâm đã bình đẳng thì nhọc công trì giới làm gì, Hạnh đã ngay thẳng cần gì tu thiền". Nếu y theo lời nói đó rồi nói không cần trì giới, hoặc tu Thiền là sai. Họ đâu biết rằng, Tâm nếu bình đẳng đúng nghĩa thì ta đối với vật không có gì không bình đẳng. Nếu ta và vật bình đẳng thì đâu có thể giết nó để nuôi dưỡng mình, trộm của họ để lợi cho mình, chia tướng nam nữ để làm việc dâm dục, nói lời không chơn thật, uống rượu để làm cho mình say đắm mê muội. Tâm bình đã không có tướng phạm các giới này thì tất cả giới đều từ trong ấy. Đâu có thể hoàn toàn không cần trì giới mà đi cướp của, giết người, làm các tội ác mà nói là tâm bình được sao? Nên biết rằng, câu nói: "Tâm bình nhọc gì trì giới" chính là biểu bày hết đại giới.
Thiền là tiếng Phạn dịch từ Tịnh lự (sạch lo nghĩ) hay gọi chánh định hoặc gọi Nhất Hạnh Tam Muội. Đâu có người nói hạnh trực mà tâm họ lo nghĩ không yên, dù ở chỗ định cũng không ngay thẳng, việc làm không thống nhất. Nên biết câu nào cần tu thiền, chính là chỉ chỗ cao siêu của Thiền định. Nên biết Đại sư làm hạnh vượt hẳn trời người, ở trong thời tượng pháp, sợ kẻ hậu học chấp pháp làm ô nhiễm giới thể nên ở trong giới luật nói: "Không nhọc trì giới"; ở trong cảnh thiền nói: "Nhờ dụng tu thiền". Theo ý chỉ đó nên chỗ phải cầu sanh Tịnh độ mà nói không cầu sanh. Người học đời sau lại trở nên chấp trước mê lầm, nói thật chẳng cần cầu sanh là một điều rất ngu dốt, vì chỗ nói của đai Sư là khuyên ngược lại để người học nhận ra chỗ thật tế. Chỗ dạy của chư Tổ có khi nói thuận, có khi nói nghịch, đều là cách chỉ cho người ta cách tiến tu mà thôi. Nói thuận hay nghịch đều theo căn cơ đương thời, thật không có pháp thiệt. Như nói "gặp Phật giết Phật" chỉ là giết vọng tưởng hiện Phật, đâu phải giết Phật thiệt. Nếu lời nói giết Phật là thiệt thì Bồ Tát Văn Thù cầm kiếm cũng là giết Phật thật ư? Nếu người theo lời nói của cổ nhân mà không biết tâm của cổ nhân, nói không cần cầu sanh Tịnh độ cho là thật. Đó chính là những người đem thượng vị đề hồ quý báu ở trong đời cho là thuốc độc. Cho nên Đại sư nói lý viên diệu của Ba đề kia ở trong chỗ có sanh mà nói vô sanh, ở trong chỗ vô tu chứng kia mà nói có tu chứng, hai bên không đặng, trung đạo chẳng còn, làm cho pháp môn giáo thừa viên đốn tự nhiên hiện rõ. Như treo mặt nhật mặt nguyệt trên đường tối, ở đâu cũng chiếu sáng, nên nói Thiền tôn đối với chỉ thú của Niệm Phật Tam muội có chỗ còn chưa cùng tận. Vì thế Đạo Xước ở Hà Tây, Thiện Đạo ở Trường An, Tín Nguyên Thiền sư, Trí Giác, Từ Giác đều là những người nối nghiệp Thiền Tông, hoằng dương Tịnh Độ. Ngài Đạo Trân, Hoài Ngọc thực hành Tịnh độ và dạy người. Thiền Sư Viên Chiếu và các Thiền sư bạn bè tu Tịnh độ đều có chứng nghiệm lợi ích. Huống chi, trong Bách Trượng Thanh Quy có ghi, cầu an cho tăng bệnh phải tụng kinh Tịnh độ và niệm Phật, đưa vong Tăng Trà Tỳ, phải xưng Phật danh hiệu, chú nguyện vãng sanh. Các việc ấy còn chép trong Thanh Quy thiền đâu phải nói dối.
4. Nêu điểm chính của Quán Huệ Minh Tâm
Niệm Phật tam muội thật có khả năng đưa tất cả chúng sanh ra ngoài ba cõi, đường tắt vãng sanh về Cực lạc. Ban đầu đức Phật ở non Linh Thứu tuyên dương, kế đó ở Lô Sơn, Huệ Viễn Đại sư tiếp thưa nghi quỹ, mười phương khen ngợi, các tổ truyền trì. Từ xưa đến nay, Tổ của các Tôn hoằng dương Tịnh độ, chỗ nói không phải một, nên hàng hậu học khó thông suốt. Duy có pháp môn Tam quán của Thiên Thai Tông lý trùm các kinh, vượt hẳn ngôn luận tầm thường. Nếu người theo giáo pháp này mà được chỉ thú, thật lợi ích không thể nghĩ bàn, nên người hậu học nên lấy ba quán này làm thuyền bè để thẳng đến bờ kia.
Ba quán là một niệm tức không, tức giã, tức trung. Khi còn trụ thế, đức Như Lai khéo léo hiển bày, đến Trí Giả Đại sư mới hoàn toàn viên ngộ. Nên nói không thời tất cả đều không, giả thời tất cả đều giả, trung thời tất cả đều trung, cùng phá cùng lập, cùng chẳng phải phá lập, tròn đầy không có đối đải, khó nghĩ khó bàn, tóm huyền môn của các bộ (kinh) làm sáng tỏ cảnh trí của Phật và chúng sanh, tột cùng nguồn cội của muôn pháp, hiển pháp viên tu của Tịnh Tông. Niệm Phật tam muội nếu không có pháp môn Tam quán này thì có chỗ chưa tròn đủ.
Đại sư Tứ Minh phát minh diệu chỉ để dạy hàng hậu học, nay dùng lời ấy để cầu sanh Tịnh độ, trong không ngoài tiểu thiện của thế gian và việc quán tưởng kia, nếu không dùng pháp môn đại thừa viên diệu tam quán kia để giải thích áo chỉ của thập lục quán kinh làm cho người mở tỏ để phát khởi việc thực hành thì nhờ vào đâu mà được vãng sanh.
Thập lục Quán có quán trước tiên là Quán mặt trời lặn, quán này mục đích nêu lên cách quán đơn giản để đưa tưởng hướng về đức Phật kia. Người mới phát tâm thực hành tuy biết căn trần đều là pháp giới, nhưng tâm tưởng vẫn còn yếu kém, nên cảnh thù thắng khó hiện, cho nên, đức Như Lai lập ra phương tiện lạ, dùng mặt trời lặn làm cảnh tưởng, làm cho khi khởi quán mặt nhật có thể hiển được chỗ mầu nhiệm, biết rằng: Tâm năng tưởng này vốn đủ tất cả các pháp y báo và chánh báo. Nay dùng cái tâm quán mặt nhật này duyên theo mặt nhật ở trong chính tâm mình, làm cho bản tánh của mặt nhật hiện rõ ra trước mắt. Đây là dùng tâm pháp giới để duyên cảnh pháp giới, từ đó khởi ra mặt nhật pháp giới. Tất cả đều là pháp giới, thì đâu chẳng phải chính là không giả, trong đây chỉ chung cho đầy đủ, nếu luận ròng ba quán thành công phu nhật tưởng thì dùng căn và cảnh không tịch thì tâm nhật không trở ngại, dùng duyên khởi giả lập, nên tưởng liên tục làm mặt nhật sanh ra, dùng tâm nhật này đâu là pháp giới, nên đương thể hiện nhật quán liền thành, thì tam quán đồng ở chỗ nhất tâm, chẳng phải một chẳng phải ba mà là một mà ba, không thể nghĩ bàn, nhật quán như thế, các quán khác cũng vậy. Nên biết, 16 pháp quán đều dùng phương pháp tưởng tướng không giả trung của Nhất tâm tam quán. Kế đó, quán nước trong lại tưởng thành băng, bởi vì cõi kia lấy lưu ly làm đất, đất ấy khó tưởng, nên dạy tưởng băng, tưởng băng đã thành thì đất báu cõi kia có thể thấy được. Như trên dùng nhìn thấy mặt nhật và băng là dùng phương tiện, kế đó quán đất, quán cây, quán ao, trong 16 phép quán, 6 quán đầu là quán y báo cõi tịnh độ. Quán toà hoa là vật thân y của tam thánh. Quán Bảo tượng là chơn thể của tam thánh. Muốn quán Phật trước phải quán toà hoa, Phật thật khó quán, trước phải quán tượng. Từ quán toà đến tập quán thứ 13, bảy quán này đều là quán chánh báo của cõi Cực lạc. Còn 3 quán sau cùng nói rõ về người sanh về ba bậc chín phẩm của người từ cõi này sanh về cõi Cực lạc. Vì người tu nhân không đồng cho nên cảm quả có sai khác. Từ Ba quán này cũng để hành giả biết chỗ cao thấp của 3 phẩm để bỏ trung hạ mà tu tập bậc thượng phẩm để được sanh về bậc thượng.
