| 
         Phần 
        II - TỨ DIỆU ĐẾ (tiếp theo) 
        -ooOoo- 
        II-4h 
        CHÁNH 
        ÐỊNH 
        (Sammà-samàdhi)
        "Chánh Ðịnh là thế nào? 
        
        M. 44 
        - "Tư cách chú tâm và một vật duy nhất, 
        "Cittakaggata" (và chẳng nghĩ đến bất cứ việc gì 
        khác). Ðó là pháp định tâm". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          "Tư cách tịnh tâm toàn 
          hảo "Sammà samadhi" (Chánh Ðịnh) theo ý nghĩa 
          rộng rãi, nó thuộc vào loại Ðịnh tâm phát sanh trong 
          mỗi tư tưởng về việc lành "kusalacitta" (thiện 
          tâm). 
          Tâm thiện có kèm theo: 
          
            - Tư tưởng chân chánh 
            "Sammà sankappa" (Chánh tư duy), trong bước thứ 2 
            của Bát Chánh Ðạo. 
            - Chánh tinh tấn "Sammà vàyàma" trong bước thứ 
            6. 
            - Chánh niệm "Sammà sati" trong bước thứ 7. 
           
          Trạng thái tịnh tâm bất chánh 
          (xấu xa) thường phát sanh do tư tưởng đê hèn dơ bẩn. Nó 
          thuộc về lãnh vực của các giác quan, chứ không phải Chánh 
          Ðịnh. 
          Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) có nói 
          về 2 trạng thái của phàm Ðịnh: 
          
            - Kàmàvacara Kusala Jhàna (Thấm 
            nhuần trong tư tưởng tốt lành cao thượng). 
            - Kàmàvacara Akusala jhàna (Thấm nhuần trong tư tưởng 
            xấu xa tội lỗi). 
           
          
          Cả 2 trạng thái đó đều thuộc lãnh vực của lục căn. 
          
          Nếu được áp dụng riêng rẽ, 
          danh từ Samàdhi cũng có nghĩa "Chánh Ðịnh" (Sammà 
          Samàdhi). 
           
        
        M.44 
        - Bốn Pháp niệm tưởng căn bản "Tứ Niệm Xứ" là 
        những đề mục tập trung tư tưởng hay là tham thiền. 
        Bốn pháp tinh tấn cốt yếu, 
        "Chánh Tinh Tấn" (bước thứ 6), rất cần cho sự hành 
        thiền. 
        Thực hành làm cho phát triển và 
        gieo trồng những Pháp kể trên được gọi là tư cách 
        "tiến triển" (Bhàvanà) trong pháp tu thiền định. 
        
          
          PHÁP ÐỊNH TÂM - GIẢI THÍCH 
          CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA 
          Có 2 mức độ tiến triển về 
          tư cách Ðịnh tâm chân chánh, hay là "Chánh Ðịnh" 
          (Sammà samàdhi): 
          - Cận Ðịnh (Upacàra samàdhi) là 
          trạng thái kề cận Ðịnh Tâm(Jhàna) thứ I (Sơ Thiền) nhưng 
          chưa nhập Ðịnh. 
          - Ðịnh tâm toàn hảo (Appanà 
          samàdhi - Toàn định) là thành tựu đầy đủ 4 bậc 
          thiền. 
          Tuy nhiên đắc được tất cả 
          4 bậc Thiền đó không phải là cần thiết để đạt 4 thánh 
          quả, hay là "Bốn con đường siêu thoát". Vì nói 
          theo bản chất, những trạng thái Cận Ðịnh hay Nhập Định 
          đều có khả năng đưa tới mục đích của "Ðạo 
          Xuất Thế Gian" (Giải Thoát). Và Thiền Ðịnh cũng không 
          thể tẩy trừ các ác Pháp lâu dài đặng. 
          Bốn đạo quả thánh nhân chỉ 
          thành đạt được bằng Pháp "Minh Sát" (Vipassanà) 
          hay là minh tâm kiến tánh. Nghĩa là dùng trí tuệ soi sáng 
          nội tâm để thấy rõ đúng theo chân lý những trạng thái 
          Vô thường (Aniccatà), Khổ não (Dukkhatà) và Vô Ngã 
          (Anattatà) của tất cả các pháp tạo ra đời sống. 
          Tuy nhiên tuệ giác cứu cánh 
          chỉ có thể thành đạt trong giai đoạn "cận định" 
          chớ không phải trong lúc nhập định. 
          Hành giả nào không đắc Thiền 
          định nhưng vẫn đạt được một trong bốn thánh quả 
          được gọi là "Sukkhavipassaka", nghĩa là người có 
          nhãn quang soi thấu tất cả, hay là người đã dùng 
          "Minh Sát tuệ" làm khô cạn phiền não. 
          Còn hành giả nào đã thực hành 
          làm phát triển các bậc Thiền mà đắc được trong bốn 
          quả Thánh thì được gọi là "Samaka Yànaka", nghĩa 
          là người đã dùng pháp môn "Tịnh Tâm" làm căn 
          bản. 
          
