Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [ Trang chủ ]
|
Thứ Năm Bấy giờ Phật bảo Văn Thù Sư Lợi đến thăm bệnh, Văn Thù bạch Phật rằng: -Thế
Tôn! Bậc Thượng Nhơn kia khó bề đối đáp, vì Ngài thấu
đạt thật tướng, khéo thuyết pháp yếu, trí huệ biện tài
vô ngại, biết hết tất cả lối tu của Bồ Tát, thâm nhập
bí tạng của chư Phật, du hí thần thông, hàng phục ma chúng,
trí huệ phương tiện đều đã viên mãn. Tuy thế, con xin vâng
thánh chỉ đến thăm bệnh Ngài. Lúc
ấy các Bồ Tát, đại đệ tử và Thích Phạm tứ thiên vương
trong chúng đều nghĩ rằng: "-Nay
hai đại sĩ Văn Thù và Duy Ma Cật gặp nhau, ắt sẽ thuyết
diệu pháp." Tức thì tám ngàn vị Bồ Tát, năm trăm Thanh Văn
và trăm ngàn trời người đều muốn đi theo. Bấy
giờ, Văn Thù cùng các vị Bồ Tát đại đệ tử và trời
người cung kính cùng nhau vào thành Tỳ Da Ly. Lúc
ấy Duy Ma Cật biết Văn Thù cùng đại chúng đến, liền dùng
thần lực dời đi tất cả đồ đạc và thị giả, trong phòng
rỗng không, chỉ còn một giường để nằm bệnh. Văn Thù
vừa bước vào nhà thì Duy Ma Cật liền nói: -Khéo
đến Văn Thù! Tướng chẳng đến mà đến, tướng chẳng
thấy mà thấy. Văn
Thù nói: -Ðúng
thế, cư sĩ! Nếu đến rồi thì chẳng đến nữa, nếu đi
rồi thì chẳng đi nữa. Tại sao? Nói đến thì chẳng từ
đâu đến, nói đi thì chẳng đi về đâu, chỗ được thấy
chẳng còn thấy nữa. Hãy tạm bỏ qua việc này, nay bệnh
của cư sĩ dễ chịu không? Ðiều trị có bớt mà chẳng thêm
không? Thế Tôn gởi lời vô lượng ân cần để hỏi thăm
cư sĩ. Bệnh do đâu mà khởi? Ðã bao lâu rồi? Làm sao mới
khỏi được? Duy
Ma Cật nói: -Từ
Si có Ái thì bệnh Ngã sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh nên
tôi bệnh, nếu tất cả chúng sanh chẳng bệnh thì tôi khỏi
bệnh. Tại sao? Bồ Tát vì độ chúng sanh nên vào sanh tử,
có sanh tử thì có bệnh. Nếu chúng sanh được lìa bệnh thì
Bồ Tát chẳng còn bệnh. Ví như trưởng giả chỉ có một
đứa con, con bệnh thì cha mẹ cũng bệnh, nếu con lành bệnh
thì cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng như thế, đối với chúng
sanh thương mến như con ruột, nếu chúng sanh bệnh thì Bồ
Tát bệnh, chúng sanh lành bệnh thì Bồ Tát cũng lành. Còn
nói về bệnh này do đâu mà khởi, bệnh của Bồ Tát do Ðại
Bi khởi. Văn
Thù hỏi: -Phòng
của cư sĩ sao rỗng không chẳng có thị giả? -Duy
Ma Cật nói: -Các
cõi Phật đều rỗng không. -Lấy
gì làm Không? -Lấy
Không làm không. -Không
đâu cần không? -Vì
chẳng phân biệt nơi Không nên không. -Không
có thể phân biệt ư? -Phân
biệt cũng không. -Cái
Không ấy nên cầu ở nơi nào? -Nên
cầu nơi sáu mươi hai kiến chấp. -Sáu
mươi hai kiến chấp nên cầu ở nơi nào? -Nên
cầu nơi giải thoát của chư Phật. -Giải
thoát của chư Phật nên cầu ở nơi nào? -Nên
cầu nơi tâm hạnh của chúng sanh. Về câu hỏi: Sao chẳng
có thị giả? Tất cả ma chúng và ngoại đạo đều là thị
giả của tôi. Tại sao? Bọn ma ham sự sanh tử, Bồ Tát ở
nơi sanh tử mà chẳng bỏ; ngoại đạo ham sự tri kiến, Bồ
Tát ở nơi tri kiến mà chẳng động. Văn
Thù lại hỏi: -Tướng
bệnh của cư sĩ như thế nào? Duy
Ma Cật đáp: -Bệnh
tôi vô hình chẳng thể trông thấy. -Bệnh
này hợp với thân hay hợp với tâm? -Chẳng
hợp với thân vì vốn lìa tướng thân; cũng chẳng hợp với
tâm vì tâm như huyễn hóa. -Trong
tứ đại thì đại nào là bệnh? -Bệnh
này chẳng phải địa đại, cũng chẳng lìa địa đại. Thủy,
hỏa, phong đại đều cũng như thế. Nhưng vì bệnh chúng sanh
