|   | 
      
      
        
        
          
            
            
              | 
            
             
            Thức Biến 
            
            Hòa thượng 
            Thích Thiện Siêu 
            Nxb TP. HCM, 2003  | 
            
            
              | 
           
         
        
       
       
      
      [02] 
      
      DUY THỨC 
      
      A. Nghĩa chữ Duy Thức 
      
      Duy thức là duy cái biết, do cái biết, hoặc y nơi cái biết (bỉ y thức 
      sở biến). 
      
      Muôn sự muôn vật không thể hiện hữu ngoài 
      định lý duyên sanh, nghĩa là chúng chỉ hiện hữu giữa các mối quan 
      hệ, lớp này lớp khác trùng trùng vô tận, một làm duyên cho tất cả, tất cả 
      duy một, tất cả làm duyên cho một, một duy tất cả. 
      
      "Do cái này có nên cái kia có,  
      Do cái này sinh nên cái kia sinh,  
      Do cái này không nên cái kia không,  
      Do cái này diệt nên cái kia diệt." 
      
      Như thế là duyên khởi, y tha khởi. Trong 
      đó, nếu nói "duy" thì cái nào cũng duy 
      được hết, duy sắc, duy hương, duy vô minh, duy căn, duy trần v.v. 
      Như cổ nhân có câu: "Nhất sắc nhất hương, vô phi trung
      đạo". Ngài Thiên Thai Trí Giả nói: 
      "Tùy niệm nhất pháp, giai thị pháp giới" (Bất cứ
      đưa ra một pháp nào, pháp
      đó đều là pháp giới muôn pháp). 
      Thức là một trong hết thảy pháp, nhưng thức có năng 
      lực đặc biệt là phân biệt biết được 
      cái khác và tự biết được mình, 
      nó là chủ lực ở ngay trong mỗi chúng sanh. Chính cái biết này làm cho các 
      pháp trong đồng nhất tính duyên khởi, 
      vô danh vô tướng, vô thỉ vô chung, vô trung vô biên (không trong không 
      ngoài), nổi lên thiên hình vạn trạng, rồi mê muội chạy theo giả tướng 
      thiên hình vạn trạng đó mà
      đắm trước, tạo nghiệp, buộc ràng theo 
      nó, gây nên khổ đau. 
      
      Các pháp khác không có năng lực này, 
      chỉ có thức mới có năng lực này, cho 
      nên chỉ nói duy thức mà không nói duy cái khác.  
      Lại "Duy có nghĩa là giản biệt, ngăn 
      không có ngoại cảnh; Thức có nghĩa là liễu giải, biểu thị có nội 
      tâm". 
      Nói Duy thức chính là đưa ra lời khai thị, 
      thức tỉnh người ta hãy tự giác, hãy quán tâm mình, nhìn lại cái năng 
      lực thiên biến vạn hóa ở trong mình để 
      gạn lọc nó, trau dồi nó, sửa chữa nó phải biến hóa như thế nào
      để chỉ đem lại lợi lạc, chứ đừng gây đau khổ. 
      
      Ðến khi đã chuyển
      được tâm thức thành bốn trí (bốn 
      trí: 1. Thành sở tác trí; 2. Diệu quan sát trí; 3. Bình
      đẳng tánh trí; 4. Ðại viên cảnh trí), 
      sáng suốt hoàn toàn, lý trí nhất như, sắc tâm bất nhị, không còn lấy sắc 
      làm sắc, lấy tâm làm tâm, được tự tại không còn 
      vướng mắc, cũng không có gì làm cho giao 
      động, sợ hãi thì bấy giờ không cần duy, không cần thức, hay cần duy 
      gì cũng được vô ngại.  
      