         
        BỐN BẬC THIỀN (Jhàna) 
        
        M.141 
        - "Khi chẳng còn dính mắc với sắc trần với các điều 
        nhơ nhớp, hành giả bước vào bậc Ðịnh tâm thứ nhất là 
        Sơ Thiền. Người thấm nhuần an vui hạnh phúc, không còn 
        luyến ái". 
        
        M.43 
        - "An trú trong Sơ Thiền, hành giả loại được 5 điều 
        chướng ngại là: Tham dục, Sân hận, Hôn trầm, Phóng tâm, 
        Hoài nghi, và phát triển được 5 thiền chi: Tầm (Vitakka), Sát 
        (vicàra), Phỉ lạc (Piti), An vui (Sukkha) và Ðịnh (Cittekkagatà 
        samàdhi, Nhất tâm định). 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Vitakka (phối hợp sơ khởi các 
          tư tưởng trừu tượng) và Vicàra (Phối hợp tư tưởng 
          liên tục). Những tư tưởng này có tánh cách phụ thuộc 
          so với Tâm. 
          Trong kinh Visudhi Magga (Con đường 
          thanh tịnh), Vitakka (Tầm) ví như vớ lấy cái ô và Vicàra 
          (Sát) là việc lau chùi cái ô. 
           
        
        M. 27 
        - "Tiếp theo đó, cái tâm trở nên an tịnh và tư tưởng 
        được thăng bằng, hành giả bước vào tình trạng không còn 
        Tầm (Vitakka) và nhập vào nhị Thiền, phát sanh do tâm Định 
        (samàdhi). Hành giả thấm nhuần sự Phỉ lạc (Piti) và An 
        vui (Sukkha). 
        Sau đó, cái tâm phỉ lạc tan 
        biến, hành giả an trú trong sự an Ðịnh nhưng còn biết mình. 
        Người trắc nghiệm trạng thái này mà bậc hiền triết thường 
        hoan hô: "Hạnh phúc thay! Khi con người được an trú 
        trong sự thanh tịnh và ghi nhớ của tâm". Chừng đó hành 
        giả nhập vào Tam Thiền phát sanh với tâm Xả (upekkha), sự 
        An vui (Sukkha) và Ðịnh (Samàdhi). 
        
        M.27 
        - "Tiếp theo đó, sự biến tan của các niềm vui khổ quá 
        khứ, hành giả chẳng còn cảm thấy vui buồn nào cả, người 
        vượt qua khỏi ranh giới của những điều vui khổ và 
        nhập vào Tứ Thiền. Ðến đây, người chỉ còn lại tâm 
        Niệm và tâm Xả." 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Bốn bậc Thiền Ðịnh (phàm Ðịnh) 
          có thể thành đạt bằng cách niệm hơi thở vô ra (anàpàna 
          sati) và bốn bậc Thiền cao thượng (nhất là Tứ thiền) 
          thì do pháp "Tịnh tâm" (và niệm tưởng). 
           
