| 
         Phần 
        II - TỨ DIỆU ĐẾ (tiếp theo) 
        -ooOoo- 
        II-4a 
        CHÁNH 
        KIẾN (Samma Ditthi) 
        HIỂU RÕ BỐN CHÂN LÝ CAO SIÊU
        
        D.22 - 
        "Thế nào là Chánh kiến? - Là: 
        
          Hiểu rõ sự Khổ. 
          Hiểu rõ nguyên nhân sự Khổ. 
          Hiểu rõ sự diệt Khổ. 
          Hiểu rõ con đường đưa tới dứt Khổ. 
         
        "Ðó gọi là Chánh kiến 
        (hiểu biết chơn chánh) 
        HIỂU RÕ TỘI PHƯỚC. 
        
        M.9 - 
        "Giới tử hiểu rõ tội lỗi và nguồn gốc của nó là 
        thế nào, và hiểu rõ phước báu và nguồn gốc của nó ra 
        sao." 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Ðiều được xem như tội lỗi 
          (Akusala) là những hành động do thân, khẩu, ý, làm cho đời 
          sống bị nhơ bẩn và đem lại hậu quả khổ đau trong 
          kiếp hiện tại và các kiếp tương lai. 
           
        
        M.9 
        - "Thế nào là tội lỗi? (Akusala) 
        (thuộc ác thân nghiệp - kàya 
        kamma) 
        
          Sát hại sanh vật 
          Trộm cắp 
          Tà dâm. 
         
        (thuộc ác khẩu nghiệp - vacà 
        kamma) 
        
          Nói dối 
          Nói lời đâm thọc 
          Nói lời hung dữ 
          Nói chuyện vô ích 
         
        (thuộc ác ý nghiệp - mano 
        kamma) 
        
          Tham muốn xấu xa 
          Có ác tâm 
          Ý nghĩa lầm lạc 
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Tư cách chú tâm hay cố ý 
          (cetana) được gọi là "nghiệp" (kamma). Nghiệp xem 
          thấy được đều phát sanh do thân hay khẩu. Còn những 
          suy tưởng không biểu lộ ra ngoài đều do hành vi của ý 
          (ý nghiệp). 
          
         
        
        M.9 
        - "Đâu là nguồn gốc tội lỗi? 
        "Tham lam (lobha) là nguồn gốc 
        của tội lỗi. Sân hận (dosa) là nguồn gốc của tội 
        lỗi. Si mê (Moha) là nguồn gốc của tội lỗi." 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Những hành động tham lam và sân 
          hận đều do si mê và mù quáng mà ra. Lẽ đó si mê là 
          cội rễ của cả tội lỗi. 
           
        
        AX. 147 
        - "Như Lai chia tội lỗi ra 3 loại: Tội do tánh tham lam gây 
        ra; Tội do tánh sân hận gây ra; Tội do tánh si mê gây 
        ra". 
        
        M.9 
        - "Còn thế nào là phước báu của thiện nghiệp (kusala 
        kamma)? Là: 
        (thiện thân nghiệp) 
        
          Tránh việc sát sanh hại vật. 
          Tránh sự trộm cắp 
          Tránh sự tà dâm 
         
        (thiện khẩu nghiệp) 
        
          Tránh sự nói dối 
          Tránh lời nói đâm thọc 
          Tránh lời nói hung dữ 
          Tránh lời nói vô ích 
         
        (thiện ý nghiệp) 
        
          Tránh sự tham lam xấu xa 
          Tránh có ác tâm 
          Tránh có ý nghĩ bất chánh 
         
        Sau đây là những phước báu: 
        
          Không tham lam (Alobha) làm cho phát 
          tâm rộng lượng. 
          Không sân hận (Adosa) làm cho phát tâm từ bi. 
          Không si mê (Amoha) làm phát sanh trí tuệ" 
         
        HIỂU RÕ BA TƯỚNG 
        
        S.21 - 
        "Kẻ nào thấu rõ tánh cách giả tạm (vô thường), 
        khốn quẩn (khổ não) và chẳng có thực ngã (vô ngã) của 
        năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, kẻ đó đã có Chánh 
        kiến rồi vậy." 
        NHỮNG VẤN ÐỀ KHÔNG LỢI ÍCH 
        
        M.63 - 
        "Nếu có kẻ nói rằng chỉ bằng lòng tu theo Phật giáo 
        chỉ khi nào đức Như Lai chịu giải thích cho biết những 
        điều sau đây: 
        
          Thế gian là trường tồn hay 
          giả tạm? 
          Thế gia hữu biên hay vô biên? 
          Sự sống và xác thân là một hay khác nhau? 
          Ðức Phật Toàn Giác còn hay mất sau khi tịch diệt? 
         
