Phần
II - TỨ DIỆU ĐẾ (tiếp theo)
-ooOoo-
II-4b
CHÁNH
TƯ DUY
"TƯ TƯỞNG CHƠN CHÁNH" (Sammà-Sankappa)
D.22
- "Vậy thế nào là "Chánh tư duy?". Ðó là:
Tư tưởng không tham lam
Tư tưởng không không hiểm độc
Tư tưởng không không tàn bạo."
CHÁNH TƯ DUY THẾ GIAN VÀ CHÁNH TƯ
DUY SIÊU THẾ GIAN.
M.117
- "Như Lai nói Chánh tư duy có 2:
Tư tưởng không tham lam,không
hiểm độc, không tàn bạo được gọi là "Chánh tư duy
thế gian" (lokiya sammà sankappa). Những tư tưởng ấy đem
lại quả vui trên cõi thế.
Ðàng khác, tuy cũng suy tưởng, cũng
lý luận, cũng nhận định, cũng tranh biện, cũng thực hành,
nhưng tâm trí (của bậc Thánh Nhơn) đã được hoàn toàn
thanh lọc, không còn mang tính cách thế gian, mà chỉ hướng
về "đuờng siêu việt".
Bát Chánh Ðạo thể thức hoạt
động về tâm lý đó (Vaci Sankhara) được gọi là "Chánh
tư duy Siêu thế gian". Những tư tưởng đó không thuộc
lãnh vực thế gian, chúng ở ngoài thế gian và hợp nhất
với con đường siêu việt.
SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÁNH TƯ DUY
VỚI CÁC CHI KHÁC
"Khi biết rõ tư tưởng nào
trái với lẽ phải, là tà vạy, là tư tưởng nào đúng chân
lý, người (hành giả) đã có "Chánh kiến" (bước
1). Lúc nào cố tránh được những tư tưởng xấu xa để
đánh thức những tư tưởng cao thượng, người đã thực hành
"Chánh tinh tấn" (bước 6). Và khi chế ngự được
những tư tưởng xấu xa, người đem hết tâm lực trau
giồi các tư tưởng chánh đáng thì đã được thực hành
"Chánh niệm" (bước thứ 7).
Cả 3 chi trên, Chánh kiến, Chánh
tinh tấn và Chánh niệm, luôn luôn có liên hệ với Chánh tư
duy"
-ooOoo-
II-4c
CHÁNH
NGỮ
(Sammà-vacà)
A.X.(176) -
"Chánh ngữ là gì?"
1. KHÔNG NÓI DỐI
"Người tránh xa sự nói dối
và răng tự chế, chỉ lời nói chân thật, trau dồi phẩm
hạnh trung thực. Chắc chắn người sẽ được kẻ khác tin
cậy và chẳng gây phiền muộn cho ai.
Giữa cuộc hội họp đông nguời
và các bạn thân, trong dịp lễ đại nghị hay trước sân
chầu tại triều đình, nếu có ai muốn dẫn chứng một điều
gì, người (Phật tử) trả lời biết đối với những gì
mình đã biết và không biết gì về những gì mình không
biết. Người trả lời có thấy đối với chuyện gì đã
thấy và không nếu mình không thấy.
Như vậy, người chẳng hề cố
ý nói dối, dù làm vậy có lợi ích cho mình hay cho kẻ khác,
hoặc để được bất cứ lợi lộc nào khác".
2. KHÔNG NÓI LỜI ÐÂM THỌC
"Người cố tránh xa sự nói
xấu kẻ khác và hằng tự chế. Nghe chuyện nơi này,người
không nên lập lại nơi khác để gây ra cải vã. Biết
chuyện chỗ nọ, người không đem nói lại đằng kia, để
tạo ra tranh chấp. Làm vậy người đem lại hoà hợp cho
những kẻ bị chia rẽ và khuyến khích những kẻ đang hoà
nhã làm cho tâm người thơ thới và mang lại nhiều hạnh phúc".
3. KHÔNG NÓI LỜI CỘC CẰN THÔ
LỖ
"Người cố tránh những lời
nói hằn học thô lỗ, và rán tự chế, chỉ dùng ngôn ngữ
dịu dàng, nghe êm tai dễ thương, nhã nhặng, duyên dàng
hữu ích để gây thông cảm với phần đông".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Theo kinh Trung A Hàm (Majjhima
Nikaya) đức Thế Tôn có thuyết:
"Hỡi này chư Tỳ Khưu!
Nếu bị bọn cướp hay kẻ sát nhân cưa tay, chặt chân, cưa
đứt khớp xương, mà các ngươi phát tâm nóng giận thì
hẳn các ngươi không nghe lời Như Lai dạy. Vậy các ngươi
nên tập luyện như thế này: "Hiện tâm trí ta rất
vững vàng. Chẳng có lời bất nhã nào vượt ra khỏi
miệng ta. Ta hãy ráng giữ thái độ thân hữu, thấm
nhuần từ bi bác ái, không có ý gì sâu độc bí ẩn nào
trong tâm. Và ta cố rãi tâm từ bi rộng lớn vô lượng vô
biên, chẳng lẫn lộn điều chi sân hận".
4. KHÔNG NÓI LỜI VÔ ÍCH
A.X.(176) -
"Người cố tránh lời nói vô ích và ráng tự chế.
Chỉ nên nói chuyện nào cần thiết, tuỳ sự việc và khi
đúng lúc như nói về Giáo lý, nói về Giới Luật. Mỗi
lần phát biểu điều gì, lời nói của người cũng như
một kho bảo vật được đưa ra đúng lúc, với lý luận ôn
hòa mang đầy ý nghĩa. Ðó là Chánh ngữ".
CHÁNH NGỮ THẾ GIAN VÀ CHÁNH NGỮ
SIÊU THẾ GIAN.
M.117
- "Như Lai nói Chánh ngữ có hai:
1) Tránh sự nói dối, nói lời
đâm thọc, nói lời hung dữ thô lỗ, nói lời vô ích,
hằng đem quả vui lại cõi trần. Ðó là" Chánh ngữ
thế gian"(lokiya sammà vaca).
2) Ðàng khác, có tâm chán ghét
bốn điều ác khẩu, tư cách tránh xa, tự chế, kiềm hãm,
tâm trí (của các bậc siêu nhân) đã được hoàn toàn
thanh lọc, không hướng về thế gian và đã hợp nhất
với con đường siêu việt (Bát Chánh Ðạo). Ðó gọi là
"Chánh ngữ siêu thế gian" (lokuttara sammà vaca), không
còn thuộc lãnh vực thế gian, ở ngoài thế gian và hợp
nhất với con đường siêu việt".
SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÁNH NGỮ VÀ
CÁC CHI KHÁC.
Khi hiểu rõ lời nói bất hảo là
xấu xa và lời nói chân chánh là đứng đắn, người
(giới tử) đã có chánh kiến (bước 1).Cố gắng kiềm
chế những lời nói bất hảo và chỉ thốt ra những lờichân
chánh người đã thực hành về "Chánh tinh tấn "(bước
thứ 6).tránh thốt ra những lời bất nhã, để hết tâm trí
quán xét (về Chánh ngữ) người đã thực hành"Chánh
niệm "(bước thứ 7).
"Như thế, có ba chi liên quan
với Chánh ngữ là: Chánh kiến, Chánh tinh tấn, Chánh niệm
"
-ooOoo-
II-4d
CHÁNH
NGHIỆP
(Sammà-Kammanta)
A.X (176) -
"Chánh nghiệp là thế nào?"
KHÔNG SÁT SANH
"Người cố chấp sát hại
sự sanh vật và ráng tự chế, không dùng gươm, dùng gậy,
luôn luôn cẩn thận, tánh tình cởi mở hằng lo lắng cho chúng
sanh được an vui".
KHÔNG TRỘM CẮP
"Người cố tránh sự trộm
cắp và ráng tự chế. Những gì không thuộc của mình, như
vật thực, bàn ghế, giường chõng của kẻ ở trong làng
hay trong rừng, người chẳng hề có manh tâm chiếm đoạt".
KHÔNG TÀ DÂM
"Người cố tránh sự giao
thiệp bất chánh với gái có người giữ gìn, như cha mẹ,
anh em, cô bác hoặc phụ nữ có chồng, đàn bà bị tù
tội, gái đeo dây tràng hoa (gái mất nết). Ðó gọi là Chánh
Nghiệp".
CHÁNH NGHIỆP THẾ GIAN VÀ CHÁNH
NGHIỆP SIÊU THẾ GIAN
M.117 -
"Như Lai nói Chánh nghiệp có hai:
- Không sát sanh, trộm cắp, tà
dâm hằng đem lại niềm vui nơi cõi trần được gọi là
"Chánh Nghiệp thế gian" (Lokiya sammà kammanta).
- Ðàng khác, biết ghê sợ 3 tà
nghiệp, ráng tự chế kiềm hãm, điều ngự tâm trí (của
bậc siêu nhân) được hoàn toàn thanh lọc, không hướng
về thế gian, mà đã hợp nhất với con đường siêu
việt (Bát Chánh Ðạo). Ðó gọi là "Chánh Nghiệp siêu
thế gian" (lokuttara sammà kammanta). Nó không còn thuộc
lãnh vực thế gian, ở ngoài thế gian, và đã hợp nhất
với 'con đường siêu việt'.
SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÁNH NGHIỆP
VỚI CÁC CHI KHÁC
"Khi hiểu rõ tà nghiệp là
xấu xa vàchánh nghiệp là cao đẹp, người đã thực hành
chánh kiến (bước 1). chế ngự được tà nghiệp và cố
gắng un đúc chánh nghiệp, người đã thực hành "Chánh
tinh tấn "(bước thứ 6). Vượt qua khỏi tà nghiệp, chú
tâm suy xét về Chánh nghiệp người đã thực hành "Chánh
niệm" (bước thứ 7).
"Như vậy, có ba yếu tố liên
quan với Chánh nghiệp là: Chánh kiến, Chánh tinh tấn, Chánh
niệm".
-ooOoo-
II-4e
CHÁNH
MẠNG
(Sammà-Àjìva)
D.22 -
"Thế nào gọi là Chánh mạng?
Khi người tu Phật biết tránh xa
tội lỗi và tìm cách nuôi mạng bằng những nghề nghiệp
chánh đáng trong danh dự, đó gọi là ‘Chánh mạng".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Kinh Majjhima Nikàya (117) có đoạn:
"Làm việc bội phản, nói chuyện phiêu lưu, hành động
gian xảo, ăn lời cắt cổ, đó là cách nuôi mạng xấu xa
không chánh đáng (tà mạng)".
Kinh Anguttara Nikàya V.117 cũng có
chép: "Có 5 nghề sanh nhai, mà người Phật tử cần nên
tránh: Buôn bán khí giới, buôn bán người, bán thịt, bán
nước say và bán thuốc độc".
CHÁNH MẠNG THẾ GIAN VÀ CHÁNH
MẠNG SIÊU THẾ GIAN.
Khi người Phật tử cố tránh xa
tội lỗi, tìm nuôi thân bằng phương thức chánh đáng, hành
động đó đem lại quả vui nơi cõi trần. Ðó gọi là
"Chánh mạng thế gian" (Lokiya sammà àjiva).
Đàng
khác, chán ghét lối sống bê tha, biết tự chế, kiềm hãm,
điều ngự, tâm trí (của bậc thánh nhân) không hướng về
thế gian đã hợp nhất với con đường siêu việt (Bát Chánh
Ðạo).
SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÁNH MẠNG VÀ
CÁC CHI KHÁC
"Khi hiểu rõ tà mạng là
xấu xa và chánh mạng là cao đẹp, người đã thực hành chánh
kiến (bước 1). Cố gắng vượt qua sự tà mạng bất chánh
để un đúc chánh mạng, người đã thực hành "Chánh
Tinh Tấn "(bước thứ 6). Ráng chế ngự tà mạng, và chăm
chú niệm tưởng về Chánh mạng, người đã thực hành
"Chánh niệm" (bước thứ 7).
"Như vậy, có ba chi liên quan
với Chánh mạng là: Chánh kiến, Chánh tinh tấn, Chánh
niệm".
-ooOoo-
II-4f
CHÁNH
TINH TẤN
(Sammà-Vàyàma)
A.IV -
"Thế nào gọi là Chánh Tinh Tấn? - Như Lai nói Chánh
Tinh Tấn có bốn:
Tinh tấn tránh xa
Tinh tấn lướt qua khỏi
Tinh tấn làm cho tiến triển
Tinh tấn để bảo tồn.
1. TINH TẤN TRÁNH XA (Samvarappadhàna)
"Tinh tấn tránh xa là thế nào?
Muốn tránh xa tội lỗi, người
giới tử cố trau dồi tâm trí không cho nó đánh thức
những tư tưởng xấu xa hay hành động đê hèn khi các ý
nghĩ đó chưa phát sanh. Người cố gắng để hết các
nghị lực chế ngự tư tưởng và chống trả lại nó.
