| 
         Phần 
        I - CHUYỂN PHÁP LUÂN (tiếp theo) 
        -ooOoo- 
        
        I-4 
        
        LUẬN 
        VỀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ
        
        Diệu Ðế 
        thứ nhì 
        
        Diệu Ðế thứ nhất Ðức Phật 
        dạy về khổ mà Ngài đã giác ngộ. Xin ví như đức Thế Tôn 
        dạy về loài hổ rất hung dữ hằng ăn thịt người, Ngài 
        sợ chúng sanh không biết hình dáng hổ ra sao nên Ngài mới 
        bắt về nhà nhốt trong chuồng cho chúng sanh xem cho biết hình 
        dáng sức mạnh và tiếng gầm của nó. Ý nói rằng: Ngài 
        dạy rất rõ về Khổ để chúng sanh đã nhận thức và kinh 
        sợ khổ thật chớ không phải sơ sơ như chúng ta hằng ngày. 
        Diệu Ðế thứ nhì là phương pháp 
        diệt Khổ, hay nói cho đúng là phương pháp chống lại hay 
        giết hổ dữ, vì vậy xin quí vị cố suy nghĩ bằng trí 
        tuệ cho kỷ để hiểu rõ những gì mà Ngài đã dạy. Ngài 
        dạy rằng Diệu Ðế là Tập Đế này Ngài cố tâm tìm 
        kiếm hằng 20 A Tăng Kỳ và 100 ngàn kiếp mới gặp dưới 
        cội Bồ đề sau 6 năm khổ hạnh. 
        Diệu Ðế này là Tập Diệu Ðế 
        Tập Khổ Diệu Ðế nghĩa là nguyên 
        nhân phát sanh khổ. Ý nói nó là nguyên nhân làm cho chúng 
        sanh phải bị trầm luân trong biển khổ phải bị khổ đủ 
        mọi phương diện. 
        Tóm sơ lược lời Phật dạy 
        trong bài Chuyển Pháp Luân: Idam kho pana bhikkhave 
        dukkhasamudayo ariyasaccam yà yam tanhà ponobbhavikà v.v... Nghĩa 
        là: Này các thầy Tỳ Khưu, đây là nhân sanh khổ thật sự 
        là Ái dục. Ái dục là nhân sanh làm cho chúng sanh phải sanh 
        vào cảnh giới mới, khi ấy lại phải lẫn lộn với sự 
        ham muốn trong các đề mục (sự việc bên ngoài) là: 
        
          - Sự ưa muốn sanh trong cõi 
          dục 
          - Sự ưa thích sanh vào cõi sắc 
          - Sự ưa thích sanh vào cõi vô sắc 
         
        Theo lời Phật dạy nên cho chúng 
        ta thấy rõ có 3 giai đoạn là: 
        
          1) Nguyên nhân sanh khổ là do nơi 
          ở Ái dục 
          2) Giải rõ cho thấy Ái dục là sự ưa thích sanh vào 3 cõi 
          là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới (thường gọi là 
          Tam giới). 
          3) Phân giải tỉ mỉ về Ái dục. 
         
        Tôi (soạn giả) xin gom lại giải 
        3 điều là: 
        
          1) Nguyên nhân sanh khổ 
          2) Sự hành động của Ái dục 
          3) Ái dục 
         
        
        Nguyên nhân sanh khổ 
        
        Nói về Khổ vì các vị Giáo 
        Chủ khi xưa hay đồng thời với Ðức Phật giải thích 
        một cách mù mờ. Nhưng có thể tóm lại là: Các vị ấy 
        dạy rằng: Phước tội do nơi một đấng thiêng liêng ban 
        cho và trừng phạt. Vậy người muốn các Ngài không trừng 
        phạt và ban cho hạnh phúc thì phải thừa hành theo lề lối 
        của vị thiêng liêng tồi cao ấy. Chung qui đều thuộc về 
        thần giáo nghĩa là dạy trong sự tin tưởng thần linh hộ 
        trì giúp đở. 
        Sở dĩ mà đức Thế Tôn được 
        người thời ấy bỏ đạo của họ theo Ngài là vì đức 
        Thế Tôn Giáo ngộ được chánh Pháp là nhân sanh khổ và Ngài 
        giải rõ nhân sanh khổ, và nhân vật diệt khổ. Không có 
        một Ðấng thiêng liêng nào cho phước và hành tội chúng 
        sanh mà tự chính chúng sanh làm cho mình khổ. Hiện nay là 
        thời kỳ nguyên tử rất có nhiều vật mà từ xưa chưa 
        hề khám phá ra được mà các nhà bác học khám phá ra được, 
        nhưng những lời Phật dạy vẫn còn là phương pháp duy 
        nhất bất dịch mà trái lại các nhà bác học vẫn hành 
        theo. 
        Nhân sanh khổ mà đức Thế Tôn 
        dạy là pháp mới không thể đề cử và ngoài vị Chánh Ðẳng 
        Chánh Giác không ai hiểu thấu nổi. Nên khi Ngài thuyết Tứ 
        Diệu Ðế gọi là Chuyển Pháp Luân, tôi xin nói là khi Ngài 
        thuyết xong thời pháp ấy, chính Ngài thay đổi tất cả 
        vạn vật nghĩa là Ngài lật rõ bộ mặt thật của vạn 
        vật mà Ma Vương cố che đậy từ vô lượng kiếp tới ngày 
        ấy. Nên bài kinh ấy gọi là xoay bánh xe Pháp (Chuyển Pháp 
        Luân). 
        Thuyết nhân sanh khổ là Ái dục 
        là thuyết không ai cải được làm cho người thời xưa 
        chỉ mới nay ai ai cũng phải nhìn nhận và vâng giữ hành 
        theo. Và cũng nhờ ấy mà Phật giáo truyền bá rất sâu 
        rộng và rất nhanh. 
        Tứ Diệu Ðế là 4 Pháp thật quí 
        báu mầu nhiệm và chân chánh là pháp chứng minh rằng: 
        Phật Giáo không phải là một tà thuyết, không phải là 
        nhất thần giáo hay đa thần giáo mà là một đạo giải thoát 
        thật sự là nhờ biết rõ khổ, nhân sanh khổ và phương pháp 
        diệt khổ và Niết Bàn là nơi không còn khổ. 
        Nguyên nhân sanh khổ có rất 
        nhiều nhưng đức Thế Tôn không dạy những cái khổ đến 
        sau, hay những cái khổ không đầy đủ lý do để chứng 
        minh rõ rệt, như nói khổ ấy do nơi một đấng thiêng liêng 
        hành phạt. Trái lại Ngài dạy rằng: Khổ não sanh lên cũng 
        đều do nơi ta. Ðây tôi xin đem lại một ví dụ nhỏ để 
        quí vị dễ chứng minh. 
        
