中 阿 含 經 KINH TRUNG A HÀM 
              Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm,  Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ
             | 
          
        
      
     
    16. PHẨM ÐẠI
    (Phần Sau)
    No 196. KINH CHÂU NA [1] 
    Tôi nghe như vầy:
    Một thời Phật du hóa tại nước Bạt Kỳ, thôn Xá Di [2] .
    Bấy giờ sa di Châu Na [3] , kiết hạ ở Ba Hòa [4] . Tại xứ Ba Hòa có một 
    Ni Kiền tên là Thân Tử [5] . Nơi đây, vị ấy qua 
    đời. Sau khi qua đời không bao lâu, các đệ tử Ni Kiền thân tử chia rẻ và 
    phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau. Họ tranh
    đấu, kiện tụng cột trói nhau, thù nghịch 
    nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi 
    biết pháp sao bằng chỗ ta biết? Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta 
    nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng 
    nói trước, ngươi nói sau, điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta nói là 
    tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời
    được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. 
    Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại”. 
    Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai 
    cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào
    để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại 
    gia, đệ tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nãn và lãng xa 
    các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì 
    sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là 
    ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn
    đến chánh giác, cũng không phải là lời 
    dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng 
    hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc 
    thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.
    Lúc bấy giờ Sa di Châu Na đã qua ba 
    tháng an cư mùa mưa, sửa vá lại y áo, rồi mang y cất bát
    đến thôn Xá Di, rồi qua phía bắc thôn Xá Di, 
    đến rừng Thi Nhiếp Hòa. Sa di Châu Na 
    đến chỗ Ngài A Nan. Sau khi đến nơi, 
    đảnh lễ sát chân Ngài A Nan, rồi ngồi qua một bên.
    Tôn giả A Nan hỏi: [6] 
    Này Hiền giả Châu Na! Từ đâu đến đây và 
    an cư mùa mưa ở đâu?
    Sa di Châu Na đáp:
    Bạch Tôn giả A Nan! con từ Ba Hòa đến, và 
    an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả! Tại Ba Hòa có một ni Kiền tên là Thân 
    Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời chưa bao lâu 
    thì đệ tử của Ni Kiền Thân Tử đã 
    chia rẽ và phá hoại, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau, thù nghịch 
    nhau, họ đấu tranh kiện tụng, cột trói nhau, 
    tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi 
    biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta 
    nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng 
    nói trước, ngươi nói sau. Ðiều đáng nói 
    sau, ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta 
    hỏi việc ngươi ngươi không thể trả lời được. Ta 
    đã chế phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi
    động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu 
    mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ cho mình 
    nói hơn mà không có người nào để khiển trách. 
    Nếu có những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ 
    đều chán nản và lãng xa, các đệ tử của 
    Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những
    điều họ nói đây là những
    điều ác pháp luật không phải là pháp 
    xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không 
    phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là 
    sự băng hoại không thể đứng vững không nơi để 
    nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là 
    Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.
    Tôn giả A Nan nghe xong, nói rằng: "Này Hiền giả Châu Na, nhân dịp này, 
    chúng ta có thể đến yết kiến đức Phật, đem sự 
    việc này trình bày lên Ngài. Này Hiền giả Châu Na, bây giờ chúng ta 
    cùng đi đến đức Phật, đem tất cả sự việc này 
    trình lên cho đức Thế Tôn. Thảng hoặc, chúng ta 
    có thể nhân đó mà được nghe pháp khác 
    nữa từ đức Thế Tôn.
    
    Rồi Tôn giả A Nan và sa di Châu Na cùng nhau 
    đến chỗ đức Phật, chắp tay cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài, Tôn giả A 
    nan đứng qua một bên và Châu Na ngồi 
    xuống một bên. Tôn giả A nan bạch với đức Thế 
    Tôn:
    Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sa di Châu 
    Na đi đến chỗ con, cúi đầu đảnh lễ sát chân rồi 
    ngồi qua một bên. Con hỏi: này Hiền giả Châu Na, từ nơi nào
    đến đây và an cư mùa mưa ở
    đâu? Sa di Châu Na liền trả lời với con 
    rằng: "Thưa Tôn giả A Nan, con từ Ba Hòa đến, 
    an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả A nan! Tại Ba Hòa có một Ni Kiền 
    tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời 
    không bao lâu thì các đệ tử của Ni Kiền 
    Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại nhau; họ 
    đấu tranh, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch nhau, tranh luận 
    với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng 
    chỗ ta biết Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi 
    không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói 
    sau, điều đáng nói sau ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn 
    ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời
    được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. 
    Nếu ngươi động thủ ta sẽ cột trói ngươi.” Họ kiêu 
    mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình 
    nói hơn mà không có người nào để khiển trách.
    