      Lý Duy thức tiềm ẩn trong lời Phật rải rác ở các Kinh, Bồ-tát Thế Thân 
      dùng lý đó vết thành luận, gọi là Luận 
      Duy thức. Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang sau khi du học Ấn Ðộ, mang về Trung 
      Hoa (602-644), rút ra từ những ý chính của mười vị
      đại Luận sư như Hộ Pháp, Ðức Huệ, An 
      Huệ v.v., giải về luận 30 bài tụng của ngài và dịch ra bộ luận Thế Thân, 
      rồi tóm lược lại gọi là "Luận Thành Duy Thức". 
      
      B. Duy thức theo lời giải của Ðại sư Thái Hư
        
      
      Chữ Duy thức nguyên chữ Phạn là Vijnàpti-màtratà. Vijnàpti, Trung Hoa 
      dịch âm là Tỳ-nhã-để, dịch nghĩa là 
      Thức. Chữ Màtrata, Trung Hoa dịch âm là Ma-đát-lạt-đa, 
      dịch nghĩa là Duy. 
      
      Thức là liễu biệt, nhận biết. Liễu là liễu tri, Biệt là biệt chỉnh 
      cảnh. Tức liễu tri mỗi mỗi cảnh riêng biệt, như nhãn thức liễu tri sắc, 
      nhĩ thức liễu tri thanh v.v. 
      
      Thức, nói một cách tổng quát là gồm đủ năm 
      vị tức năm mặt: 
      
        
        1. Thức tự tướng, tức tám thức Tâm vương  
        2. Thức tương ưng, tức sáu vị Tâm sở. 
        3. Thức sở biến, tức hai phần Kiến và Tướng. 
        4. Thức phận vị, tức hai mươi bốn giả pháp Bất tương ưng hành, chúng 
        chỉ là giả tướng sai biệt giữa Sắc và Tâm. 
        5. Thức thực tánh, tức chơn lý, chơn như thật tánh của bốn thứ trên. 
        Như vậy Thức thật tánh là lý, còn bốn thứ trên. Như vậy Thức thật tánh 
        là lý, còn bốn thứ trên là sự. Năm vị pháp 
        này là bao quát hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian, hữu vi vô 
        vi, hữu lậu vô lậu. Chúng đều không lìa 
        thức, đều là biểu hiện của thức, nên 
        gọi là Duy thức. 
      
      Mỗi mỗi hữu tình từ vô thỉ vốn có tám thức, sáu vị Tâm sở, các pháp sự 
      lý như vậy. Chúng chỉ hiện hữu được trên 
      thức, ngoài thức ra thì không có hiện hữu nào hết, vì ngoài thức ra thì ta 
      không thể biết có gì cả, nếu ta tưởng tượng có một hiện tượng gì ở ngoài 
      thức, thì nó cũng là thức biến, vì nó là tướng của thức tưởng tượng ra. 
      Duy có ba nghĩa: 
      
        1. Nghĩa giản trì: Giản là giản biệt, kén chọn bỏ
        đi có tánh phủ định, giá thuyên. Bỏ
        đi cái gì? Bỏ
        đi hai chấp ngã và pháp thật có. Trí 
        là giữ lấy, có tính khẳng định, biểu thuyên. 
        Giữ lấy cái gì? Giữ lấy thức tướng Y tha khởi và thức tánh Viên thành 
        thật. Các pháp y tha duyên khởi là tướng của thức. Hai không (ngã không, 
        pháp không) hiển lộ Viên thành thật tánh là tánh của Thức. 
        2. Nghĩa quyết định: Luận Biện Trung Biên 
        nói: "Thử trung định hữu không, ý bỉ diệt 
        hữu thử', nghĩa là trong thức tướng y tha duyên khởi thuộc tục sự 
        này quyết định có thức tánh. Do hai không 
        hiển lộ thuộc chơn lý kia, vì chơn không lìa tục mà có, ngược 
        lại, trong chân lý hai không kia quyết định 
        có tục sự y tha duyên khởi này, vì tục không thể lìa chơn mà có. 
        