          Anh A gây với vợ vì đi chơi 
          bỏ phế việc gia đình. 
          Anh B bị mất sở vì việc làm không chu đáo. 
          Anh C bị tù tội vì trộm cắp. 
         
        Trong 3 anh này bị khổ khác nhau 
        nhưng chung qui cũng vì Ái dục mà ra. Nếu những người ấy 
        không làm quấy thì đâu bị tai nạn như trên. 
        Người đời khổ vì sự thương, 
        muốn mà ra cả. Vậy đức Giác Ngộ dạy khổ sanh ra vì Ái 
        dục. 
        
        Sự hành động của Ái dục 
        
        Ái dục ngụ ý chỉ sự thương yêu, 
        mong muốn ấy là nền tảng của Tâm người thế tục, 
        ngoại trừ các bậc Thánh Nhơn. Vì Ái dục là sự thương yêu 
        mến tiếc,nên trong chú giải có để câu hỏi rằng: ai cũng 
        có Ái dục xấu xa hết chăng? Ðức Phật muốn thuyết pháp 
        độ đời vì thương chúng sanh, vậy Ðức Phật cũng còn Ái 
        dục chăng? 
        Khi quí vị bị hỏi như thế này, 
        nên nhớ đến một đoạn trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức 
        Phật có dạy: Ái dục có 3 trạng thái cho ta thấy nó là 
        phiền não để trả lời cho câu hỏi ấy. 
        Ba trạng thái của Ái dục là: 
        
          - Ponobbhavikà: Nghĩa là 
          tạo ra cảnh giới mới cho kiếp lai sinh cho mình 
          - Nandiràgasagatà: Lẫn lộn với tham ái 
          - Tatrathàbhinandinì: Vui thích trong các đề mục của 
          tham ái 
         
        Ba điều trên là 3 trạng thái 
        của ái dục. Ðức Thế Tôn thuyết pháp độ đời vì lòng 
        từ bi dạy chúng sanh bỏ 3 trạng thái nói trên của Ái 
        dục để đi tới nơi yên lặng hoàn toàn giải thoát. Nên 
        chỉ sự hành động của Ngài không gọi là Ái dục mà 
        gọi là giải thoát. 
        Pháp của Ngài không khác gì 
        chiếc thuyền có đầy đủ tiện nghi ở giữa bể trầm luân. 
        Chúng sanh là người đang bị tầm luân trong bể khổ. Khi trông 
        thấy chiếc thuyền như người được nghe, được gặp Pháp 
        bảo. Khi biết rằng chiếc thuyền ấy có đủ tiện nghi và 
        dành để cho ai là người muốn vượt qua khỏi bể trầm luân 
        thì cứ lên rồi lái vào bờ là nơi giải thoát. 
        Theo ví dụ trên thì sự muốn cho 
        chúng sanh khỏi luân hồi không gọi là lòng Ái dục được. 
        Ba điều Ái dục là: 
        
          - Kàmatanhà: Ái dục trong 
          cõi dục 
          - Bhavatanhà: Ái dục trong cõi sắc. 
          - Vibhavatanhà: Ái dục trong cõi vô sắc 
         