        Thì kẻ ấy phải chết trước 
        khi được Ngài ứng đáp. Cũng như người kia mang phải mũi 
        tên có tẩm thuốc độc, được thân bằng quyến thuộc lương 
        y đến cứu chữa nhưng lại biện lẽ rằng: 'Tôi không 
        thể nào chịu cho rút mũi tên ra trước khi được biết ai 
        đã bắn đã gây thương tích cho tôi. Tôi muốn biết thủ 
        phạm thuộc giai cấp nào? Thuộc hạng cao sang hay giai cấp nô 
        lệ? Người đó tên gì? Con nhà ai, hình vóc, lớn, nhỏ hay 
        trung bình?... Chắc chắn kẻ đó phải chết trước khi 
        biết được những điều như thế". 
        
        SUP.592 
        - "Như vậy, kẻ nào muốn tìm sự an vui cho chính bản 
        thân phải mau rút mũi tên ra ... mũi tên đau đớn than van 
        sầu khổ". 
        
        M.36 - 
        "Dù cho thế gian là trường cửu hay tạm bợ, có giới 
        hạn hay vô biên, một sự việc hiển nhiên là những trạng 
        thái: sanh trưởng, già nua, bệnh tật, khóc than, thất 
        vọng, vẫn luôn luôn tồn tại. Nhưng người đời có thể 
        huỷ diệt các thảm hoạ đó trong kiếp hiện tại nếu hành 
        theo lời chỉ dạy của Như Lai". 
        NĂM SỢI DÂY TRÓI BUỘC (THẰNG THÚC). 
        
        M.2-54 
        - "Ví dụ có người thế, vì si mê mù quáng, không 
        biết trọng nể các bậc thánh nhân, chẳng chịu nghe lời 
        dạy bảo của các Ngài , không thông suốt Giáo lý cao thâm.... 
        Tâm trí người đó bị vô minh che lấp, thường có tâm ngã 
        chấp, hay hoang mang ngờ vực, lại vui thích với những tục 
        lệ cúng kiến lễ bái, say mê tình dục, có tư tưởng bất 
        hảo, nhưng không biết làm cách nào để thoát ly ra khỏi các 
        điều xấu xa ấy." 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Ảo tuởng về "bản ngã" 
          (Sakkàya-ditthi) có thể thuyết minh như sau: 
          - Lý thuyết về tâm linh 
          (Sassata-ditthi) căn cứ nơi đức tin về tư cách "Trường 
          tồn" cho rằng cái "Ta" là một linh hồn có tánh 
          cách thiêng liêng không tuỳ thuộc xác thân vật chất và 
          linh hồn đó tiếp tục tồn tại sau khi chết (Thường 
          kiến) 
          - Lý thuyết "duy vật" 
          (Uccheda ditthi) là tin tưởng tánh cách huỷ diệt hoàn toàn, 
          cho rằng Ta của kiếp sống hiện tại sẽ biến tan cùng lúc 
          với cái chết của xác thân vật chất (Ðoạn Kiến). 
          
         
        NHẬN ÐỊNH SAI LẦM 
        
        M.2 
        - "Hạng thường nhân không nhận rõ những gì đang chú 
        trọng và không nên chú trọng. Họ để tâm luyến ái các 
        điều vô ích và bỏ rơi những việc hữu ích. Vì thiếu sáng 
        suốt nên họ nảy ra ý nghĩ như vầy: 
        
          Trước kia ta đã có sanh ra làm 
          người không? 
          Nếu có, vậy thưở đó ta là thế nào? 
          Và đã có những biết chuyển gì? 
          Rồi sau này ta sẽ tái sanh nữa chăng? 
          Chừng đó ta sẽ ra thế nào? Số phận ra sao và sẽ có 
          thay đổi gì không? 
         
        Về kiếp hiện tại, họ cũng hoài 
        nghi: 
        
          Ðây có phải thiệt là ta không? 
          Hiện nay ta là thế nào? 
          Con người từ đâu đến, rồi nó sẽ đi về đâu?" 
         
        SÁU CÁI HẦM TÀ KIẾN 
        "Bị chìm đắm trong sự 
        nhận định thiếu trí tuệ, hạng thường nhơn phải sa vào 
        một trong sáu tà kiến. Họ quả quyết như vậy và tin tưởng 
        vào đó: 
        
          1) Hoặc ta có cái ngã (Ta)? 
          2) Hoặc ta không có cái ngã? 
          3) Phải chăng, nhờ cái ngã mà ta tự biết mình? 
          4) Nhờ cái Ngã mà tự biết được trạng thái "Vô Ngã"? 
          5) Ðây là cái Ngã của ta, vì nó biết suy nghĩ, biết 
          cảm xúc, biết thọ lãnh quả báo của những nghiệp lành 
          hay dữ. 
          6) Ðây là cái "Bản Ngã", nó thật trường cữu, 
          bền bĩ vĩnh viễn, không thay đổi và mãi mãi như vậy thôi". 
         