Làm vậy,khi thấy hình sắc gì
bằng đôi mắt, tai nghe tiếng động nào. Mủi ngửi mùi gì,
lưỡi nếm vật chi hoặc thân va chạm với bất cứ vật gì,
người không dừng lại với ý nghĩ đó, dù với tánh cách
toàn diện hay vi tế. Những người ráng chống trả, quán tưởng
về những khía cạnh xấu xa tội lỗi, khát khao khốn quẩn
(của sắc trần) rất tai hại nếu không biết gìn giữ
lục căn, không canh chừng và kiểm soát chúng.
Khi làm chủ được các giác quan
một cách cao thượng rồi, giới tử cảm thấy mình được
an vui thơ thới, chẳng có việc gì xấu xa đê tiện có
thể xen vào (tâm trí).
Ðó gọi là "tinh tấn tránh
xa".
2. TINH TẤN LƯỚT QUA KHỎI (Pahànappadhàna)
"Thế nào là tinh tấn lướt
qua khỏi?
Muốn có sự tinh tấn này, giới
tử ráng trau dồi tâm trí để vượt qua các việc xấu xa
tội lỗi đã phát sanh. Người đem hết nghị lực chế
ngự tư tưởng, chống trả lại những ý nghĩ đê hèn đó.
người không dừng lại trong tư tưởng
tham dục, ác tâm hoặc bất cứ điều gì xấu xa khốn
quẫn đã phát sanh và ráng sa thải, đánh tan huỷ diệt nó".
NĂM PHƯƠNG PHÁP ÐỂ ÐÁNH TAN TƯ
TƯỞNG XẤU XA (Tà Tư Duy)
M.20 -
"Khi nhìn thấy vật gì có thể đem lại ý nghĩ xấu xa
tội lỗi, đánh thức lòng ham dục, si mê, sân hận, giới
tử nên hành động như thế này:
- Quan sát kỹ vật đó, đem nó
so sánh với một vật khác có tánh cách cao thượng cứu cánh
hơn.
- Nghĩ về sự đê hèn của
vật đó như thế này: "Ý nghĩ này thật nhơ nhớp. Nó
làm cho ta bị người chỉ trích và ắt sẽ đem lại hậu
quả đau đớn
- Hoặc bỏ qua không nghĩ đến vật đó nữa.
- Hoặc suy xét về tánh cách
phối hợp của nó.
- Hoặc cắn răng lại, uốn lưỡi
lên ổ gà, kềm chặt cái tâm buộc nó phải xoá bỏ tận
gốc rễ ý nghĩ đó.
Làm như vậy, những tư tưởng
xấu xa tội lỗi, tham lam, sân hận, si mê sẽ tiêu tan, sẽ
biến dạng ... và nội tâm sẽ được vững vàng, an tĩnh
tập trung.
Ðó là "tinh tấn lướt qua
khỏi".
3. TINH TẤN LÀM CHO TIẾN TRIỂN
(Bhàvanàppadhàna)
A.IV.13-14
- "Thế nào là tinh tấn làm cho tiến triển?
Muốn được như vậy, người
giới tử phải cần khuyến khích thiện chí của mình hướng
về các điều tốt tươi cao thượng chưa phát sanh. Người
cố gắng hết sức mình để đều ngự tâm trí và cố
sức chiến đấu.như thế, người làm cho những "nguyên
tố Giác Ngộ" (bojjhanga, thất giác chi) được tiến
triển thêm, phát tâm vui thích nơi thanh vắng, không còn
luyến ái, dập tắt (phiền não) để đi lần tới sự
giải thoát"
Ðó là: Niệm tưởng (Sati), Thông
suốt Giáo Pháp (Dhamma vicaya), Tinh tấn (Viriya), phỉ lạc
(Piti), An tịnh (Passaddhi), Ðịnh tâm (Samàdhi), và Xả (Upekkhà).
Ðó là "tinh tấn làm cho
tiến triển".
4. TINH TẤN ÐỂ BẢO TỒN
(Anurakkhanappadhàna)
"Thế nào là tinh tấn để
bảo tồn?
Về phương diện này, giới tử
khuyến khích thiện chí của mình hướng về những điều
tốt tươi cao thượng đã phát sanh rồi, không để tư tưởng
cao đẹp đó tiêu tan, mà ráng làm cho nó phát triển đến
mức chín muồi, đến hoàn hảo và tiến hoá triệt để (Bhàvanà).
Người cố gắng hết sức để điều ngự tâm trí và ráng
chiến đấu.
Ðó là "tinh tấn để bảo
tồn".
M.70 -
"Thật ra, giới tử nào đã có đầy đủ giới đức,
đã suốt thông Giáo lý của bậc thầy tổ, thì tâm trí thường
có những ý nghĩ như vầy: "Dù cho da ta, gân ta, xương
ta rã rời, dù cho thịt và máu ta khô can, ta cũng không
ngừng sự quyết tâm tinh tấn nếu chưa đạt được mục
đích mà con người có thể thành tựu với khả năng và
nghị lực".
Ðó là chánh tinh tấn".
A.IV.(14) -
"Tinh tấn tránh xa (tội lỗi), tinh tấn lướt khỏi
(tội lỗi), tinh tấn làm cho phát triển (các điều lành),
tinh tấn bảo tồn (những pháp cao thượng) là bốn giai đọan
về tinh tấn mà bậc đại hiền đã chứng minh. Kẻ nào
cố bám dính vào các đức tánh đó sẽ kết liễu được
những điều thống khổ"
-ooOoo-
II-4g
CHÁNH
NIỆM (Sammà-Sati)
"Cũng như thớt voi rừng
bỏ tánh hung hăng khó dạy để trở nên thuần nết, không
hoảng sợ lúc xông pha trận mạc, và được đức vua
trọng dụng ...
Thầy Tỳ Khưu tách rời thế
sự ... không còn buông lung ngoan cố, ráng trau dồi giớ đức
để đắc quả Niết Bàn bằng cách buộc chặt mình vào
bốn cây trụ "Niệm Tưởng Căn Bản" (Tứ Niệm
Xứ). -- MAJJIMA NIKAYA III
BỐN NIỆM TƯỞNG CĂN BẢN - (Tứ
Niệm Xứ, "Sati Patthàna")
D.22 -
"Thế nào là Chánh niệm?
Phương pháp duy nhất để tiến
tới tư cách hoàn toàn trong sạch, để vượt qua khỏi mối
ưu phiền, chấm dứt niềm Ðau Khổ và mở đường chân chánh
đi đến đạo quả Niết Bàn, phương pháp đó nằm trong
bốn "Niệm Tưởng Căn Bản" (Tứ Niệm Xứ).