        Như vậy "Thức" vừa có nghĩa giá và biểu. "Giá" thì ngăn 
        chặn loại trừ ngã và pháp thật có ở ngoài thức."Biểu" thì biểu 
        thị thức tướng y tha khởi và thức tánh Viên thành thật. Sự và lý, tục và 
        chơn, hai mặt quyết định gắn liền với nhau 
        của thức. 
        
        3. Nghĩa hiển thắng: Thắng là hơn, là thù thắng, nhằm chỉ cho thức 
        Tâm vương hơn là cho thức Tâm sở mỗi khi nói Duy thức. Khi nói Duy thức 
        là chú ý nói Duy thức Tâm vương. 
      
      Trong ba nghĩa trên, trong Duy thức thường dùng nghĩa thứ nhất. 
      
      C. Duy thức tam thập tụng bản chữ Hán (Ðại tạng; Chánh 31:1586) 
      
        
        [xin xem theo sách, không đăng trong ấn 
        bản Internet này] 
      
      
      D. Dịch nghĩa (theo thể kệ 5 chữ) 
      
        1. Do giả nói ngã pháp,  
        Có tướng ngã pháp chuyển,  
        Chúng nương thức biến hiện,  
        Thức biến hiện có ba. 
         
        2. Là Dị thục, Tư lương,  
        Và thức Liễu biệt cảnh,  
        Ðầu, thức A-lai-da,  
        Dị thục, Nhất thiết chủng. 
         
        3. Không thể biết chấp thọ,  
        Xứ, liễu, tương ưng xúc,  
        Tác ý, thọ, tưởng, tư,  
        Và chỉ có xả thọ. 
         
        4. Tánh vô phú vô ký,  
        Xúc, thảy cũng như thế,  
        Hằng chuyển như dòng nước. 
        A-la-hán, bỏ hết. 
         
        5. Thức biến hiện thứ hai,  
        Gọi là thức Mạt-na. 
        Nương kia chuyển, duyên kia,  
        Tư lương làm tánh tướng. 
         
        6. Tương ưng bốn phiền não,  
        Là ngã si, ngã kiến,  
        Và ngã mạn, ngã ái,  
        Cùng tâm sở Biến hành. 
         
        7. Tánh hữu phú vô ký,  
        Sanh theo A-lại-da. 
        Chứng La-hán, Diệt định,  
        Xuất thế đạo, không còn. 
         
        8. Thức biến hiện thứ ba,  
        Sai biệt có sáu thứ,  
        Tánh tướng là biệt cảnh,  
        Thiện, bất thiện, vô ký. 
         
        9. Cùng tâm sở Biến hành,  
        Biệt cảnh, thiện, phiền não  
        Tùy phiền não, Bất định. 
        Ðều tương ưng ba Thọ 
         
        10. Trước là Biến hành: Xúc  
        Tiếp là Biệt cảnh: Dục,  
        Thắng giải, niệm, định, tụê. 
        Cảnh sở duyên không đồng. 
         
        11. Thiện là tín, tàm, quý,  
        Không tham, không sân, si,  
        Siêng, an, không phóng dật,  
        Hành xả và không hại. 
         
        12. Phiền não là tham, sân,  
        Si, mạn, nghi, ác kiến. 
        Tùy phiền não là phẫn,  
        Hận, phú, não, tật, xan,  
         
        13. Dối, nịnh và hại, kiêu,  
        Không hổ và không thẹn  
        Trạo cử với hôn trầm,  
        Không tin cùng giải đãi,  
         
        14. Phóng dật và thất niệm,  
        Tán loạn, không chánh tri,  
        Bất định là hối miên. 
        Tầm, tứ hai đều hai. 
         
        15. Nương dựa căn bản thức,  
        Năm thức theo duyên hiện  
        Ðồng thời khởi, hoặc không,  
        Như sóng mòi nương nước. 
         