từ tứ đại khởi, vì họ có bệnh nên tôi bệnh vậy. Bấy
giờ Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng: -Bồ
Tát làm sao an ủi vị Bồ Tát có bệnh? Duy
Ma Cật nói: -Nói
thân vô thường, chẳng nói nhàm chán nơi thân. Nói thân có
khổ, chẳng nói ưa thích Niết Bàn. Nói thân vô ngã mà thuyết
pháp giáo hóa chúng sanh. Nói thân không tịch, chẳng nói tịch
diệt rốt ráo. Nói hối cải tội trước mà chẳng nói vào
thời quá khứ, vì bệnh của mình mà thương xót bệnh của
người. Phải biết đau khổ từ vô số kiếp trước. Tưởng
niệm lợi ích tất cả chúng sanh nên nhớ việc tu phước,
tưởng niệm nơi tịnh mạng nên chẳng sanh phiền não. Thường
khởi hạnh tinh tấn, nguyện làm y vương để điều trị bệnh
chúng sanh. Bồ Tát nên an ủi vị Bồ Tát có bệnh như thế
để cho họ hoan hỉ. Văn
Thù hỏi: -Cư
sĩ! Vị Bồ Tát có bệnh phải tự điều phục tâm như thế
nào? Duy
Ma Cật đáp: -Vị
Bồ Tát có bệnh nên nghĩ rằng "bệnh của mình đều do các
phiền não, điên đảo, vọng tưởng từ kiếp trước mà sanh.
Pháp vốn chẳng thật, thì ai là kẻ thọ bệnh. Tại sao? Vì
tứ đại hòa hợp giả danh là thân. Tứ đại không có chủ,
thân cũng vô ngã. Hơn nữa, bệnh này sanh khởi đều do chấp
gã, vì thế ở nơi ngã chẳng nên chấp trước. Ðã biết
gốc bệnh, liền trừ ngã tưởng và chúng sanh tưởng, phải
khởi pháp tưởng." Bồ Tát nên nghĩ rằng "Thân này do các
pháp hòa hợp mà thành, khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ
là pháp diệt." Dù nói các pháp hoà hop mà mỗi mỗi pháp đều
chẳng biết nhau. Lúc khởi chẳng nói ta khởi. Lúc diệt chẳng
nói ta diệt. Bồ Tát muốn diệt pháp tưởng nên nghĩ rằng,
"Pháp tưởng này cũng là điên đảo. Ðiên đảo tức là bệnh
lớn, ta nên lìa nó." Thế
nào là lìa? Lìa ngã và ngã sở. Thế nào là lìa ngã, và ngã
sở? Ấy là lìa nhị pháp. Thế nào là lìa nhị pháp? Chẳng
nghĩ các pháp trong và ngoài, hành nơi bình đẳng. Thế nào
là hành nơi bình đẳng? Là ngã với Niết Bàn bình đẳng.
Tại sao? Vì ngã với Niết Bàn cả hai đều không. Lấy gì
làm không? Vì chỉ có danh tự nên không. Nhị pháp như thế,
pháp tánh vốn chẳng có nhất định. Ðược sự bình đẳng
đó thì chẳng còn bệnh khác, chỉ có bệnh chấp không, cho
đến không bệnh cũng không. Vị Bồ Tát có bệnh dùng tâm
vô sở thọ mà thọ sự thọ. Khi Phật pháp chưa viên mãn
cũng chẳng diệt thọ mà thủ chứng. Vì thân có khổ nên
nghĩ đến chúng sanh trong ác thú mà khởi tâm đại bi. "Tâm
ta đã điều phục thì cũng nên điều phục tâm của tất
cả chúng sanh. Nhưng trừ bệnh họ mà chẳng trừ pháp họ,
vì dứt trừ gốc bệnh mà giáo hóa họ." Thế
nào là gốc bệnh? Vì có phan duyên, từ chỗ phan duyên mới
thành gốc bệnh. Phan duyên nơi nào? Phan duyên tam giới. Làm
sao đoạn dứt? Dùng tâm vô sở đắc. Nếu tâm vô sở đắc
thì chẳng có phan duyên. Thế nào là vô sở đác? Là lìa nhị
kiến. Thế nào là lìa nhị kiến? Phàm tất cả nhị biên
đối đãi như nội kiến, ngoại kiến đều gọi là nhị kiến,
nên nói lìa nhị kiến tức là vô sở đắc vậy. LƯỢC
GIẢI Nhị
kiến và nhị biên. Vì tự tánh bình đẳng bất nhị. Không
những nội kiến, ngoại kiến là nhị, mà tất cả các năng
sở đối đãi như sanh diệt, đoạn thường, cho đến sở
đắc vô sở đắc, v.v... đều là nhị kiến. Hai chữ nhị
biên cũng đồng nghĩa như thế. (Lược giải hết) Văn
Thù! Ấy là cách điều phục tâm của Bồ Tát có bệnh. Bồ
Ðề của Bồ Tát là đoạn dứt các khổ lão, bệnh, tử.