        Ái dục trong cõi dục nghĩa là người 
        còn ưa thích ham muốn sanh vào cõi dục là cõi còn có ngũ 
        trần là sắc, thinh, huơng, vị, xúc và tài tình, danh lợi. 
        Ái dục trong cõi sắc ý nói người 
        còn muốn sanh vào cõi sắc thân này, nhưng không ham mê ngũ 
        trần, không có tài tình, danh lợi. 
        Ái dục trong cõi vô sắc ý nói 
        hạng này không còn có sắc nhưng thọ, tuởng, hành, thức. 
        Vẫn còn, nhưng không ham mê gì cõi dục hay sắc. Nhưng lại 
        còn ham muốn có cái vô sắc ấy, đây thật là phiền não 
        rất vi tế. Nếu không phải là vị Đại giác thì không bao 
        giờ tầm cho ra nguyên nhân để giải thoát khỏi luân hồi 
        được. 
        Chung qui là khi còn ham muốn hay ưa 
        thích một điều gì là còn phiền não, còn luân hồi. 
        Phận sự của Tập Diệu Đế 
        là 
        
          Ðức Thế Tôn dạy diệt bỏ 
          nghĩa là càng ngày càng bớt Ái dục dần dần xuống cho 
          đến mức độ chót là không còn có một tí nào, có nghĩa 
          là khô cạn. Sự dứt bỏ Ái dục phạn ngữ gọi là Pahàna. 
          Nghĩa là diệt trừ, cũng có khi gọi là Pahànakicca nghĩa là 
          phận sự phải diệt trừ. 
         
        Nếu nói về Khổ đế người 
        cần biết rõ khổ là được. Nhưng nếu nói đến Tập đế 
        cần có sự hành nghĩa là làm thế nào dứt bỏ được 
        khổ. 
        Vấn đề quan trọng là: phương 
        pháp hành trì để dứt bỏ được bằng cách nào? - Xin quí 
        vị hãy xem phần Đạo Diệu Ðế tiếp theo, đó là phương 
        pháp diệt trừ khổ. 
        Phật ngôn: 
        
          
          Dukkhasamudayo ariyasaccam pahàtabbam: 
          Diệu Ðế này là Tập đế cần phải diệt trừ. 
          
         
        -ooOoo- 
        
        I-5 
        
        LUẬN 
        VỀ SỰ KHỔ DIỆT
        Diệt đế là dập tắt khổ. Theo 
        đây là Phật ngôn dạy trong bài kinh Chuyển Pháp Luân. 
        
          
          Idam kho pana bhikkhave dukkhanirodho 
          ariyasaccamyo tassàtanhàyayeva tanhàya asesaviraganidho càro 
          patinissaggo mutti anàlayo 
          
          Này các thầy Tỳ Khưu! Ðây là 
          sự diệt khổ thật sự đó là diệt tắt hẳn dục, dứt 
          bỏ không luyến tiếc, giải thoát không mến thương. 
         
        Căn cứ theo Phật ngôn ta có thể 
        nhận định rõ rệt là sự diệt trừ Ái dục có nhiều 
        tiếng tương tự như nhau như dứt bỏ không luyến tiếc 
        v.v... Ðể chứng minh rõ rệt là phải dập tắt thật sự có 
        ý nói những gì đã dập tắt xong rồi không còn tái phát 
        sanh nữa. 
        
        Nirodha 
        nghĩa là diệt, ý nói rằng tắt hẳn, nghĩa là hoàn toàn 
        tắt hẳn không có một nguyên nhân hay một cơ hội nào làm 
        cho phát sanh lại được, ví những bởi Ái dục làm cho cháy 
        không còn nữa. Ðây chỉ rõ là Niết Bàn, vì vậy, thiết tưởng 
        quí vị cần hiểu qua Niết Bàn nhiều hơn. 
        Theo lời Phật dạy, có một 
        phần vô hình ngự trong thân này để nhận định sự vật 
        bên ngoài, phần vô hình ấy gọi là Tâm. Tâm này lại là 
        vật hay vọng động và nhơ đục vì phiền não ngự trị, mà 
        cũng vì Tâm nhơ đục ấy làm cho chúng ta phải trầm luân 
        trong biển luân hồi để chịu khổ. Trong khi đang trầm luân 
        chúng ta không lo dập tắt những phiền não như là dầu 
        trong cây đèn, trái lại chúng ta lại châm thêm dầu càng ngày 
        càng nhiều hơn. Ý tôi muốn nói chúng ta không lo tu hành để 
        diệt lần phiền não trái lại chúng ta lại tạo thêm 
        nhiều nghiệp chướng mà cũng vì vậy càng ngày càng đi xa 
        bờ giải thoát hơn. 
        Phật ngôn là phương pháp dập 
        tắt lửa trên ngọn đèn, mà cũng là phương pháp đập vỡ 
        bình đèn luôn, ngọn lửa của cây đèn ấy là Ái dục, còn 
        cái bình đèn ấy là không khác nào Tam Giới, khi người 
        chỉ dập tắt ngọn lửa thôi không đập bể bình đèn thì 
        có ngày nào có đủ phương tiện nó lại cháy lại. Nên 
        phải dập tắt xong còn phải diệt trừ tận không cho nó dư 
        xót chút nào nữa. 
        Khi người thừa hành chính chắn 
        theo lời Phật dạy là người ấy có thể dập tắt và đập 
        bể được cây đèn tai hại ấy. Khi lửa tắt đèn bể thì 
        người ấy trông thấy Niết Bàn vậy. 
        Chỗ hay tiếng gọi Niết Bàn 
        chủ ý chỉ một nơi rất là hoàn toàn trong sạch. Theo 
        Phật dạy Niết Bàn là một nơi thật là hoàn toàn trong 
        sạch của Tâm. 
        Xin ví như các nhà bác học về 
        nguyên phân tử phân chất ra đi từng giai đoạn thô thiển 
        tới vi tế cho tới khi không còn phân chất ra được nữa 
        đó là nguyên tử. Chẳng những chất này rất vi tế mà 
        lại không có chất nào cấu tạo ra nó được. 
        Ðức Phật có thể tạm ví như 
        một nhà bác học không cần máy móc phòng thí nghiệm mà cũng 
        chẳng cần phải tốn kém của tiền để phân chất này ra 
        chất nọ, mà hơn ấy, Ngài phân chất được vật ấy là Tâm. 
        Ðức Phật tìm thấy rằng: Tâm ta bị cấu tạo do nhiều 
        chất như Ái dục, tham ái, tam độc v.v... sau khi Ngài phân 
        chất ra được từng phần, Ngài đã bỏ cả những phiền não 
        đến một độ không còn một tí phiền não nào trong Tâm và 
        không còn có gì cấu tạo Tâm được nữa, vì Tâm ấy không 
        còn nhơ bẩn. Vì tâm nhơ bẩn nên còn bị luân hồi. Tâm còn 
        luân hồi Phạn ngữ gọi là Sankhàtadhàtu nghĩa là còn 
        chất cấu tạo làm cho luân hồi . Asankhàtadhàtu là 
        chất không bị các pháp khác cấu tạo cho luân hồi, là 
        chất không còn phân tách ra được nữa, chất ấy ra ngoài 
        phạm vi của sự hiểu biết của con người, người không còn 
        dùng tiếng gì để nói được cái chất ấy. Asankhàtadhàtu 
        nghĩa là không bị các vật khác cấu tạo cho luân hồi. 
        