    Nếu có những người bạch y tại gia, đêï 
    tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán 
    nản và lãng xa các đệ tử của Ni Kiền 
    Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những 
    điều họ nói ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, 
    không dẫn đến chánh giác, không phải là 
    lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng 
    hoại không thể đứng vững, không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì 
    bậc thầy của họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh 
    Giác.
    Bạch Thế Tôn! Con nghe rồi kinh sợ hãi hùng, toàn thân lông tóc dựng
    đứng. Mong sau khi Thế Tôn khuất bóng, đừng có 
    một vị Tỳ kheo nào ở trong chúng mà gây ra sự
    đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy, không giúp 
    gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi 
    và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc, cho
    đến loài trời và loài người cũng phải 
    chịu đau khổ và tại hoạn. Bạch Thế Tôn! 
    khi con thấy một vị Tỳ kheo ngồi trước đức Thế 
    Tôn chí tâm kính trọng đức Thế Tôn, khéo bảo vệ đấng Thiện thệ. Bạch Thế Tôn! 
    Con thấy như vậy rồi liền nghĩ: "Nếu sau này khi Thế Tôn khuất bóng mà vị Tỳ 
    kheo ấy trong chúng gây sự đấu tranh, thì
    đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà 
    chỉ gây đau khổ cho mọi người, nó không phải là 
    sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho
    đến loài trời, loài người cũng phải chịu
    đau khổ và tai hoạn.
    Bấy giờ đức Thế Tôn hỏi: "Thầy thấy 
    những điều nào khiến chúng tăng 
    có sự đấu tranh, sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây 
    khổ cho mọi người. Không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự 
    an ổn và khoái lạc cho đến loài trời, 
    loài người cũng phải chịu đau khổ và tai 
    hoạn?
    Tôn giả A Nan thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Ðó là do tăng 
    thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng quán [7] mà phát sanh sự
    đấu tranh ở trong chúng. Bạch Thế Tôn, sự đấu 
    tranh ấy, không giúp gì cho ai mà chỉ gây
    đau khổ cho mọi người. Nó không phải là 
    sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích. Không phải là sự an ổn, khoái lạc 
    cho đến loài trời, loài người cũng phải 
    chịu tai hoạn, đau khổ.
    
    Ðức Thế Tôn nói:
    Này A nan! Nếu đấu tranh do bởi giới tăng 
    thượng, tâm tăng thượng, quán tăng thượng thì sự
    đấu tranh ấy quá nhỏ nhặt. Này A nan! 
    Nếu có sự đấu tranh trong chúng tăng do đạo và
    đạo tích [8] thì sự
    đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà 
    chỉ gây khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không 
    phải là sự an ổn khoái lạc. Này A Nan! Khi thầy thấy ở trong
    đấy có hai vị Tỳ kheo vì mỗi người có 
    mỗi ý kiến khác nhau mà gây ra cuộc đấu tranh mà 
    nói rằng: "Ðiều này là pháp, điều này là 
    phi pháp. Ðiều này là luật, điều này 
    không phải luật. Ðiều này là phạm, điều này 
    không phải là phạm. Ðiều này là nhẹ, điều này 
    là nặng. Có thể sám hối, không thể sám hối. Có thể thủ hộ, không thể thủ hộ. 
    Hữu dư, vô dư, thối, bất thối. Này A Nan! Ý thầy nghĩ sao? Ðối với pháp tu 
    của Ta được tự giác, tự thân chứng ngộ, gồm bốn 
    niệm xứ, bốn như ý túc, năm căn, năm lục, bảy giác chi, tám chi thánh đạo? 
    Này A Nan! Nếu Ni Kiền Thân Tử, biết tất cả, thấy tất cả thì vị ấy
    đã vì đệ tử 
    mà giảng giải sáu gốc rễ của đấu tranh
    [10] đều đáng được nghe, nhưng lại thôi.
    