Hành theo Tứ Niệm Xứ, người
giới tử luôn luôn sống trong tình trạng "Minh Sát"
về thân thể, trắc nghiệm những tình cảm và tinh tấn phân
tách các hiện tượng (pháp) phát sanh. Người thường xuyên
dũng mãnh, chăm chú biết mình, gạt bỏ một bên tất cả
sự khát vọng và phiền muộn của thế gian (sống với
hiện tại).
NIỆM THÂN (Kàyànupassanà)
"Vậy chớ người giới tử
quán tưởng về xác thân như thế nào?
Người tìm đi vào rừng, dưới
một cội cây, trong nơi thanh vắng, ngồi kiết già, thân hình
ngay thẳng, chú tâm về phía trước"
NIỆM VỀ HƠI THỞ VÔ RA (Anàpàna
Sati)
"Với tâm trí chăm chú, người
hít hơi vô. Với tâm trí chăm chú, người thở hơi ra. Khi hít
vô dài, người biết mình hít hơi dài. Lúc thở ra chậm, người
biết mình thở ra chậm. Khi hít vô vắn, người biết mình
hít hơi vắn. Lúc thở ra mau người biết mình thở ra mau.
Nhận định rõ toàn thân hơi
thở, người hít hơi vô. Nhận định rõ toàn thân hơi
thở, người mới thở ra. Hành giả hãy luyện tập như
thế đó.
Với xác thân yên tĩnh trong tư
thế (Kaya-sànkhàra) người hít hơi vô. Với xác thân yên tĩnh
trong tư thế ấy, người mới thở ra. Hành giả nên luyện
tập như thế đó.
Rồi người quán tưởng thân mình
với tư cách chủ quan và suy xét đến cơ thể kẻ khác
với tư cách khách quan. Người nhận định rõ xác thân được
cấu tạo và bị tan rã như thế nào? Người nhận rõ tư cách
sanh diệt của các vật thể và nghĩ rằng: "Ðang có
một vật thể tại đây" (nói về thân của mình).
Thân xác đó không phải là một
sanh vật, không phải là một cá nhân, không phải là đàn bà
hay đàn ông và cũng không phải là bản ngã. Chẳng phải cái
gì thuộc về ta hay kẻ khác hoặc là của bất cứ một người
nào."
NIỆM TƯỞNG VỀ BỐN HOÀI NGHI
D.22
- "Tiếp theo đó, giới tử nhận thức rõ đúng theo chân
lý bốn oai nghi: Ði, đứng, nằm, ngồi, như vầy: "ta đang
đi, ta đang đứng, ta đang ngồi, ta đang nằm, ta đang ở
trong oai nghi này hay oai nghi khác".
Giới tử biết rõ chẳng có một
chúng sanh hay một thực ngã đang đi, đứng, ngồi, nằm,
v.v... Và đó chỉ là một lề lối về ngôn ngữ mà thôi.
NIỆM TƯỞNG VỀ SỰ SÁNG SUỐT
BIẾT MÌNH (Sàti Sampajanna)
D.22 -
"Tiếp theo đó, giới tử luôn luôn sáng suốt biết mình
khi đi tới hay đi lui, biết mình đang ngó về phía trước
hay dòm lại đàng sau, biết mình khom lưng xuống hay chỗi đứng
dậy, biết mình đang thọ thực, uống nước, nhai nếm
thức ăn, biết mình khi hành sự tẩy ô trược (đại hay
tiểu tiện). Người sáng suốt hay biết mình trong lúc đi,
đứng, ngồi, ngủ hay thức, biết mình đang nói chuyện hay
im lặng.
Trong các trường hợp, giới tử
sáng suốt biết rõ ý định của mình, biết nhận thức
sự lợi ích, biết rõ bổn phận và mỗi hành động đúng
theo chân lý".
NIỆM TƯỞNG VỀ XÁC THÂN Ô TRƯỢC
(Patikkùla Sanna)
D.22 -
"Tiếp theo đó, giới tử quan sát thân mình từ bàn chân
lên tới đầu, từ tóc trở xuống chân, mường tượng như
bị bao phủ bằng một lớp da trong đó chứa đầy những
vật ô trược. Người suy nghĩ như vầy: "Thân này gồm
có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, xương, tuỷ, thận, tim,
gan, phổi, hoành cách mạc, lá mía, dạ dày, ruột, phẩn,
mật, đàm, mủ, máu, mùi hôi, nước giãi, huyết thanh, nước
khớp xương, nước mắt, nước tiểu.
Như người kia nhìn xem một cái
bao, miệng mở toanh ra cho thấy trong đó đựng các loại ngũ
cốc như: Gạo, đậu, mè ... rồi tự nghĩ: "Nếu ta không
mù quáng thì đó hẳn là những hột gạo, đậu, mè..."
Giới tử quan sát và thấy rõ thân
hình như thế ấy"
NIỆM TƯỞNG VỀ BỐN NGUYÊN TỐ
(Tứ đại)
"Tiếp theo đó, quan sát thân
mình, so sánh nó với các nguyên tố, người giới tử suy
nghĩ: "Thân này do những chất: chất rắn, lưu động, nóng
và rung chuyển cấu thành".
"Như tên đồ tể sành nghề
đứng tại ngã tư đường, trải banh trên thớt những
miếng thịt của con bò cái vừa bị triệt hạ. Thì cũng như
thế ấy, giới tử niệm tưởng xác thân của mình và so sánh
nó với bốn nguyên tố".
NIỆM TƯỞNG TRÊN BÃI THA MA
"tiếp theo đó, giới tử hành
động như thế này:
1) Khi gặp một thây người bị
vất trên bãi tha ma. Xác chết được một hôm, hai, ba hoặc
bốn hôm, sình thúi rã rời bẩn thỉu. Người nghĩ lại thân
mình như vầy: "Ðây là thân ta. Nó cũng đồng bản
chất (với xác chết) và phải chịu chung số phận không
sao tránh khỏi.
2) Thấy một xác chết nằm trên
bãi tha ma đã bị diều quạ, kên kên, chó nhà, chó rừng,
banh xé hoặc có vòi đục khoét, giới tử nghĩ lại thân mình:
"Ðây là thân ta. Nó cũng đồng bản chất và phải
chịu chung số phận không sao tránh khỏi.
3) Giới tử quán tưởng khi đứng
trước một xác chết nằm trên bãi tha ma, thấy nó chỉ là
một bộ cốt còn chút thịt thấm máu, các lóng xương dính
với nhau nhờ những sợi gân chằng chịt.