Nếu chẳng như thế thì sự tu hành của mình không được
trí huệ, thiện lợi, ví như người thắng kẻ oán tặc mới
được gọi là người dũng cảm. Cũng thế, kẻ trừ được
lão, bệnh, tử mới được gọi là Bồ Tát vậy. Vị
Bồ Tát có bệnh kia nên nghĩ rằng "bệnh của ta đây phi chơn
phi hữu, và bệnh của chúng sanh cũng phi chơn phi hữu." Lúc
quán như thế, đối với chúng sanh nếu có khởi lòng đại
bi ái kiến thì phải dẹp bỏ ngay. Tại sao? Bồ Tát vì dứt
trừ khách trần phiền não mà khởi đại bi. Ðại bi chẳng
có ái kiến. Nếu đại bi có ái kiến thì nơi sanh tử có
tâm nhàm chán. Nếu được lìa bỏ ái kiến thì chẳng có
nhàm chán, dù sanh nơi nào cũng chẳng bị ái kiến trói buộc.
Chỗ sanh chẳng bị trói buộc mới có thể thuyết pháp mở
trói cho chúng sanh. Như lời Phật thuyết: Nếu tự mình bị
trói mà mở trói được cho người thì chẳng có chỗ đúng.
Nếu tự mình chẳng bị trói, thì mới có thể mở trói cho
người. Vì thế Bồ Tát chẳng nên có sự trói buộc. Thế
nào là trói? Thế nào là mở? Tham đắm thiền vị là trói
buộc của Bồ Tát. Chẳng chấp thiền vị là phương tiện
mở trói của Bồ Tát. Lại
nữa, phương tiện và trí huệ chẳng thể lìa nhau. Có trí
huệ mà chẳng có phương tiện thì bị trí huệ trói buộc.
Nếu có phương tiện thì trí huệ được mở trói. Có phương
tiện mà chẳng có trí huệ thì bị phương tiện trói buộc.
Nếu có trí huệ thì phương tiện được mở trói. Thế
nào là chẳng có phương tiện thì bị trí huệ trói buộc?
Bồ Tát dùng tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu
chúng sanh, ở trong pháp không, vô tướng, vô tác mà tự điều
phục. Ấy gọi là chẳng có phương tiện thì bị trí huệ
trói buộc. Thế
nào là có phương tiện thì trí huệ được mở trói? Ấy
là chẳng dùng tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu
chúng sanh, ở trong pháp không, vô tướng, vô tác tự điều
phục mà chẳng nhàm chán. Ấy là có phương tiện thì trí
huệ được mở trói. Thế
nào là chẳng có trí huệ thì bị phương tiện trói buộc?
Bồ Tát trụ nơi các phiền não như: tham, sân, si, tà kiến,
v.v... mà gieo trồng cội lành. Ấy gọi là chẳng có trí huệ
thì bị phương tiện trói buộc. Thế
nào là có trí huệ thì phương tiện được mở trói? Ấy
là lìa các phiền não như: tham, sân, si, tà kiến, v.v... mà
gieo trồng cội lành và hồi hướng Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Ấy gọi là có trí huệ thì phương tiện được
mở trói. Văn
Thù! Bồ Tát có bệnh kia nên quán các pháp như thế và quán
thân vô thường, là khổ, là không, là phi ngã, ấy gọi là
trí huệ. Thân dù có bệnh mà chẳng diệt hẳn gọi là phương
tiện. Lại
nữa, hể quán thân thì thân chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng
lìa thân, Bệnh ấy thân ấy chẳng mới chẳng cũ, ấy gọi
là trí huệ. Thân dù có bệnh mà chẳng diệt hẳn gọi là
phương tiện. Văn
Thù! Bồ Tát có bệnh nên điều phục tự tâm như thế mà
chẳng trụ trong đó, cũng không trụ nơi điều phục tâm.