Các pháp quán đều do kinh chỉ cảnh tướng, nhớ giữ trong lòng làm cảnh sở quán, nhưng nên biết rằng ở tâm ta vốn đủ pháp quán này, mượn cảnh để tưởng thành, phát minh ra tâm mắt. Nên Đề kinh nói: Phật nói kinh Quán Vô Lượng Thọ là chỉ thẳng cảnh sở quán của Phật này, chỉ chánh báo thu nhiếp y báo, thuật hóa chủ để bao gồm đồ chúng, quán tuy có 16, nói chữ Phật là gồm hết. Vì thế cần phải quán đức Phật kia. Muốn quán Phật kia trước phải quán sắc thân Phật kia to lớn như hư không, đoan nghiêm vi diệu, mỗi một phần của thân có 84.000 tướng, trong mỗi tướng có 84.000 vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp có 84.000 luồng ánh sáng, trong mỗi ánh sáng có nhiều bể thế giới. Trong bể thế giới kia có tất cả chư Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, Tăng chúng số nhiều như vi trần, rộng lớn không thể nói hết. Cần phải nhớ tưởng làm cho tâm mắt thấy, thấy được việc ấy rồi, liền thấy được 10 phương chư Phật, vì thấy được chư Phật nên gọi là niệm Phật tam muội. Làm quán này gọi là quán tất cả thân Phật, vì quán thân Phật nên cũng thấy được tâm Phật. Tâm Phật chính là đại từ bi, là vô duyên từ tiếp dẫn chúng sanh. Người quán pháp này thành tựu, khi bỏ báo thân, ở đời sau sanh ra trước Phật được vô sanh nhẫn.
Người quán Phật Vô Lượng Thọ phải từ một tướng hảo mà vào. Chỉ cần quán lông trắng ở giữa chân mày cho rõ ràng sáng suốt. Thấy được lông trắng ở giữa chân mày này, thì 84.000 tướng hảo tự nhiên hiện rõ. Thấy được Phật Vô Lượng Thọ là thấy được vô lượng chư Phật trong 10 phương. Được thấy vô lượng chư Phật nên được chư Phật hiện tiền thọ ký, đây là quán khắp tướng tất cả sắc thân. Nên biết 16 pháp diệu quán lấy quán tưởng Phật làm cốt yếu, nếu quán hết tám muôn tướng hảo thì rất khó thành, nên dạy quán tướng bạch hào ở giữa chân mày như 5 hòn núi Tu di, tưởng này nếu thành thì (8 muôn tướng 84 000 hảo đều hiện), đây là pháp quán cốt yếu vậy. Nếu tu các quán trước tâm được nhạy bén, quán đã rộng sâu thì có thể dùng bạch hào để quán, làm cho 8 muôn 4 ngàn đều hiện. Trong sớ nói: “Người mới hạ thủ chưa tu các pháp quán trước hoặc tuy tu quán mà chưa thành tựu, nên ở nơi thân Phật riêng chỉ một tướng cho kẻ mới phát tâm quán tưởng để được tam muội”.
Ngài Từ Vân Pháp sư chỉ dạy người tưởng Phật A Di Đà, thân cao một trượng sáu, ngồi trên hoa sen, chuyên buộc tâm vào hào quang trắng giữa chân mày. Hào quang này dài một trượng năm thước, châu vi năm tấc, ngoài có tám cạnh, bên trong rỗng xoay về bên hữu, ở giữa chân mày, sáng rỡ trong suốt, không thể nói hết, làm sáng chói gương mặt, thấy từng nét rõ ràng. Khi thực hiện pháp quán này phải dùng tâm, chú tưởng bền chắc không dời đổi. Tưởng này đã thành tựu thì tam muội hiện tiền. Nên trong Quán Phật Tam Muội kinh nói: "Nếu người hết lòng hộ niệm, ngồi ngay quán niệm sắc thân, nên biết tâm người ấy như tâm Phật, cùng Phật không khác, tuy ở chốn trần lao mà không bị các thứ trần lao che lấp, người làm quán này là người niệm Phật một cách chơn thật. Nên biết công đức quán Phật to lớn như thế". Lại nữa: Tướng hảo quang minh của Đức Thế Tôn kia vi diệu rộng lớn, chúng sanh tâm nhỏ hẹp, tưởng niệm khó thành, nên Phật dạy trước khi quán chơn thân, trước bảo quán tượng Phật ngồi trên toà, cần phải quán toà trước, khi quán toà đã thành rồi mới tưởng Phật. Kinh dạy: "Các Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng tất cả chúng sanh. Vì thế, các ông khi tâm tưởng Phật, tâm ấy có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Trong biển chánh biến tri của Chư Phật đều từ tâm tưởng sanh ra, cho nên phải một lòng hộ niệm quán chắc Phật kia."
Pháp giới thân là thân báo Phật pháp tánh, đầy đủ thỉ giác gọi là báo Phật, hiển bày rốt ráo bản giác gọi là thân pháp tánh, thỉ giác và bản giác không hợp nhau có thể khởi ra ứng dụng, nhưng chẳng phải là chỗ cảm của chúng sanh thì chư Phật đâu có thể ứng. Năng cảm như nước, năng ứng như mặt trời. Cho nên thỉ giác hợp với bản giác cũng như trời trưa không mây, nên có thể vào tịnh tưởng như ánh trăng hiện trăm sông có cảm có ứng, hai thứ này hợp nhau đây là nghĩa vào tâm tưởng chúng sanh vậy.
Lại nữa, Pháp giới thân là thân Phật, không có chỗ nào là không cùng khắp, nên lấy pháp giới làm thể, nếu có thể được quán Phật tam muội này thì tâm quán giải vào được bản thể của Phật. Bản thể của Phật vào tâm quán giải đây là thỉ giác hiển bản giác, nên bản giác lại vào thỉ giác. có giải có nhập, cả hai tương ưng, đây là vào trong tâm tưởng chúng sanh vậy. Nên biết tâm quán hôm nay chẳng phải ở nơi ấm tâm quán bản tánh Phật mà chỉ nhờ nói vị Phật khác để hiển bày bản tánh mình. Cho nên trước phải biết rõ Phật ứng nhập vào tâm tưởng của ta, kế đó phải biết rõ Phật toàn là bản giác nên ứng Phật hiển bày. Biết bản giác mình vốn sáng suốt thì việc nhờ ở bên ngoài nghĩa đó thành tựu, quán duy tâm được thành lập, hai nghĩa đều thành pháp quán này.
Trong kinh nói: Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Sỡ dĩ hôm nay chỉ cho quán Phật là làm sáng tỏ ý chỉ tu tánh. Nói làm Phật có 2 nghĩa: 1. Tâm tịnh có thể cảm ứng Phật ở phương khác, là nói pháp thân chư Phật không có sắc tướng, do chúng sanh tâm tịnh, y theo nghiệp thức mà huân tập pháp thân, nên có thể thấy sắc tướng thù thắng ứng hiện của Phật. 2. Tam muọi có thể thành quả Phật của chính mình, là nói chúng sanh dùng tâm thanh tịnh tưởng thành tựu quán Phật tam muội, nên có thể làm cho tự mình rốt ráo thành Phật quả. Trong hai nghĩa này, nghĩa trước làm tha Phật, nghĩa sau làm tự Phật. Nên biết, muốn chứng quả Phật không phải tự nhiên, mà phải thực hành toàn tánh thành tu mà được hiển bày ra không phải tánh đức tự nhiên là Phật. Nói là Phật cũng có 2 nghĩa:
1.Tâm là ứng Phật : Như trước đã nói, Phật vốn vô tướng, do tâm cảm nên có. Như thế, Tâm và Phật có không rõ ràng sai khác, nay bỏ kiến chấp này thì tâm của chúng sanh toàn là ứng Phật, nên lìa ngoài tâm này là không có Phật.
2.Tâm là quả Phật : Đã nói tâm là quả Phật nên biết không có nhơn thành Phật, vì trong tâm chúng sanh đã có Đức Như Lai ngồi kiết già trong ấy, đâu đợi tương lai mới thành quả Phật.
Trong hai nghĩa này trước nói ứng Phật, kế đó là quả Phật. Nên biết rằng quả Phật vốn đầy đủ, không phải nhờ duyên mà thành. Tức tác (làm) mà thị (là), toàn tu thành tánh hiển bày, chẳng phải tu đức nhơn duyên mà thành Phật. Nếu dùng làm, là để hiển bày ba quán thì không phá giả lập đều gọi là tác (làm) thuộc quán hai bên. Nếu phá chẳng lập ra gọi là thị (là) quả của Trung đạo. Hoàn toàn thị (là) mà tác (làm) thì ba đề đều phá đều lập. Toàn tác (làm) mà thị (là) thì ba đề đều chẳng phải phá lập, là không của trung giả danh tác (làm) thì có thể phá ba hoặc lập ba pháp, nên cảm ba thân ứng đủ ba thân, có thể thành tâm ta ba thân là quả, tức là trung của không giả, thì toàn cảm là trí, toàn chướng là đức, nên tâm là ứng Phật, tâm là quả Phật. Nên biết nghĩa của tác (làm) và thị (là) một lòng tu hành là ba quán không thể nghĩ bàn, vì tổng thể của 16 pháp quán là diệu tôn của một bộ kinh. Văn rút trong này nghĩa gắp sơ, hậu. Cho nên hành giả phải dùng ý này tu nhơn tịnh độ. Hoặc nói: Vì sao không y theo lời kinh nói, chỉ vì sự tưởng, sanh thẳng về Tịnh độ là hiển bày phương pháp Huệ quán, khiến người sơ tâm khó vào ư !