        Asankhàtadhàtu 
        là chất là người không thể dùng lời diễn tả được hình 
        thức, sự hành động v.v... Nó thuộc về vật cần thấy 
        bằng trí tuệ vì vậy nên chỉ có các bậc Thánh Nhơn mới 
        nhận thức được vì các Ngài tự đắc được do nơi trí 
        tuệ của Ngài. 
        Người nằm mơ mới thấy cảnh mình 
        thấy thôi, người ngoài ra không thể thấy được, cũng như 
        người đã đắc được thánh Pháp tự mình thấy chớ không 
        thể làm cho người khác và biết được những gì mà mình 
        đã thấy. 
        Vậy xin ví dụ thêm như người 
        bị nặng, sau khi hết bịnh như người bịnh ấy biết trong 
        mình của họ dễ chịu như thế nào, người ngoài người 
        bịnh như chúng ta thì không hiểu biết gì được về cái 
        an vui của sự hết bịnh của người ấy. Người bịnh ấy 
        ví như chúng ta cái bịnh hành hạ ta ví như phiền não. Khi 
        ta hết bịnh phải uống thuốc ấy chính là Pháp bảo, khi 
        uống thuốc ấy là lúc đang hành đạo. Khi đắc đến mục 
        nào thì ta biết ta đắc đến bậc ấy như người bịnh 
        biết khi uống thuốc thấy trong mình bớt từ từ đến 
        với người ấy cho đến khi mạnh hẳn. Khi mạnh, người 
        bịnh biết rằng ta mạnh. Cũng như người hết phiền não tâm 
        trong sach thì tự biết là an vui và hạnh phúc như thế nào 
        trong tâm của họ. 
        Trong bộ Udàna đoạn Pataligàmi-vagga 
        có dạy rằng: 
        
          Niết Bàn không phải là đất, 
          nước, gió, lửa v.v... không phải cõi này, cũng không 
          phải cõi khác, không phải trên mặt nhựt hay mặt 
          nguyệt. Này các Tỳ Khưu, mà vật ấy (Niết Bàn) lại là 
          vật có thật sự. 
         
        Nói về Niết Bàn thiết tưởng cũng 
        nên nói đến cái 2 điều đặc biệt khác nhau là: 
        
          - Nói về đặc tánh của Niết 
          Bàn 
          - Trạng thái của Niết Bàn 
         
        Ðặc tánh của Niết Bàn là: 
        
          
          Madanimmadano: 
          Không còn say đắm (trần cảnh). 
          Pipasavinayo: Không còn khao khát (tất cả mọi việc) 
          Alayasamugghato: Không còn lưu luyến (Tam Giới) 
          Vattupacheto: Cắt đứt hết những gì còn luân hồi. 
          Tanhakkhayo: Khô hết Ái dục. 
          Virago: Không còn tham ái 
          Nirodho: diệt hay dập tắt (hẳn mọi việc) 
          Nibbanam: dập tắt hay gọi là Niết Bàn. 
         