    Bấy giờ Tôn giả A Nan chắp tay hướng về đức 
    Phật bạch rằng:
    Bạch Thế Tôn! Nay thật là đúng lúc. Bạch 
    Thiện thệ! Nay thật hợp thời, nếu Thế Tôn dạy về sáu gốc rễ của sự
    đấu tranh cho các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo sau khi 
    nghe Thế Tôn dạy sẽ khéo léo thọ trì.
    Ðức Thế Tôn bảo:
    Này A Nan, hãy nghe kỹ; hãy suy nghĩ kỹ. Ta sẽ phân biệt
    đầy đủ. Tôn giả A Nan bạch rằng:
    Kính vâng, xin vâng lời lắng nghe.
    Ðức Phật dạy:
    Này A Nan! Ở đây có một người bị kiết sử 
    phẫn và hận quấn chặt[11] . Này A Nan! Người ấy bị kiết sử phẫn và 
    hận quấn chặt cho nên không cung kính tôn sư, không thấy
    được pháp, không giữ gìn giới luật. 
    Người ấy đã không cung kính tôn sư, 
    không thấy được pháp, không giữ gìn giới 
    luật, ở trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như 
    vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi 
    người, không phải sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn khoái lạc, 
    cho đến trời người phải chịu đau khô và 
    tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự đấu tranh 
    như vậy ở bên trong hay bên ngoài mà không dứt hết
    được. Vậy, để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy 
    phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, 
    chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất. Này 
    A Nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt 
    cháy áo, thì phải cấp tốc tìm phương tiện
    để chửa cháy đầu, chửa cháy áo . Cũng vậy, nếu 
    thầy thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không 
    dứt hết được. Vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, 
    thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh 
    niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này 
    A nan! Sự đấu tranh cũng như vậy, nếu thầy thấy 
    được suốt trong và ngoài, thầy phải thủ hộ cái tâm
    đó hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì
    để ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. [12] 
    Cũng giống như vậy với các kiết sử phú tàng [13] , bỏn xẻn, tật
    đố, dua nịnh, dối trá, vô tàm, vô quý, 
    ác dục, tà kiến, và ác tánh không biết phục thiện. [14] 
    Này A Nan! Nếu một người nào có ác dục, tà kiến, ác tánh, không biết phục 
    thiện thì người ấy không tâm cung kính tôn sư, không thấy
    được pháp, không giữ gìn giới luật, rồi 
    ở trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như vậy. 
    Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. 
    Không phải là thiện lợi, không phải là hữu ích, không phải là an ổn khoái 
    lạc, cho đến trời người cũng phải chịu đau khổ 
    và tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự 
    đấu tranh như vậy ở bên trong hay ở bên ngoài, mà không biết suốt hết
    được. Vậy để ngăn chận sự đấu tranh ấy, thầy 
    phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện học tập tinh cần, chánh niệm 
    chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này 
    A nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt 
    cháy áo thì phải cấp tốc tìm cầu phương tiện
    để chửa cháy đầu, cháy áo. Cũng vậy, nếu thầy 
    thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không biết 
    suốt hết được, vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, 
    thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh 
    niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này 
    A Nan! Nếu sự đấu tranh như vậy mà thầy 
    thấy suốt hết trong và ngoài, thầy phải hết sức thủ hộ cái tâm ấy hơn nữa, 
    luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chận sự 
    đấu tranh ấy vậy. Thầy phải đoạn trừ gốc rễ của sự đấu tranh ấy.
    
    Lại nữa, này A nan! Có bảy phương pháp diệt trừ
    đấu tranh [15] . Bảy phương pháp
    đó là: Một là ưng dữ diện tiền chỉ tránh 
    luật, hai là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Ba là ưng dữ bất si dữ tránh luật, 
    bốn là ưng dữ phát lồ chỉ tránh luật, năm là 
    ưng dữ quân chỉ tranh luật, sáu là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật, bảy 
    là ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tranh luật.
    Này A Nan! Thế nào là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật? Làm thế nào
    để đoạn trừ sự đấu tranh này? tức là 
    luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện. Này 
    A Nan! Hoặc một người đối với một người, mà 
    khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp 
    luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến
    được hoan hỷ. Một người đối với hai người, một 
    người đối với nhiều người, một người đối với chúng tăng mà khuyến 
    giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật 
    như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến
    được hoan hỷ. Hai người đối với hai người mà 
    khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp 
    luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến
    được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, 
    hai người đối với chúng tăng, hai người đối với một người mà khuyến 
    giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật 
    như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến
    được hoan hỷ. Nhiều người đối với nhiều người mà 
    khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp 
    luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến
    được hoan hỷ. Nhiều người đối với chúng tăng, 
    nhiều người đối với một người, nhiều người đối với hai người mà 
    khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp 
    luật như Tôn sư đã chỉ giáo với sự hiện diện khiến
    được hoan hỷ. Chúng tăng đối với một người, 
    chúng tăng đối với hai người, chúng tăng đối với nhiều người mà 
    khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp 
    luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến
    được hoan hỷ. [17] Này A Nan! Như vậy 
    gọi là Ưng dữ hiện tiền chỉ tránh luật. Sự đấu 
    tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện 
    diện.
    
    Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ ức chỉ tránh luật? làm thế nào
    để đọan trừ sự tranh đấu này? Tức là do 
    chấm dứt đấu tranh bằng nhớ lại. Này A 
    Nan! Nếu có một người nào phạm giới mà không nhớ lại giới mình
    đã phạm. Các thầy Tỳ kheo thấy vậy, nói 
    với vị ấy rằng:
    Thầy đã phạm giới mà không nhớ lại 
    giới mình đã phạm. Thầy hãy
    đến trong chúng mà xin luật ức niệm. Tăng 
    chúng sẽ ban cho hiền giả luật ức niệm. Này A nan! nếu ở một nơi nào 
    có tăng chúng hòa hiệp mà nhóm họp vị Tỳ 
    kheo kia phải đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào 
    trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc 
    trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quỳ mọp mà bạch với các 
    trưởng lão thượng tôn rằng: Bạch chư tôn, mong các ngài nghe cho, con
    đã từng phạm giới mà không nhớ, hay con 
    từ nơi chúng tăng cầu xin luật ức niệm. Mong 
    tăng chúng hòa hợp ban cho con luật ức niệm.
    Này A nan! Tăng chúng hòa hợp lại
    để ban cho vị Tỳ kheo này luật ức niệm, 
    bằng pháp và luật như tôn sa đã chỉ dạy, 
    với sự hiện diện khiến cho được hoan hỷ. 
    [19] . Này A Nan! Như vậy gọi là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Sự
    đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do 
    luật chấm dứt đấu tranh bằng cách nhớ lại.
    
    Này A Nan! Thế nào là ưng dữ bất si chỉ tránh luật? [20] Làm thế nào
    để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là luật 
    chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng. Này 
    A nan! nếu có một người do phát cuồng mà tâm điên
    đảo, nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, 
    không phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói vi 
    phạm. Người ấy sau khi trở lại tâm trạng như trước, gặp các Tỳ kheo và
    được bảo rằng: "Thầy
    đã phát cuồng và tâm
    điên đảo, 
    do phát cuồng và tâm điên
    đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, 
    không phải pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói vi phạm. 
    Này Hiền giả! Nếu Hiền giả sau khi trở lại tâm trạng như trước, hiền giả có 
    thể đến nơi chúng tăng mà cầu xin luật 
    bất si. Chúng tăng sẽ ban cho hiền giả luật bất 
    si. Này A Nan , nếu một nơi nào đó tăng 
    chúng đang hòa hợp và nhóm hội, vị Tỳ kheo ấy nên
    đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong 
    tăng chúng, cúi đầu lễ sát dưới chân các bậc 
    trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo chắp tay quì mọp, mà bạch với các 
    trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo rằng: "bạch chư tôn, xin nghe cho, con
    đã từng phát cuồng và tâm
    điên đảo. 
    Do con đã phát cuồng và tâm điên
    đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh không 
    phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà còn nói vi phạm. 
    Về sau con trở lại tâm trạng như trước. Nay con từ nơi chúng tăng 
    xin cầu luật bất si. Mong chúng tăng hòa hợp ban cho con luật bất si. 
    Này A Nan, chúng tăng cùng hòa hợp và 
    nhóm hội, ban cho vị Tỳ kheo ấy luật bất si, bằng pháp và luật như tôn sư
    đã chỉ giáo, với sự hiện diện, khiến
    được hoan hỷ. Này A Nan,
    đó gọi là ưng dữ bất si chỉ tránh luật. 
    Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do 
    luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng.
    