        
        CÁC BẬC THIỀN CAO THƯỢNG 
        
        VM.9 - 
        Tham thiền về tâm từ (metta bhàvanà), tham thiền về tâm bi 
        mẫn (karuna bhàvanà), và tham thiền về sự hỷ lạc (mudita 
        bhàvanà) có thể đưa tới nhập định. 
        
        VM.6 - 
        Tham thiền về bãi tha ma cũng như về các vật ô trược 
        (asubha bhàvanà) chỉ đưa tới sơ Thiền mà thôi. 
        
        VM.6 - 
        Niệm thân, niệm ân đức Phật, ân đức Pháp, ân đức Tăng 
        và niệm Giới thì chỉ đưa tới cận định (upacàra samàdhi). 
        
        S.21 - 
        "Các người nên cố gắng làm phát triển pháp môn 
        Thiền Ðịnh, vì kẻ nào có tâm an định mới mong hiểu rõ 
        mọi vật đúng theo chân lý. Mà những vật đó là gì? Ðó 
        là tư cách sanh diệt của năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, 
        Thức. 
        
        M.48 - 
        "Như thế cần phải hiểu rõ bằng trí tuệ năm uẩn 
        tạo nên đời sống. 
        Si mê và tham dục cần phải 
        loại trừ bằng trí tuệ. Pháp môn định tâm (Samatha - an 
        chỉ) và Minh Sát (Vipassanà) phải được triệt để phát 
        triển bằng trí tuệ". 
        
        S.56 - 
        "Ðó là con đường đi giữa (Trung đạo) do Ðấng Toàn 
        Giác đã khám phá và đem ra phổ biến để đưa tới an 
        tịnh, tới sự biết phân biệt (chánh, tà), tới Giác 
        Ngộ... tới Niết Bàn. 
        
        DHP.275 - 
        "Và đi theo con đường siêu việt đó, các ngươi sẽ 
        chấm dứt được nguồn thống khổ". 
        NIẾT BÀN 
        
        A.IV. (198) - 
        "Và tâm trí (của bậc đã được Giác Ngộ) trở nên 
        tự do, không còn tham dục, không còn ngã chấp và đã thoát 
        ly ra khỏi nơi tối tăm mờ ám (vô minh). 
        Người rất thích thú: "Ta đã 
        được giải thoát rồi!" Nhận định này phát sanh trong 
        con người đã Giác Ngộ. 
        Người hiểu rằng: "Ta sẽ không 
        còn tái sanh nữa. Ðời đạo đức đã vẹn toàn. Việc 
        phải làm ta đã làm xong và chẳng còn gì phải bận tâm trên 
        thế gian này nữa". 
        
        M.26 - 
        "Ta được tự do vĩnh viễn. 
        Ta chỉ còn sanh ra trong kiếp này thôi. 
        Chẳng còn sự tái sanh nào lôi kéo được ta ". 
        
        M.140 - 
        "Thật ra, đây là trí tuệ tuyệt vời cao cả. Ta biết 
        rằng nguồn khổ đã biến tan. Và đây là sự an vui tuyết 
        đối. Ta biết rằng đã dập tắt được sư tham dục, si mê, 
        oán hận." 
        BẬC THANH TỊNH (MUNI) 
        