        Trạng thái của Niết Bàn là: Không 
        còn bị pháp hành cấu tạo. 
        Niết Bàn còn có tên khác nữa 
        theo lời Phật dạy là: 
        
          
          Nìbbanam paraman sunnam, 
          Niết Bàn thật trống không, nghĩa là không còn một bợn 
          nhơ nào của phiền não. 
          
          Nibbànamparaman sukham, 
          Niết Bàn là nơi an vui tuyệt đối. 
         
        Theo Phật dạy, người sanh ra là 
        mang theo một phận sự rất nặng nề là khổ, vì vậy nên 
        trong bài kinh Bhàra có dạy: Ngũ Uẩn thật là nặng, chúng 
        sanh là người hằng mang đi trong luân hồi dày vô tận xa xôi 
        vô biên. Khi nhận thấy Ngũ Uẩn là khổ và biết phương pháp 
        để Ngũ Uẩn ấy xuống được rồi thì thật là an vui, không 
        còn nặng nề khổ sở, đó là Niết Bàn. 
        Theo câu Phật dạy trên để cho 
        chúng ta thấy rằng: Khi sanh ra làm người hay con vật là chúng 
        ta mang theo một nặng nề vô hạn là khổ, khi có thân này 
        thì bận rộn không ngừng nghỉ theo dính bên ta. 
        Hiện nay người thường hay tìm 
        sự vắng lặng để nghĩ ngơi như mỗi năm đi nghỉ mát nơi 
        nào, cốt ý để làm cho tâm hồn lắng xuống, hay ta có 
        thể nhận thấy mang lấy thân này phải khổ, muốn tạm để 
        xuống trong ít ngày. Tuy làm thế nhưng người cũng không an 
        toàn nghỉ hay để tạm Ngũ Uẩn này xuống được. Có lắm 
        người cả đời cũng không có dịp may để tạm để phận 
        sự ấy ít ngày. Quí vị nghĩ coi ta chỉ tạm để xuống 
        nghỉ tạm thời trong ít ngày mà còn an vui hay phương chi ta 
        lại để hẳn cái Ngũ Uẩn này xuống thì an vui tới chừng 
        nào. 
        Tôi ví dụ đây để quí vị 
        thấy cái an vui của Niết Bàn như thế nào. Chắc quí vị 
        đã nhận định thấy rõ cái khổ của sự mang lấy thân này 
        và cái để cái thân nặng này xuống. 
        Ðến đây xin nhắc lại quí vị 
        rằng: Niết Bàn không phải là một đô thị có đầy đủ 
        vui tươi sung sướng, hay đủ tiện nghi cho quí vị vui chơi. 
        Nhưng trái lại Niết Bàn là nơi dập tắt những gì mà quí 
        vị thấy của người có và của quí vị đang có. 
        Diệt Khổ đế là một của riêng 
        của Phật giáo. Ý tôi muốn nói rằng: Chỉ có đức Chánh 
        Ðẳng Chánh Giác mới tìm thấy diệt Khổ đế. 
        Chắc quí vị muốn hỏi: Vậy các 
        Tôn Giáo khác không có một Tôn Giáo nào có phương pháp 
        diệt khổ hay sao? 
        Ðáp: Tông chỉ của các Tôn Giáo 
        trong vũ trụ này chung qui là diệt khổ, nhưng có phương pháp 
        khác nhau. Chỉ có Phật Giáo là có phương pháp hoàn toàn hơn 
        hết mà từ ngàn xưa đến hiện tại và đến vị lai ngoài 
        ra vị Chánh Ðẳng Chánh Giác như Đức Phật thì không ai tìm 
        ra và hiểu rõ phương pháp diệt khổ hoàn toàn như Ngài là 
        Tứ Diệu Ðế 
        Ðể minh chứng cách diệt khổ 
        của Phật Giáo và các Tôn Giáo khác tôi xin so sánh cho quí 
        vị nhận thức dễ dàng. 
        
          
            | 
               PHẬT GIÁO  | 
            
               Tôn Giáo khác  | 
           
          
            | 
               Nhân sanh Khổ  | 
           
          
            | 
               Khổ sanh do Ái dục, nghĩa là 
              ưa muốn ngũ trần, Lục dục. Sự ưa muốn sanh lại có 
              sắc thân (Sắc giới). Sự ưa muốn sanh lại nhưng không 
              muốn có sắc thân (Vô Sắc giới).  | 
            
               Khổ sanh đến chúng sanh vì 
              do nơi sự trừng phạt của Ðấng Thiêng liêng tối cao 
              vì người làm tội ác . 
             | 
           
          
            | 
               Phương pháp 
              giải thoát Khổ  | 
           
          
            | Phật 
              dạy: diệt tận phiền não là ái dục thì sẽ không còn 
              khổ. | 
            
               Dạy phải cầu Ðấng thiêng 
              liêng có uy quyền tối cao tha lỗi hay hành phạt; hoặc 
              ban bố an vui hạnh phúc .  | 
           
          
            | 
               Trạng thái của 
              sự giải thoát thật sự  | 
           
          
            | 
               1) Không có sự ưa thích gì 
              trong tâm dầu rất vi tế. 
              2) Dứt bỏ các sự cố 
              chấp. 
              3) Không luyến ái trong các 
              cảnh giới . 
              4) Thoát khỏi sự vui của 
              Tam Giới . 
              5) Không cần ai đến giải 
              thoát cho mình mà tự mình giải thoát .  | 
            
               1) Muốn được Ðấng thiêng 
              liêng cứu khổ. 
              2) Cố tin có Ðấng thiêng liêng 
              tối cao của mình. 
              3) Xin sanh vào cõi thiên đàng 
              4) Còn muốn được hưởng 
              an vui của cõi thiên đàng 
              5) Cần có Ðấng thiêng liêng 
              đến tiếp độ cho linh hồn được ở bên Ngài mãi.  | 
           
         
        
        Phận sự của Diệt Khổ Ðế. 
        