    Này A Nan! Thế nào là ưng dữ tự phát lồ chỉ tranh luật [21]? Sự
    đấu tranh làm thế nào
    để chấm dứt? Tức do luật chấm dứt
    đấu tranh bằng sự tự thú nhận. Này A 
    Nan, nếu có một người phạm giới, hoặc nói ra hay không nói ra, hoặc có nhớ 
    hay không nhớ. Này A Nan , nếu tại nơi nào đó 
    có chúng tăng đang hòa hợp và nhóm hội. Vị Tỳ kheo kia nên
    đến đó, trịch vai áo, bỏ giốc, vào trong 
    chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng 
    lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quì mọp mà bạch rằng: "Bạch chư tôn, 
    xin nghe cho, con phạm giới đó, con nay hướng 
    về các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chí tâm phát lồ, tự mình 
    nói và trưng bày rõ, không dám che dấu, từ nay về sau sẽ khéo léo hộ trì 
    không tái phạm. Này A nan , chúng Tỳ kheo nên hỏi vị ấy rằng: "Này Hiền giả, 
    có tự thấy điều mình phạm không?" Vị Tỳ 
    kheo ấy đáp: "Con thật sự có thấy
    điều con phạm”. Ðại chúng cũng nên nói 
    với vị ấy rằng: "Hiền giả nên cẩn thận giữ gìn 
    đừng tái phạm”. [22] Này A Nan! Ðó là ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh 
    luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như 
    vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự từ thú nhận.
    
    Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ quân chỉ tranh luật? [23] Làm sao
    để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật 
    chấm dứt đấu tranh bằng chín đương nhơn. Này 
    A Nan! Nếu có người không biết xấu hổ, không hối hận những tội bị thấy, bị 
    nghe và bị người khác nghi ngờ là ác dục. người ấy
    đã phạm giới rồi nói là mình biết ở một 
    nơi, mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình biết ở một nơi này, lại nói mình 
    thấy ở một nơi. Sau khi nói mình thấy ở một nơi, lại nói mình biết ở một 
    nơi. Ở trong tăng chúng mà nói là mình 
    biết ở một nơi, ở trong tăng chúng mà 
    nói là mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình thấy ở 
    một nơi. Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A Nan! 
    Vì vị Tỳ kheo ấy, tăng chúng hòa hiệp và 
    nhóm họp mà ban luật Dương nhơn [24] mà nói rằng: "Nhà ngươi không
    đạo lý, nhà ngươi ác bất thiện. Vì sao? 
    Vì ngươi đã phạm giới rồi lại nói mình 
    biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói 
    mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi, rồi lại nói mình biết ở một 
    nơi. Ở trong chúng mà nói mình biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình 
    thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này 
    A Nan! Như vậy gọi là Ưng dữ quân chỉ tránh luật. Sự
    đấu tranh ấy phải được đoạn trừ bằng sự như 
    vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chính dương nhơn.
    
    Này A Nan! Thế nào là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật [25]? Làm thế 
    nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là 
    do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự diển tiến. Này 
    A Nan! Ở đây, giữa hai vị Tỳ kheo vì một 
    số ý kiến mà gây ra sự đấu tranh như vầy: 
    "Ðây là pháp, đây phi pháp. Ðây là luật,
    đây không phải là luật;
    đây là phạm,
    đây không phải là phạm;
    đây là nhẹ, 
    đây là nặng; điều này nên nói,
    điều này không nên nói;
    điều này 
    đáng thủ hộ, điều này không đáng thủ hộ; 
    điều này còn dư, điều này không 
    còn dư; điều này có thể sám hối,
    điều này không thể sám hối. Này A Nan! 
    Vị Tỳ kheo kia ngay tại chỗ đang cải vã 
    ấy mà chấm dứt đấu tranh. Nếu ngay tại chỗ cải 
    vã mà chấm dứt đấu tranh, thì sự
    đấu tranh này
    được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay tại 
    chỗ cải vã mà không chấm dứt, có thể đưa sự đấu 
    tranh ra bạch với chúng tăng. Nếu ở trong chúng tăng mà chấm dứt, thì 
    sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm 
    dứt. Nếu trong chúng tăng không chấm dứt, thì 
    này A Nan! Ở trong đó, gần đó có Tỳ kheo giỏi 
    kinh, giỏi luật, giỏi luận [26] , các Tỳ kheo kia cùng
    đến vị này thưa việc
    đấu tranh ấy. Nếu ngay trên
    đường đi mà chấm dứt, thì sự
    đấu tranh được tuyên bố là chấm dứt. Nếu 
    ngay trên đường đi mà không chấm dứt, 
    lại hãy đem sự đấu tranh ấy nói trước chúng 
    tăng. Nếu ở trước chúng tăng mà chấm dứt, sự
    đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. 
    Nếu ở tại chúng tắng mà không chấm dứt thì này A Nan, nếu nhiều trò bạn giỏi 
    kinh, giỏi luật, giỏi luận, thì các vị này phải chấm dứt sự
    đấu tranh ấy bằng pháp và luật như tôn 
    sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến
    được hoan hỷ. Này A Nan, như vậy gọi là 
    ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật. Sự đấu 
    tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức là do luật chấm dứt
    đấu tranh bằng sự triển chuyển.
    