        16. Ý thức thưởng hiện khởi 
        Trừ sanh trời Vô tướng  
        Và hai định vô tâm  
        Khi ngủ say, chết ngất. 
         
        17. Các thức ấy chuyển biến,  
        Phân biệt, bị phân biệt,  
        Do kia, đây đều không,  
        Nên hết thảy Duy thức. 
         
        18. Do thức Nhất thiết chủng,  
        Biến như vậy như vậy,  
        Vì năng lực triển chuyển,  
        Kia kia, phân biệt sanh. 
         
        19. Do tập khí các nghiệp,  
        Cùng tập khí hai thủ,  
        Thân Dị thục trước hết  
        Lại sanh Dị thục khác. 
         
        20. Do biến kể nọ kia,  
        Biến kế chủng chủng vật,  
        Biến kế sở chấp này,  
        Tự tánh toàn không có. 
         
        21. Tự tánh Y tha khởi. 
        Do duyên phân biệt sanh. 
        Viên thành thật nơi đó,  
        Thường xa lìa biến kế. 
         
        22. Nên nó cùng Y tha,  
        Chẳng khác chẳng không khác. 
        Như tánh vô thường thảy,  
        Thấy đây, mới thấy kia. 
         
        23. Chính nương ba tánh này,  
        Lập ba vô tánh kia. 
        Nên Phật "mật ý" nói: 
        "Hết thảy pháp không tánh". 
         
        24. Trước là "Tướng không tánh", 
        Kế, "Không tự nhiên tánh". 
        Sau, do lìa tánh trước,  
        Là tánh chấp ngã pháp. 
         
        25. Ðây, thắng nghĩa các pháp,  
        Cũng tức là chơn như,  
        Vì thường như tánh nó,  
        Tức thực tánh Duy thức. 
         
        26. Cho đến chưa khởi thức. 
        Cầu trụ tánh Duy thức. 
        Ðối hai thủ tùy miên,  
        Còn chưa thể phục diệt. 
         
        27. Hiện tiền lập chút vật,  
        Cho là tánh Duy thức. 
        Vì còn có sở đắc,  
        Chưa thực trụ Duy thức. 
         
        28. Khi đối cảnh sở duyên,  
        Trí không sở đắc gì,  
        Bấy giờ trụ Duy thức,  
        Do lìa tướng hai thủ. 
         
        29. Không đắc, chẳng nghĩ nghì 
        Là trí xuất thế gian. 
        Vì bỏ hai thô trọng,  
        Chứng đắc hai chuyển y. 
         
        30. Ðây, tức giới vô lậu,  
        Chẳng nghĩ nghì, thiện, thưởng. 
        An lạc, thân giải thoát,  
        Ðại Mâu-ni pháp thân. 
       
      
      Dịch theo văn xuôi 
      
      
        1. Do giả nói ngã nói pháp  
        Nên có các tướng ngã pháp chuyển biến hiện ra. 
        Ngã pháp ấy đều nương thức biến hiện; 
        Thức biến hiện ấy có ba loại. 
         
        2. Là thức Dị thục, Tư lương và Liễu biệt cảnh  
        Thức biến hiện đầu có ba tên là 
        A-lại-da, Dị thục, và Nhất thiết chủng. 
        Không thể biết đối tượng của nó, là 
        căn thân và chủng tử mà nó chấp thủ 
        làm tự thể, sanh ra cảm thụ (vì quá vi tế). 
         
        3. Không thể biết nơi chốn (xứ, khí thế giới - vì quá rộng lớn) và năng 
        lực nhận biết (liễu) của nó. 
        Nó cùng đi với Tâm sở xúc,  
        Tác ý, thọ, tưởng, tư. 
        Riêng thọ thì chỉ là Xả thọ. 
         