        
        M.22 - 
        "Nếu cái Ngã (Ta) là thật tế, tất nhiên phải có 
        vật gì tuỳ thuộc vào nó., nhưng chẳng tìm đâu ra được 
        cái Ngã mà cũng không tìm được cái gì (có một thực 
        thể) tuỳ thuộc vào nó. Như vậy chẳng có chi phi lý bằng 
        khi nói: "Ðây là thế gian. Ðây là Ta. Sau khi chết ta 
        sẽ tồn tại mãi mãi. Ta là trường tồn vĩnh cữu". 
        Ðó là những ý kiến thô sơ, là 
        một đám rừng ý kiến, một bả nhơ ý kiến, một trò hề 
        ý kiến, một cái bẫy ý kiến. Và khi bị sa vào cạm bẫy 
        "Si Mê" thì con người thiếu khôn ngoan không sao thoát 
        ly ra khỏi những thảm hoạ: sanh, già, đau, chết, khỏi 
        sầu não khổ đau, khỏi thất vọng. Như Lai cho rằng người 
        đó sẽ không thoát khỏi những điều thống khổ." 
        LÝ LUẬN THÔNG MINH 
        
        M.2 
        - "Người giới tử nào có học thức, thuộc gia đình 
        cao quý, biết kính trọng các bậc hiền triết, biết nghe 
        lời dạy bảo của các Ngài là đã thuần thục trong Giáo lý 
        cao siêu rồi vậy. giới tử đó biết phân biệt những gì 
        đáng chú trọng và những gì không nên chú trọng, biết 
        vật nào có giá trị và vật nào vô giá trị. Người nhận 
        xét sáng suốt thế nào là đường lối đưa tới dập tắt 
        nguồn đau khổ". 
        BƯỚC VÀO VÒNG THÁNH VỨC 
        "SOTAPANNA" (Tu Ðà Hườn) 
        "Khi biết nhận định đúng 
        theo chân lý như thế, người giới tử vất bỏ được ba 
        sợi dây trói chặc là: ảo tưởng về cái Ta (Ngã Chấp), 
        nghi ngờ về chánh giáo (Hoài Nghi), tin tưởng dị đoan cúng 
        kiến lễ bái, tế lễ (Giới Cấm Thủ)". 
        
        M.2 
        - "Lúc gạt bỏ được 3 sợi dây trói buộc đó, giới 
        tử đã bước vào dòng nước (Nhập Lưu - Tu Ðà Hườn) thoát 
        khỏi tình trạng khốn quẩn và chắc chắn sẽ được Giác 
        Ngộ". 
        
        DHP.178 
        - "Hơn cả việc thống trị thế gian. Hơn cả các thú 
        vui nơi cõi thiên đàng. Hơn cả nắm quyền hành trên toàn vũ 
        trụ, chẳng có chi an vui hạnh phúc bằng được nhập lưu 
        Niết Bàn". 
        
        A.X - 
        "Thật ra những kẻ nào có đức tin không gì lay chuyển 
        nỗi đối với Như Lai , những kẻ đó đã nhập lưu rồi 
        vậy (bước vào lãnh vực Thánh Nhơn)". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA (theo Abhidhamma) 
          Có mười sợi dây trói chặt chúng 
          sanh vào bánh xe luân hồi (Sannojana): 
          1) Ảo tưởng về cái 
          "Ta" (Sakkayà-ditthi - ngã chấp) 
          2) Ngờ vực về chánh pháp (Vicikicchà - hoài nghi). 
          3) Ưa thích lễ bái cúng kiến (Silabbata Paràmàsa - Giới 
          cấm thủ) 
          4) Ham muốn tình dục (Kàmaràga) 
          5) Ác tâm (Vyàpàda) 
          6) Muốn được sanh về cõi 
          Sắc giới (Rùpa Ràga) 
          7) Muốn được sanh về cõi trời Vô Sắc giới (Arùpa Ràga) 
          8) Cống cao ngã mạn (Màna) 
          9) Phóng tâm (Uddhacca) 
          10) Vô Minh (Avijjà) 
          Theo nghĩa Phạn ngữ Pali 
          "Sotàpanna - Tu Ðà Hườn" là "Người bước vào 
          dòng nước ". Nghĩa là nhập vào lượng thuỷ triều 
          đưa tới Niết Bàn, người ấy đã thoát ra khỏi 3 sợi dây 
          trói chặt thứ nhất. 
          "Skadàgàmi - Tư Ðà Hàm" 
          là "Người còn trở lại một lần" (trên cõi 
          thế) đã diệt thêm 2 sợi dây trói buộc thứ 4 và thứ 5 
          một cách tương đối thô thiển. 
          "Anàgàmin - A Na Hàm" là 
          "Người không còn trở lại nữa". Nghĩa là cắt 
          đứt hoàn toàn 5 dây trói chặt đầu tiên thuộc phạm vi 
          cõi Dục giớ i(Kàma-Loka). Sau khi chết, người được sanh 
          về cõi trời Sắc giới (Rùpa-Loka) rồi đắc quả Niết Bàn 
          luôn. 
          "Arahat - A La Hán" hay là 
          "Thinh Văn Giác" là người đã hoàn toàn cắt đứt 
          mười dây trói chặt kể trên. 
          