Đáp : Sự tướng quán huệ cho đến việc thiện nhỏ trong người, chỉ được nhất tâm đều có thể sanh về Tịnh độ. Chỉ thô và diệu chẳng đồng vậy. Thô thời chỉ có sự tưởng kia, diệu thời chuyên tâm. Quán Kinh sớ nói: “Bởi vì viên giải hoàn toàn khác với tiểu thừa, tiểu thừa mê muội duy tâm, Phật từ ngoài có vì vậy thể của tâm và Phật chẳng đồng. Hành giả tu Đại thừa biết nhất tâm ta có đủ tánh Phật, mượn cảnh tu quán, tướng Phật liền hiện bày. Nay quán y chánh Di Đà làm duyên huân vào tâm tánh. Tâm tánh đã đủ y chánh cõi Cực Lạc, do huân vào mà phát sanh, tâm vốn sẳn đủ mà sanh đâu lìa tâm tánh. Toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, trọn ngày quán tâm là trọn ngày quán Phật, ý chỉ đó thật rõ ràng.
Lại nữa, nên biết rõ thể pháp giới viên dung không thể nghĩ bàn, làm tâm nhất niệm của ta là dùng thể để làm chúng sanh, làm Phật, làm y báo, làm chánh báo, làm căn, làm cảnh, một tâm, một trần, đến một cực vi trần đều là pháp giới, toàn thể mà làm. Đã nói làm một pháp là làm toàn pháp giới. Nên lấy một phần là viên dung toàn phần pháp giới, đã toàn pháp giới thì có một vật nào mà không đủ, khắp tất cả chỗ, tất cả các pháp đều là Phật pháp. Nên biết chúng sanh là tánh đức của Phật, chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải nhơn, chẳng phải quả, chính là thể của bậc Viên thường Đại giác. Nên biết quả Phật là thể của viên minh, chúng ta là phàm phu sẳn đủ tánh đức, nên bốn tam muội gọi chung là niệm Phật tam muội. Nếu pháp quán này giữ thân ở cảnh y chánh cõi An dưỡng, dùng pháp quán vi diệu, chuyên niệm Di Đà, hiển thể chơn Phật, tuy giữ thân nơi cảnh ấy, nên biết y báo và chánh báo, đồng ở một tâm, tâm tánh cùng khắp, không pháp nào không tạo ra được, không có pháp nào chẳng đầy đủ. Nếu có một chút pháp nào từ ngoài tâm mà sanh thì không được gọi là quán pháp Đại thừa.
Trong kinh Nhơn Vương Bát Nhã nói : “Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: Ông dùng tướng gì mà quán Như Lai ? Nhà vua thưa: Quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy, không có mé trước, mé giữa, mé sau, không trụ ở ba mé, không lìa ba mé; không trụ ngũ uẩn, không lìa ngũ uẩn, không trụ tứ đại, không lìa tứ đại; không trụ sáu chỗ, không lìa sáu chỗ; không trụ ba cõi, không lìa ba cõi; cho đến không thấy nghe hiểu biết, tâm hành thì xứ diệt, ngôn ngữ nói ra thì dứt, đồng với các pháp tánh chơn tế. Con dùng tướng này để quán thân Như Lai. Phật dạy: Nên như thế mà quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán.” Ý nghĩa đoạn này đã minh chứng rõ ràng.
Hỏi: Nếu như trên đã nói vì sao không quán thẳng chỗ mầu nhiệm của chơn thân và cõi kia, sao trong Quán kinh dạy người trước phải quán tượng Phật làm chi?
Đáp: Giáo chủ cõi Ta Bà khen ngợi cõi Cực Lạc, muốn dụ dẫn chúng sanh ra khỏi năm trược, dạy quán pháp thân cao sáu mươi vạn ức na do tha do tuần mà trước dùng tượng báu đứng trên hoa là muốn khai phương tiện, dạy người quán từ thô đến diệu, kế đó dùng tượng cao một trượng tám thước là tùy theo bậc hạ phàm, dạy quán từ nhỏ đến lớn. Bởi vì quán tưởng thô và tế có khác nhau, nhưng đều từ tánh mà khởi tu, nhỏ lớn tuy hình có khác, nhưng đều từ gốc mà để lại dấu vết. Cái tánh năng quán trước không có sai khác, cái cảnh sở quán đâu cần so lường làm gì. Cho nên nói đến chỗ viên đốn, cần một tiếng là khắp đủ. Khai thị tuy có thứ lớp mà chẳng phải tiệm, tùy thuận theo căn khí mà không thiên lệch. Tất cả mở rộng môn quán, toàn bày thật tướng. Nguồn gốc của tượng giáo đâu chẳng phải từ đây mà ra, đây là chỉ thú chỉ thẳng niệm Phật tam muội, lời nói trước sau không hai, là Đạo của Đại thừa viên đốn, như mặt trời mặt trăng chiếu khắp thế gian, làm cho mọi người biết được tâm chơn và tâm vọng, tức là một mà không đồng mà lý đều gồm đủ. Có thể nói không cần rời việc làm hằng ngày mà giải hạnh, quán huệ đều đầy đủ, người muốn học sao không dốc hết tâm ý thực hành.
5. Niệm Phật Chánh quán trong Đạo tràng Tôn tượng.
Phàm Quán Huệ tam muội phải dùng chỉ thú của quán huệ này, hãy quán y báo và chánh báo cõi Cực Lạc kia, làm cho tâm thuần thục, tâm cảnh một lý, được sanh thẳng về cõi kia. Đạo tràng chánh quán vì thực hiện điều kia tuy đạt được ý chỉ của quán huệ, mà chỗ đối với sáu căn còn lưu giữ trần cảnh, nên có lúc thối chuyển. Vì thế, ở nơi Đạo tràng Thánh tượng, cho đến trang nghiêm đồ cúng dường liền cùng y báo chánh báo cõi Cực lạc một thể mà quán. Hành giả tuy chưa rời khỏi cõi Ta Bà, dùng tâm nhất quán này nên như đã sanh về Tịnh độ, lúc mạng sắp lâm chung chắc được cảm ứng.
Hành giả, khi sám hối hành sự thanh tịnh đạo tràng, trang nghiêm cúng cụ, cho đến một cây hương một cành hoa, đâu không phải là lý của ba đế kia, nếu không dung mọi sự đế lý này, chánh niệm quán sát, làm cho hạnh thù thắng có chỗ quy hướng, thì đối với đạo Đại thừa viên đốn không thể khai hiển, như quốc độ của đức Phật kia có vô lượng vật cụ trang nghiêm, đều từ đức Phật kia lúc mới tu Bồ tát hạnh, do thực hành mà lập ra, cõi kết quả hiện tiền, nên đồ trang nghiênm thắng diệu vô cùng. Ta nay quán quả mà biết nhơn, thì biết Đạo tràng tam muội mỗi thứ trang nghiêm, cùng nhơn quả Cực lạc kia không khác. Đâu chẳng cũng mỗi mỗi đều thành Đại Tam muội, hiển bày chỗ viên dung vi diệu của các pháp môn, như cõi Cực Lạc, không có sai khác, cũng tự mình và cõi kia trang nghiêm đầy đủ, là vi diệu thân tướng, thân tướng làm việc cúng dường chẳng phải đây, chẳng phải kia, chẳng phải một chẳng phải nhiều, y báo và chánh báo dung hợp với nhau hiển bày lý pháp giới, như các cõi Phật không thể nghĩ bàn, đâu có thể xem là đất gổ mà thành cảnh quán ư! Nên biết hoặc cảnh hoặc tâm, hoặc thân hoặc cõi đồng một thọ dụng tự tại vô ngại.
Kinh nói : Dùng ba la mật sanh ra tất cả lộng báu, đối với tất cả cảnh giới thanh tịnh hiểu rõ chỗ sanh ra tất cả hoa và tràng phang. Vô sanh pháp nhẫn sanh ra tất cả y phục. Nhập pháp kim cương tâm vô ngại sanh ra tất cả linh và lưới. Hiểu tất cả pháp tâm như huyển sanh ra tất cả hương kiên cố. Tâm trùm khắp cảnh giới Phật, tòa Như lai sanh ra tất cả các tòa báu. Cúng dường Phật tâm không giải đải sanh ra tất cả tràng phang báu. Hiểu các pháp như mộng, sanh tâm hoan hỷ, sanh ra tất cả cung điện báu nơi trụ xứ Phật. Không chấp thiện căn sanh ra tất cả mây bảo liên hoa. Dùng cách quán này thì biết cảnh y báo và chánh báo cõi Cực lạc, đây là nhơn hạnh của Như lai A Di Đà tạo thành, giờ đây cảm thành kết quả. Đạo tràng của chúng ta đây đã là nhơn Tịnh độ, tuy tốt xấu không đồng, như biển và vịnh hình thể không đồng mà nước biển đâu không đồng thể ư ! Do nghĩa này thì người ở trong đạo tràng, sáu căn đối với hương hoa, đèn đuốc, tràng phang bảo cái, tất cả đồ cúng dường, cho đến y phục, ngọa cụ, ăn uống y dược, các đồ thọ dụng, một sắc một hương và một vi trần đều là tam muội, đều là pháp môn, đều làm cho hành giả phát khởi chỗ diệu giải, giác ngộ tự tâm, chứng thánh. Tuy chưa nghe tiếng cũng có thể biểu hiện Đại pháp môn Niệm Phật tam muội, cũng tức là thân của tất cả chúng sanh và chư Phật, cảnh trí vô ngại, cũng có thể cùng ta đồng hành, làm bạn pháp chơn thật, hành giả dám khinh thị khiến không phát khởi diệu ngộ đều sanh về nước kia được chăng?