    Này A Nan! Thế nào gọi là Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật[27]? Làm 
    sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là 
    luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách. Này 
    A Nan! Nếu các vị Tỳ kheo ở chung một chổ tranh chấp, kiện tụng nhau, thù 
    nghịch nhau, oán ghét nhau. Này A Nan! Do đó 
    các Tỳ kheo kia chia ra hai nhóm. Sau khi chia ra hai nhóm rồi, trong một 
    nhóm có bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, hay dưới trưởng lão một 
    bậc; hoặc có người làm tông chủ hay nhỏ hơn tông chủ một bậc. Này A Nan! Vị 
    Tỳ kheo này nói với các vị Tỳ kheo kia rằng: "Này chư hiền, xin nghe cho, 
    chúng ta không có đạo lý, chúng ta là 
    người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối 
    với pháp và luật được khéo giảng dạy mà 
    chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia
    đình, để 
    học đạo, nhưng chúng ta tranh chấp kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, 
    oán ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền do sự tranh chấp này mà chúng ta
    đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá 
    [28] và ngoại trừ tội tương ưng với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng 
    vì chư hiền nữa, nên hướng đến chư hiền phát 
    lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che dấu, lại cẩn thận giữ 
    gìn sau không tái phạm nữa.
    Này A Nan! nếu ở trong nhóm này mà không có vị Tỳ kheo nào ứng theo, thì 
    này A Nan! Tỳ kheo ấy nên đi đến nhóm thứ hai.
    Ðến nơi rồi, cúi đầu đảnh lễ các bậc 
    thượng tôn trưởng lão Tỳ kheo chắp tay quì mọp mà thưa rằng: "Thưa 
    chư tôn, xin nghe cho, chúng ta không có đạo 
    lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta
    đối với pháp và luật
    được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ 
    gia đình, sống không gia
    đình để học 
    đạo, nhưng chúng ta tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán 
    ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền, do sự tranh
    đấu này mà chúng ta
    đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan 
    giá, và ngoại trừ tội tương đường với hàng 
    tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chính chư hiền nữa, nên hướng
    đến chư hiền chí tâm phát lồ, tự nói mà 
    trình bày rõ ràng, không dám che giấu, lại cẩn thận giữ gìn sau không tái 
    phạm nữa.
    Này A Nan! các Tỳ kheo kia nên nói với vị Tỳ kheo này như vầy: "Này hiền 
    giả! Thầy tự thấy mình phạm giới chăng?
    Vị Tỳ kheo này đáp:
    Quả thật tôi tự thấy mình đã phạm 
    giới.
    Tỳ kheo kia nên nói:
    Vậy hãy cẩn thận giữ gìn, đừng để tái phạm."
    Nhóm thứ hai cũng làm như vậy. Này A Nan, như vậy gọi là Ưng dữ như khí 
    phấn tảo chỉ tránh luật. Này A Nan! Sự đấu 
    tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh như 
    quăng bỏ dẻ rách.
    