        4. Tánh nó là vô phú, vô ký,  
        Tâm sở xúc v.v.tánh cũng như vậy  
        Nó hằng thường và chuyển biến như dòng nước. 
        Chứng quả vị A-la-hán thì thức A-lại-da không còn 
         
        5. Thức biến hiện thứ hai, gọi là Mạt-na. 
        Nó hiện khởi dựa vào A-lại-da và nhận lấy A-lại-da làm
        đối tượng chấp ngã. 
        Thế tánh và hành tướng của nó là tư duy, lượng
        định. 
         
        6. Thường khởi cùng với nó có bốn phiền não: 
        Là ngã si, ngã kiến,  
        Ngã mạn và ngã ái. 
        Cùng các Tâm sở xúc, v.v. 
         
        7. Tánh nó là hữu phú, vô ký, 
        Nó bị ràng buộc sanh vào các cõi theo A-lại-da 
        Khi chứng A-la-hán, vào định diệt tận, 
        Khi trí xuất thế, đạo phát khởi 
        Thức Mạt-na không còn. 
         
        8. Thức biến hiện thứ ba 
        Sai biệt có sáu thứ. 
        Thể tánh và hành tướng của nó là nhận biết 
        đối tượng. 
        Nó có đủ ba tánh thiện, bất thiện, vô ký. 
         
        9. Cùng đi với nnó có các Tâm sở 
        biến hành 
        Biệt cảnh, thiện, phiền não 
        Tùy phiền não, bất định 
        Và ba thọ: khổ, lạc, xả. 
         
        10. Trước hết, tâm sở biến hành là xúc, 
        Rồi đến tâm sở biệt cảnh là dục, 
        Thắng giải, niệm, định, và tuệ 
        Và Cảnh sở duyên với chúng (tâm sở biệt) không
        đồng nhau. 
         
        11. Tâm sở thiện là tàm, quý 
        Không tham, không sân, không si. 
        Siêng năng, khinh an, không phóng dật 
        Hành xả và bất hại. 
         
        12. Tâm sở phiền não là tham,  
        sân, si, mạn, nghi, ác kiến 
        Tùy phiền não là phẫn 
        Hận, phú, não, tật, xan. 
         
        13. Cuống, siểm, hại, kiêu, 
        Không hổ và không thẹn, 
        Trạo cử với hôn trầm, 
        Không tính và giải đãi. 
         
        14. Phóng dật và thất niệm, 
        Tán loạn, không chánh tri. 
        Tâm sở bất định là hối, miên, tầm, 
        tứ. 
        Cả hai loại hối miên và tầm tứ đều có hai 
        tánh tịnh và nhiễm. 
         
        15. Nương tựa thức căn bản thứ tám, 
        Năm thức hiện khởi khi có đủ duyên. 
        Hoặc khởi đồng thời, hoặc không đồng thời, 
        Như sóng nương nước. 
         
        16. Ý thức thì thường hiện khởi, 
        Trừ khi sanh vào cõi trời Vô tưởng, 
        và hai định vô tâm (vô tưởng định và 
        diệt tận định) 
        Cũng như khi ngủ say và khi chết ngất. 
         
        17. Các thức ấy chuyển biến. 
        Thành năng phân biệt và cảnh của sự 
        phân biệt ấy. 
        Do vậy mà tất cả pháp đều không. (*) 
        Nên nói hết thảy pháp Duy thức. 
        (*) Không có tự tính - theo Madhyanta- vibhaga, Biện trung biện 
        luận, của Vô Trước. 
         
        18. Vì chính "thức" vốn hàm chứa hết thảy chủng từ. 
        Biến hiện ra như thế, như thế. 
        Vì năng lực triển chuyển hỗ tương. 
        Nên có các sự phân biệt của tám thức và Tâm sở hiện hành. 
         
        19. Do tập khí các nghiệp. 
        Cùng với tập khí của hai thủ (năng thủ, sở 
        thủ, hay ngã chấp thủ, danh ngôn thủ). 
        Thân Dị thục trước chết rồi. 
        Lại sanh thân Dị thục khác. 
         