Tại sao? Nếu trụ nơi chẳng điều phục tâm là pháp phàm
phu. Nếu trụ nơi điều phục tâm là pháp Thanh Văn. Vì thế
bồ Tát chẳng nên trụ nơi điều phục và chẳng điều phục.
Lìa hai pháp này là hạnh Bồ Tát. Ở
nơi sanh tử chẳng hành việc ô nhiễm, trụ nơi Niết Bàn
mà chẳng diệt độ hẳn là hạnh Bồ Tát. Phi hạnh phàm phu,
phi hạnh hiền thánh là hạnh Bồ Tát; phi hạnh cấu, phi hạnh
tịnh là hạnh Bồ Tát. Dù siêu việt hạnh ma mà thị hiện
việc hàng phục bọn ma là hạnh Bồ Tát, cầu nhất thiết
trí mà chẳng có sự cầu phi thời là hạnh Bồ Tát. Dù quán
các pháp chẳng sanh mà chẳng nhập chánh vị là hạnh Bồ
Tát. Dù quán thập nhị duyên khởi mà nhập các tà kiến là
hạnh Bồ Tát. Dù nhiếp độ tất cả chúng sanh mà chẳng
khởi lòng yêu mến là hạnh Bồ Tát. Dù ưa xa lìa tất cả,
mà không hướng theo sự dứt hết thân tâm là hạnh Bồ Tát.
Dù hành nơi tam giới mà chẳng hoại pháp tánh là hạnh Bồ
Tát. Dù hành nơi tánh không mà gieo trồng nhiều cội lành
là hạnh Bồ Tát. Dù hành nơi vô tướng mà độ chúng sanh
là hạnh Bồ Tát. Dù hành nơi vô tác mà thị hiện thọ thân
là hạnh Bồ Tát. Dù hành nơi vô khởi mà khởi tất cả thiện
hạnh là hạnh Bồ Tát. Dù hành sáu Ba La Mật mà biết khắp
các tâm pháp, tâm số của chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù
hành lục thông mà chẳng dứt tập lậu (tập khí phiền não)
là hạnh Bồ Tát. Dù hành tứ vô lượng tâm mà chẳng tham
đắm sanh cõi Phạm Thiên là hạnh Bồ Tát. Dù hành Thiền
định, giải thoát, tam muội mà chẳng theo Thiền định thọ
sanh là hạnh Bồ Tát. Dù hành tứ niệm xứ mà chẳng lìa
hẳn thọ dụng của thân tâm là hạnh Bồ Tát. Dù hành tứ
chánh cần mà chẳng xả thân tâm tinh tấn của Ðại thừa
là hạnh Bồ Tát. Dù hành tứ như ý túc mà đắc thần thông
tự tại của Ðại thừa là hạnh Bồ Tát. Dù hành ngũ căn
mà hay phân biệt căn cơ lợi độn của chúng sanh là hạnh
Bồ Tát. Dù hành ngũ lực mà ưa cầu thập lực của Phật
là hạnh Bồ Tát. Dù hành thất giác chi mà hay phân biệt trí
huệ của Phật là hạnh Bồ Tát. Dù hành Bát Chánh Ðạo mà
ưa tu vô lượng Phật đạo là hạnh Bồ Tát. Dù hành pháp
trợ đạo của chỉ quán mà cuối cùng chẳng đọa nơi tịch
diệt là hạnh Bồ Tát. Dù hành các pháp chẳng sanh chẳng
diệt mà dùng tướng tốt để trang nghiêm thân mình là hạnh
Bồ Tát. Dù thị hiện oai nghi của Thanh Văn Duyên Giác mà
chẳng xả Phật pháp đại thừa là hạnh Bồ Tát. Dù theo
tướng tịnh rốt ráo của các pháp mà tùy cơ ứng hiện thân
hình là hạnh Bồ Tát. Dù quán các cõi Phật tịch diệt như
hư không mà thị hiện mỗi mỗi trong sạch của cõi Phật
là hạnh Bồ Tát. Dù chứng đắc quả Phật, chuyển pháp luân,
nhập Niết Bàn mà chẳng bỏ đạo Bồ Tát là hạnh Bồ Tát
vậy. Lúc
Duy Ma Cật nói những lời ấy rồi, cả đại chúng đi theo
Ngài Văn Thù, trong đó có tám ngàn thiên tử đều phát tâm
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
|
|