        M.140 - 
        "Nói rằng: Ta đây, là một ý định vô ích. Không 
        phải ta đây, là một ý nghĩ vô ích. Sẽ có ta nữa, là 
        một ý nghĩ vô ích." Những ý nghĩ đó, ví như một 
        chứng bệnh, một vết thương, một cái gai nhọn. 
        Khi nào tẩy trừ được những ý 
        nghĩ vu vơ không lợi ích, người trở thành bậc thanh tịnh 
        "Muni" (Giữ sự im lặng đối với những tư tưởng 
        vô ích). 
        Và bậc thanh tịnh đó không còn 
        sanh trưởng nữa, không còn chết nữa, và chẳng còn tham 
        muốn gì nữa. Nếu chẳng tái sanh và bị già nua nữa, thì 
        cái chết làm sao đến được? Mà khỏi chết thì có gì 
        phải sợ hải lo âu? Và nếu không còn sợ thì cần gì 
        phải tham muốn?". 
        MỤC ÐÍCH THẬT SỰ 
        
        M.29 - 
        "Như thế, mục đích của đời đạo đức không phải 
        chỉ trông cậy vào vật tín thí, vào tiếng tăm tham vọng, 
        mà cũng không phải để thành đạt học thức cao thâm thông 
        suốt. 
        Chỉ có tư cách giải thoát hoàn 
        toàn tâm trí mớ là cuộc sống siêu nhân và đó là căn 
        bản, đó là mục đích". 
        
        M.51 - 
        "Những bậc đại hiền, những bậc Giác Ngộ thời quá 
        khứ khuyến hoá hàng môn đệ với mục đích đó. Hiện nay 
        Như Lai dạy các giới tử cũng thế. Và trong tương lai các 
        Bậc Toàn Giác cũng hành động với đường lối đó". 
        
        D.22 - 
        "Hỡi này các đệ tử! Tuy nhiên sau khi Như Lai diệt độ, 
        các ngươi có thể nghĩ rằng: "Giáo Pháp của đức 
        Thầy không còn nữa! Chúng ta mất vị Giáo Chủ rồi". 
        Hỡi các đệ tử! Chớ nên nghĩ 
        như vậy. Chính Giáo Pháp (Dhamma) và Giới Luật (Vinaya) của 
        Như Lai để lại sẽ là thầy tổ các ngươi. Giáo Pháp sẽ 
        là ánh sáng của các ngươi. Giáo Pháp sẽ là nơi nương 
        nhờ của các ngươi. Các ngươi chẳng nên tìm chỗ nương 
        nhờ nào khác. 
        Hỡi các đệ tử! Chánh Pháp Như 
        Lai truyền lại, các nguơi nên ráng bảo tồn cẩn thận, làm 
        cho đời đạo đức được tiếp tục chảy trôi suông sẻ, 
        được kéo dài trong nhiều thế hệ, để đem lại hạnh phúc 
        cho nhiều người, đem lại nguồn an vui cho thế gian, đem 
        lại thanh bình hạnh phúc cho Chư Thiên và nhân loại". 
        