        20. Do tâm so đo vọng chấp cùng khắp 
        nọ kia. 
        Nên vọng chấp so đo cùng khắp các 
        pháp (biến kế chấp) 
        Cái so đo chấp thủ cùng khắp
        đó. 
        Không có tự tánh của chính nó. 
         
        21. Tự tánh là Y tha khởi. 
        Do thức phân biệt và các duyên mà có. 
        Tánh Viên thành (là thật tại tối hậu) là tánh Y tha. 
        Khi Y tha rời khỏi hẳn tánh biến kế trước 
        đó. 
         
        22. Nên tánh Viên với tánh Y tha. 
        Chẳng phải khác, chẳng phải không khác nhau. 
        Như tánh vô thường, vô ngã đối với các pháp 
        vô thường vô ngã. 
        Nếu không thấy tánh Viên thành thì cũng không thấy tánh Y tha. 
         
        23. Chính nương ba tánh này. 
        Lập ra ba vô tánh kia. 
        Nên Phật mật ý nói. 
        Hết thảy pháp không tự tánh. 
         
        24. Tánh Biến kế là tướng không có tự tánh. 
        Tánh Y tha là không phải tánh tự nhiên sanh. 
        Tánh Viên thành là tánh y tha lìa xa tánh biến kế chấp ngã pháp trước
        đó. 
         
        25. Ðó là nghĩa tối thắng của các pháp. 
        Cũng tức là Chơn như. 
        Vì thường như tánh nó 
        Cũng tức là thật tánh Duy thức. 
         
        26. Thậm chí khi thức (an trú Duy thức), tánh chưa khởi lên. 
        Một lòng chuyên cầu an trú Duy thức tánh. 
        Ðối với hai tập khí chấp thủ ngã pháp. 
        Vẫn chưa thể dẹp trừ. 
         
        27. Nếu giờ cho Duy thức tánh là bất cứ gì. 
        Thì đó không phải là Duy thức tánh. 
        Vì còn có cái để thủ đắc. 
        Nên chưa thật an trú tánh Duy thức. 
        28. Khi đối cảnh sở duyên. 
        Trí không sở đắc gì. 
        Bây giờ thật an trú tánh Duy thức. 
        Vì xa lìa tướng hai thủ. 
        29. Trí tuệ vô đắc thì không thể 
        nghĩ bàn. 
        Nó là trí tuệ xuất thế gian (hay thánh trí). 
        Do lìa bỏ hai chướng ngại thô trọng là phiền não và sở tri. 
        Liền chứng đắc hai quả (nương nơi A-lại-đa 
        thức) là Niết-bàn và Bồ-đề 
         
        30. Hai quả chuyển y này tức tâm giới vô lậu. 
        Không thể nghĩ bàn, là thiện, là thường 
        Là an lạc, là thân giải thoát. 
        Là pháp thân đại tịch tịnh. 
       
      
      * 
      Trong 30 bài tụng này, 24 bài đầu là 
      nói rõ Tướng Duy thức. Bài thứ 25, nói rõ Tánh Duy thức. Năm 
      bài sau chót nói năm hạnh vị tu chứng. 
      
      Trong 24 bài đầu, một bài rưỡi
      đầu lược biện Tướng Duy thức; hai mươi 
      hai bài rưỡi tiếp theo rộng biện Tướng Duy thức. 
      -ooOoo- 
       
      
      Ðầu trang | Mục lục |
      01 | 02 | 
      03 | 
      04 | 
      05 | 
      06 | 
      07 | 
      08 | 
      09 | 
      10 |  
 11 | 
      12 | 
      13 | 
      14 | 
      15 | 
      16 | 
      17 | 
      18 | 
      19 | 
      20 | 
      21 | 
      22 | 
      23 | 
      24.a | 
      24.b 
        | 
        |