         
        
        M.117 - 
        "Như Lai cho biết Chánh kiến có hai: 
        
          1) Chánh kiến thế gian (hiểu 
          biết chơn chánh của người tại gia) 
          2) Chánh kiến siêu thế gian (hiểu biết chơn chánh của 
          bậc Sa Môn) 
         
        CHÁNH KIẾN THẾ GIAN 
        Hiểu biết rằng bố thí và cúng 
        dường đến những bậc có giới đức không phải là vô ích. 
        Biết rằng nghiệp lành hay nghiệp dữ sẽ đem lại quả vui 
        hay quả Khổ chẳng sai. 
        Biết rằng kiếp hiện tại và 
        kiếp vị lai có thật. Cha mẹ và chúng sanh khác hằng được 
        thụ hưởng phước báu nơi cõi trời. Biết rằng trên thế 
        gian có những bậc Sa Môn hay bậc đại hiền giới đức 
        trong sạch có thể giải thích đời sống hiện tại và 
        những kiếp vị lai. 
        Ðó là Chánh kiến thế gian 
        (Lokiya Sammà ditthi). 
        CHÁNH KIẾN SIÊU THẾ GIAN 
        "Tuy cũng đạt được Chánh 
        kiến về đạo đức, các bậc thánh: Tu Ðà Hườn, Tu Ðà Hàm, 
        A Na Hàm, A La Hán không hướng sự hiểu biết của các Ngài 
        về phương diện thế gian mà chỉ chú trọng đến con đường 
        siêu việt (Bát Chánh Ðạo). 
        Đó là "Chánh kiến siêu thế 
        gian" (Lokutta-ra Sammà ditthi) không còn nằm trong lãnh 
        vực thế gian, ở ngoài thế gian và đã hợp nhất với con 
        đường siêu việt." 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Bát Chánh Ðạo cũng có 2: 
          
            - Bát Chánh Ðạo thế gian do hàng 
            tại cư sĩ thực hành (Puthujjana). 
            - Bát Chánh Ðạo siêu thế gian được dành riêng cho 
            những bậc Sa Môn cao quí (Ariya pugala). 
           
           
        
        M.47 
        - "Và khi biết rõ thế nào là "Tà Kiến" Cũng 
        như thế nào là "Chánh kiến" (bước một) hành 
        giả cố gắng trau dồi sự hiểu biết thêm đúng đắn, 
        cố vượt khỏi những điều tà vạy bằng "Chánh tinh 
        tấn" (bước thứ 6) chú tâm quan sát về sự hiểu 
        biết chơn chánh bằng "Chánh niệm" (bước thứ 7). 
        Như thế ba yếu tố có liên quan 
        mật thiết với nhau về "Chánh kiến" là: Hiểu 
        biết chơn chánh, tinh tấn chơn chánh và niệm tưởng chơn 
        chánh". 
        ÐỨNG NGOÀI VÒNG LÝ LUẬN 
        
        M.72 
        - "Ðấng Toàn Giác không còn dính mắc trong phạm vi 
        của các lý thuyết. 
        
          Vì Ðấng trọn lành đã thấu rõ 
          sắc tướng ("sắc uẩn") là gì, nó sanh và diệt 
          như thế nào. 
          Ngài biết rõ sự cảm giác và tư cách sanh diệt của 
          "thọ uẩn" , 
          Ngài biết rõ sự chấp nhận tình cảm và tư cách sanh 
          diệt của "tưởng uẩn", 
          Ngài biết rõ phối hợp tư tưởng và tư cách sanh diệt 
          của "hành uẩn", 
          Ngài biết rõ sự hoạt động của tư tưởng và tư cách 
          sanh diệt của "thức uẩn". 
         