Kinh dạy: “Thiền định giữ tâm thường một duyên, trí huệ rõ cảnh đồng tam muội.” Nghĩa đó cũng như vậy, có thể dùng quán tưởng này thì căn và cảnh là một, nào lo gì ba nghiệp của ta không tu được. Như công cụ hành hình ở địa ngục là dao, gậy, kiếm, lửa, vì người kia trước tạo nhơn ác, sai sử hình cụ ấy, nên lay động làm rắn, làm chó, làm trùng, làm chim nhai xương, rút tủy làm các việc đau khổ cho người kia. Còn đạo tràng các đồ trang nghiêm mà không đồng nguồn với y báo chánh báo là pháp giải thoát cùng ta cùng thành tam muội hay sao? Lại nữa trang nghiêm đạo tràng hình tướng pháp cụ có thể khiến người phát tâm hiểu nghĩa mầu nhiệm giải thoát. Huống ta phụng thờ Tôn Tượng, cung kỉnh cúng dường hết lòng hết chí như cha như mẹ, đều không thể làm ta giải thoát, mau sanh về an dưỡng. Vã lại, tượng Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát hộ vệ đặt trong đạo tràng là làm chủ để hành giả đối thú sám hối. Còn các tượng khác là bạn, gọi chung là đồ trang nghiêm chánh báo. Còn các thứ trang nghiêm khác gọi là đồ trang nghiêm y báo. Như thế thời chủ bạn, y chánh ở Đạo tràng cùng y chánh cõi Cực lạc tuy thô diệu không đồng mà Tượng chủ có thần thông nguyện lực đồng với chơn thân Phật, nên lễ thì linh, cầu thì ứng, nào có sai khác gì? Đã không sai khác thì đối với tượng trong đạo tràng này đâu có thể chỉ thấy làm bằng cây gổ, keo, bột, vàng, đồng làm thành mà không làm pháp Quán tưởng đức Phật chơn thân có đầy đủ đại nguyện tướng hảo ở cõi Cực lạc phương Tây?
Nếu người đối với tượng trong đạo tràng mà không thấy được chơn thân vì tâm người ấy không nhất, tam muội khó thành, diệu ngộ chẳng sâu, mất rất nhiều lợi ích. Bởi vì tượng Phật mà ta thấy hôm nay cùng với chơn thân Phật kia không hai. Chỉ vì Phật A Di Đà lòng đại từ trùm khắp, nên không có hai thân, tùy theo căn cơ ứng hiện, hoặc thị hiện là chơn, là hóa, hoặc thị hiện là hình tượng. Ta vì nhãn chướng còn sâu, đối với một pháp chỗ thấy có vầy có khác, đối với chơn thân Phật mà gọi là tượng, thời biết tượng này đâu thật là tượng ư! Ví như trong Quán kinh nói về Phật tiếp dẫn ở tam bối, chín phẩm, tùy theo mỗi phẩm vị mà khi hiện đến từ cao đến thấp, mỗi phẩm đều không đồng. Nên biết, ta thấy hình tượng Phật thật đúng là căn cơ và chỗ dẹp chướng của chính chúng ta, đâu phải lòng từ bi của Phật không bình đẳng phổ biến, mà thị hiện với ta có tượng tốt xấu ư! Tuy chỗ thấy của chúng ta chẳng đồng, khi thấy chơn thân, khi thấy hóa Phật, nhưng chỉ có một thể A Di Đà Phật.
Trong kinh dạy: “Người sám hối nhãn chướng khi tạm mỏng thấy Phật ngồi rồi, trước tiên thấy được một vị Phật, hai vị Phật, khi chướng mỏng thêm, lần thấy Phật khắp cõi hư không. Nếu ta dùng tâm sám hối cầu sanh cùng lý tương ưng, trước thấy Phật tượng thân cao trượng sáu và hóa Phật, sau đó lần có thể thấy chơn thân Phật cao lớn vô lượng” .Như trên Hội Hoa Nghiêm, thân Phật chỉ có một mà Đại Bồ tát chúng thấy thân Phật là thân quảng đại vô lượng Thiên Quan Xá Na, hàng Tam thừa thấy Phật là thân lão Tỳ Kheo giáng sanh ở Vương Cung, những hàng phàm phu thì thấy Phật là thân do đất đắp hoặc cây điêu khắc mà thành. Nếu không phải như thế, vì sao trong Phổ Hiền Quán Kinh nói: “Chỉ sám nhãn tội mà được thấy Phật”. Nên biết, Phật vốn một thể, hoặc thân thật, hoặc thân tượng thật do chỗ thấy của ta tự có sai khác.
Ngày xưa có người con chí hiếu, mẹ mất, khắc gổ làm hình mẹ, thờ phụng sớm hôm, người mẹ bằng gổ này cũng có sắc như mẹ thật, sau này cô dâu ganh ghét lấy kim đâm vào tay mẹ, hình gổ rõ nước mắt. Người con hiếu ở thế gian còn cảm động đến trời, huống là đức Phật của chúng ta có vô lượng đại nguyện thần thông mà chơn bảo tượng không cảm ứng bằng mẹ gổ ư! Huống chi từ xưa đến nay tạo tượng linh nghiệm rất nhiều, hoặc phóng ánh sáng, hoặc hiển bày tướng tốt, cho đến thân sanh ra xá lợi, lửa đốt, nước ngâm không hư, truyện ký ghi lại nói không thể hết. Như vậy, tượng chủ đạo tràng chính là sắc thân chơn thật của Như Lai A Di Đà, mà ta bị nhiều chướng nên không thấy được gọi là tượng thôi. Dù rằng các tượng này là hình tượng đi nữa, hành giả cũng có thể ngồi ở trước tượng quán tưởng, từ hình tượng mà thấy được chơn thân, đâu chẳng phải là chỗ nhiệm mầu hiển bày đồng thể Phật! Kinh nói: “Thân Phật thanh tịnh, ở khắp tất cả chỗ”. Lại nói : “Tất cả các pháp đều là Phật pháp” đâu phải đặc biệt có tượng này không phải là Phật ư!
Hỏi: Lìa tất cả tướng gọi là Phật, thân Phật còn chẳng phải có hà huống hình tượng này cùng Phật đồng sao?
Đáp: Nếu có tướng là không phải Phật, đâu phải chỉ có hình tượng, dù là báo thân của đức Xá Na cũng chẳng phải là Phật. Nếu tất cả chẳng phải là Phật, thì tức tất cả là Phật thì có chỗ nào mà chẳng phải Phật. Nếu biết nghĩa này thì ngộ được, nay tôi cúng thờ tôn tượng là không lìa bổn nguyện, đủ thần lực lớn, có thể nhiếp, có thể thọ. Chỗ có tất cả thập lực, mười vô sở úy, 18 pháp bất cộng, đại từ đại bi, thường lạc ngã tịnh, tướng tốt sáng chói cùng với chơn thân Phật A Di Đà không sai khác. Hành giả ở trong ấy sám hối hành sự, như người nghèo được gần đế vương, thường ôm lòng lo sợ, mong được đoái thương giúp đỡ, khát ngưỡng mong được nhiếp thọ, mong được xa lìa cõi đời cơ hàn, mãi mãi được gần vua. Huống chi chúng ta đã nhiều đời nhiều kiếp lạc lõng bơ vơ mong trở về Từ Phụ, việc rất khó gặp nay đã tương phùng, đâu dám coi thường, làm cho hạnh thù thắng không tiến, tự mình tạo ra chướng nạn ư! Lại nữa, hành giả niệm Phật A Di Đà mong cầu xót thương gia hộ, đối trước thân tượng Phật, tưởng như gặp Phật thật, nhận tấm lòng thành sám hối, đã nhận sự sám hối của hành giả rồi thời tất cả tội nặng chắc được tiêu diệt, được sanh về Tịnh độ. Tâm người sám hối phát khởi vui mừng được thoát ly, như trời âm u chợt sáng, được pháp nhãn, cõi Cực lạc kia như ở trước mặt.. Nên biết nói về chơn thân Phật rất thậm thâm, hành giả chỉ nên hết lòng chí thành đối với hình tượng tưởng như Phật thật phát lồ sám hối, làm các Phật sự đều được cảm ứng hiện tiền, xin đừng sanh lòng nghi kỵ, hoặc hiểu sai lầm rất mong.
6. Dẹp bỏ chấp không tà kiến
Đức Thích Ca Như Lai một đời thuyết giáo, chánh giáo của Ngài đối với các pháp thiện ác quả báo, nhân duyên, trước sau không hề thay đổi, tuy có câu siêu thoát trăm phi, cũng đâu có câu nào lìa khỏi pháp nhân duyên. Thời nay, có một số người làm những việc đoạn thiện căn và tạo tội đơn đề cực ác, chỉ vì họ không biết Phật Tổ vì người mà phá chấp trừ nghi, dùng lời nói mở dây tháo gút, dựa vào đó, những người thối chuyển chấp trước kia, vọng nói rằng : Trừ ngoài tâm này ra, các hạnh đều không, không Phật không pháp, chẳng thiện chẳng ác, lầm nhận vọng thức cho là chơn, nói ngoài tâm này không có pháp nào có thể được, bèn bác không có nhân quả, chê trách tội phước, nói tất cả hình tượng Phật, Bồ tát chỉ là những thứ vàng bạc, đồng thiếc, đất đá, cây gổ. Tất cả tạng giáo cũng chỉ là một mớ võ tre, lá bối đều là thứ tạp nhạp, chẳng sạch. Giấy mực vốn là thứ không chơn thật, đâu đủ để y cứ. Đối với tất cả công đức làm lành đều phải quét sạch tất cả, gọi là chấp tướng.
Có một số người chuyên nói cái dở của người để khoe cái tốt của mình, hoặc theo cách tham thoại đầu nói rằng không được cố chấp, dạy mọi người phải trong ngoài rỗng không sạch sẽ, mới hoát nhiên đại ngộ, rồi cứ làm các việc ác, dâm nộ si mê và nói đối với đạo việc ấy không ngại, tự hại mình còn hại cả người, trong tâm nghĩ điều xằng bậy, thật chẳng dám nghe như con trùng trong thân sư tử, tự ăn thịt sư tử. Những kiến giải như thế có rất nhiều loại, chắc chắn đây là loại thiên ma ba tuần, hận xưa chưa tiêu, nên theo khuấy phá Phật pháp. Hôm nay, cùng hình xuất gia, mặc áo xuất gia, để đến phá hoại đạo pháp của ta, nên không thương tiếc, thật là rất đau buồn!