    Này A Nan! Nay ta nói cho thầy sáu pháp ủy lao [29] , hãy lắng nghe kỹ, 
    hãy khéo suy nghĩ kỹ. Tôn giả A Nan bạch rằng: Kính vâng, con xin vâng lời 
    lắng nghe. Ðức Phật dạy:
    Thế nào là sáu: Thần nghiệp từ hòa hướng đến 
    các vị đồng phạm hạnh [30] , pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Ðó là pháp 
    khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho 
    phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận,
    được là sa môn,
    được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc 
    Niết Bàn.
    Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp 
    từ hòa, có lợi lộc nào đúng pháp mà
    được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình 
    bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia xẻ cho các vị
    đồng phạm hạnh [32] , pháp
    đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, 
    pháp khả lạc, khiến cho ái niệm khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, 
    khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận,
    được là sa môn,
    được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc 
    Niết Bàn.
    Nếu có giới nào không bị sứt mẽ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị
    đen, vững vàng như mặt
    đất [33] 
    được thánh khen ngợi, đầy đủ cẩn thận, thọ trì. Với giới phần như 
    vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh
    [34] , pháp đó là pháp ủy lao, là 
    pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến 
    cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận,
    được là sa môn,
    được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc 
    Niết Bàn.
    Nếu có kiến giải của thánh có sự xuất yếu, có sự thấy rõ, có sự thấu 
    triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến 
    phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị 
    đồng phạm hạnh, [35] , pháp đó là 
    pháp ủy lao là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho 
    tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến 
    cho hòa thuận, được là sa môn,
    được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc 
    Niết Bàn.
    Này A Nan! Ta vừa nói sáu pháp ủy lạo, vì vậy mà ta giảng giải. Này A 
    Nan! Nếu các thầy đối với sáu gốc rễ của đấu 
    tranh mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và 
    với bảy pháp chấm dứt đấu tranh, khi trong tăng 
    chúng khởi lên đấu tranh, thì 
    chấm dứt bằng luật chấm dứt đấu tranh như quăng 
    bỏ dẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lạo ấy, thì này A Nan! Như 
    vậy sau khi Ta khuất bóng, các con sống cộng 
    đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng
    đồng nhất trong một tâm, cùng
    đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp 
    như nước với sữa, khoái lạc du hành như lúc Ta còn tại thế.
    Ðức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A Nan và chư Tỳ kheo sau khi nghe Phật 
    dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
    -ooOoo-
    
    Chú thích:
    
    [1] Tương đương Pali: M.103. 
    Sàmagàma sutta.
    
    [2] Bạt Kỳ, Xá di thôn: Địa danh này 
    khó đồng nhất với Pali: Sakkesu 
    [...] Sàmagame, là một ngôi làng của giòng họ Sakya.
    [3] Sa di Châu Na: Cunda samuddesa.
    Được đồng với Maha Cunnda em ruột 
    ngài Saributta và đắc quả A na hàm trong 
    lúc làm sa di. [xem PP.11.877-8] .
    [4] Ba Hòa: Pàvà , một thị trấn của bộ tộc Malla.
    Đoạn đường cuối cùng của Phật,
    đi từ Pàvà 
    đến Kusinàrà và ngài dừng chân
    để nghỉ 25 lần trên
    đoạn đường ấy.
    
    [5] Ni Kiền Thân Tử: Nigantha-Nàta-punta. Một trong lục sư 
    ngoại đạo.
    
    [6] Ngài A Nan là bổn sư của Châu Na.
    [7] Bản Pali: do ajihàjìva và do adhipatimokkha:Tăng 
    thượng hoặc mạn và tăng thượng giới bổn.
    [Bản Việt: III.tr.244-245] , cả hai đều 
    chỉ liên hệ đến giới luật. Bản Hán nói 
    do cả giới định tuệ. 
    
    [8] Đạo và
    đạo tích: Pali: Magga và Pàtipàda. 
    Con đường dẫn đến chứng ngộ và sự tụ tập 
    con đường ấy.
    
    [9] Tát vân nhã: phiên âm trong Pali: Sabbannu.
    [10] Lục tranh bốn:
    [11] Sân não kết triền: Phẩn hận và thù nghịch.
    [12] Trong bản hán có một đoạn lặp lại, từ 
    chỗ: "Ví như có người bị lửa cháy đầu”, 
    cho đến đây.
    
    [13] Bất ngũ kết:
    [14] Ac tánh bất khả chế: thuật ngữ thường nói là: "Ác tánh bất 
    thọ nhơn ngữ ! Tánh ương ngạnh không chịu nghe lời.
    Đoạn này tóm tắt, liệt kê các cập kiết 
    sử làm nguyên nhân cho đấu tranh, có thể xếp 
    loại theo thuật ngữ thông dụng: Phẩn-hận, phú, não, tật, xan, cuồng, 
    siểm, vô tàn vô quý, ác dục, tà kiến, xem thêm 
    đối chiếu kinh 98 trên. Xem giải thích Tập Dị 15 [DTK.1536, 
    tr.431a-b] 
    [15] Thất chỉ tránh: Thuật ngữ luật tạng thường nói là: Thất 
    diệt tránh pháp: Pali: Satta adhikarapa samathà.
    