        Lẽ đó Ðấng Giác Ngộ đã dập 
        tắt, đã lánh xa, đã huỷ diệt, đã vứt bỏ và đứng ngoài 
        vòng lý luận, thoát ly ra khỏi sự ước đoán, sự khuynh tà 
        ... chẳng còn tham danh vọng hảo huyền cho cái "Ngã" 
        và cái "Bản Ngã". 
        BA TRẠNG THÁI TUYỆT ÐỐI 
        
        A.III (134) - 
        "Dù cho các Ðấng Toàn Giác có xuất hiện trên thế 
        gian hay không, một sự kiện tuyệt đối bất di bất dịch, 
        một quy luật cố định vẫn luôn luôn tồn tại là: 
        "Tất cả những vật cấu tạo do các nguyên nhân là 
        giả tạm (Vô thường), là khốn quẩn (Khổ não) và không có 
        thực ngã (Vô ngã)". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Danh từ "Sankhàra" ám 
          chỉ những gì có một khởi điểm và một dứt điểm 
          (sanh, diệt) mà chúng ta thường gọi là vật phối hợp 
          hay cấu tạo (hữu vi). 
          "Pháp Hành" (Sankhàra 
          Dhamma) được áp dụng trong tư cách phối hợp hay cấu 
          tạo trên cả 2 phương diện vật chất và tâm lý của đời 
          sống (tạm bợ trên thế gian). 
          Tiếng "Dhamma" (Pháp) 
          lại mang một ý nghĩa sâu rộng bao quát hơn. Vì nó ám 
          chỉ những gì không có khởi điểm và dứt điểm (Vô 
          sanh bất diệt), không phối hợp hay cấu tạo (Vô vi pháp), 
          "Asankhara dhamma". Chẳng hạn như không gian vũ trụ 
          (Àkasa) và Niết Bàn (Nibbàna). 
          Bởi thế, rất sai lầm khi cho 
          rằng tất cả các Pháp (Dhamma) đều là vô thường, biến 
          đổi, vì "Niết Bàn pháp" (Nibbàna dhamma) và không 
          gian vũ trụ (Àkasa) đều trường tồn vĩnh cữu không hề 
          thay đổi. Cũng vì lẽ đó, phải nhìn nhận chẳng những 
          các "Pháp hành" (Sankhara dhamma) mà luôn cả những 
          "Pháp vô sắc tướng" (thuộc về tâm lý) cũng đều 
          là vô ngã (không có thực thể). 
           
        
        S.X.VI (10) 
        - "Trên thế gian này, các bậc thánh nhân, kể luôn có 
        Như Lai , chẳng có một ai công nhận rằng: Sắc, Thọ, Tưởng, 
        Hành, Thức là trường tồn bền bĩ mà không thay đổi, không 
        sao có những trạng thái như vậy". 
        
        A.I (15) - 
        "Người có Chánh kiến chẳng thể nào công nhận một 
        vật gì là cái Ngã được". 
        BIỆN LUẬN VỀ CÁI "NGÃ" 
        
        D.15 
        - "Nếu có kẻ quả quyết rằng "Cảm giác" 
        (Thọ) là cái "Bản ngã" thì nên trả lời như 
        vầy: 
        Thọ có 3 loại: thọ vui, thọ 
        khổ, thọ không vui không khổ. Hỏi vậy người đó thọ cái 
        nào là bản ngã? 
        Khi trắc nghiệm một trong 3 cái 
        thọ đó thì 2 cái kia biến tan (ví dụ khi đang cảm giác 
        vui thì 2 cái thọ: Khổ và không vui không khổ chẳng xuất 
        hiện). Như vậy, cả 3 cái thọ đó đều là vô thường và 
        tuỳ thuộc các nguyên nhân. Chúng cũng bị huỷ diệt, hao mòn 
        và dập tắt. 
        Bất cứ ai nghĩ rằng một trong 
        ba cái thọ đó là bản ngã đều bị lầm lạc, rồi sau cũng 
        phải nhìn nhận rằng cái mà họ gọi là bản ngã của 
        kiếp hiện tại là vô thường, có vui khổ lẫn lộn và cũng 
        bị sanh diệt không sao tránh khỏi. 
        Nếu có kẻ khác nói 
        "thọ" không phải là cái ngã nhưng cái ngã của tôi 
        (bản ngã) là thiêng liêng cao tột mà thọ không thể nào 
        tiếp xúc đặng, thì nên hỏi lại: "Vậy chớ tại nơi 
        nào không có thọ thì gọi là bản ngã được chăng?" 
        Nếu có ai khác nữa nói: 
        "Thọ không phải là bản ngã mà thật ra nó cũng không 
        phải là cái ngã thiêng liêng cao tột mà thọ không sao 
        tiếp xúc được, mà chính cái ngã riêng của tôi mời 
        biết cảm giác. Với người này thì nên trả lời: 
        "Nếu thọ bị hoàn toàn huỷ diệt và chẳng có cảm giác 
        nào cả, như vậy có thể nào chấp nhận trạng thái "vô 
        cảm giác" là cái ngã được không? 
        Nói rằng tâm và đối tượng 
        của tâm là tư tưởng tạo ra cái ngã là không căn cứ vào 
        đâu cả. Chỉ cần nhận định 2 trạng thái "sanh" 
        và "diệt" của mọi vật cũng đủ chứng minh rằng 
        cái ngã cũng sanh ra rồi bị diệt'. 
        