Nếu như người ấy chấp nói hình tượng chẳng phải Phật, không biết cái nào là Phật? Giấy mực chẳng phải kinh, không biết cái gì mới là kinh. Nếu tự tâm mình là Phật thì vật nào chẳng phải tâm mà riêng nói tượng thánh nhơn chẳng phải tâm, chẳng phải Phật ư! Nếu tâm đã là Phật thì có người nào không có tâm mà riêng nói tâm ông là Phật, lại dạy người chẳng phải tượng, chẳng phải kinh ư! Chẳng biết rằng tâm của chúng sanh toàn thể ở trong mê, cần phải mượn hình tượng thánh nhơn kinh pháp làm tiêu biểu hiển bày ra làm cho người có chỗ liễu ngộ. Nếu đã liễu ngộ thời biết chơn tâm của Phật và chúng sanh vốn bình đẳng trùm khắp tất cả chỗ. Kinh dạy: “Phật nói các pháp là không vì độ những người chấp có, nếu lại chấp không thì trái với ý giáo hóa của Phật. Thà nói có như núi Tu di, chớ nói không bằng hạt cải.” Dù những ngươi chứng được pháp không vẫn còn bị kẹt ở vị Tiểu thừa, đâu được như Đại thừa Bồ tát từ không vào có, chứng nơi tục và giả, đối với chúng sanh theo như Phật để độ sanh. Cho nên, không kiến tiểu thừa là chỗ chừa bỏ của Đại thừa Bồ tát. Phật dạy pháp Không chưa phải là chỗ liễu nghĩa. Lại nữa, Phật nói pháp Không là muốn hiển bày tánh không, vì tánh không là không lìa có nên gọi là chơn không. Ngày nay người nói không phải xa lìa có mới gọi là không, chấp không thành đoạn kiến, thật rất đáng lo sợ, như rơi vào giếng sâu nguy hiểm, rớt vào vĩnh viễn không ra khỏi. Vĩnh Gia Huyền Giác Thiền sư nói: “Bỏ có chấp không bệnh giống nhau, như sợ chết chìm chui vào lửa” chính là ý này. Ngày xưa, Tỳ Kheo Thiện Tinh vọng nói pháp Không, Tỳ Kheo Ni Bửu Liên Hoa riêng làm việc dâm dục, cả hai đều bị sanh vào địa ngục, đâu chẳng phải là cái gương để người đời sau noi theo. Người đời sau cần phải thấy xe trước ngả, xe sau tránh mới khỏi bị hại. Như người mù dẫn đàn mù thì Thầy và đệ tử tự chịu chìm đắm, thật đáng thương thay!
Lại nữa, nếu người con có hiếu nghe cha mình làm điều tội lỗi, vẫn nhớ đến ơn sanh thành dưỡng dục, vẫn không nhẫn tâm, huống chi chúng ta là con Phật, mang ân xuất thế mà đối với hình tượng Phật, với pháp Phật mà buông lung khinh chê, an nhiên chẳng sợ, thật là đau xót. Người ấy chắc bị vào địa ngục vô gián, trong những núi lửa lớn, mỗi người đều chịu lấy quả báo cho chỗ hiểu sai lầm ngày nay, đâu phải là lời nói dối ư! Dù như Ngài Đơn Hà, Đức Sơn đốt Phật gổ, ngài Văn Thù cầm kiếm bén gặp Phật giết Phật đi nữa cũng chỉ là nhất thời vì người phá chấp, hiển lý chơn thật, đâu phải dùng cách ấy để làm mẫu mực lưu truyền hậu thế sao? Ngày nay, chúng ta là bậc hậu sanh, chẳng hiểu phương tiện của người xưa, lại ăn lấy các thứ đờm dãi của họ, một hướng mê lầm nói phá điện Phật, đốt Phật gổ là thực hành đạo cứu kính, đây là điều điên đảo không thể chấp nhận, nếu tuân theo lời nói ấy chỉ cần đốt phá là đạo, thì ngày nay các trang Thích tử trong thiên hạ như Văn Thù mang kiếm bén theo mình có Phật giết Phật, không Phật phá tượng gọi là đạo thì không cần dùng truyền các pháp định huệ cũng được gọi là đạo ư!
Pháp Phật được truyền lại trong đời đều nhờ kinh tượng hình phục oai nghi, người tu thiện nương nhờ nơi pháp mà được, nếu nay đem bỏ hết đi thì Phật pháp làm sao còn lưu lại trong đời? Vì thế, trong kinh Phật dạy: Đối với kinh tượng mà không chí thành kỉnh trọng, còn mang đại tội, huống khinh hủy, tội nghịch ấy phải biết vô cùng to lớn. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có nói: “Đề Bà Đạt Đa khi xưa làm vị tiên A Tư Đà là Thầy của đức Thích Ca Mâu Ni, Đức Thích Ca kiếp ấy đã dùng thân mình làm giường tòa, phụng sự cúng dường. Nay đức Thích Ca đã đầy đủ hạnh lục độ, tướng tốt màu vàng, chứng tứ vô úy, bất cọng pháp, thần thông đủ đạo lực thành Phật độ chúng sanh, đều nhờ thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa này mà sớm thành tựu. Nay đức Thích Ca đã chứng qua, Đề Bà làm hại ngón chân út của Phật, còn không thoát khỏi cái khổ nhiều kiếp ở địa ngục, hà huống sau khi Phật diệt độ lại đem việc không tà dối nói đâu thể nào khỏi quả địa ngục được.
Lại nữa, Phật nói pháp không là vì muốn người tu biết được thể không mà dứt ác nghiệp, vì sao ta không biết được ý Phật, trở lại chấp không, lui sụt thiện tâm, đâu chẳng phải điên đảo lắm sao? Người ấy lại ở trong chỗ ác nghiệp nói ta vô ngại, không biết ở thiện pháp có ngại gì mà không chịu tu! Ngày xưa, có một Thiền sư đáp học giả cho rằng người đắc đạo không chi phối bởi luật nhơn quả còn bị năm trăm kiếp đọa làm thân chồn, không nhờ Thiền sư Bách Trượng không thể thoát kiếp chồn. Huống chi ngày nay vọng nói pháp Không, bác không có nhơn quả! Không sợ quả báo đời sau, thả ý nói dối, chẳng phải chỉ phá hủy kinh tượng, lại đem người ăn chay so sánh như trâu bò ăn cỏ, người nói pháp hư ngụy như thế tội nặng biết chừng nào? Họ đâu biết rằng hiểu biết bằng trí huệ như người có mắt sáng, hành đạo như người có chân khỏe, có mắt mà không chân, tuy thấy rõ mà không đến được; có chân mà không mắt nên có đi mà chẳng thấy đường, vì không thấy nên bị rơi vào hầm hố, đã không đi làm sao đến nơi Bảo sở. Đã không đến được Bảo sở, lại chạy theo thị phi, đã rơi vào hố hầm, thân mạng đều mất. Nên kinh nói: “Năm độ như mù, trí huệ là có mắt đi đúng đường, mù mà đi chắc rơi vào chỗ xấu, có mắt đi đúng đường chắc đến Bảo sở. Đâu nên nói những lời trái với ý kinh giáo mà có kết quả ư! Biết rằng giải và hạnh đều là chỗ cốt yếu của người tu dù người có hạnh mà không giải không bằng huệ giải là hàng đầu để hành đạo. Nếu có giải mà không hạnh thì Bồ Đề có thể phát khởi, có hạnh mà không giải, khó hội nhập vào viên thừa, nên biết đức Văn Thù giải sâu là Thầy của chư Phật, đức Pjhổ Hiền hạnh lớn làm cha của quần sanh, đâu có thể thiên lệch một bên mà tự chấp sao? Tổ Nam Nhạc của Thiền tông đã nói: giống như một vật thì không trúng, nhưng tu chứng thì không thể không, nhiễm ô thì không thể được. Đây là yếu chỉ để ngộ đạo nhập môn. Huống chi người thời nay tà kiến rất sâu thì làm sao mau thoát khỏi chỗ nguy hiểm cực khổ.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Người nói tự mình đã đầy đủ, bỗng nhiên khởi đại ngã mạn, trong tâm còn dám khinh các đức Như Lai trong mười phương hà huống các bậc thấp như Thanh Văn, Duyên Giác. Họ bỗng nhiên hướng về chỗ vĩnh viễn lặng lẽ, bác không có nhơn quả, một hướng nhập không, tâm không hiện tiền, liền hết lòng sanh trưởng sự hiểu biết đoạn diệt, không lễ tháp miếu, phá hủy kinh tượng, nói với đàn việt đây là vàng đồng, đất gổ, chẳng phải Phật, kinh là lá cây, thẻ tre, nhục thân ta là Phật thật, không tự cung kỉnh lại đi sùng bái cây đất, thật là điên đão. Những người tin theo, đập phá hình tượng, hủy hoại kinh điển làm nghi lầm chúng sanh, vào địa ngục vô gián, làm mất chánh thọ phải chịu khổ thân. Căn cứ vào lời dạy trong kinh thì biết đức Thế Tôn đối với người vọng nói pháp Không, chưa được nói được, chưa chứng nói chứng, đã dự biết người ấy sẽ bị đọa vào địa ngục, rõ ràng như vậy, người đời nay đâu thể trốn thoát lời Phật đã ghi ư!