        -Hết- 
         
        
        PHỤ ĐÍNH 
        
        VỊ TRÍ CỦA PHÁP HÀNH 
        "TỨ NIỆM XỨ" TRONG PHẬT GIÁO
        
        Lý thuyết 
        "Tứ Diệu Ðế" ví như một kỳ quan đã phô bày 
        những kiến trúc và nghệ thuật phi thường suốt một 
        thời gian rồi bị lãng quên trong lòng đất. Lúc sau đó, 
        nhờ trí óc khôn ngoan và công phu đào xới của nhà khảo 
        cổ mà nó được tái xuất trước sự hân hoan chào đón 
        của mọi người. Những Ðấng Toàn Giác trong các thời đại 
        đều căn cứ theo Tứ Diệu Ðế để xây dựng Giáo lý. 
        Tứ Diệu Ðế cũng như nền móng 
        của một đền đài lộng lẫy nằm sâu dưới đất nhưng 
        rắn chắc để nâng đở hàng cột tinh anh là "Bát Chánh 
        Ðạo". Tuy nhiên ngôi đền chỉ thành hình với mái nóc 
        tuyệt mỹ cao vọi hướng thẳng lên tận không gian là 
        "Tứ Niệm Xứ." 
        Ðức Phật gọi Bát Chánh Ðạo là 
        con đường siêu việt. Con đường ra khỏi thế gian, con đường 
        Giác Ngộ, con đường chấm dứt khổ đau, con đường đưa 
        tới an vui tuyệt đối... cho những ai quyết chí noi theo. 
        Tứ Niệm Xứ (Sati Patthàna) hay là Chánh niệm (Sammà Sàti) 
        thuộc chi thứ 7 của Bát Chánh Ðạo và được sắp vào 
        phần "Ðịnh học". Chánh niệm là nòng cốt, là chúa 
        tể gây ảnh hưởng sâu rộng đến 6 chi đầu của con đường 
        siêu việt. 
        Trong kinh Trường A Hàm (Dìgha Nikàya), 
        đức Thế Tôn có thuyết: 
        "Hởi này chư Tỳ Khưu! Phương 
        thức duy nhất để tiến tới tư cách hoàn toàn trong sạch, 
        để vượt ra khỏi sự ưa phiền, chấm dứt khổ sầu, để 
        mở đường chân chánh đi đến đạo quả Niết Bàn, phương 
        thức đó là "Bốn Pháp Niệm Căn Bản" (Tứ Niệm 
        Xứ)." 
        Tu tưởng là quan trọng nhất 
        trong sự sanh hoạt con người. Vì nó là nguyên tố tạo nên 
        nghiệp khiến chúng sanh phải quay quần trong vòng sanh tử. 
        Lẽ đó, niệm tưởng chân chánh là con đường duy nhất để 
        chấm dứt nguồn thống khổ. 
        Tứ Niệm Xứ được chia ra làm 2 
        phần: 
        
          - Niệm Thân thuộc về phần 
          vật chất (Sắc). 
          - Niệm Thọ, niệm Tâm, niệm Pháp thuộc về phần tâm lý 
          (Danh) 
         
        Ðức Phật sắp niệm Thân trước 
        hết là một thể thức rất qui củ để cho người hành đạo 
        dễ bước lần từ thấp lên cao. Niệm thân có tánh cách 
        đơn giản hơn 3 pháp niệm tiếp theo về tâm lý, nhưng đó 
        là đường lối rất thực tế và trọng đại. Bởi cơ 
        thể là đề mục dính liền với bản ngã của con người. 
        và nếu không ghi nhớ được những gì ở cận bên mình thì 
        rất khó bề nghĩ đến chuyện xa vời. Theo tinh thần Phật 
        Giáo, niệm Thân là nhằm mục đích để khám phá mục đích 
        giả tạm của 4 nguyên tố (Tứ Ðại) tạo thành cơ thể 
        con người, loại trừ ngã chấp hầu đi đến giải thoát. 
        Phương pháp luyện thân "Hatha 
        Yoga" bên Ấn Ðộ khác hơn pháp niệm Thân của Ðạo 
        Phật, vì người tín đồ của pháp môn này chú trọng về 
        những tư cách phi thường hoặc mong thành hoặc đạt phép 
        lạ hơn là tìm đường giải thoát. Hành giả Hatha Yoga có 
        thể điều khiển cơ thể mình theo ý muốn, như nhịn ăn 
        uống, ngưng hơi thở, chận đứng huyết mạch, chuyển động 
        gân cốt, chịu đựng nổi tuyết giá hay sức nóng cháy da, 
        giữ yên một oai nghi rất lâu, v.v... 
        