        Phận sự của Diệt Khổ Ðế, 
        Phạn ngữ gọi là SACCHIKARANA, nghĩa là phải làm cho phân 
        minh rõ rệt; Ý nói tự mình hành động cho đến nơi giải 
        thoát, tự mình dập tắt hết dục vọng ở lòng mình và 
        tự mình biết rõ rằng mình đã giải thoát. 
        
        PHẬT NGÔN: 
        
        
        DUKKHANIRODHO ARIYASACAM SACCHIKÀTABBAM. 
        Diệu đế gọi là Diệt Khổ diệu đế này người cần 
        phải hành cho phân minh, nhận định rõ rệt bằng trí tuệ. 
         
        -ooOoo- 
        
        I.6 
        
        LUẬN 
        VỀ CON ÐƯỜNG DIỆT KHỔ - ÐẠO DIỆU ÐẾ
        Ðạo Diệu Đế có nghĩa là hành 
        đến nơi diệt Khổ. Ðây là tiếng thường dùng trong Phật 
        Giáo, nhưng nếu dùng tiếng thông thường cho dễ nghe, dễ 
        hiểu hơn có những tiếng thay thế là: 
        
          1) MAJJHIMAPATIPADA: Trung đạo 
          2) KAMAGGA: Bát Chánh Ðạo 
          3) ARIYAMAGGA: Thánh đạo 
         
        Trước khi giải rõ xin quí vị 
        học qua câu Phật dạy: 
        
          
          IDAMKHO PANA BHIKKHAVE 
          DUKKHANIRODHAGAMINÌP PATIPADA 
          ARIYASACAM AYAMEVA ARIYO ATTHANGIKOMAGGO SAYYATHÌDAM? 
          SAMMÀDITTHI, SAMMÀSANKAPPO, SAMMÀVÀCÀ, 
          SAMMÀKAMMANTO, SAMA-ÀJÌVO, SAMÀVÀYAMO, SAMMÀSATI, SAMMÀSAMÀDHI 
          
          Này các Thầy Tỳ Khưu! Đây là 
          sự hành để dập tắt khổ thật sự, là đạo có tám 
          chi. Tám chi ấy là gì? Tám chi ấy là: Chánh kiến, Chánh tư 
          duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, 
          Chánh niệm, Chánh định. 
         
        Theo lời Phật dạy trên thì chúng 
        ta nhận thấy rằng Diệu Ðế thứ tư là sự hành đúng 
        theo con đường đi đến nơi giải thoát có đầy đủ tám 
        chi. 
        Diệu Ðế thứ tư này Phật dạy 
        hành theo Chánh Ðạo có tám yếu tố. Tôi (soạn giả) xin rút 
        bài kinh khác giải rõ Bát Chánh Ðạo lại trình bày trên đây 
        hầu quí vị, vì trong bài Chuyển Pháp Luân chỉ có đếm đủ 
        tám chi thôi. 
        
        Sammàditthi (Chánh kiến) 
        
        Đây 
        là Phật ngôn trong bài kinh Maggavibhanga dạy rằng: 
        
          Kattamà ca bhikkhave samma bhikkhave 
          ditthi yam kho bhikkhave dukkhena nam. 
         
        Này các thầy Tỳ Khưu! Chánh 
        kiến là gì? Chánh kiến là: 1) Sự biết rõ khổ, 2) sự 
        biết rõ nhân sanh khổ, 3) Sự biết rõ dập tắt khổ. Và 
        4) Sự biết nương pháp hành cho đến nơi dập tắt khổ. Này 
        các thầy Tỳ Khưu: sự hiểu biết như thế gọi là Chánh 
        kiến. 
        
        Sammàsankappa (Chánh tư duy) 
        
        
        KATAMÀ CA BHIKKHAVE samma SANKAPPO YÀ 
        KHO bhikkhave NEKKAMMASAKAPPO. ABHYÀPÀDASANKAAPPO AVIHIMÀSÀN – 
        KAPPO. 
         
        Này các Tỳ Khưu, Chánh tư duy là 
        thế nào? Chánh tư duy là: 1) sự suy nghĩ thoát trần (xuất 
        gia). 2) sự suy nghĩ không cột oan trái. 3) sự suy nghĩ không 
        làm hại người. Này các thầy Tỳ Khưu, hành như thế này 
        gọi là Chánh tư duy (suy nghĩ chơn chánh). 
        