Có người nói: Ông Đề Bà Đạt Đa kia vào địa ngục khổ ta đâu sợ gì, họ không biết rằng, Đề Bà Đạt Đa do tâm muốn chống đối với Phật, nên ở trong địa ngục không phải chỉ không khổ mà vui như ở vị tam thiền, nhưng vì thân khẩu ý chê Phật, nên ở trong địa ngục chịu đủ vô lượng thứ khổ. Đức Phật từ bi tha thứ thương xót trị bịnh cho y mà nghiệp quả hại Phật vẫn bị khổ vô lượng nơi địa ngục. Huống hồ ngày nay có người bắt chước, bảo người khác đối với kinh tượng không sanh lòng kính tin, coi như gổ đất, coi kinh như đống sách cũ. Đó là hạng không biết nhơn quả, không biết tội phước, trái lời Phật dạy, làm việc ngũ nghịch, những ác báo như thế làm sao cứu được.
7. Khai thị Thiền và Phật chẳng hai pháp.
Đức Thích Ca Như Lai dạy pháp môn niệm Phật bao trùm các căn cơ trong pháp giới, không sót một, thật cảnh giới đại nhơn này là Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền đã chứng, Tứ Minh tôn giả ở tông Thiên Thai đã phán pháp môn này với Hoa Nghiêm, Pháp Hoa đồng bộ vị thuộc đề hồ, trong Thiền tông đây là đạo đơn truyền trực chỉ. Vì thế, Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền sư đã làm tứ liệu giải, trong đó có đoạn nói: “Không Thiền có Tịnh, muôn tu muôn người được; đã gặp Phật Di Đà lo gì chẳng khai ngộ”. Thật đây là một con đường hướng thượng vậy. Vì sao ngày nay có người vì tính toan danh lợi không toại nguyện nên nghĩ ta giờ đây tất cả đều buông bỏ, tham thiền không phải là chỗ ta ước mong, chi bằng niệm Phật A Di Đà mong đời sau được độ, cứ như thế niệm Phật lơ là, chưa từng tỉnh ngộ, vã như chợt gặp điều đắc chí, liền làm vô lượng điều ác, y theo thói cũ mà làm, không ai cản được. Người niệm Phật như thế nào ích lợi gì! Cần phải giải rõ.
Có người cho rằng tham thiền tuy rất mầu nhiệm nhưng rất khó, như xây một lâu đài trăm tầng, niệm Phật thì thô sơ mà rất dễ như người làm một mái nhà tranh, chỗ thấy này thật sai lầm, ví như gặp lúc hạn hán đói khát, may gặp được trăm món đồ ngon của nhà vua chiêu đải mà nhận là bửa cơm rau, được châu như ý mà cho là mắt cá, thật đáng thương thay! Họ đâu biết rằng hai môn niệm Phật và tham thiền, chỗ khởi hành tuy khác, mà cùng nhau về nhà thì đồng. Vì sao nói chỗ khởi hành có khác. Vì người tham thiền, tự mình thực hành, không cần cầu Phật gia hộ, nếu tự mình không có đủ chánh tri kiến lại không gặp được người có chánh tri kiến giúp đở, dù không thối chuyển, phần nhiều lạc vào ma đạo, vì không có sức Phật cứu hộ. Nếu người niệm Phật, tất cả không niệm, duy niệm Phật A Di Đà, tuy không có chánh giải và Thầy bạn khai phát, chỉ cần tin chắc có thân Phật và cõi Phật, phát chí nguyện muốn về liền được vãng sanh, dù lòng còn nhỏ hẹp rồi cũng trở về với chánh pháp, vì có nguyện lực của Phật A Di Đà cứu hộ. Nên biết chỗ khởi hành có khác, chẳng phải pháp môn và vị chứng có sâu cạn khác nhau. Vì thế, tham thiền là niệm Phật, niệm Phật là tham thiền. Tham thiền không niệm Phật không được vãng sanh, niệm Phật không tham thiền không được quán huệ, nên niệm Phật và tham thiền đâu phải hai việc. Nếu hiểu được nghĩa này thì có thể đem những việc đắc chí như công danh giàu sang một đao có thể cắt đứt, dũng mãnh phát tâm lớn, thực hành theo đạo xuất thế. Đối với việc ở đời như tài sản, trân bửu, vợ con, đầu mắt, tủy não cho đến toàn thân mạng bố thí cũng không lẫn tiếc, quyết chí cầu sanh Cực Lạc. Đây là pháp môn tối thượng, đâu phải chỗ để cho kẻ thất chí thất thời nương vào, chỉ xây dựng nhà tranh, nhận ngọc như ý làm mắt cá, dùng tâm cẩu thả mà muốn tu pháp này thật đáng thương đáng tiếc.
Nếu người biết pháp môn Tịnh độ này là pháp thù thắng vô thượng cần phải từ đây về sau, buông bỏ trần duyên sanh ý tưởng vào thẳng Đại thừa bảo sở, quyết định niệm Phật lòng không lui sụt, như thuyền thuận dòng gặp gió xuôi, lại thêm chèo lái mạnh tốt chắc chắn sẽ mau đến đích, có gì may mắn bằng.
Hỏi : Nếu nói như thế tại sao trong sách Thiền có người đến hỏi : Thế nào là Phật? đáp : Que cứt khô, đáp : Ba cân gai, nếu lúc ấy ta thấy được sẽ đập cho chết đem cho chó ăn mới mong thiên hạ thái bình, cho đến gặp ma giết ma, gặp Phật giết Phật. Trái lại, người tu niệm Phật tam muội, tôn kỉnh luyến mến Phật tâm, luôn yêu mến khát ngưỡng như vậy việc hai tôn cùng ý chỉ đến nhà chung thì việc ấy có đồng không?
Đáp : Người niệm Phật vốn trì niệm cõi Cực Lạc ở phương Tây và báo thân Phật A Di Đà. Báo thân của Đức Phật này có vô lượng ánh sáng tướng tốt, hóa Phật, Bồ tát, Thanh văn, nguyện lực và công đức không thể nói hết, đây là thân Phật. Y báo cảnh giới của Phật có các thứ ao báu, đất báu, cây báu, tràng phang báu, lưới báu, đài báu, linh báu, hoa báu, nước báu, tất cả đều trang nghiêm thành cõi trân bão diệu hương.
Đức Phật kia lấy thân làm cõi, lấy cõi làm thân, thân cõi không ngại, tâm cảnh viên thông, hoặc kia hoặc đây đồng một thọ dụng, cho đến các pháp ngũ uẩn, thập nhị nhập, thập bát giới, thập nhị xứ thẳng đến Vô thượng Bồ đề, và nghĩa năng sát, sở sát tất cả thời, tất cả chỗ, không chướng không ngại, không trói buộc không giải thoát, ngang dọc nghịch thuận đều là sắc thân thanh tịnh của Phật A Di Đà. Vì sao? Vì tâm là cảnh, cảnh là tâm, thân là cõi, cõi là thân, chúng sanh là Phật, Phật là chúng sanh, đây là kia, kia là đây, các sắc xanh vàng trắng đỏ, các căn mắt tai mũi lưỡi, các pháp như thế, hoặc thân hoặc tâm, mọi thứ đều tự tại, đều giải thoát. Còn không phân biệt đối với dâm nộ si là phạm hạnh, trần lao là pháp lữ thì làm sao que cứt khô và ba cân gai không phải là Phật. Đây đã là Phật thì cần gì trên tịnh địa đặt nơi thị hiện giáng sanh, móc thịt vở ra để thành ghẻ, khởi tưởng độ sanh. Như đây rất tốt đập một gậy chết cho chó ăn, làm tỉnh được rất nhiều những người làm kiểu làm dáng, sáu năm khổ hạnh, hàng ma thuyết pháp, đối với các bình đẳng không sanh diệt mà xướng sanh diệt, múa men ngàn loại, khuấy động thế giới, não loạn tất cả, làm cho đất bằng nổi sóng chết người vô số, đâu không làm cho thiên hạ được thái bình ư! Đến trong ấy rất kỵ nhận lầm, không được khuấy động, khuấy động thì chắc bị ăn đòn. Nếu nói thuyết này là do đệ tử Tào Khê do giả gạo mà được thấy chỗ thâm diệu là người chưa từng được thấy, cần phải đánh gảy lưng lừa, họa may họ mới liễu ngộ. Ở đây, mục đích các ngài phá cả phàm tình và thánh giải, nếu biết que cứt khô là thấp thì Phật không phải là cao vì tất cả đều bình đẳng, vì chấp nên chẳng động vọng nói thiền và tịnh việc làm có khác nhau.
Hỏi: Nếu pháp môn Niệm Phật có những kỳ đặc, cùng với Thiền tông chỉ tâm thành Phật, Thiên Thai tông nói quán tâm quán Phật không có gì khác nhau, có thể nói đây là không ngoài một niệm mà hiển bày ba ngàn diệu pháp, làm ba quán rõ ràng không rời vạn pháp. Cứu kính của môn Chơn Như dùng nhất tâm hiểu rõ, thì làm sao những người độn căn đời sau tu hành cho được tương ưng?