4) ... Bộ cốt không còn thịt
tẩm máu khô, xương dính với nhau nhờ các sợi gân.
5) ... Bộ cốt hết thịt, hết máu,
chỉ còn xương dính với gân.
6) ... Bộ cốt bị phân tán văng
ra tứ hướng, xương mỗi khúc nằm một nơi, ở đây một
bàn tay, đằng kia một bàn chân, một chả xương vai, một
khúc xương đùi, xương mông, những cọng xương sườn, xương
sống, một cái sọ. Giới tử nghĩ lại thân mình: "đây
là thân ta. Nó cũng đồng bản chất và phải chịu chung
số phận không sao tránh khỏi.
7) Tiếp theo đó, giới tử thấy
xương người khô khốc như vỏ sò, vỏ ốc.
8) ... Thấy những đống xương chồng chất từ nhiều năm
qua.
9) ... Thấy xương tàn rệu nát như
tro bụi. Nhìn lại mình, người tự nghĩ: "Đây là thân
ta. Nó cũng đồng bản chất và phải chịu chung số phận
không sao tránh khỏi số phận như vậy".
Cũng chính vì thế, người hành
đạo phải niệm tưởng thân mình và thân kẻ khác, hoặc
bất cứ vật thể nào. Người thấy rõ tư cách sanh diệt
của các vật thể khác. Người nhận định như vầy:
"Tại đây đang có một vật thể" (xem thân mình là
những nguyên tố vật chất giả tạm).
Nhờ niệm tưởng sáng suốt, hành
giả biết nhận định chính xác, nên sống một cách tự
do, chẳng còn dính mắc với bất cứ vật gì trên cõi
thế".
Hành giả niệm thân là như thế
đó".
MƯỜI PHƯỚC BÁU
M.119
- "Khi pháp niệm thân được thực hành đứng đắn,
được tiếp tục không ngừng, được phát triển và trở
thành thói quen, nó tạo ra một căn bản vững chắc, thì hành
giả có hy vọng đạt được 10 phước báu như sau:
1) Chế ngự được sự vui cùng
như sự khổ. Tâm không xao động. Chẳng có cảm nghĩ vui
hay buồn trong các hoàn cảnh phát sanh đến cho mình.
2) Ngăn chặn những điều sợ hãi
lo âu. Không để tâm bối rối khi sợ hãi phát sanh.
3) Chịu đựng nổi mức tấn công
của muỗi mòng, rắn rít, nóng lạnh, đói khát. Có sự
nhẫn nại khi thân thể bị hành hạ đau đớn, dù đau kinh
khủng, khó chịu hay nguy hiểm thế mấy. Có nhẫn nại đối
với những lời lẽ xấu xa hung dữ.
4) Hành giả có thể hưởng phỉ
lạc tùy ý trong bốn bậc Thiền (vui thích trong lúc nhập định),
thanh lọc nội tâm và được hạnh phúc huyền diệu trên
thế gian này.
SÁU PHÉP MẦU (ABHINNÀ)
Với tâm an tịnh, hành giả có
thể đạt được những phép mầu:
5) Ðắc thần thông (Iddhividha), có
thể bay trên hư không, đi trên mặt nước, chun xuống đất,
hoá hình, v.v...
6) Thiên nhĩ thông (Dibbasota), nghe
được tiếng của Chư Thiên, và tiếng người bất cứ xa
hay gần.
7) Tha tâm thông (Parassa cetoparinnà
nàna), đoán biết tư tưởng và ý đồ của người khác.
8) Túc mạng minh (Pubbenivàsànussati-nàna),
nhớ lại các tiền kiếp của mình, biết trong kiếp nào mình
mang tên gì, thuộc giai cấp nào, làm nghề gì vui khổ ra sao
và lúc chết như thế nào, rồi được sanh lại ở đâu,v.v...
9) Thiên nhãn minh (Dibba cakkhu),
thấy rõ tư cách sanh diệt của tất cả chúng sanh. Thấy chúng
sanh trong mỗi kiếp vui hay Khổ, sang hay hèn tuỳ theo duyên
nghiệp.
10) Lậu tận minh (Àsavakkhaya), thông
suốt lý Tứ Diệu Ðế và phương Pháp diệt trừ tham lam, sân
hận, si mê. Biết rõ đây là sự Khổ, đây là nguyên nhân
sự Khổ, đây là tư cách diệt Khổ và đây là con đường
đi đến nơi dứt Khổ. Người biết do đâu mà Phiền não
phát sanh. Khi tẩy trừ được lòng tham dục, sân hận, si mê
và màn vô minh tan biến, người đã đạt được trí tuệ
giải thoát và biết mình đã sống đầy đủ cuộc đời đạo
đức, việc phải làm mình đã làm rồi chẳng còn phận
sự trên thế gian này nữa.
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Trong 6 phép mầu kể trên, 5 cái
đầu thuộc phạm vi thế gian (Lokiya) mà hạng phàm nhân có
thể đạt được. Còn cái sau cùng là Lậu tận minh thì có
tánh cách siêu thế gian(Lokuttara) đặt biệt dành riêng cho
các bậc A La Hán vì các Ngài đã ở ngoài vòng thế sự.
Chỉ cần thực hành đầy đủ 4 phàm định của hạng
thế nhân cũng có thể thành đạt 5 phép mầu đó.
Các phép thần thông là thành
quả của 4 năng lực căn bản (Iddhipàdas) là: tập trung ý
muốn, tập trung nghị lực, tập trung tư tưởng và tập
trung sự quan sát.
NIỆM THỌ (Vedanà nuppassanà)
D.22 -
"Vậy chứ hành giả niệm thọ như thế nào?
Khi va chạm với một cảm giác.
Người biết nhận định rõ rệt như vầy: "Ta đang có
cảm giác khó chịu, ta đang có cảm giác dễ chịu hay vô
can. (Thọ này thuộc cảm giác không liên hệ với mình khi
thấy hoặc nghe chuyện của người khác)".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Khác hơn quan niệm tâm lý của
người châu Âu, danh từ Pàli "Vedana" có thể được
áp dụng một cách bao quát cho cả 2 trường hợp vui và
buồn, nên mới có cách nói: "Cảm giác vô can (trung tính)".
Nghĩa là làm ngơ đối với những việc không dính đáng
tới bản thân tuy mình vẫn nghe. Chỉ có những cảm giác
liên hệ tới thân hay tâm trí mình mới làm phát sanh cho
thọ vui hay thọ khổ. Những thọ do mắt thấy, tai nghe thoáng
qua, đụng chạm sơ sài, nếm thức ăn uống v.v... đều
thuộc loại "Cảm giác vô can", có tánh cách tiêu
cực.