        S.21 (7) 
        - "Người kém học thức còn có thể quan niệm cho rằng 
        xác thân do 4 nguyên tố (Tứ Ðại) cấu tạo là bản ngã. Vì 
        dù sao xác thân đó cũng tồn tại được một năm, hai năm 
        hoặc ba, bốn năm hoặc lâu hơn nữa là trăm năm. Còn cái mà 
        chúng ta gọi là "tâm trí" thì luôn cả ngày lẫn đêm 
        phát hiện rồi biến tan dưới hình thức này hay dưới hình 
        thức khác". 
        
        S.21 (5) 
        - "Như thế, tuy có: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức trong 
        mỗi cá nhân và ở bên ngoài, dù là có tinh vi hay thô 
        thiển, thanh cao hay hèn hạ, ở xa hay ở gần, (người ta) cũng 
        phải dùng trí tuệ để nhận định đúng theo chân lý 
        "Ðây không phải là của ta, không phải là ta và cũng 
        không phải là bản ngã". 
        QUÁ KHỨ-HIỆN TẠI-VỊ LAI. 
        
        D.9 
        - "Nếu có người hỏi: "Trong quá khứ anh có sanh ra 
        hay không? Về tương lai anh có còn tái sanh nữa không? Giờ 
        đây phải thật anh đang hiện diện hay chẳng phải?" 
        Và nên trả lời như vầy: 
        "Quả thật tôi đã có sanh ra rồi. Không thể phủ 
        nhận điều đó. Trong tương lai tôi sẽ còn tái sanh nữa, 
        không ai chối cãi đặng và giờ đây chính tôi đang hiện 
        diện tại chỗ này, chắc như vậy". 
        Về quá khứ, chỉ có kiếp sống 
        khi đó là thực tế còn kiếp vị lai và hiện tại thì không 
        thực tế. Trong tương lai, chỉ có kiếp đó là thực tế còn 
        những kiếp quá khứ và hiện tại thì không. giờ đây, 
        kiếp hiện tại là thực tế còn những kiếp quá khứ và 
        vị lai thì không. 
        Thực ra kẻ nào thấu rõ sự liên 
        quan của các Nhân và Duyên (Patticca-Samuppàda), kẻ đó đã 
        thấy rõ chơn lý. Cũng như người ta vắt sữa con bò cái, 
        sữa để lâu trở thành kem, thành bơ, thành mỡ. Rồi đem 
        đun sôi nó ra thành bọt mỡ. Nói về kiếp quá khứ cũng 
        vậy. Nó chỉ thực tế hồi thời kỳ đó và không thực đối 
        với hiện tại và vị lai.kiếp vị lai cũng thực tế sau này 
        nhưng không thật đối với quá khứ và hiện tại. Kiếp 
        hiện tại chỉ thực tế lúc này nhưng đối với quá khứ 
        và vị lai thì không. 
        Ðó là những chuyện nhân gian mà 
        thôi, là một cách lý luận, một lề lối giải thích. Theo 
        sự phỏng đoán, là những sự việc tầm thường. Ðấng Toàn 
        Giác cũng dùng những danh từ (trong các trường hợp) nhưng 
        không khi nào Ngài để bị sa vào cái bẫy ngôn ngữ". 
        