    [16] Ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật: nói là Hiện tiền Tỳ ni: 
    Nếu phán quyết về một tội trạng của một Tỳ kheo, hoặc trục xuất hoặc nói các 
    biện pháp chế tài, phải có sự hiện diện của Tỳ kheo ở
    đó, ở đây, Phật cũng giảng giải về các cách 
    phán quyết hiện diện đó. Pali: Sammukkhàvinaya dàtabba .
    [17] Các trường hợp áp dụng luật hiện tiền: Có trường hợp chỉ cần một 
    người chỉ trích một người, có trường hợp phải do số
    đông. Luật tạng còn phân biệt chi tiết, 
    phải đủ ba yếu tố hiện tiền, phán quyết nói có 
    giá trị: Pháp hiện tiền: dẫn chứng các lời Phật dạy. Luật 
    hiện tiền: nêu rõ điều luật bị phạt và
    nhơn hiện tiền: phải có sự hiện diện của 
    đương sự. Nếu trường hợp cần đại tăng, phải thêm hai yếu tố.
    Đó là Tăng 
    hiện tiền, và giới hiện tiền, tức giới hạn của phòng hợp 
    với sự hạn chế được luật quy định [Xem 
    luật Tứ Phần, 17. DTK.1428, tr.915c-7c] .
    [18] Ưng dữ ức chỉ tránh luật: cũng thường nói là ức niệm Tỳ ni.
    [19] Tỳ kheo Đáp bà ma la bị các vị 
    khác nghi ngờ phạm trọng tội, nên nhiều lần bị cật vấn, và do
    đó rất khổ tâm về vụ này. Nhân
    đó Phật thiết lập luật ức niệm tỳ ni, để vị ấy 
    đến trước tăng chúng nói rằng mình không nhớ, và khi chúng tăng 
    đã phán quyết theo luật ức niệm tỳ ni, không ai
    được coi vị ấy là người
    đã phạm tội [Luật tứ Phần, dd, tr, 914a] 
    .
    [20] Bất si chỉ tránh luật: cũng thường nói là bất si tỳ ni.
    [21] Ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật: Cũng nói là Tự ngôn trì 
    Tỳ nại da: Thông thường hơn: Tự ngôn trị diệt tránh:
    [22] Vào ngày Bố tát, Tôn giả A Nan thỉnh Phật
    đến trước chúng tăng thuyết giới. Phật từ chối, 
    Ngài nói không thuyết giới kiết ma trước một
    đại chúng không thanh tịnh. Tôn giả Mục Kiền Liên 
    nhân đó quán sát chúng tăng, biết được một Tỳ 
    kheo phạm giới, bèn đến nắm tay kéo ra 
    khỏi giới trường. Phật liền trách Mục Kiền Liên, và thiết lập
    điều luật này: Trước khi phán quyết một 
    Tỳ kheo phạm giới, phải làm cho vị ấy nhận tội 
    đã. [dd, tr.915a] 
    [23] Ưng dữ quân chỉ tránh: cũng nói: cầu bỉ tự tánh tỳ nại da: 
    hay thông thường hơn: mích tội tướng.
    [24] Quân luật: luật áp dụng cho chính Ngài. Vì vị này khi bị hỏi 
    tội, cứ nói loanh quanh, nên tăng chúng phải 
    chỉ định ngay tội danh: Chính Ngài đã 
    phạm tội.
    [25] Ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật: cũng nói là Thủ
    đa nhơn tỳ nại da: hay
    Đa mích tội tướng:
    [26] Trì mẫu: hay nói là Trì ma di: [Luật Tứ Phần 17, 
    DTK.1428, tr.918b] .
    [27] Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật: cũng nói: Như thảo 
    phú địa Tỳ nại da:
    [28] Thâu lan thác: thường nói là Thâu lan giá: các tội nhẹ 
    hơn Ba la di [tội trục xuất] và tăng già 
    bà thi sa [tội biệt chúng] một bậc.
    [29] Lạc ủy lạo pháp: sáu pháp này thường
    được biết là sáu pháp hòa kỉnh hay lục 
    hòa. Tập dị 15 [DTK.1536, tr.431b] , gọi là sáu pháp khả hỷ.
    [30] Từ thân nghiệp: Đây là 
    thân hòa đồng trú .
    [31] Từ khẩu nghiệp, từ ý nghiệp: thường nói: Khẩu hòa vô tránh và 
    ý hòa đồng duyệt.
    
    [32] Lợi hòa đồng quân.
    
    [33] Như địa bất tùy tha.
    [34] Giới hòa, kiến hòa.
    [35] Kiến hòa đồng giải.