        Sammàvaca (Chánh ngữ) 
        
        
        Katama ca bhikkhave bhikkhavesammàvaca 
        yakho bhikkhave veramanì pharusaya vacaya verrmanì. Samphappalapa 
        veramanì ayam vuccati bhikkhave samavaca. 
         
        Này các thầy Tỳ Khưu! Chánh 
        ngữ là thế nào? Chánh ngữ là: 1) tác ý lánh xa sự nói 
        dối. 2) tác ý lánh xa sự nói lời đâm thọc. 3) tác ý lánh 
        xa sự nói lời đê tiện. 4) tác ý lánh xa sự nói lời vô 
        ích. Này các thầy Tỳ Khưu! Sự nói như thế gọi là Chánh 
        ngữ (lời nói chơn chánh). 
        
        Sammàkammanta (Chánh nghiệp) 
        
        
        Katama ca bhikkhave v.v.... 
         
        Này các thầy Tỳ Khưu! Chánh 
        nghiệp là thế nào? Chánh nghiệp là: 1) tác ý lánh xa sự sát 
        sanh. 2) tác ý lánh xa sự trộm cắp. 3) tác ý lánh xa sự tà 
        dâm. Này các thầy Tỳ Khưu! Hành như thế này gọi là Chánh 
        nghiệp (sự làm chơn chánh). 
        
        Sammà àjivo (Chánh mạng) 
        
        
        Katamà ca bhikkhave v.v.... 
         
        Này các thầy Tỳ Khưu! Chánh 
        mạng là thế nào? Chánh mạng là các thầy Tỳ Khưu bậc đệ 
        tử thuộc hàng thánh nhân trong Phật Giáo: 1) nuôi mạng chơn 
        chánh. 2) không nuôi mạng trái với đạo lý. 3) nuôi mang 
        theo lẽ phải. Này các thầy Tỳ Khưu! Nuôi mạng như thế 
        gọi là Chánh mạng. 
        Riêng về người tại gia cư sĩ 
        nuôi mạng chơn chánh là không lường gạt lấy của kẻ khác, 
        giết thú ăn, biết là của bất nghĩa không nên lấy về dùng, 
        mặc dầu của ấy là của rơi rớt vô chủ. 
        
        Sammàvàyàma (Chánh tinh tấn) 
        
        
        Katamà ca bhikkhave v.v.... 
         
        Này các thầy Tỳ Khưu! Thế nào 
        gọi là Chánh tinh tấn? Chánh tinh tấn là các thầy Tỳ Khưu 
        trong Phật Giáo: 
        
          - Vun trồng sự thoả thích trong 
          sự tinh tấn không để cho tội lỗi phát sanh lên, không 
          để cho tội chưa phát sanh lên lại sanh lên trong tâm, cố 
          gắng hết sức để giữa tâm cho vững chắc. 
          - Vun trồng sự thoả thích tinh 
          tấn diệt trừ các pháp đã sanh trong tâm rồi cho tiêu 
          diệt và giữa tâm cho trong sạch. 
          - Vun trồng sư thoả thích tinh 
          tấn cho thiện pháp chưa sanh trong tâm làm cho phát sanh và 
          giữ tâm cho vững chắc torng thiện pháp. 
          - Vun trồng sự thoả thích tinh 
          tấn làm cho các thiện pháp đã có trong tâm hằng nảy 
          nở tiến hoá thêm lên mải mãi và làm cho tâm càng vững 
          chắc trong thiện pháp. 
         
        
        Sammàsati (Chánh niệm) 
        
        
        Katamà ca bhikkhave v.v.... 
         
        Này các thầy Tỳ Khưu! Thế nào 
        gọi là Chánh niệm? Chánh niệm là các thầy Tỳ Khưu trong 
        Phật Giáo hằng suy nghĩ thấy thân trong thân, có sự tinh 
        tấn thiêu đốt phiền não, tự mình biết lấy mình, có 
        sự nhớ được mọi việc làm và sự hành động của mình 
        trong mọi sát na, diệt sự ưa muốn và ghét bỏ. Nhận 
        thấy thọ trong thọ ... uy nghĩ thấy tâm trong tâm ... suy nghĩ 
        thấy pháp trong pháp... 
        
        Sammàsamàdhi (Chánh định) 
        
        
        Katamà ca bhikkhave v.v.... 
         