Đáp: Chỉ cần bội trần hợp giác thực hành, đâu có lo gì chẳng thành tựu. Thí như một cái hang trống có tiếng đều đáp, tiếng lớn thì vang lớn, tiếng nhỏ thì vang nhỏ, tùy theo việc phát thanh kia đều theo đó mà có vang đáp lại. Chánh như ở cõi Cực Lạc ba hạng, chín bậc nhiếp thọ chúng sanh, cũng tùy theo căn ấy có lợi độn, cạn sâu, tà chánh, chậm mau mà hướng dẫn, đáng sanh phẩm nào thì phù hợp với căn cơ ấy. Như tiếng vang trong hang cao thấp đều có, nếu người siêng năng tinh tấn, chắc chắn có kết quả. Huống chi thời gian không có sau trước, lo gì người độn căn không kết quả. Theo nghĩa trên thì biết tất cả pháp môn là một pháp môn, một pháp môn là tất cả pháp môn, đâu đặc biệt chỉ có Thiền và Tịnh không hai mà nói chung một đời thuyết giáo của đức Thích Ca Mâu Ni không ngoài môn niệm Phật. Pháp môn này lượng nó rất rộng lớn, nhiếp hết tất cả căn cơ, không bỏ sót cơ nào, dù kẻ ngu người trí đều được lợi ích. Dám mong các bậc Hiền đời sau đối với pháp môn này đừng sanh dị kiến.
8. Pháp môn chiết nhiếp của hai cõi
Cõi Ta Bà và cõi Cực Lạc là pháp môn chiết nhiếp của chư Phật. Hành giả nghe cảnh y báo và chánh báo đã nói ở trước thì có thể theo y chỉ của kinh mà hiểu rõ cõi này thật là cõi khổ, cõi Cực Lạc kia là cõi thật vui. Tuy chúng ta đã nghe pháp môn quán huệ viên dung vi diệu, nhưng chúng ta phải thấy chắc hai cõi này nghiễm nhiên là cõi thật. Chẳng phải như những người có hiểu biết cạn cợt nói cõi Cực Lạc kia là do tâm, nên tâm có thì cõi kia có, tâm không thì cõi kia không, huyễn hóa như ánh sáng, như bóng chớp, hư vọng chẳng phải thật, biết rằng chỗ nào cũng là Tây phương Cực Lạc. Họ đâu biết rằng cõi Cực Lạc cũng như cõi này chính xác thật không thể lầm lẫn. Nếu người có đủ trí nhận xét như vậy thì tất cả những thứ thiên kiến, tà giải, ác thiện tri thức liền bị tiêu diệt, chánh quán hiện tiền, trên hai cõi khổ vui, tịnh uế, sanh hai thứ tâm làm phương tiện, nếu không có hai thứ tâm này, không thể sinh về cõi kia. Vì sao gọi hai thứ tâm?
1/ Tâm nhàm chán muốn xa lìa : Đối với cõi Ta Bà này sanh lòng nhàm chán, muốn xa lìa thời có thể tùy thuận theo lời dạy của Phật Thích Ca chỉ cho thấy cõi này là cõi khổ, đáng nhàm chán gọi là chiết (bẻ gảy) môn.
2/ Ưa vui : Đối với cõi Cực Lạc kia sanh lòng ưa muốn về thời có thể tùy thuận theo lời dạy của Phật A Di Đà chỉ cho thấy cõi Cực Lạc đáng vui, Phật luôn muốn tiếp dẫn về gọi là nhiếp môn. Dùng hai môn này tinh tấn tu hành thì niệm Phật tam muội chắc được thành tựu.
Vì sao gọi là chiết môn? Hành giả khi nghe cõi Cực Lạc thắng diệu được trang nghiêm ở trên, thời nên đúng lý mà quán sát thế giới Ta Bà này đều là khổ,không có chút gì gọi là vui như địa ngục tam đồ ngày đêm thiêu đốt, ngạ quỷ bàng sanh không thể nhận chịu, Tu la sân hận chiến đấu không chỗ nào yên, con người chịu vô vàn đau khổ, căn trần cùng 8 khổ hòa hợp, nhơn quả cùng bốn loài lên xuống, thời tiết thì có nóng lạnh, cảnh thì toàn bụi nhơ, ngày đêm suy tàn, vô thường không trụ. Lại nữa, thọ thân dơ bẫn, nam nữ khác hình, nhu cầu áo mặc cơm ăn, gian nan thô ác, thọ mạng ngắn ngủi, các khổ hợp nhau, dù có sanh ở cung trời, phước báo hết cũng quay về với cực khổ. Không biết rằng trong kiếp người vui tức là khổ, vì cười là nước mắt khô không lệ, kẻ thân thuộc chính là oan gia, điên đão chạy rong, không tìm đường thoát. Từ tạo nghiệp đến tạo nghiệp, các khổ như thế không thể kể xiết nên phải xa lìa.
Vì sao gọi là nhiếp môn ? Hành giả nghe nói Ta Bà thật khổ như thế, thì đối với cõi Tây phương Cực lạc kia sanh lòng vui ưa lớn. Cõi Cực Lạc có đất báu, ao báu, không ba đường dữ, trang nghiêm thù thắng vượt qua các cõi Tịnh độ ở mười phương, ngày đêm nóng lạnh không có, không kết nghiệp sanh già bệnh chết, thuần nam không nữ, hoa sen hóa sanh, ăn mặc tự nhiên, đều được pháp hỷ, thọ mạng vô lượng, thân có hào quang vô cùng, nghe pháp âm thì niệm Tam bảo, biết chỗ về nhà, thấy tướng hảo trong sát na liền ngộ đạo, các thứ khoái lạc vô lượng nên gọi là Cực Lạc, nên phải ưa thích. Nếu có thể ở trong hai môn này tinh tấn tu tập, ngày đêm không gián đoạn là tùy thuận theo giáo lý đạo Phật, đối với cõi này các cảnh thanh sắc đều tưởng địa ngục, tưởng biển khổ, tưởng nhà lửa. Đối các vật báu sanh tưởng dụng cụ tạo khổ, ăn uống y phục, tưởng như ghẻ lở da sắt. Đối với quyến thuộc tưởng như gặp dạ xoa, la sát ăn thịt người. Huống nữa việc sanh tử chẳng dừng nhiều kiếp luân chuyển thật đáng nhàm chán muốn xa lìa.
Đối với các bậc thiện tri thức hoặc đọc kinh điển nghe nói nguyện lực của đức Phật kia, quốc độ trang nghiêm, ở trong mỗi niệm, ưa thích chỗ kia, sanh tưởng yên ổn, sanh tưởng đến bảo sở, tưởng trở lại quê cũ, tưởng đến chỗ giải thoát, tưởng Như Lai A Di Đà, chư Bồ tát, tăng chúng như cha lành, mẹ hiền, sanh tưởng được tiếp dẫn, sanh tưởng được đến bến bờ. Trong khi lo sợ nạn gấp, xưng danh hiệu liền được ứng nghiệm, công không mất, trong sát na liền đến cứu hộ nên nhớ tưởng xa lìa, như thế công đức vô lượng thật đáng ưa thích. Đối với chiết môn này không thể tu hành, nhàm chán không nhiều thì nghiệp buộc ràng ở cõi Ta Bà khó thoát. Nếu đối với nhiếp môn kia không thể tu hành, lòng ưa thích không tha thiết thì thắng cảnh Cực lạc khó về. Vì thế, hành giả muốn sanh Tịnh độ, thành tựu niệm Phật tam muộn phải tu đủ hai môn làm bước đầu phát khởi thực hành. Nếu không tu hai môn này dù hiểu rõ ý chỉ quán huệ cũng thành hư giả, dù muốn sanh về cõi kia, không dùng hân (ưa) và yểm (chán) thì không do đâu mà thành tựu. Nếu gắng tu hai môn ưa chán này mà không biết ý chỉ quán huệ, tuy có thể sanh về cõi kia chỉ được sự tưởng, địa vị không thuộc bậc thượng, nếu có tâm ưa chán mà tu quán huệ đã chắc sanh mà vào ngay bậc thượng. Các bậc học giả không thể coi hai môn này là chấp tướng mà dám khinh lờn ư!
Có người hỏi: vì sao không buông bỏ các duyên, một niệm muôn năm làm cho tâm và lý hợp, cảnh và thần dung thông, tự nhiên hợp đạo cần gì ưa chán, lấy bỏ cho là cao diệu ư!
Đáp: Nếu nói buông bỏ các duyên là đạo, chỉ khởi niệm một tâm buông bỏ thì không gọi là buông bỏ, cùng với đạo trái ngược rất xa, thuộc về đoạn kiến của ngoại đạo. Nên ngài Nga Hồ nói: "Đừng chỉ quên hình cùng tử tâm, việc ấy khó chửa bệnh rất nhiều." Lại nói: "nếu lại lặng lẽ giống như ngu, biết ông chưa hiểu đến công phu". Trong 18 pháp Phật bất công có tinh tấn không giảm bớt, trong sáu pháp ba la mật nhờ có tinh tấn mà được thành mãn. Vã lại buông bỏ là buông bỏ nghiệp duyên thế gian đâu có thể buông bỏ tinh tấn thể đạo. Cổ nhơn nói: Ngồi ở trong chỗ vô tích sự chính là hạng người này. Nếu buông bỏ tự do là đạo mà không cần thân tinh tấn nhất tâm tu hành, làm sao được tâm hợp cảnh dung thông, đập thành một miếng để cùng với đạo hợp. Nếu biết không buông bỏ là buông bỏ thì rõ ràng ưa chán, lấy bỏ, tức là không ưa chán, lấy bỏ, tu là không tu, niệm là không niệm, đó gọi là vô công dụng hạnh, cũng gọi là diệu tâm vô tác, đâu có khó gì chứng được lý trung đạo. Lại nữa, tu thì lìa đoạn kiến, không tu thì lìa thường kiến. Đoạn kiến và thường kiến đã xa lìa thì khác chỗ hỏi mà thẳng sanh về thế giới an lạc, cùng tu với hai vị Đại sĩ, cùng gặp Phật A Di Đà hằng ngày thì có pháp gì mà không thể hỏi, có hạnh gì mà không thể học, nghi gì mà không trừ, chỗ mong cầu gì mà không được. Đã được vị vô thối chuyển thì hạnh ưa chán này đâu chẳng phải là đại nhơn hạnh thành vô thượng chánh đẳng chánh giác ư!