        SỰ LIÊN QUAN GIỮA CÁC HƠI THỞ VÀ 
        PHÁP HÀNH THIỀN ÐỊNH 
        
        Ðức Phật dạy hành giả hành Pháp 
        Tứ Niệm Xứ phải bắt đầu chú tâm vào hơi thở vô ra 
        của mình. Mà tại sao vậy? Vì trong hoạt động của cơ 
        thể, sự hô hấp là thường xuyên và liên tục dễ ghi 
        nhớ hơn các cử động bất thường khác. 
        Về khía cạnh khoa học, thở là 
        điều cần thiết cho mỗi sanh vật. Sinh khí còn vô ra thì còn 
        sự sống và khi ngừng thở thì sự sống chấm dứt. Hơi 
        thở nhẹ nhàng êm dịu giúp hệ thống dẫn huyết hoạt động 
        bình thường khiến con người được khoẻ mạnh, minh mẫn, 
        sống lâu, cũng như trong bộ máy cơ giới xăng nhớt chạy 
        đều. 
        Trong thời thượng cổ, thanh khí 
        trên không gian rất dồi dào và thuật hô hấp loài người 
        tinh vi nên ít bệnh hoạn và trường thọ. Những loài thú 
        như rùa, rắn hay sanh vật khác không đi kiếm ăn được khi 
        bị hạn hán, tuyết băng, nhưng vẫn sống được lâu ngày 
        nhờ có bộ máy hô hấp đặt biệt của chúng. 
        Theo Hatha Yoga, nếu biết luyện hơi 
        thở cho đúng cách thì nó di chuyển trong khắp châu thân, thông 
        qua bộ thần kinh và thanh lọc những huyệt (chakra), tẩy 
        trừ các độc tố (toxine) trong máu, đem lại sức khoẻ và 
        trí tuệ cho hành giả. Nên cần biết lối thở bất thường 
        của chúng ta hằng ngày không đủ năng lực để sa thải hoàn 
        toàn những độc tố đó. phương pháp Hatha Yoga có hơn 10 cách 
        thở khác nhau nhưng khác hơn về thể thức của Phật Giáo. 
        Ðức Phật dạy hành giả khi 
        thở vô ra dài vắn, mau chậm cần phải biết rõ. Hành giả 
        cần phải nhận thức tình trạng của tâm, xem coi nó xao động 
        hay yên tĩnh. Vì nhịp độ của trái tim tuỳ thuộc vào nơi 
        thở mau hay chậm. Và khi khi biết rõ tình trạng đó, hành 
        giả phải điều chỉnh hơi thở lại cho vừa phải tuỳ 
        theo bản chất và khả năng hô hấp của mình có cảm giác 
        dễ chịu và vui thích trong khi thở chớ không phải chủ tâm 
        vào hơi thở mau chậm, dài vắn rồi cứ để cho bộ máy hô 
        hấp tư do tiếp tục hoạt động không bình thường như 
        thế. 
        Việc chú tâm và sắp đặt hơi 
        thở cho điều hoà như vậy lâu năm chầy tháng trở thành 
        thói quen, dường như cơ động tự nhiên dù trong lúc hành 
        giả đang tham thiền về một đề mục nào hoặc hành pháp 
        Minh Sát. Các vị thiên sư nói rằng hơi thở trong trường 
        hợp này ở về phía hậu tuyến để nâng đở hành giả 
        cho mau kết quả. 
        Tinh thần chỉ có thể trở nên 
        trong sạch trong một xác thân được thanh lọc và khoẻ 
        mạnh. Lẽ đó, Ðức Phật sắp đề mục niệm hơi thở đứng 
        đầu trong pháp niệm thân và đó cũng là yếu tố tiền 
        phong của pháp môn Tứ Niệm Xứ. 
        Thọ thuộc về tâm lý nhưng có 
        phần giản dị hơn niệm Tâm và niệm Pháp. Khi hành giả có 
        mức độ cao về tập trung tư tưởng và ghi nhớ biết mình 
        thì hành pháp niệm Thọ rất dễ dàng. 
        Sau khi niệm Thọ hoàn tất, hành 
        giả vào được bên trong ngôi đền "Tứ Niệm Xứ" 
        để quan sát cung điện của hoàng thành. Từ đây phận sự 
        của hành giả trở nên hết sức khó khăn tế nhị vì người 
        đã biết qua giai đoạt phức tạp của "Minh Sát 
        Tuệ" với 2 đề mục niệm Tâm và niệm Pháp. Người 
        phải dày công tu luyện, giới đức viên dung, căn duyên tròn 
        đủ mới mong tới được điện ngọc là Niết Bàn. 
        Nhờ thực hành pháp Tứ Niệm 
        Xứ, người tu Phật mới thấu rõ bản chất vô thường 
        của Ngũ uẩn và tư cách sanh diệt của chúng, để sau cùng 
        phá vỡ sợi dây nhân duyên "Paticca Samuppàda" (duyên 
        sinh) và thoát khỏi vòng sanh tử. 
        Cái tinh hoa tuyệt diệu của 
        Phật Giáo như thứ cây ăn trái: những rễ bám sâu dưới 
        đất là "Tứ Diệu Ðế", cái thân cây hùng vĩ bên 
        trên là "Bát Chánh Ðạo", và cành lá trên ngọn cây 
        đơm bông trổ trái là "Tứ Niệm Xứ." 
        
        SOẠN GIẢ HUỲNH VĂN NIỆM 
        
        -ooOoo- 
        
        PHẬT NGÔN 
        
        "Cố công hành đạo, giới đức 
        thầy Tỳ Khưu ngày thêm hoàn hảo. Các tật xấu được 
        thanh lọc tẩy trừ, giờ đây người đã sẳn sàng bước lên 
        đường thánh vức, như nén vàng ròng được người thợ khéo 
        làm ra nhiều món nữ trang. 
        Thầy Tỳ Khưu tự do thong thả lướt 
        gió tung mây, không gì ngăn cản như chim hạc bay thẳng cánh 
        tận trời cao. 
        Thầy Tỳ Khưu trở nên bình 
        thản, an tịnh, lạnh lùng trước những pháp thế gian 
        huyền ảo. 
        Người không còn sợ hải lo âu 
        như đức vua Badhya hoan hô khi tham thiền dưới cội cây: 
        "Hạnh phúc thay! Hạnh phúc thay! Trước kia ngự tại hoàng 
        cung, được quan quân che chở, tường thành kiên cố, nhưng 
        ta nào đâu yên giấc ... Hiện nay ta chẳng còn lo sợ gì 
        cả cho bản thân và cuộc sống. Bất cứ ở đâu ta cũng 
        được bình yên". -- MAJJHIMA NIKAYA 
        -oOo- 
        "Trước khi diệt xong các chướng 
        ngại, thầy Tỳ Khưu ví như người mắc nợ, mang bệnh, 
        bị tù đầy, đi lang thang trong vùng hẻo lánh... 
        Nhưng khi tẩy trừ được các điều 
        trở ngại đó thì người cũng như đã xong món nợ, được 
        bình phục thong thả ra khỏi nhà lao, chẳng còn gặp điều 
        chi nguy hiểm. 
        Thầy Tỳ Khưu rất toại nguyện 
        vừa lòng, tâm tư tràn ngập nguồn hạnh phúc" -- DÌGHA 
        NIKAYA. 
        "Hành pháp môn "Tứ Niệm 
        Xứ", người giới tử luôn luôn sống trong tình trạng 
        "Minh Sát" về thân thể, trắc nghiệm những tình 
        cảm và quán xét các hiện tượng (pháp) phát sanh. 
        Người thường xuyên dũng mãnh, 
        châm chú biết mình và gạt bỏ tất cả phiền muộn cả 
        thế gian". -- DÌGHA NIKAYA 
        -oOo- 
        "Bậc Thanh tịnh (Muni) thản 
        nhiên không sân hận, khổ sầu, không tham vọng vì các pháp 
        thế gian tương phản (tốt, xấu, lớn, nhỏ, sang, hèn...) và 
        đã thoát qua khỏi thảm họa tử sanh, già nua, bệnh tật 
        rồi vậy." -- ANGUTTARA NIKAYA-III 
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | Mục 
        lục | 1.1 | 1.2 
        | 2.1 | 2.2 | 2.3 
        | 2.4  |