        S.42 - 
        "Như thế, khi nào chưa thấu rõ năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, 
        Hành, Thức, chưa thấu rõ tư cách sanh diệt của chúng, người 
        có thể nghĩ rằng: "Ðức Chánh Biến Tri sẽ còn tiếp 
        tục (tồn tại) sau khi nhập diệt. Hoặc giả Ngài sẽ không 
        tiếp tục (mất luôn), v.v..." 
        HAI QUAN NIỆM CỰC ÐOAN 
        
        A III (61) 
        - "Ðối với kẻ nào tin tưởng rằng căn bản của đời 
        sống (cái ngã) và xác thân là một, kẻ đó không sao thành 
        đạt được đạo quả thánh nhân. Trái lại kẻ nào cho 
        rằng cái ngã khác biệt vơí xác thân, kẻ đó cũng không 
        đi đến đạo quả bao giờ. 
        Ðấng Toàn Giác đã chánh hai 
        lối cực đoan đó và trọn con đường đi giữa (Trung đạo)". 
        Và Ngài tuyên bố: 
        NHÂN QUẢ LIÊN QUAN 
        (Paticca-Samupàda) 
        "Từ chỗ tối mê "Vô 
        Minh" (Avijjà) sanh ra sự hành vi tạo tác vô ý thức, 
        "Hành" (Sankhàrà). Từ "Hành" sanh ra sự 
        biết mình nằm trong bụng mẹ, "Thức" (Vinnàna). 
        "Thức" gây ra sự phối hợp tinh thần và vật 
        chất, "danh sắc" (nama rùpa). Danh sắc tạo ra 6 căn, 
        "Lục căn" (Chalàyatana). Lục căn làm cho biết cảm 
        giác khi đụng chạm (về thân xác hoặc tâm lý), "Xúc" 
        (Phasso). Xúc sanh ra cảm đặng, "Thọ" (Vedanà). 
        "Thọ" làm phát sanh ra sự khao khát, "Ái" 
        (Tanhà). "Ái" sanh ra sự quyết luyết bám giữ đời 
        sống, "Thủ" (upàdàna). "Thủ" phát động 
        những diễn tiến về những hành vi tạo nghiệp, 
        "Hữu" (Kamma Bhava). Do "Hữu", có cái thai bào 
        đi "tái sanh" (Jàti). Và vì có "tái sanh" nên 
        phải gánh lấy những thảm hoạ: già nua, tử liệt (Jaràmarana) 
        và sầu khổ, khóc than, đau đớn, thất vọng. 
        Đó 
        là chân lý cao siêu về nguồn gốc sự Khổ" 
        
        S.12 (6) - 
        "Tuy nhiên, giới tử nào không còn mù quáng (vô minh) và 
        đạt Giác Ngộ, thì giới tử đó chẳng tạo nghiệp nữa, 
        bất cứ là tốt hay xấu, hoặc nghiệp đưa đến thế lực 
        bất bải miễn (không ai bị bải chức được như vua chúa 
        hay trời Phạm Thiên)". 
        
        A.III (61) 
        - "Vì lẽ đó, khi vô minh bị dập tắt thì hành biến 
        tan. Không có hành thì thức cũng chẳng phát sanh. Không có 
        thức thì danh sắc cũng không có. Danh sắc bị diệt thì không 
        có lục căn. Không lục căn thì chẳng có xúc. Xúc không có 
        thọ cũng không phát sanh. Không thọ thì cũng chẳng có ái. 
        Ái không có thì không có thủ. Thủ không có thì chẳng có 
        hữu và nếu hữu không có thì cũng chẳng có tái sanh." 
        Và khi trường hợp tái sanh bị 
        dập tắt, thì những thảm hoạ già nua, tử biệt, sầu 
        khổ, khóc than, đau đớn, thất vọng cũng tiêu tan. Tư cách 
        diệt tận nguồn đau khổ là thế ấy. Ðây là chân lý cao 
        siêu về sự diệt Khổ" 
        HIỆU LỰC CỦA NGHIỆP 
        
        M. 43 - 
        "Thực ra vì chúng sanh bị vô minh che lấp, bị sa vào 
        bẫy Ái dục, đi tìm kiếm nơi nầy đến nơi khác, nên 
        mới phải bị tái sanh trong nhiều kiếp mới" 
        
        A. III 
        - "Cái nghiệp phát sanh do lòng tham lam, sân hận, si mê, 
        cái nghiệp xuất hiện từ đó và nguồn gốc cội rễ của 
        nghiệp do đó mà ra. 
        Bất cứ chúng sanh xuất hiện 
        tại đâu, cái nghiệp sẽ chín mùi tại đó. Nơi nào 
        nghiệp chín mùi thì chúng sanh phải gặt hái quả báo, 
        hoặc trong kiếp hiện tại, hoặc về cái kiếp sau". 
        NGHIỆP KHÔNG SANH QUẢ 
        
        M.43 
        - "Tuy nhiên, khi màn vô minh bị vẹt, trí tuệ bừng sáng 
        phá tan lòng tham dục, thì trường hợp tái sanh không còn 
        xảy ra nữa" 
        
        A.III (33) - 
        "Những hành động không do lòng tham lam, sân hận, si mê 
        thúc đẩy, những hành động như vậy, ví như cây thốt 
        nốt bị nhỗ tận rễ lên khỏi đất không sao mọc lại 
        được nữa". 
        