II. Phát nguyện môn
9. Khuyên tu
Hai cõi tịnh và uế đồng ở trong một tâm, chúng sanh và Phật một lý, các pháp vốn bình đăng cần gì mượn lời để khuyên tu. Chỉ vì tâm chúng sanh mê nên tạo ra cảnh, tịnh và uế từ đó phân chia, đối đải mà thành, nên bị trói buộc và giải thoát có khác, nhiều kiếp xuống lên chẳng hay chẳng biết, nên cần khuyên chúng sanh ở biển khổ cõi Ta bà, cầu sanh về thế giới Cực lạc ở phương Tây. Hành giả đã nghe rõ hai thứ pháp môn ưa chán ở trên thì biết rõ hai cõi tịnh uế, khổ vui chơn thật không lầm, nên phải phát nguyện cầu sanh, như người nông dân biết làm ruộng sẽ có cơm ăn, tự mình gắng làm, không ai ngăn được. Người nông dân chỉ nghĩ đến đói lạnh cho một năm sau, còn cày sâu cuốc bẩm, chăm chỉ sớm hôm cả năm không biết mệt mõi. Huống hành giả tu tam muội kia nếu một niệm được tinh cần thì có thể khỏi được cái khổ nhiều kiếp ở cõi Ta Bà, lên chín phẩm cõi Cực lạc thì an ổn vô lượng kiếp cho đến thành Phật. Đâu phải chỉ một năm vất vả chăm làm mới được một năm no ấm. Đem so sánh thì chỗ hơn kém thấy rõ ràng, nên đâu cần có người khuyên mới chịu thực hành.
Trước đã chỉ hành giả hai môn chiết nhiếp, ý chỉ đó đã rõ rồi, ta biết cái nào là vàng ngọc, cái nào là đất đá, tuy trẻ con lên ba cũng biết bỏ đá lấy vàng, chẳng cần khuyên mà nó cũng biết chọn lựa cái nào là tốt đáng quý, cái nào xấu đáng bỏ. Hành giả tu tịnh độ cũng vậy, đã hiểu rõ cõi này là khổ, cõi kia là vui, cõi này là đắm chìm trong sanh tử, cõi kia là tự tại giải thoát, chắc chắn sẽ bỏ cõi uế này mà cầu sanh về tịnh độ, tự nhiên mỗi niệm không dừng, mỗi tâm chẳng dứt, như cứu lửa cháy đầu, nghe dạy niệm Phật thì làm liền đâu cần chỗ khuyên bảo. Hai cõi khổ và vui là chính từ kim khẩu Phật nói ra, tin chắc không nghi, người tu theo sẽ tự mình chứng được. Ở đời, người thấy phân thối liền bịt mũi, nhăn mày, chê nó hôi thối muốn mau đi khỏi chỗ ấy; người thấy áo gấm lụa là, nước hoa trang sức chắc mĩm cười nở mặt, ham điều tốt đẹp thơm tho muốn mau có được. Tất cả cái đó là cảnh huyễn tốt xấu tạm thời còn không thể không ưa ghét. Huống chi nhiều kiếp ở chỗ rất khổ hoặc rất vui mà không mau sanh lòng ưa chán. Nếu người không có tâm ưa chán này thật là người bị nghiệp hoặc quá sâu hoặc quá ngu si thật đáng thương xót.
Lại nữa, Thế giới Ta Bà này Đức Thích Ca đã tịch diệt, Phật Di Lặc chưa sanh, hiền thánh đều ẩn dấu, tất cả chúng sanh dong ruỗi trôi dạt trong biển khổ như đứa trẻ mất cha, nếu không lấy nguyện vương cõi Cực lạc làm chỗ trở về thì nhờ ai cứu hộ. Huống chi cõi này sáu nẽo xuống lên, trời người tuy khá hơn các đạo khác nhưng phước báo đã hết liền bị đọa. Nay nói từ loài người tu theo chìu dọc mà luận, các hạng thần tiên chưa rời chỗ không còn không thể đến huống là cõi trời ư! Những người sanh về cõi trời tu nhơn ba phẩm mười thiện sanh và ba cấp của cõi trời, từ thấp đến cao, đều trải qua nhiều kiếp, không được như ý muốn, thành tựu thì ít mà thất bại thì nhiều như giọt nước đối với đại dương. Trong lúc tu ấy hoặc gặp bọn ma tà ác, vĩnh viễn lui sụt, đâu dám nói ra khỏi ba cõi mà mong được lên địa vị tứ quả Thanh văn. Huống chi nói đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa mà mong tiến đến được ư! Nếu người có thể tu pháp môn niệm Phật này cầu sanh về Tịnh độ, tuy còn ở địa vị phàm phu, chưa ra khỏi sanh tử, liền được gieo nhơn, vượt ngang ra khỏi năm đường trong ba cõi, vượt khỏi các loài, nhờ Phật tiếp dẫn, liền sanh về cõi an dưỡng, ở nơi ấy gởi thân trong 9 phẩm, hoa nở thấy Phật, nghe pháp ngộ đạo, không rời đương niệm, bước thẳng mười phương cúng dường tất cả Tam Bảo, giáo hóa tất cả chúng sanh. Khi đức Thế Tôn Di Lặc hạ sanh cõi này, trở lại Ta Bà, cùng Phật hoằng truyền từ bi, dù có nhiều kiếp cha mẹ, vợ con, anh em, tỷ muội, các cảnh oán thân, đều dạy bảo vào đạo, chỉ cho thấy nhơn nhiều kiếp lâu xa đều làm cho được chứng quả, thực hành hạnh nguyện như thế đâu không phải là hạnh nguyện rộng lớn ư!
Người niệm cầu sanh Tịnh độ, ba chướng và tất cả kiếp nghiệp ở cõi Ta bà này cũng không làm liên lụy họ. Công đức như thế, nếu một niệm tu bèn thuộc đời sau đâu nên trì hoản. Huống nữa việc đời có muôn mối ràng buộc, kiếp người có vạn duyên náo loạn như khoá, như câu, trói buộc liên tục không bao giờ dứt. Tâm thì mỗi niệm chẳng dừng, thân thì biến chuyển không thôi, dẫn ta xuống lên, chướng ngại bản tánh của ta, nhiều kiếp đến nay chưa từng ngừng nghỉ, vô thường biến đổi, không thể giữ lâu, dù mạng có sống trăm năm, so với dòng thời gian thì nhanh hơn khảy móng tay, ngày lại ngày qua khó bảo toàn mạng sống. Chợt vừa nhắm mắt, phút chốc đã qua đời sau, cứ theo nhơn tạo nghiệp mà chịu hành hình theo loại, mang lông, đội sừng, bò dưới đất, bay trên không, kiến giải ngày nay đều tiêu, thoát đã vào ba đường sáu nẽo, nổi trôi nhiều kiếp, chẳng biết đường về, đáng gọi là điều khổ lớn. Dù đến đức Phật Di Lặc ra đời, mà ta sanh chỗ nào chưa biết, người bị đọa còn không nghe được tên cha mẹ và Tam bảo, hà huống được luận bàn kinh giáo. Tuy chịu nhiều thân khác nhau, nhưng lòng ái tiếc sâu nặng, từ nghiệp đến nghiệp, ở chỗ tối vào chỗ tối hơn, sợ chết tham sống, không khác ngày nay.
Người tu Tịnh độ không nên chần chừ lần lựa qua ngày. Vì thân người khó được Tịnh độ khó nghe và khó tin, nay chúng ta đã được nghe và tin là phúc duyên đã gieo trồng nhiều đời mới gặp. Do đó, hành giả nghe xong phải noi theo chí trượng phu của các bậc tiên giác, dũng mãnh phát khởi tâm đại bồ đề, lập chí quyết định, đem hết sức lực, một đao cắt hết vọng tưởng trần lao, nhảy một bước ra khỏi rừng tà kiến, mở hết hai đầu, buông bỏ tất cả, mới có thể hoàn thành tịnh nguyện, hoà quang động cả trời người, mọi loài nhờ ơn chư Phật hộ niệm, đóng ba đường ác, mở môn Tổng Trì. Được như thế, không cần đợi báo thân mãn ở cõi Ta Bà mà đã được vãng sanh về cõi Cực lạc rồi vậy.
Có người lòng tin không chắc, miệng nói Ta bà cõi khổ đáng chán mà lòng vẫn đam mê lần lựa qua ngày, nói tôi cần đợi xứ sở này yên ổn, ăn mặc đầy đủ, mọi việc phải vừa ý, lo trước tính sau, coi xem ngày giờ tốt mới phát tâm, dẹp hết ân oán mới thành tựu việc làm rồi mới phát khởi tâm niệm Phật. Người như thế giả sử thế giới hư không có cùng tận thật cũng không có ngày mà họ chờ đợi vì vọng tưởng vô bờ, lòng tham không đáy làm sao dứt được. Đó là do không tin hai môn chiết nhiếp của đức Như Lai nên khi trời khô ráo không đi, đợi mưa phủ kín đầu mới toan trón ướt thật là vô lý.
Nên cổ đức thường nói:
"Ngày nay đi được mau quay bước
Đừng đợi ngày mai chẳng lối đi"

« Kinh này có tổng cộng 2 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Học Phật Đúng Pháp


Phúc trình A/5630


Em Là Vì Sao Sáng


Đừng bận tâm chuyện vặt

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.143.237.54 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập