| 
         Phần 
        II - TỨ DIỆU ĐẾ (tiếp theo) 
        -ooOoo- 
        II-4b 
        CHÁNH 
        TƯ DUY 
        "TƯ TƯỞNG CHƠN CHÁNH" (Sammà-Sankappa) 
        
        D.22 
        - "Vậy thế nào là "Chánh tư duy?". Ðó là: 
        
          Tư tưởng không tham lam 
          Tư tưởng không không hiểm độc 
          Tư tưởng không không tàn bạo." 
         
        CHÁNH TƯ DUY THẾ GIAN VÀ CHÁNH TƯ 
        DUY SIÊU THẾ GIAN. 
        
        M.117 
        - "Như Lai nói Chánh tư duy có 2: 
        Tư tưởng không tham lam,không 
        hiểm độc, không tàn bạo được gọi là "Chánh tư duy 
        thế gian" (lokiya sammà sankappa). Những tư tưởng ấy đem 
        lại quả vui trên cõi thế. 
        Ðàng khác, tuy cũng suy tưởng, cũng 
        lý luận, cũng nhận định, cũng tranh biện, cũng thực hành, 
        nhưng tâm trí (của bậc Thánh Nhơn) đã được hoàn toàn 
        thanh lọc, không còn mang tính cách thế gian, mà chỉ hướng 
        về "đuờng siêu việt". 
        Bát Chánh Ðạo thể thức hoạt 
        động về tâm lý đó (Vaci Sankhara) được gọi là "Chánh 
        tư duy Siêu thế gian". Những tư tưởng đó không thuộc 
        lãnh vực thế gian, chúng ở ngoài thế gian và hợp nhất 
        với con đường siêu việt. 
        SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÁNH TƯ DUY 
        VỚI CÁC CHI KHÁC 
        "Khi biết rõ tư tưởng nào 
        trái với lẽ phải, là tà vạy, là tư tưởng nào đúng chân 
        lý, người (hành giả) đã có "Chánh kiến" (bước 
        1). Lúc nào cố tránh được những tư tưởng xấu xa để 
        đánh thức những tư tưởng cao thượng, người đã thực hành 
        "Chánh tinh tấn" (bước 6). Và khi chế ngự được 
        những tư tưởng xấu xa, người đem hết tâm lực trau 
        giồi các tư tưởng chánh đáng thì đã được thực hành 
        "Chánh niệm" (bước thứ 7). 
        Cả 3 chi trên, Chánh kiến, Chánh 
        tinh tấn và Chánh niệm, luôn luôn có liên hệ với Chánh tư 
        duy" 
        -ooOoo- 
        II-4c 
        CHÁNH 
        NGỮ 
        (Sammà-vacà)
        
        A.X.(176) - 
        "Chánh ngữ là gì?" 
        1. KHÔNG NÓI DỐI 
        "Người tránh xa sự nói dối 
        và răng tự chế, chỉ lời nói chân thật, trau dồi phẩm 
        hạnh trung thực. Chắc chắn người sẽ được kẻ khác tin 
        cậy và chẳng gây phiền muộn cho ai. 
        Giữa cuộc hội họp đông nguời 
        và các bạn thân, trong dịp lễ đại nghị hay trước sân 
        chầu tại triều đình, nếu có ai muốn dẫn chứng một điều 
        gì, người (Phật tử) trả lời biết đối với những gì 
        mình đã biết và không biết gì về những gì mình không 
        biết. Người trả lời có thấy đối với chuyện gì đã 
        thấy và không nếu mình không thấy. 
        Như vậy, người chẳng hề cố 
        ý nói dối, dù làm vậy có lợi ích cho mình hay cho kẻ khác, 
        hoặc để được bất cứ lợi lộc nào khác". 
        2. KHÔNG NÓI LỜI ÐÂM THỌC 
        "Người cố tránh xa sự nói 
        xấu kẻ khác và hằng tự chế. Nghe chuyện nơi này,người 
        không nên lập lại nơi khác để gây ra cải vã. Biết 
        chuyện chỗ nọ, người không đem nói lại đằng kia, để 
        tạo ra tranh chấp. Làm vậy người đem lại hoà hợp cho 
        những kẻ bị chia rẽ và khuyến khích những kẻ đang hoà 
        nhã làm cho tâm người thơ thới và mang lại nhiều hạnh phúc". 
        3. KHÔNG NÓI LỜI CỘC CẰN THÔ 
        LỖ 
        "Người cố tránh những lời 
        nói hằn học thô lỗ, và rán tự chế, chỉ dùng ngôn ngữ 
        dịu dàng, nghe êm tai dễ thương, nhã nhặng, duyên dàng 
        hữu ích để gây thông cảm với phần đông". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Theo kinh Trung A Hàm (Majjhima 
          Nikaya) đức Thế Tôn có thuyết: 
          "Hỡi này chư Tỳ Khưu! 
          Nếu bị bọn cướp hay kẻ sát nhân cưa tay, chặt chân, cưa 
          đứt khớp xương, mà các ngươi phát tâm nóng giận thì 
          hẳn các ngươi không nghe lời Như Lai dạy. Vậy các ngươi 
          nên tập luyện như thế này: "Hiện tâm trí ta rất 
          vững vàng. Chẳng có lời bất nhã nào vượt ra khỏi 
          miệng ta. Ta hãy ráng giữ thái độ thân hữu, thấm 
          nhuần từ bi bác ái, không có ý gì sâu độc bí ẩn nào 
          trong tâm. Và ta cố rãi tâm từ bi rộng lớn vô lượng vô 
          biên, chẳng lẫn lộn điều chi sân hận". 
           
        
        4. KHÔNG NÓI LỜI VÔ ÍCH 
        
        A.X.(176) - 
        "Người cố tránh lời nói vô ích và ráng tự chế. 
        Chỉ nên nói chuyện nào cần thiết, tuỳ sự việc và khi 
        đúng lúc như nói về Giáo lý, nói về Giới Luật. Mỗi 
        lần phát biểu điều gì, lời nói của người cũng như 
        một kho bảo vật được đưa ra đúng lúc, với lý luận ôn 
        hòa mang đầy ý nghĩa. Ðó là Chánh ngữ". 
        CHÁNH NGỮ THẾ GIAN VÀ CHÁNH NGỮ 
        SIÊU THẾ GIAN. 
        
        M.117 
        - "Như Lai nói Chánh ngữ có hai: 
        
          1) Tránh sự nói dối, nói lời 
          đâm thọc, nói lời hung dữ thô lỗ, nói lời vô ích, 
          hằng đem quả vui lại cõi trần. Ðó là" Chánh ngữ 
          thế gian"(lokiya sammà vaca). 
          2) Ðàng khác, có tâm chán ghét 
          bốn điều ác khẩu, tư cách tránh xa, tự chế, kiềm hãm, 
          tâm trí (của các bậc siêu nhân) đã được hoàn toàn 
          thanh lọc, không hướng về thế gian và đã hợp nhất 
          với con đường siêu việt (Bát Chánh Ðạo). Ðó gọi là 
          "Chánh ngữ siêu thế gian" (lokuttara sammà vaca), không 
          còn thuộc lãnh vực thế gian, ở ngoài thế gian và hợp 
          nhất với con đường siêu việt". 
         
        SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÁNH NGỮ VÀ 
        CÁC CHI KHÁC. 
        Khi hiểu rõ lời nói bất hảo là 
        xấu xa và lời nói chân chánh là đứng đắn, người 
        (giới tử) đã có chánh kiến (bước 1).Cố gắng kiềm 
        chế những lời nói bất hảo và chỉ thốt ra những lờichân 
        chánh người đã thực hành về "Chánh tinh tấn "(bước 
        thứ 6).tránh thốt ra những lời bất nhã, để hết tâm trí 
        quán xét (về Chánh ngữ) người đã thực hành"Chánh 
        niệm "(bước thứ 7). 
        "Như thế, có ba chi liên quan 
        với Chánh ngữ là: Chánh kiến, Chánh tinh tấn, Chánh niệm 
        " 
        -ooOoo- 
        II-4d 
        CHÁNH 
        NGHIỆP 
        (Sammà-Kammanta)
        
        A.X (176) - 
        "Chánh nghiệp là thế nào?" 
        KHÔNG SÁT SANH 
        "Người cố chấp sát hại 
        sự sanh vật và ráng tự chế, không dùng gươm, dùng gậy, 
        luôn luôn cẩn thận, tánh tình cởi mở hằng lo lắng cho chúng 
        sanh được an vui". 
        KHÔNG TRỘM CẮP 
        "Người cố tránh sự trộm 
        cắp và ráng tự chế. Những gì không thuộc của mình, như 
        vật thực, bàn ghế, giường chõng của kẻ ở trong làng 
        hay trong rừng, người chẳng hề có manh tâm chiếm đoạt". 
        KHÔNG TÀ DÂM 
        "Người cố tránh sự giao 
        thiệp bất chánh với gái có người giữ gìn, như cha mẹ, 
        anh em, cô bác hoặc phụ nữ có chồng, đàn bà bị tù 
        tội, gái đeo dây tràng hoa (gái mất nết). Ðó gọi là Chánh 
        Nghiệp". 
        CHÁNH NGHIỆP THẾ GIAN VÀ CHÁNH 
        NGHIỆP SIÊU THẾ GIAN 
        
        M.117 - 
        "Như Lai nói Chánh nghiệp có hai: 
        
          - Không sát sanh, trộm cắp, tà 
          dâm hằng đem lại niềm vui nơi cõi trần được gọi là 
          "Chánh Nghiệp thế gian" (Lokiya sammà kammanta). 
          - Ðàng khác, biết ghê sợ 3 tà 
          nghiệp, ráng tự chế kiềm hãm, điều ngự tâm trí (của 
          bậc siêu nhân) được hoàn toàn thanh lọc, không hướng 
          về thế gian, mà đã hợp nhất với con đường siêu 
          việt (Bát Chánh Ðạo). Ðó gọi là "Chánh Nghiệp siêu 
          thế gian" (lokuttara sammà kammanta). Nó không còn thuộc 
          lãnh vực thế gian, ở ngoài thế gian, và đã hợp nhất 
          với 'con đường siêu việt'. 
         
        SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÁNH NGHIỆP 
        VỚI CÁC CHI KHÁC 
        "Khi hiểu rõ tà nghiệp là 
        xấu xa vàchánh nghiệp là cao đẹp, người đã thực hành 
        chánh kiến (bước 1). chế ngự được tà nghiệp và cố 
        gắng un đúc chánh nghiệp, người đã thực hành "Chánh 
        tinh tấn "(bước thứ 6). Vượt qua khỏi tà nghiệp, chú 
        tâm suy xét về Chánh nghiệp người đã thực hành "Chánh 
        niệm" (bước thứ 7). 
        "Như vậy, có ba yếu tố liên 
        quan với Chánh nghiệp là: Chánh kiến, Chánh tinh tấn, Chánh 
        niệm". 
        -ooOoo- 
        II-4e 
        CHÁNH 
        MẠNG 
        (Sammà-Àjìva)
        
        D.22 - 
        "Thế nào gọi là Chánh mạng? 
        Khi người tu Phật biết tránh xa 
        tội lỗi và tìm cách nuôi mạng bằng những nghề nghiệp 
        chánh đáng trong danh dự, đó gọi là ‘Chánh mạng". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Kinh Majjhima Nikàya (117) có đoạn: 
          "Làm việc bội phản, nói chuyện phiêu lưu, hành động 
          gian xảo, ăn lời cắt cổ, đó là cách nuôi mạng xấu xa 
          không chánh đáng (tà mạng)". 
          Kinh Anguttara Nikàya V.117 cũng có 
          chép: "Có 5 nghề sanh nhai, mà người Phật tử cần nên 
          tránh: Buôn bán khí giới, buôn bán người, bán thịt, bán 
          nước say và bán thuốc độc". 
           
        
        CHÁNH MẠNG THẾ GIAN VÀ CHÁNH 
        MẠNG SIÊU THẾ GIAN. 
        Khi người Phật tử cố tránh xa 
        tội lỗi, tìm nuôi thân bằng phương thức chánh đáng, hành 
        động đó đem lại quả vui nơi cõi trần. Ðó gọi là 
        "Chánh mạng thế gian" (Lokiya sammà àjiva). 
        Đàng 
        khác, chán ghét lối sống bê tha, biết tự chế, kiềm hãm, 
        điều ngự, tâm trí (của bậc thánh nhân) không hướng về 
        thế gian đã hợp nhất với con đường siêu việt (Bát Chánh 
        Ðạo). 
        SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÁNH MẠNG VÀ 
        CÁC CHI KHÁC 
        "Khi hiểu rõ tà mạng là 
        xấu xa và chánh mạng là cao đẹp, người đã thực hành chánh 
        kiến (bước 1). Cố gắng vượt qua sự tà mạng bất chánh 
        để un đúc chánh mạng, người đã thực hành "Chánh 
        Tinh Tấn "(bước thứ 6). Ráng chế ngự tà mạng, và chăm 
        chú niệm tưởng về Chánh mạng, người đã thực hành 
        "Chánh niệm" (bước thứ 7). 
        "Như vậy, có ba chi liên quan 
        với Chánh mạng là: Chánh kiến, Chánh tinh tấn, Chánh 
        niệm". 
        -ooOoo- 
        II-4f 
        CHÁNH 
        TINH TẤN 
        (Sammà-Vàyàma)
        
        A.IV - 
        "Thế nào gọi là Chánh Tinh Tấn? - Như Lai nói Chánh 
        Tinh Tấn có bốn: 
        
          Tinh tấn tránh xa 
          Tinh tấn lướt qua khỏi 
          Tinh tấn làm cho tiến triển 
          Tinh tấn để bảo tồn. 
         
        1. TINH TẤN TRÁNH XA (Samvarappadhàna) 
        "Tinh tấn tránh xa là thế nào? 
        Muốn tránh xa tội lỗi, người 
        giới tử cố trau dồi tâm trí không cho nó đánh thức 
        những tư tưởng xấu xa hay hành động đê hèn khi các ý 
        nghĩ đó chưa phát sanh. Người cố gắng để hết các 
        nghị lực chế ngự tư tưởng và chống trả lại nó. 
        Làm vậy,khi thấy hình sắc gì 
        bằng đôi mắt, tai nghe tiếng động nào. Mủi ngửi mùi gì, 
        lưỡi nếm vật chi hoặc thân va chạm với bất cứ vật gì, 
        người không dừng lại với ý nghĩ đó, dù với tánh cách 
        toàn diện hay vi tế. Những người ráng chống trả, quán tưởng 
        về những khía cạnh xấu xa tội lỗi, khát khao khốn quẩn 
        (của sắc trần) rất tai hại nếu không biết gìn giữ 
        lục căn, không canh chừng và kiểm soát chúng. 
        Khi làm chủ được các giác quan 
        một cách cao thượng rồi, giới tử cảm thấy mình được 
        an vui thơ thới, chẳng có việc gì xấu xa đê tiện có 
        thể xen vào (tâm trí). 
        Ðó gọi là "tinh tấn tránh 
        xa". 
        2. TINH TẤN LƯỚT QUA KHỎI (Pahànappadhàna) 
        "Thế nào là tinh tấn lướt 
        qua khỏi? 
        Muốn có sự tinh tấn này, giới 
        tử ráng trau dồi tâm trí để vượt qua các việc xấu xa 
        tội lỗi đã phát sanh. Người đem hết nghị lực chế 
        ngự tư tưởng, chống trả lại những ý nghĩ đê hèn đó. 
        người không dừng lại trong tư tưởng 
        tham dục, ác tâm hoặc bất cứ điều gì xấu xa khốn 
        quẫn đã phát sanh và ráng sa thải, đánh tan huỷ diệt nó". 
        NĂM PHƯƠNG PHÁP ÐỂ ÐÁNH TAN TƯ 
        TƯỞNG XẤU XA (Tà Tư Duy) 
        
        M.20 - 
        "Khi nhìn thấy vật gì có thể đem lại ý nghĩ xấu xa 
        tội lỗi, đánh thức lòng ham dục, si mê, sân hận, giới 
        tử nên hành động như thế này: 
        
          - Quan sát kỹ vật đó, đem nó 
          so sánh với một vật khác có tánh cách cao thượng cứu cánh 
          hơn. 
          - Nghĩ về sự đê hèn của 
          vật đó như thế này: "Ý nghĩ này thật nhơ nhớp. Nó 
          làm cho ta bị người chỉ trích và ắt sẽ đem lại hậu 
          quả đau đớn 
          
          - Hoặc bỏ qua không nghĩ đến vật đó nữa. 
          
          - Hoặc suy xét về tánh cách 
          phối hợp của nó. 
          - Hoặc cắn răng lại, uốn lưỡi 
          lên ổ gà, kềm chặt cái tâm buộc nó phải xoá bỏ tận 
          gốc rễ ý nghĩ đó. 
         
        Làm như vậy, những tư tưởng 
        xấu xa tội lỗi, tham lam, sân hận, si mê sẽ tiêu tan, sẽ 
        biến dạng ... và nội tâm sẽ được vững vàng, an tĩnh 
        tập trung. 
        Ðó là "tinh tấn lướt qua 
        khỏi". 
        3. TINH TẤN LÀM CHO TIẾN TRIỂN 
        (Bhàvanàppadhàna) 
        
        A.IV.13-14 
        - "Thế nào là tinh tấn làm cho tiến triển? 
        Muốn được như vậy, người 
        giới tử phải cần khuyến khích thiện chí của mình hướng 
        về các điều tốt tươi cao thượng chưa phát sanh. Người 
        cố gắng hết sức mình để đều ngự tâm trí và cố 
        sức chiến đấu.như thế, người làm cho những "nguyên 
        tố Giác Ngộ" (bojjhanga, thất giác chi) được tiến 
        triển thêm, phát tâm vui thích nơi thanh vắng, không còn 
        luyến ái, dập tắt (phiền não) để đi lần tới sự 
        giải thoát" 
        Ðó là: Niệm tưởng (Sati), Thông 
        suốt Giáo Pháp (Dhamma vicaya), Tinh tấn (Viriya), phỉ lạc 
        (Piti), An tịnh (Passaddhi), Ðịnh tâm (Samàdhi), và Xả (Upekkhà). 
        Ðó là "tinh tấn làm cho 
        tiến triển". 
        4. TINH TẤN ÐỂ BẢO TỒN 
        (Anurakkhanappadhàna) 
        "Thế nào là tinh tấn để 
        bảo tồn? 
        Về phương diện này, giới tử 
        khuyến khích thiện chí của mình hướng về những điều 
        tốt tươi cao thượng đã phát sanh rồi, không để tư tưởng 
        cao đẹp đó tiêu tan, mà ráng làm cho nó phát triển đến 
        mức chín muồi, đến hoàn hảo và tiến hoá triệt để (Bhàvanà). 
        Người cố gắng hết sức để điều ngự tâm trí và ráng 
        chiến đấu. 
        Ðó là "tinh tấn để bảo 
        tồn". 
        
        M.70 - 
        "Thật ra, giới tử nào đã có đầy đủ giới đức, 
        đã suốt thông Giáo lý của bậc thầy tổ, thì tâm trí thường 
        có những ý nghĩ như vầy: "Dù cho da ta, gân ta, xương 
        ta rã rời, dù cho thịt và máu ta khô can, ta cũng không 
        ngừng sự quyết tâm tinh tấn nếu chưa đạt được mục 
        đích mà con người có thể thành tựu với khả năng và 
        nghị lực". 
        Ðó là chánh tinh tấn". 
        
        A.IV.(14) - 
        "Tinh tấn tránh xa (tội lỗi), tinh tấn lướt khỏi 
        (tội lỗi), tinh tấn làm cho phát triển (các điều lành), 
        tinh tấn bảo tồn (những pháp cao thượng) là bốn giai đọan 
        về tinh tấn mà bậc đại hiền đã chứng minh. Kẻ nào 
        cố bám dính vào các đức tánh đó sẽ kết liễu được 
        những điều thống khổ" 
        -ooOoo- 
        II-4g 
        CHÁNH 
        NIỆM (Sammà-Sati)
        
          "Cũng như thớt voi rừng 
          bỏ tánh hung hăng khó dạy để trở nên thuần nết, không 
          hoảng sợ lúc xông pha trận mạc, và được đức vua 
          trọng dụng ... 
          Thầy Tỳ Khưu tách rời thế 
          sự ... không còn buông lung ngoan cố, ráng trau dồi giớ đức 
          để đắc quả Niết Bàn bằng cách buộc chặt mình vào 
          bốn cây trụ "Niệm Tưởng Căn Bản" (Tứ Niệm 
          Xứ). -- MAJJIMA NIKAYA III 
         
        BỐN NIỆM TƯỞNG CĂN BẢN - (Tứ 
        Niệm Xứ, "Sati Patthàna") 
        
        D.22 - 
        "Thế nào là Chánh niệm? 
        Phương pháp duy nhất để tiến 
        tới tư cách hoàn toàn trong sạch, để vượt qua khỏi mối 
        ưu phiền, chấm dứt niềm Ðau Khổ và mở đường chân chánh 
        đi đến đạo quả Niết Bàn, phương pháp đó nằm trong 
        bốn "Niệm Tưởng Căn Bản" (Tứ Niệm Xứ). 
        Hành theo Tứ Niệm Xứ, người 
        giới tử luôn luôn sống trong tình trạng "Minh Sát" 
        về thân thể, trắc nghiệm những tình cảm và tinh tấn phân 
        tách các hiện tượng (pháp) phát sanh. Người thường xuyên 
        dũng mãnh, chăm chú biết mình, gạt bỏ một bên tất cả 
        sự khát vọng và phiền muộn của thế gian (sống với 
        hiện tại). 
        NIỆM THÂN (Kàyànupassanà) 
        "Vậy chớ người giới tử 
        quán tưởng về xác thân như thế nào? 
        Người tìm đi vào rừng, dưới 
        một cội cây, trong nơi thanh vắng, ngồi kiết già, thân hình 
        ngay thẳng, chú tâm về phía trước" 
        NIỆM VỀ HƠI THỞ VÔ RA (Anàpàna 
        Sati) 
        "Với tâm trí chăm chú, người 
        hít hơi vô. Với tâm trí chăm chú, người thở hơi ra. Khi hít 
        vô dài, người biết mình hít hơi dài. Lúc thở ra chậm, người 
        biết mình thở ra chậm. Khi hít vô vắn, người biết mình 
        hít hơi vắn. Lúc thở ra mau người biết mình thở ra mau. 
        Nhận định rõ toàn thân hơi 
        thở, người hít hơi vô. Nhận định rõ toàn thân hơi 
        thở, người mới thở ra. Hành giả hãy luyện tập như 
        thế đó. 
        Với xác thân yên tĩnh trong tư 
        thế (Kaya-sànkhàra) người hít hơi vô. Với xác thân yên tĩnh 
        trong tư thế ấy, người mới thở ra. Hành giả nên luyện 
        tập như thế đó. 
        Rồi người quán tưởng thân mình 
        với tư cách chủ quan và suy xét đến cơ thể kẻ khác 
        với tư cách khách quan. Người nhận định rõ xác thân được 
        cấu tạo và bị tan rã như thế nào? Người nhận rõ tư cách 
        sanh diệt của các vật thể và nghĩ rằng: "Ðang có 
        một vật thể tại đây" (nói về thân của mình). 
        Thân xác đó không phải là một 
        sanh vật, không phải là một cá nhân, không phải là đàn bà 
        hay đàn ông và cũng không phải là bản ngã. Chẳng phải cái 
        gì thuộc về ta hay kẻ khác hoặc là của bất cứ một người 
        nào." 
        NIỆM TƯỞNG VỀ BỐN HOÀI NGHI 
        
        D.22 
        - "Tiếp theo đó, giới tử nhận thức rõ đúng theo chân 
        lý bốn oai nghi: Ði, đứng, nằm, ngồi, như vầy: "ta đang 
        đi, ta đang đứng, ta đang ngồi, ta đang nằm, ta đang ở 
        trong oai nghi này hay oai nghi khác". 
        Giới tử biết rõ chẳng có một 
        chúng sanh hay một thực ngã đang đi, đứng, ngồi, nằm, 
        v.v... Và đó chỉ là một lề lối về ngôn ngữ mà thôi. 
        NIỆM TƯỞNG VỀ SỰ SÁNG SUỐT 
        BIẾT MÌNH (Sàti Sampajanna) 
        
        D.22 - 
        "Tiếp theo đó, giới tử luôn luôn sáng suốt biết mình 
        khi đi tới hay đi lui, biết mình đang ngó về phía trước 
        hay dòm lại đàng sau, biết mình khom lưng xuống hay chỗi đứng 
        dậy, biết mình đang thọ thực, uống nước, nhai nếm 
        thức ăn, biết mình khi hành sự tẩy ô trược (đại hay 
        tiểu tiện). Người sáng suốt hay biết mình trong lúc đi, 
        đứng, ngồi, ngủ hay thức, biết mình đang nói chuyện hay 
        im lặng. 
        Trong các trường hợp, giới tử 
        sáng suốt biết rõ ý định của mình, biết nhận thức 
        sự lợi ích, biết rõ bổn phận và mỗi hành động đúng 
        theo chân lý". 
        NIỆM TƯỞNG VỀ XÁC THÂN Ô TRƯỢC 
        (Patikkùla Sanna) 
        
        D.22 - 
        "Tiếp theo đó, giới tử quan sát thân mình từ bàn chân 
        lên tới đầu, từ tóc trở xuống chân, mường tượng như 
        bị bao phủ bằng một lớp da trong đó chứa đầy những 
        vật ô trược. Người suy nghĩ như vầy: "Thân này gồm 
        có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, xương, tuỷ, thận, tim, 
        gan, phổi, hoành cách mạc, lá mía, dạ dày, ruột, phẩn, 
        mật, đàm, mủ, máu, mùi hôi, nước giãi, huyết thanh, nước 
        khớp xương, nước mắt, nước tiểu. 
        Như người kia nhìn xem một cái 
        bao, miệng mở toanh ra cho thấy trong đó đựng các loại ngũ 
        cốc như: Gạo, đậu, mè ... rồi tự nghĩ: "Nếu ta không 
        mù quáng thì đó hẳn là những hột gạo, đậu, mè..." 
        Giới tử quan sát và thấy rõ thân 
        hình như thế ấy" 
        NIỆM TƯỞNG VỀ BỐN NGUYÊN TỐ 
        (Tứ đại) 
        "Tiếp theo đó, quan sát thân 
        mình, so sánh nó với các nguyên tố, người giới tử suy 
        nghĩ: "Thân này do những chất: chất rắn, lưu động, nóng 
        và rung chuyển cấu thành". 
        "Như tên đồ tể sành nghề 
        đứng tại ngã tư đường, trải banh trên thớt những 
        miếng thịt của con bò cái vừa bị triệt hạ. Thì cũng như 
        thế ấy, giới tử niệm tưởng xác thân của mình và so sánh 
        nó với bốn nguyên tố". 
        NIỆM TƯỞNG TRÊN BÃI THA MA 
        "tiếp theo đó, giới tử hành 
        động như thế này: 
        1) Khi gặp một thây người bị 
        vất trên bãi tha ma. Xác chết được một hôm, hai, ba hoặc 
        bốn hôm, sình thúi rã rời bẩn thỉu. Người nghĩ lại thân 
        mình như vầy: "Ðây là thân ta. Nó cũng đồng bản 
        chất (với xác chết) và phải chịu chung số phận không 
        sao tránh khỏi. 
        2) Thấy một xác chết nằm trên 
        bãi tha ma đã bị diều quạ, kên kên, chó nhà, chó rừng, 
        banh xé hoặc có vòi đục khoét, giới tử nghĩ lại thân mình: 
        "Ðây là thân ta. Nó cũng đồng bản chất và phải 
        chịu chung số phận không sao tránh khỏi. 
        3) Giới tử quán tưởng khi đứng 
        trước một xác chết nằm trên bãi tha ma, thấy nó chỉ là 
        một bộ cốt còn chút thịt thấm máu, các lóng xương dính 
        với nhau nhờ những sợi gân chằng chịt. 
        4) ... Bộ cốt không còn thịt 
        tẩm máu khô, xương dính với nhau nhờ các sợi gân. 
        5) ... Bộ cốt hết thịt, hết máu, 
        chỉ còn xương dính với gân. 
        6) ... Bộ cốt bị phân tán văng 
        ra tứ hướng, xương mỗi khúc nằm một nơi, ở đây một 
        bàn tay, đằng kia một bàn chân, một chả xương vai, một 
        khúc xương đùi, xương mông, những cọng xương sườn, xương 
        sống, một cái sọ. Giới tử nghĩ lại thân mình: "đây 
        là thân ta. Nó cũng đồng bản chất và phải chịu chung 
        số phận không sao tránh khỏi. 
        7) Tiếp theo đó, giới tử thấy 
        xương người khô khốc như vỏ sò, vỏ ốc. 
        
        8) ... Thấy những đống xương chồng chất từ nhiều năm 
        qua. 
        
        9) ... Thấy xương tàn rệu nát như 
        tro bụi. Nhìn lại mình, người tự nghĩ: "Đây là thân 
        ta. Nó cũng đồng bản chất và phải chịu chung số phận 
        không sao tránh khỏi số phận như vậy". 
        Cũng chính vì thế, người hành 
        đạo phải niệm tưởng thân mình và thân kẻ khác, hoặc 
        bất cứ vật thể nào. Người thấy rõ tư cách sanh diệt 
        của các vật thể khác. Người nhận định như vầy: 
        "Tại đây đang có một vật thể" (xem thân mình là 
        những nguyên tố vật chất giả tạm). 
        Nhờ niệm tưởng sáng suốt, hành 
        giả biết nhận định chính xác, nên sống một cách tự 
        do, chẳng còn dính mắc với bất cứ vật gì trên cõi 
        thế". 
        Hành giả niệm thân là như thế 
        đó". 
        MƯỜI PHƯỚC BÁU 
        
        M.119 
        - "Khi pháp niệm thân được thực hành đứng đắn, 
        được tiếp tục không ngừng, được phát triển và trở 
        thành thói quen, nó tạo ra một căn bản vững chắc, thì hành 
        giả có hy vọng đạt được 10 phước báu như sau: 
        1) Chế ngự được sự vui cùng 
        như sự khổ. Tâm không xao động. Chẳng có cảm nghĩ vui 
        hay buồn trong các hoàn cảnh phát sanh đến cho mình. 
        2) Ngăn chặn những điều sợ hãi 
        lo âu. Không để tâm bối rối khi sợ hãi phát sanh. 
        3) Chịu đựng nổi mức tấn công 
        của muỗi mòng, rắn rít, nóng lạnh, đói khát. Có sự 
        nhẫn nại khi thân thể bị hành hạ đau đớn, dù đau kinh 
        khủng, khó chịu hay nguy hiểm thế mấy. Có nhẫn nại đối 
        với những lời lẽ xấu xa hung dữ. 
        4) Hành giả có thể hưởng phỉ 
        lạc tùy ý trong bốn bậc Thiền (vui thích trong lúc nhập định), 
        thanh lọc nội tâm và được hạnh phúc huyền diệu trên 
        thế gian này. 
        SÁU PHÉP MẦU (ABHINNÀ) 
        Với tâm an tịnh, hành giả có 
        thể đạt được những phép mầu: 
        5) Ðắc thần thông (Iddhividha), có 
        thể bay trên hư không, đi trên mặt nước, chun xuống đất, 
        hoá hình, v.v... 
        6) Thiên nhĩ thông (Dibbasota), nghe 
        được tiếng của Chư Thiên, và tiếng người bất cứ xa 
        hay gần. 
        7) Tha tâm thông (Parassa cetoparinnà 
        nàna), đoán biết tư tưởng và ý đồ của người khác. 
        8) Túc mạng minh (Pubbenivàsànussati-nàna), 
        nhớ lại các tiền kiếp của mình, biết trong kiếp nào mình 
        mang tên gì, thuộc giai cấp nào, làm nghề gì vui khổ ra sao 
        và lúc chết như thế nào, rồi được sanh lại ở đâu,v.v... 
        9) Thiên nhãn minh (Dibba cakkhu), 
        thấy rõ tư cách sanh diệt của tất cả chúng sanh. Thấy chúng 
        sanh trong mỗi kiếp vui hay Khổ, sang hay hèn tuỳ theo duyên 
        nghiệp. 
        10) Lậu tận minh (Àsavakkhaya), thông 
        suốt lý Tứ Diệu Ðế và phương Pháp diệt trừ tham lam, sân 
        hận, si mê. Biết rõ đây là sự Khổ, đây là nguyên nhân 
        sự Khổ, đây là tư cách diệt Khổ và đây là con đường 
        đi đến nơi dứt Khổ. Người biết do đâu mà Phiền não 
        phát sanh. Khi tẩy trừ được lòng tham dục, sân hận, si mê 
        và màn vô minh tan biến, người đã đạt được trí tuệ 
        giải thoát và biết mình đã sống đầy đủ cuộc đời đạo 
        đức, việc phải làm mình đã làm rồi chẳng còn phận 
        sự trên thế gian này nữa. 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Trong 6 phép mầu kể trên, 5 cái 
          đầu thuộc phạm vi thế gian (Lokiya) mà hạng phàm nhân có 
          thể đạt được. Còn cái sau cùng là Lậu tận minh thì có 
          tánh cách siêu thế gian(Lokuttara) đặt biệt dành riêng cho 
          các bậc A La Hán vì các Ngài đã ở ngoài vòng thế sự. 
          Chỉ cần thực hành đầy đủ 4 phàm định của hạng 
          thế nhân cũng có thể thành đạt 5 phép mầu đó. 
          Các phép thần thông là thành 
          quả của 4 năng lực căn bản (Iddhipàdas) là: tập trung ý 
          muốn, tập trung nghị lực, tập trung tư tưởng và tập 
          trung sự quan sát. 
          
         
        NIỆM THỌ (Vedanà nuppassanà) 
        
        D.22 - 
        "Vậy chứ hành giả niệm thọ như thế nào? 
        Khi va chạm với một cảm giác. 
        Người biết nhận định rõ rệt như vầy: "Ta đang có 
        cảm giác khó chịu, ta đang có cảm giác dễ chịu hay vô 
        can. (Thọ này thuộc cảm giác không liên hệ với mình khi 
        thấy hoặc nghe chuyện của người khác)". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Khác hơn quan niệm tâm lý của 
          người châu Âu, danh từ Pàli "Vedana" có thể được 
          áp dụng một cách bao quát cho cả 2 trường hợp vui và 
          buồn, nên mới có cách nói: "Cảm giác vô can (trung tính)". 
          Nghĩa là làm ngơ đối với những việc không dính đáng 
          tới bản thân tuy mình vẫn nghe. Chỉ có những cảm giác 
          liên hệ tới thân hay tâm trí mình mới làm phát sanh cho 
          thọ vui hay thọ khổ. Những thọ do mắt thấy, tai nghe thoáng 
          qua, đụng chạm sơ sài, nếm thức ăn uống v.v... đều 
          thuộc loại "Cảm giác vô can", có tánh cách tiêu 
          cực. 
           
        
        D.22 - 
        "Như thế hành giả niệm Thọ trên cả 3 phương diện: 
        Niệm tưởng về bản thân, quán xét về kẻ khác, hoặc suy 
        nghĩ đến cả 2 cùng một lúc. Người nhận thức 
        "Thọ" xuất hiện ra sao và biến mất như thế nào, 
        biết rõ tư cách sanh diệt của nó và nghĩ rằng: "Tại 
        đây đang có cảm giác", hành giả biết mình một cách 
        sáng suốt như thế nhờ sự chú tâm và trí tuệ. 
        Vì vậy, người sống tự do, 
        chẳng còn dính mắc với bất cứ vật gì trên cõi thế ... 
        hành giả niệm thọ như thế đó". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Hành giả nhận định cách nói 
          "Ta đang có cảm giác", đó là không ngoài quan 
          niệm thông thường về ngôn ngữ để giải thích một 
          sự việc vậy thôi. Theo ý nghĩ tuyệt đối, 
          "Paramattha", thì chỉ có những thọ (cảm giác), 
          chớ không có một thực thể, một nhân vật hay một người 
          đang trắc nghiệm tình cảm nào cả. 
          
         
        NIỆM TÂM (Cittànupassanà) 
        
        D.22 
        - "Hành giả niệm tâm như thế nào? 
        Ở giai đoạn này, người rất thông 
        thạo, biết rõ những tư tưởng phát sinh ra? Chúng thuộc 
        loại có tánh cách tham dục hay không có. Chúng thuộc loại 
        sân hận, si mê hay không có. 
        Người biết cách tư tưởng đó 
        trong sạch hay nhơ bẩn, có ý thức hay vô ý thức, thấp hèn 
        hay cao thượng, tầm thường hay quan trọng. Tư tưởng đó 
        tập trung hay rời rạc, tự do hay lệ thuộc". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Ở trường hợp này tiếng Pali 
          "Citta" (Tâm) đồng nghĩa với 
          "Vinnana"(Thức) nên được gọi là "Tâm 
          Thức" chớ không thể cho nó đồng nghĩa với danh từ 
          "Tư tưởng". Vì tư tưởng và những hoạt động 
          của tư tưởng đều thuộc phạm vi "Lý Trí" - 
          Vitakkha (Tầm) và Vicàra (Sát)- là những thành phần của 
          "Hành uẩn" (Sankhàra khanda). Lẽ đó, tư tưởng có 
          tánh cách phụ thuộc và được gặp 6 "tâm 
          thức". Khi hành giả đắc được nhị Thiền, tam 
          Thiền, tứ Thiền (bước thứ 8) thì tư tưởng bị loại 
          trừ. 
           
        
        D.22 - 
        "Hành giả niệm Tâm như thế đó. Người quán xét tâm 
        mình và tâm kẻ khác, hoặc cả 2 cùng một lúc. Người 
        biết phân biệt tư tưởng bừng dậy như thế nào và tan 
        biến ra sao? Phẫm hạnh sáng suốt biết mình đó là thành 
        quả của sự trì chí thực hành công phu rèn luyện pháp Chánh 
        niệm. Và người được sống tự do, chẳng còn dính mắc 
        với bất cứ việc trên cõi thế. 
        Hành giả niệm Tâm như thế đó". 
        NIỆM PHÁP (DHAMMÀNUPASSANÀ) 
        "Và hành giả niệm pháp như 
        thế nào? 
        Người quán tưởng về 5 trạng 
        thái được gọi là những điều chướng ngại (5 triền cái)". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Những "pháp" hay là 
          trạng thái về tâm trí, tư tưởng, thọ cảm, v.v... đều 
          thuộc "Tưởng uẩn" (Sanna khandha) và "Hành 
          uẩn" (Sankhara khandha). Hai uẩn đó liên hệ tới sự 
          nhận định biết mình và quan niệm sự khác biệt chủ 
          quan (trước những hoàn cảnh). 
          Vì vậy 4 Pháp niệm tưởng 
          trong bước thứ 7 về Chánh niệm của Bát Chánh Ðạo 
          gồm cả 5 uẩn tạo ra sự sống: 
          
            Pháp niệm tưởng thứ nhất, 
            "Niệm Thân", thuộc về đời sống vật chất 
            (Sắc Uẩn). 
            Pháp thứ 2, "Niệm Thọ", thuộc về cảm giác 
            (Thọ Uẩn). 
            Pháp thứ 3, "Niệm Tâm", thuộc về sự nhận định 
            biết mình (Thức Uẩn). 
            Pháp thứ 4, "Niệm Pháp", thuộc quan niệm về tánh 
            cách khác biệt chủ quan (Hành Uẩn và Tưởng Uẩn). 
          
           
         
        NĂM PHÁP CHỨƠNG NGẠI (Nivàranà 
        - Triền cái) 
        "Ðó là: 
        
          - Khi tâm tham muốn nhục dục, 
          "Kàmachanda", phát sanh, hành giả biết rõ: Ta đang 
          khao khát nhục dục". 
          - Khi ý nghĩ sân hận, "Vyàpàda", 
          phát sanh, người biết rõ: "Ta đang uất hận trong tâm". 
          
          - Khi sự hôn trầm, "Middha", phát sanh, người 
          biết: "Ta đang uể oải chán nản đây". 
          - Khi sự phóng tâm, "Uddhacca", phát sanh, người 
          biết: "Ta đang xôn xao bối rối" 
          
          - Khi sự hoài nghi, "Vicikicchà", 
          phát sanh, người biết: "Ta đang hoang mang ngờ vực đây". 
         
        Và những điều chướng ngại đó 
        không phát sanh, người cũng biết rõ: "Ta chẳng có 
        việc gì trở ngại cả". 
        Người biết những pháp đó phát 
        sanh ra sao và biết cách chế ngự chúng. Người biết chúng 
        bị loại trừ và không phát sanh nữa ". 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Ví dụ tình dục phát sanh do 
          sự thiếu minh mẫn có thể bị loại trừ bằng 6 phương 
          thức sâu đây: 
          - Chú tâm về một trường hợp 
          nào có thể khởi động sự nhàm chán, như quán tưởng các 
          vật trong thân thể. 
          - Kiểm soát lục căn, không cho phóng túng trước sắc 
          trần. 
          - Giảm độ trong vật thực (tránh các món ăn kích thích, 
          dùng vật thực dễ tiêu hoá). 
          - Thân cận bạn lành (người cùng chí hướng và có tinh 
          thần đạo đức như mình). 
          - Tìm học hỏi với bậc thiện trí thức (để được 
          kinh nghiệm về chân lý). 
          - Suy ngẫm và tra cứu kinh sách (để thông suốt những gì 
          có liên quan với đạo giải thoát). 
          Sự khuấy rối nội tâm bị 
          huỷ diệt khi đắc đạo quả Tu Đà Hườn. Tình dục bị 
          loại khi đắc A Na Hàm. Tới đạo quả A La Hán thì sự phóng 
          tâm mới bị diệt tận. 
          
         
        
        NĂM UẨN (Khandha) 
        
        D.22 - 
        "Và tiếp theo đó, hành giả niệm tưởng về 5 uẩn 
        tạo thành kiếp sống: 
        Người quan niệm rõ các hình 
        thể vật chất (sắc), "Rùpa", và biết được tư cách 
        sanh diệt của sắc. 
        Người quan niệm rõ sự cảm giác (thọ), "Vedana", và 
        biết cách sanh diệt của thọ. 
        Người quan niệm rõ sự chấp nhận tình cảm (tưởng), 
        "Sannà", và biết tư cách sanh diệt của tưởng. 
        Người quan niệm rõ sự phối hợp tư tưởng (hành), 
        "Sankhàrà", và biết tư cách sanh diệt của hành. 
        Người quan niệm rõ sự nhận định hiểu biết (thức), 
        "Vinnàna", và biết tư cách sanh diệt của 
        thức". 
        SÁU YẾU TỐ CHỦ QUAN VÀ KHÁCH 
        QUAN CỦA LỤC CĂN, "ÀYATANA" 
        "Và tiếp theo đó, hành giả 
        niệm tưởng về các pháp gọi là "sáu yếu tố chủ 
        quan và khách quan và khách quan của lục căn" 
        
          Người biết rõ bản chất của 
          mắt và sắc tướng . 
          Biết rõ bản chất của tai và âm thanh. 
          Biết rõ bản chất của mũi và hương. 
          Biết rõ bản chất của lưỡi và vị. 
          Biết rõ bản chất của thân và sự đụng chạm. 
          Biết rõ bản chất của ý và tư tưởng . 
         
        Cuối cùng người biết rõ trạng 
        thái hoang mang xao động kể trên gây ra, biết cái tâm bất 
        tịnh phát sanh và bị diệt như thế nào. người biết khi 
        phóng tâm bị loại trừ và nó sẽ không phát sanh 
        nữa". 
        BẢY NGUYÊN TỐ GIÁC NGỘ 
        (Bojjhanga) 
        (bảy nhân sanh quả Bồ Ðề hay là Thất Giác Chi) 
        "Và tiếp theo đó, hành giả 
        niệm tưởng về các pháp gọi là "Bảy nguyên tố Giác 
        Ngộ". 
        
          Người biết rõ khi nào mình có 
          sự niệm tưởng (Sati). 
          Biết rõ khi nào mình đang suy cứu về Giáo Pháp (Dhamma 
          Vicaya, Trạch Pháp). 
          Biết rõ khi nào mình có sự tinh tấn (Viriya). 
          Biết rõ khi nào mình có phỉ lạc (Piti). 
          Biết rõ khi nào mình có sự an vui hạnh phúc (Passadhi). 
          Biết rõ khi nào mình có tâm Ðịnh (Samàdhi). 
          Biết rõ khi nào mình có tâm bình đẳng tự tại, 
          "Xả" (Upekkha). 
         
        Người biết rõ khi nào không có 
        cái này (nhân) thì cái kia (duyên) cũng không phát sanh và 
        bị diệt". 
        BỐN CHÂN LÝ CAO SIÊU (Ariya Sacca - 
        TỨ DIỆU ÐẾ) 
        "Và tiếp theo đó, hành giả 
        niệm tưởng qua các pháp được gọi là "Bốn chân lý 
        cao siêu". 
        
          Người hiểu đúng theo chân lý 
          thế nào là sự Khổ. 
          Người hiểu đúng theo chân lý thế nào là nguyên nhân 
          sự Khổ 
          Người biết rõ tư cách diệt Khổ 
          Người biết rõ con đường đưa đến nơi dứt Khổ. 
         
        "Như thế đó, hành giả 
        niệm tưởng các pháp đối với bản thân (chủ quan) và đối 
        với kẻ khác (khách quan), hoặc cả 2 cùng một lúc. 
        Người hiểu rõ tư cách sanh 
        diệt của các pháp và suy nghĩ: "Tại đây có những pháp 
        đang phát sanh". 
        Sự hiểu biết sáng suốt này là 
        do thành quả của công phu học hỏi, trì chí rèn luyện pháp 
        Chánh niệm. Và người được sống tự do, chẳng còn dính 
        mắc với bất cứ vật gì trên cõi thế. 
        Phương pháp duy nhất đưa tới 
        phẫm hạnh hoàn toàn trong sạch, tới tư cách diệt trừ 
        phiền muộn khóc than, tới con đường chân chánh để đi đến 
        Niết Bàn, phương pháp đó là "bốn pháp niệm tưởng căn 
        bản" (Tứ Niệm Xứ). 
        
          
          GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC 
          NYANATILOKA 
          Cả bốn pháp niệm tưởng đều 
          liên quan với năm uẩn tạo thành đời sống. Niệm tưởng 
          có nghĩa là chủ tâm quán xét. 
          Niệm thân liên quan với 
          "sắc uẩn" 
          Niệm thọ liên quan với "Thọ uẩn" 
          Niệm tâm liên quan với "Thức uẩn" 
          Niệm pháp liên quan tới "Tưởng và Hành uẩn" 
          
         
        NIỆM HƠI THỞ VÀ NIẾT BÀN 
        
        M.118 - 
        "Tu cách niệm tưởng về hơi thở vô ra (anàpàna sati) 
        được thực hành và phát triển làm cho 4 pháp niệm tưởng 
        căn bản (Tứ Niệm Xứ) thêm hoàn hảo. Bốn pháp niệm tưởng 
        căn bản được thực hành và phát triển và phát sanh bảy 
        nguyên tố giác ngộ. Bảy nguyên tố giác ngộ được thực 
        hành và phát triển và phát sanh tuệ giác hoàn toàn. 
        Nhưng phải thực hành và làm phát 
        triển sự niệm tưởng về hơi thở vô ra như thế nào để 
        đưa bốn pháp niệm tưởng (sati patthana) lên tới tột điểm? 
        1) Đó là khi nào hành giả: 
        
          Biết mình và ghi nhớ rõ hơi 
          thở vô, hơi thở ra dài, 
          Biết mình và ghi nhớ rõ hơi thở vô, hơi thở ra vắn, 
          Biết mình và sự luân chuyển của hơi thở trong khắp châu 
          thân, 
          Biết rõ chế ngự hơi thở cho điều hoà êm dịu hơn. 
         
        Ðến lúc này hành giả an trú 
        trong niệm thân, có đầy đủ nghị lực, tâm trí sáng 
        suốt, luôn luôn chăm chú biết mình. Người lướt qua tất 
        cả sự tham dục và đau khổ trên thế gian. 
        Như Lai nói hơi thở vô ra cũng là 
        một thành phần của cơ thể. Tuy không thấy được, nhưng 
        hơi thở thuộc về vật chất (sắc). 
        2) Khi hành giả thực hành pháp 
        kiểm soát hơi thở vô ra: 
        
          Có cảm giác mình được phỉ 
          lạc (Piti), 
          Có cảm giác mình được an vui hạnh phúc (Sukkha), 
          Có tâm hành (Citta Sankhara), 
          Có sự an tịnh của tâm hành. 
         
        Ðến lúc này hành giả an trú 
        trong pháp niệm thọ. đầy đủ nghị lực, tâm trí sáng 
        suốt, luôn luôn chăm chú biết mình. Người lướt qua khỏi 
        tất cả tham dục và đau khổ trên thế gian. 
        Như Lai nói tư cách ghi nhớ biết 
        mình về hơi thở vô ra cũng thuộc về cảm giác (Thọ). 
        3) Khi hành giả thực hành pháp 
        kiểm soát hơi thở vô ra: 
        
          Biết rõ tình trạng tâm mình, 
          Biết có sự thơ thới trong tâm, 
          Biết pháp hành đó đưa tâm tới an định, 
          Biết pháp hành đó giải thoát tâm (ra khỏi ngã chấp). 
         
        Ðến lúc này, hành giả an trú 
        trong pháp niệm tâm, có đầy đủ nghị lực và sự ghi 
        nhớ biết mình. Người lướt qua khỏi tham dục đau khổ trên 
        thế gian. Lẽ đó, nếu không có sự niệm tưởng sáng 
        suốt biết mình (niệm Tâm), thì không thể nào kiểm soát 
        được hơi thở vô ra. 
        4) Khi hành giả thực hành pháp 
        kiểm soát hơi thở vô ra và niệm tưởng về: 
        
          Tu cách vô thường (của thế 
          gian), 
          Tư cách dập tắt (Si mê), 
          Tư cách lìa bỏ (Tham dục và Sân hận) 
          Tư cách chấm dứt (Tham dục và Sân hận) 
         
        Ðến lúc này hành giả an trú 
        trong tình trạng niệm pháp có đầy đủ nghị lực, luôn luôn 
        ghi nhớ biết mình. Người lướt qua tất cả tham dục và 
        khổ đau trên thế gian. 
        Phương thức kiểm soát hơi thở 
        vô ra được thực hành và phát triển làm cho thành tựu 
        bốn pháp niệm tưởng căn bản (Tứ Niệm Xứ) lên tới 
        mức độ hoàn hảo. 
        Nhưng "bốn pháp niệm tưởng 
        căn bản" được thực hành và phát triển và làm cho thành 
        tựu bảy nguyên tố giác ngộ như thế nào? 
        1) Khi hành giả an trú trong pháp: 
        niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm, niệm Pháp, có đầy đủ 
        nghị lực, luôn luôn biết mình thì người lướt qua khỏi 
        tất cả tham dục và đau khổ trên thế gian. 
        Và đến khi nào Pháp niệm tưởng 
        không còn bị xao lãng, mức độ chú tâm được vững vàng 
        không gì lay chuyển nổi, lúc đó hành giả thành đạt được 
        nguyên tố Giác Ngộ "Sati Sambojjhanga" (Niệm tưởng 
        sáng suốt, hay là Bồ đề Niệm). 
        Nguyên tố Giác Ngộ này được 
        thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như 
        thế. 
        2) Hành giả dùng trí tuệ để 
        nghiên cứu giáo pháp "Dhamma", khi đó người tấn hoá 
        thêm một bước và thành đạt nguyên tố Giác Ngộ 
        "Dhammavicaya-Sambojjhanga" (Thông suốt Chánh Pháp). 
        Nguyên tố Giác Ngộ này được 
        thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như 
        thế. 
        3) Hành giả để hết năng lực 
        quan sát, suy cứu, dùng trí tuệ niệm tưởng về Giáo Pháp, 
        không gì lay chuyển nổi, khi đó người tiến hoá thêm một 
        bước và thành đạt nguyên tố "Viriya Sambojjhanga" 
        (Tin tấn sáng suốt). 
        Nguyên tố Giác Ngộ này được 
        thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như 
        thế. 
        4) Khi hành giả cương quyết tinh 
        tấn hành đạo thì cảm giác an vui hạnh phúc phát sanh vì 
        đã thoát khỏi ảnh hưởng lực của lục căn. Lúc đó người 
        đạt được nguyên tố Giác Ngộ "Piti Sambojjhanga" 
        (Phỉ lạc cao thượng). 
        Nguyên tố Giác Ngộ này được 
        thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như 
        thế. 
        5) Khi thân tâm hành giả được 
        thấm nhuần sự thơ thới và phỉ lạc, lúc đó người đạt 
        được nguyên tố Giác Ngộ "Passadi Sambojjhanga" 
        (hạnh phúc siêu việt). 
        Nguyên tố Giác Ngộ này được 
        thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như 
        thế. 
        6) Khi thân tâm hành giả được 
        thấm nhuần sự thanh tịnh và tập trung tư tưởng, lúc đó 
        người đã tiến hoá thêm một bước và thành đạt nguyên 
        tố Giác Ngộ "Samàdhi Sambojjhanga" (Ðịnh tâm cao thượng). 
        Nguyên tố Giác Ngộ này được 
        thực hành và phát triển tới mức độ toàn hảo là như 
        thế. 
        7) Và khi hành giả quan niệm 
        những trạng thái với tư cách bình đẳng về tư tưởng 
        (bất chấp) và tâm trí tập trung, lúc đó người đã tiến 
        hoá thêm một bước và đạt được nguyên tố Giác Ngộ 
        "Upekkhà Sambojjhanga" (Tâm Xả). 
        Bốn pháp niệm tưởng căn bản 
        được thực hành và phát triển, đưa bảy nguyên tố Giác 
        Ngộ tới mức phát triển, đưa bảy nguyên tố Giác Ngộ 
        tới mức hoàn hảo là như thế. 
        Còn những trường hợp nào bảy 
        nguyên tố Giác Ngộ được thực hành và phát triển có 
        thể đưa tới trí tuệ giải thoát toàn hảo - "Vijja 
        Vimutti"? 
        Về điều này hành giả cố 
        gắng hết mình để trau dồi bảy nguyên tố Giác Ngộ: Chánh 
        niệm, suốt thông Giáo Pháp, Tinh Tấn, Phỉ Lạc, Hạnh Phúc, 
        Ðịnh Tâm, và Xả để đưa người tới tư cách vất bỏ 
        thế sự, diệt tận lòng tham dục, dật tắt phiền não... 
        Thực hành và làm phát triển 
        bảy nguyên tố Giác Ngộ để đưa đến trí tuệ giải thoát 
        là như thế". 
        
        M.125 
        - "Cũng như người thợ săn cặm xuống đất một cây 
        trụ rắn chắc và cột cổ con voi rừng vào đó làm cho nó 
        bỏ rơi những tật cũ và tánh cách ưa sống nơi chốn sơn 
        lâm, bỏ hết buông lung, bỏ thói cứng đầu hung hăng nơi 
        rừng rú ... và tập cho nó lối sống theo miền thôn dã. Người 
        thợ săn dạy nó các tánh tốt cần thiết để thân cận 
        với loài người. 
        Thì cũng như thế ấy, người 
        giới tử nhiệt thành cần phải để tâm lực vào bốn pháp 
        niệm tưởng căn bản nhằm loại trừ những thói quen là: 
        tham dục quá độ, dễ duôi cẩu thả, cứng đầu khó dạy 
        và tánh tình tàn bạo, để thành đạt chân lý, để đắc 
        đạo quả Niết Bàn. 
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | Mục 
        lục | 1.1 | 1.2 
        | 2.1 | 2.2 | 2.3 
        | 2.4  |