        A.III 
        - "Trong chiều hướng đó, có người Chánh ngữ rằng Như 
        Lai bày ra một lý thuyết về sự "Tiêu Diệt", Như 
        Lai truyền bá một Giáo lý có tánh cách tiêu diệt và dạy 
        hàng môn đệ học tập như thế" 
        Mà thật đúng như vậy! Như Lai 
        hằng khuyến hoá về cách tiêu diệt. Nghĩa là tiêu diệt 
        tham lam, sân hận, si mê, tiêu diệt những điều dữ và hành 
        động xấu xa tội lỗi". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Lý thuyết "nhân quả liên 
          quan" (Paticca Samuppàda) là một giáo huấn theo định 
          luật về mỗi vật phát sanh do sự phối hợp của tinh 
          thần và vật chất (danh-sắc). Sự việc đã chứng minh 
          rằng tất cả những hiện tượng tâm lý và vật chất trên 
          thế gian huyền ảo này đều tuỳ thuộc vào sự hoạt động 
          của các giác quan (Lục căn) gây ra muôn ngàn thống khổ, 
          chớ không phải những tình trạng may rủi vu vơ mù quáng, 
          mà là cuộc sống luôn luôn tuỳ thuộc vào những nguyên 
          tố "Nhân và Duyên". Ðây là điểm cốt yếu về 
          Giáo lý của Ðức Phật Thích Ca Gotama (mà không có một Tôn 
          Giáo nào khác trên thế giới khám phá ra được). 
          Như thế gạt bỏ các yếu tố 
          đó (mười hai nhân Duyên) thì những vật có liên quan 
          tuỳ thuộc lẫn nhau chẳng còn lý do gì để tồn tại. 
          Kết luận, lý thuyết 
          "Paticca Samuppàda - Duyên Sinh" rất cần thiết để 
          làm sáng tỏ trong "Tứ Diệu Ðế, chân lý thứ hai là 
          nguyên nhân sự Khổ và chân lý thứ 3 là tư cách diệt 
          Khổ". Thuyết đó giải thích từ nền móng hạ tầng 
          lên tận điểm cao tột bằng hình thức của một triết lý 
          nhận định sáng suốt. (Ðức Phật khi còn là đức Bồ Tát 
          phải mất 6 năm khổ hạnh để tìm ra manh mối của sợi 
          chuỗi 12 cái khoen Nhân Duyên đó). Nhìn vào bản lược đồ 
          sau đây, chúng ta có thể nhận định về sự liên quan 
          tuỳ thuộc với nhau giữa từng kiếp sống quá khứ, 
          hiện tại và vị lai. 
           
          BẢN LƯỢC ÐỒ 
        
        
          
            | 
               Kiếp quá khứ  | 
            
               1. Vô Minh (nguồn gốc của 
              Tham, Sân, Si)  | 
            
               Kàma Bhava ( 
              Diễn tiến của Nghiệp)  | 
           
          
            | 
               2. Hành (hành động tạo ra 
              sự sống)  | 
           
          
            | 
               Kiếp hiện tại  | 
            
               3. Thức (Sự biết mình)  | 
            
               Uppatti Bhava 
              (Diễn tiến đưa đến tái sanh)  | 
           
          
            | 
               4. Danh-Sắc (Sự phối hợp 
              tinh thần và vật chất)  | 
           
          
            | 
               5. Lục Căn  | 
           
          
            | 
               6. Xúc (Ðụng chạm với 
              sắc trần)  | 
           
          
            | 
               7. Thọ (Nhận lãnh tình 
              cảm)  | 
           
          
            | 
               8. Ái (Tham dục)  | 
            
               Kamma Bhava 
              (Diễn tiến của Nghiệp)  | 
           
          
            | 
               9. Thủ (bám chặt đời sống)  | 
           
          
            | 
               10. Hữu (Diễn tiến của hành 
              động)  | 
           
          
            | 
               Kiếp vị lai  | 
            
               11. Sanh  | 
            
               Uppatti Bhava 
              (Diễn tiến đưa tới tái sanh)  | 
           
          
            | 
               12. Tử  | 
           
         
        
          
          (những chi tiết trên đây mô 
          tả cái vòng lẩn quẩn: Sanh tử, Tử sanh kéo dài triền 
          miên vô cùng tận của chúng sanh) 
          
         
        -ooOoo- 
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | Mục 
        lục | 1.1 | 1.2 
        | 2.1 | 2.2 | 2.3 
        | 2.4  |