D.22 -
"Như thế hành giả niệm Thọ trên cả 3 phương diện:
Niệm tưởng về bản thân, quán xét về kẻ khác, hoặc suy
nghĩ đến cả 2 cùng một lúc. Người nhận thức
"Thọ" xuất hiện ra sao và biến mất như thế nào,
biết rõ tư cách sanh diệt của nó và nghĩ rằng: "Tại
đây đang có cảm giác", hành giả biết mình một cách
sáng suốt như thế nhờ sự chú tâm và trí tuệ.
Vì vậy, người sống tự do,
chẳng còn dính mắc với bất cứ vật gì trên cõi thế ...
hành giả niệm thọ như thế đó".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Hành giả nhận định cách nói
"Ta đang có cảm giác", đó là không ngoài quan
niệm thông thường về ngôn ngữ để giải thích một
sự việc vậy thôi. Theo ý nghĩ tuyệt đối,
"Paramattha", thì chỉ có những thọ (cảm giác),
chớ không có một thực thể, một nhân vật hay một người
đang trắc nghiệm tình cảm nào cả.
NIỆM TÂM (Cittànupassanà)
D.22
- "Hành giả niệm tâm như thế nào?
Ở giai đoạn này, người rất thông
thạo, biết rõ những tư tưởng phát sinh ra? Chúng thuộc
loại có tánh cách tham dục hay không có. Chúng thuộc loại
sân hận, si mê hay không có.
Người biết cách tư tưởng đó
trong sạch hay nhơ bẩn, có ý thức hay vô ý thức, thấp hèn
hay cao thượng, tầm thường hay quan trọng. Tư tưởng đó
tập trung hay rời rạc, tự do hay lệ thuộc".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Ở trường hợp này tiếng Pali
"Citta" (Tâm) đồng nghĩa với
"Vinnana"(Thức) nên được gọi là "Tâm
Thức" chớ không thể cho nó đồng nghĩa với danh từ
"Tư tưởng". Vì tư tưởng và những hoạt động
của tư tưởng đều thuộc phạm vi "Lý Trí" -
Vitakkha (Tầm) và Vicàra (Sát)- là những thành phần của
"Hành uẩn" (Sankhàra khanda). Lẽ đó, tư tưởng có
tánh cách phụ thuộc và được gặp 6 "tâm
thức". Khi hành giả đắc được nhị Thiền, tam
Thiền, tứ Thiền (bước thứ 8) thì tư tưởng bị loại
trừ.
D.22 -
"Hành giả niệm Tâm như thế đó. Người quán xét tâm
mình và tâm kẻ khác, hoặc cả 2 cùng một lúc. Người
biết phân biệt tư tưởng bừng dậy như thế nào và tan
biến ra sao? Phẫm hạnh sáng suốt biết mình đó là thành
quả của sự trì chí thực hành công phu rèn luyện pháp Chánh
niệm. Và người được sống tự do, chẳng còn dính mắc
với bất cứ việc trên cõi thế.
Hành giả niệm Tâm như thế đó".
NIỆM PHÁP (DHAMMÀNUPASSANÀ)
"Và hành giả niệm pháp như
thế nào?
Người quán tưởng về 5 trạng
thái được gọi là những điều chướng ngại (5 triền cái)".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Những "pháp" hay là
trạng thái về tâm trí, tư tưởng, thọ cảm, v.v... đều
thuộc "Tưởng uẩn" (Sanna khandha) và "Hành
uẩn" (Sankhara khandha). Hai uẩn đó liên hệ tới sự
nhận định biết mình và quan niệm sự khác biệt chủ
quan (trước những hoàn cảnh).
Vì vậy 4 Pháp niệm tưởng
trong bước thứ 7 về Chánh niệm của Bát Chánh Ðạo
gồm cả 5 uẩn tạo ra sự sống:
Pháp niệm tưởng thứ nhất,
"Niệm Thân", thuộc về đời sống vật chất
(Sắc Uẩn).
Pháp thứ 2, "Niệm Thọ", thuộc về cảm giác
(Thọ Uẩn).
Pháp thứ 3, "Niệm Tâm", thuộc về sự nhận định
biết mình (Thức Uẩn).
Pháp thứ 4, "Niệm Pháp", thuộc quan niệm về tánh
cách khác biệt chủ quan (Hành Uẩn và Tưởng Uẩn).
NĂM PHÁP CHỨƠNG NGẠI (Nivàranà
- Triền cái)
"Ðó là:
- Khi tâm tham muốn nhục dục,
"Kàmachanda", phát sanh, hành giả biết rõ: Ta đang
khao khát nhục dục".
- Khi ý nghĩ sân hận, "Vyàpàda",
phát sanh, người biết rõ: "Ta đang uất hận trong tâm".
- Khi sự hôn trầm, "Middha", phát sanh, người
biết: "Ta đang uể oải chán nản đây".
- Khi sự phóng tâm, "Uddhacca", phát sanh, người
biết: "Ta đang xôn xao bối rối"
- Khi sự hoài nghi, "Vicikicchà",
phát sanh, người biết: "Ta đang hoang mang ngờ vực đây".
Và những điều chướng ngại đó
không phát sanh, người cũng biết rõ: "Ta chẳng có
việc gì trở ngại cả".
Người biết những pháp đó phát
sanh ra sao và biết cách chế ngự chúng. Người biết chúng
bị loại trừ và không phát sanh nữa ".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Ví dụ tình dục phát sanh do
sự thiếu minh mẫn có thể bị loại trừ bằng 6 phương
thức sâu đây:
- Chú tâm về một trường hợp
nào có thể khởi động sự nhàm chán, như quán tưởng các
vật trong thân thể.
- Kiểm soát lục căn, không cho phóng túng trước sắc
trần.
- Giảm độ trong vật thực (tránh các món ăn kích thích,
dùng vật thực dễ tiêu hoá).
- Thân cận bạn lành (người cùng chí hướng và có tinh
thần đạo đức như mình).
- Tìm học hỏi với bậc thiện trí thức (để được
kinh nghiệm về chân lý).
- Suy ngẫm và tra cứu kinh sách (để thông suốt những gì
có liên quan với đạo giải thoát).
Sự khuấy rối nội tâm bị
huỷ diệt khi đắc đạo quả Tu Đà Hườn. Tình dục bị
loại khi đắc A Na Hàm. Tới đạo quả A La Hán thì sự phóng
tâm mới bị diệt tận.
NĂM UẨN (Khandha)
D.22 -
"Và tiếp theo đó, hành giả niệm tưởng về 5 uẩn
tạo thành kiếp sống:
Người quan niệm rõ các hình
thể vật chất (sắc), "Rùpa", và biết được tư cách
sanh diệt của sắc.
Người quan niệm rõ sự cảm giác (thọ), "Vedana", và
biết cách sanh diệt của thọ.
Người quan niệm rõ sự chấp nhận tình cảm (tưởng),
"Sannà", và biết tư cách sanh diệt của tưởng.
Người quan niệm rõ sự phối hợp tư tưởng (hành),
"Sankhàrà", và biết tư cách sanh diệt của hành.
Người quan niệm rõ sự nhận định hiểu biết (thức),
"Vinnàna", và biết tư cách sanh diệt của
thức".
SÁU YẾU TỐ CHỦ QUAN VÀ KHÁCH
QUAN CỦA LỤC CĂN, "ÀYATANA"
"Và tiếp theo đó, hành giả
niệm tưởng về các pháp gọi là "sáu yếu tố chủ
quan và khách quan và khách quan của lục căn"
Người biết rõ bản chất của
mắt và sắc tướng .
Biết rõ bản chất của tai và âm thanh.
Biết rõ bản chất của mũi và hương.
Biết rõ bản chất của lưỡi và vị.
Biết rõ bản chất của thân và sự đụng chạm.
Biết rõ bản chất của ý và tư tưởng .
Cuối cùng người biết rõ trạng
thái hoang mang xao động kể trên gây ra, biết cái tâm bất
tịnh phát sanh và bị diệt như thế nào. người biết khi
phóng tâm bị loại trừ và nó sẽ không phát sanh
nữa".
BẢY NGUYÊN TỐ GIÁC NGỘ
(Bojjhanga)
(bảy nhân sanh quả Bồ Ðề hay là Thất Giác Chi)
"Và tiếp theo đó, hành giả
niệm tưởng về các pháp gọi là "Bảy nguyên tố Giác
Ngộ".
Người biết rõ khi nào mình có
sự niệm tưởng (Sati).
Biết rõ khi nào mình đang suy cứu về Giáo Pháp (Dhamma
Vicaya, Trạch Pháp).
Biết rõ khi nào mình có sự tinh tấn (Viriya).
Biết rõ khi nào mình có phỉ lạc (Piti).
Biết rõ khi nào mình có sự an vui hạnh phúc (Passadhi).
Biết rõ khi nào mình có tâm Ðịnh (Samàdhi).
Biết rõ khi nào mình có tâm bình đẳng tự tại,
"Xả" (Upekkha).
Người biết rõ khi nào không có
cái này (nhân) thì cái kia (duyên) cũng không phát sanh và
bị diệt".
BỐN CHÂN LÝ CAO SIÊU (Ariya Sacca -
TỨ DIỆU ÐẾ)
"Và tiếp theo đó, hành giả
niệm tưởng qua các pháp được gọi là "Bốn chân lý
cao siêu".
Người hiểu đúng theo chân lý
thế nào là sự Khổ.
Người hiểu đúng theo chân lý thế nào là nguyên nhân
sự Khổ
Người biết rõ tư cách diệt Khổ
Người biết rõ con đường đưa đến nơi dứt Khổ.
"Như thế đó, hành giả
niệm tưởng các pháp đối với bản thân (chủ quan) và đối
với kẻ khác (khách quan), hoặc cả 2 cùng một lúc.
Người hiểu rõ tư cách sanh
diệt của các pháp và suy nghĩ: "Tại đây có những pháp
đang phát sanh".
Sự hiểu biết sáng suốt này là
do thành quả của công phu học hỏi, trì chí rèn luyện pháp
Chánh niệm. Và người được sống tự do, chẳng còn dính
mắc với bất cứ vật gì trên cõi thế.
Phương pháp duy nhất đưa tới
phẫm hạnh hoàn toàn trong sạch, tới tư cách diệt trừ
phiền muộn khóc than, tới con đường chân chánh để đi đến
Niết Bàn, phương pháp đó là "bốn pháp niệm tưởng căn
bản" (Tứ Niệm Xứ).
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Cả bốn pháp niệm tưởng đều
liên quan với năm uẩn tạo thành đời sống. Niệm tưởng
có nghĩa là chủ tâm quán xét.
Niệm thân liên quan với
"sắc uẩn"
Niệm thọ liên quan với "Thọ uẩn"
Niệm tâm liên quan với "Thức uẩn"
Niệm pháp liên quan tới "Tưởng và Hành uẩn"
NIỆM HƠI THỞ VÀ NIẾT BÀN
M.118 -
"Tu cách niệm tưởng về hơi thở vô ra (anàpàna sati)
được thực hành và phát triển làm cho 4 pháp niệm tưởng
căn bản (Tứ Niệm Xứ) thêm hoàn hảo. Bốn pháp niệm tưởng
căn bản được thực hành và phát triển và phát sanh bảy
nguyên tố giác ngộ. Bảy nguyên tố giác ngộ được thực
hành và phát triển và phát sanh tuệ giác hoàn toàn.
Nhưng phải thực hành và làm phát
triển sự niệm tưởng về hơi thở vô ra như thế nào để
đưa bốn pháp niệm tưởng (sati patthana) lên tới tột điểm?
1) Đó là khi nào hành giả:
Biết mình và ghi nhớ rõ hơi
thở vô, hơi thở ra dài,
Biết mình và ghi nhớ rõ hơi thở vô, hơi thở ra vắn,
Biết mình và sự luân chuyển của hơi thở trong khắp châu
thân,
Biết rõ chế ngự hơi thở cho điều hoà êm dịu hơn.
Ðến lúc này hành giả an trú
trong niệm thân, có đầy đủ nghị lực, tâm trí sáng
suốt, luôn luôn chăm chú biết mình. Người lướt qua tất
cả sự tham dục và đau khổ trên thế gian.
Như Lai nói hơi thở vô ra cũng là
một thành phần của cơ thể. Tuy không thấy được, nhưng
hơi thở thuộc về vật chất (sắc).
2) Khi hành giả thực hành pháp
kiểm soát hơi thở vô ra:
Có cảm giác mình được phỉ
lạc (Piti),
Có cảm giác mình được an vui hạnh phúc (Sukkha),
Có tâm hành (Citta Sankhara),
Có sự an tịnh của tâm hành.
Ðến lúc này hành giả an trú
trong pháp niệm thọ. đầy đủ nghị lực, tâm trí sáng
suốt, luôn luôn chăm chú biết mình. Người lướt qua khỏi
tất cả tham dục và đau khổ trên thế gian.
Như Lai nói tư cách ghi nhớ biết
mình về hơi thở vô ra cũng thuộc về cảm giác (Thọ).
3) Khi hành giả thực hành pháp
kiểm soát hơi thở vô ra:
Biết rõ tình trạng tâm mình,
Biết có sự thơ thới trong tâm,
Biết pháp hành đó đưa tâm tới an định,
Biết pháp hành đó giải thoát tâm (ra khỏi ngã chấp).
Ðến lúc này, hành giả an trú
trong pháp niệm tâm, có đầy đủ nghị lực và sự ghi
nhớ biết mình. Người lướt qua khỏi tham dục đau khổ trên
thế gian. Lẽ đó, nếu không có sự niệm tưởng sáng
suốt biết mình (niệm Tâm), thì không thể nào kiểm soát
được hơi thở vô ra.
4) Khi hành giả thực hành pháp
kiểm soát hơi thở vô ra và niệm tưởng về:
Tu cách vô thường (của thế
gian),
Tư cách dập tắt (Si mê),
Tư cách lìa bỏ (Tham dục và Sân hận)
Tư cách chấm dứt (Tham dục và Sân hận)
Ðến lúc này hành giả an trú
trong tình trạng niệm pháp có đầy đủ nghị lực, luôn luôn
ghi nhớ biết mình. Người lướt qua tất cả tham dục và
khổ đau trên thế gian.
Phương thức kiểm soát hơi thở
vô ra được thực hành và phát triển làm cho thành tựu
bốn pháp niệm tưởng căn bản (Tứ Niệm Xứ) lên tới
mức độ hoàn hảo.
Nhưng "bốn pháp niệm tưởng
căn bản" được thực hành và phát triển và làm cho thành
tựu bảy nguyên tố giác ngộ như thế nào?
1) Khi hành giả an trú trong pháp:
niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm, niệm Pháp, có đầy đủ
nghị lực, luôn luôn biết mình thì người lướt qua khỏi
tất cả tham dục và đau khổ trên thế gian.
Và đến khi nào Pháp niệm tưởng
không còn bị xao lãng, mức độ chú tâm được vững vàng
không gì lay chuyển nổi, lúc đó hành giả thành đạt được
nguyên tố Giác Ngộ "Sati Sambojjhanga" (Niệm tưởng
sáng suốt, hay là Bồ đề Niệm).
Nguyên tố Giác Ngộ này được
thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như
thế.
2) Hành giả dùng trí tuệ để
nghiên cứu giáo pháp "Dhamma", khi đó người tấn hoá
thêm một bước và thành đạt nguyên tố Giác Ngộ
"Dhammavicaya-Sambojjhanga" (Thông suốt Chánh Pháp).
Nguyên tố Giác Ngộ này được
thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như
thế.
3) Hành giả để hết năng lực
quan sát, suy cứu, dùng trí tuệ niệm tưởng về Giáo Pháp,
không gì lay chuyển nổi, khi đó người tiến hoá thêm một
bước và thành đạt nguyên tố "Viriya Sambojjhanga"
(Tin tấn sáng suốt).
Nguyên tố Giác Ngộ này được
thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như
thế.
4) Khi hành giả cương quyết tinh
tấn hành đạo thì cảm giác an vui hạnh phúc phát sanh vì
đã thoát khỏi ảnh hưởng lực của lục căn. Lúc đó người
đạt được nguyên tố Giác Ngộ "Piti Sambojjhanga"
(Phỉ lạc cao thượng).
Nguyên tố Giác Ngộ này được
thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như
thế.
5) Khi thân tâm hành giả được
thấm nhuần sự thơ thới và phỉ lạc, lúc đó người đạt
được nguyên tố Giác Ngộ "Passadi Sambojjhanga"
(hạnh phúc siêu việt).
Nguyên tố Giác Ngộ này được
thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như
thế.
6) Khi thân tâm hành giả được
thấm nhuần sự thanh tịnh và tập trung tư tưởng, lúc đó
người đã tiến hoá thêm một bước và thành đạt nguyên
tố Giác Ngộ "Samàdhi Sambojjhanga" (Ðịnh tâm cao thượng).
Nguyên tố Giác Ngộ này được
thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như
thế.
7) Và khi hành giả quan niệm
những trạng thái với tư cách bình đẳng về tư tưởng
(bất chấp) và tâm trí tập trung, lúc đó người đã tiến
hoá thêm một bước và đạt được nguyên tố Giác Ngộ
"Upekkhà Sambojjhanga" (Tâm Xả).
Bốn pháp niệm tưởng căn bản
được thực hành và phát triển, đưa bảy nguyên tố Giác
Ngộ tới mức phát triển, đưa bảy nguyên tố Giác Ngộ
tới mức hoàn hảo là như thế.
Còn những trường hợp nào bảy
nguyên tố Giác Ngộ được thực hành và phát triển có
thể đưa tới trí tuệ giải thoát toàn hảo - "Vijja
Vimutti"?
Về điều này hành giả cố
gắng hết mình để trau dồi bảy nguyên tố Giác Ngộ: Chánh
niệm, suốt thông Giáo Pháp, Tinh Tấn, Phỉ Lạc, Hạnh Phúc,
Ðịnh Tâm, và Xả để đưa người tới tư cách vất bỏ
thế sự, diệt tận lòng tham dục, dật tắt phiền não...
Thực hành và làm phát triển
bảy nguyên tố Giác Ngộ để đưa đến trí tuệ giải thoát
là như thế".
M.125
- "Cũng như người thợ săn cặm xuống đất một cây
trụ rắn chắc và cột cổ con voi rừng vào đó làm cho nó
bỏ rơi những tật cũ và tánh cách ưa sống nơi chốn sơn
lâm, bỏ hết buông lung, bỏ thói cứng đầu hung hăng nơi
rừng rú ... và tập cho nó lối sống theo miền thôn dã. Người
thợ săn dạy nó các tánh tốt cần thiết để thân cận
với loài người.
Thì cũng như thế ấy, người
giới tử nhiệt thành cần phải để tâm lực vào bốn pháp
niệm tưởng căn bản nhằm loại trừ những thói quen là:
tham dục quá độ, dễ duôi cẩu thả, cứng đầu khó dạy
và tánh tình tàn bạo, để thành đạt chân lý, để đắc
đạo quả Niết Bàn.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục
lục | 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4 |