        Này các thầy Tỳ Khưu! Thế nào 
        gọi là Chánh định? Chánh định là các thầy Tỳ Khưu 
        trong Phật Giáo: 1) tâm vắng lặng những sự việc bên ngoài. 
        2) vắng lặng dục tình. 3) vắng lặng các ác pháp, nhập Sơ 
        Thiền có Tầm, Sát, Hỉ, Lạc, An và Định. 
        Vì diệt được Tầm và Sát nên 
        nhâp Nhị Thiền nên làm cho tâm càng thêm trong sạch xa lánh 
        trần nhiều hơn. Ðây là nhân làm cho Tâm càng trong sạch làm 
        cho Định càng dũng mãnh thêm trong sạch hơn nhiều Hỉ, 
        Lạc, An được thêm sự trong sạch vì oai lực của Ðịnh. 
        Hơn ấy nữa, vì không cần Hỉ, 
        Lạc với tâm đã bình tĩnh có đủ trí nhớ và biết mình 
        (chỉnh tâm) và tâm đang hưởng sự an lạc do nơi oai lực 
        của tâm xả. Trí nhớ và biết mình là nhân mà các bậc thánh 
        nhân hằng ngợi khen, người có tâm xả là người có trí 
        nhớ điều chỉnh tâm và hưởng an vui nên gọi là Tam 
        Thiền. 
        Khi đã diệt được khổ và 
        lạc, những sự vui buồn đã có từ xưa đều bị dập 
        tắt được do nơi Tứ Thiền. Không còn vui mà cũng không có 
        khổ chỉ có trí nhớ để ở trong Xả. 
        Này các thầy Tỳ Khưu! Sự để 
        tâm như thế gọi là Chánh định. 
        Trên đây tôi dịch sát nghĩa theo 
        Phật ngôn chắc quí vị đã hiểu rõ rồi xin khỏi giải thêm. 
        -ooOoo- 
        
        I-7 
        
        LUẬN 
        GIẢI TRUNG ÐẠO
        Phàm đã làm đệ tử Phật thì 
        không ai không hiểu Trung đạo. Vì Trung đạo là con đường 
        đi tới giải thoát của chư Phật. Người muốn giải thoát 
        ngoại trừ ra đường Trung đạo thì không còn con đường nào 
        khác hơn. Vì chỉ có một đường duy nhất đi đến Niết Bàn 
        mà thôi. 
        Tại sao gọi là Trung đạo? 
        Tưởng nên nhắc lại rằng: Trước 
        khi có Phật Giáo tại Trung Ấn Ðộ hay gọi là cõi Diêm Phù 
        Đề có rất nhiều Tôn Giáo khác nhau, phần nhiều các giáo 
        phái ấy đều dạy người hành khổ hạnh. Vì người đời 
        ấy tin rằng: hành khổ hạnh mới làm cho các Ðấng thần 
        linh hay Ðấng thiêng liêng cảm động ban ân huệ, hay là khi 
        hành khổ hạnh như thế mới diệt được phiền não trong lòng. 
        Theo lời Ðức Phật dạy gọi 
        hạnh ấy là thái quá. Có chia ra 2 điều thái quá là: 
        
          - Kamasukhallikanuyoga: Nghĩa 
          là người hành đạo nhưng còn lẫn với sự hành lạc 
          trong ngũ trần, lục dục gọi là hành đạo quá dùng. 
          - Attakilamatthànuyoga: hành 
          làm cho thân này quá khổ cực gọi là thái quá hay cũng 
          gọi là khổ hạnh. 
          Hai phương pháp kể trên, khi chưa 
          thành đạo, Bồ Tát Sĩ Ðạt Ta phải bỏ ra 6 năm để hành. 
          Nhưng không đem lại kết quả nào xứng đáng theo ý muốn 
          của Ngài, nên Ngài lại hành theo Trung đạo. 
         
        Sau khi thành đạo, bài Pháp đầu 
        tiên là Chuyển Pháp Luân, Ngài dạy rằng: 
        
          Dvmebhikkhave antàpabbaji tena 
          nasevitabbà: Này các thầy Tỳ Khưu! Hai phái thái quá mà 
          các bậc xuất gia không nên xu hướng theo, không nên hành 
          theo. Hai Pháp thái quá ấy là gì? 
          Một là Pháp làm cho tâm quyến 
          luyến theo tình dục. Pháp hèn hạ, Pháp của kẻ thế 
          gian, Pháp của phàm nhân chẳng lợi ích chi. 
          Hai là Pháp khổ hạnh làm cho thân 
          hình tiều tụy cực khổ chẳng phải là Pháp của một 
          cao nhân, cũng chẳng có lợi ích chi. 
          Này các thầy Tỳ Khưu! Sự tu hành 
          theo Trung đạo không nên thiên theo 2 điều thái quá ấy. 
         
        Bát Chánh Ðạo có thể tóm lại 
        là Tam Học: 
        
          Tuệ: Chánh kiến, Chánh tư duy 
          Giới: Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng 
          Định: Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định 
         
        
        Phận sự của Tứ 
        Diệu Ðế 
        
        Phận sự của Tứ Diệu Ðế là 
        sự cố gắng hành đúng theo Bát Chánh Ðạo. Người hành 
        phải hành một lúc đúng theo tám chi của đạo và cũng 
        phải trong sạch bằng nhau trong một lúc, không thể thiếu xót 
        một chi nào trong một của tám điều ấy. Nghĩa là không dư 
        không thiếu. 
        Tôi xin ví dụ, như trong một 
        thang thuốc có tám vị, phải dùng đúng theo phân lượng và 
        khia sắc thuốc cũng phải còn là bao nhiêu không thể nhiều 
        hơn hay ít hơn được. Ðây cũng như sự hành đạo phải hành 
        đúng theo Bát Chánh Ðạo, có tám chi không thể thiếu sót 
        mặc dầu một chi của một điều nào trong Bát Chánh Ðạo. 
        Ðây là Phật ngôn dạy: 
        
          Dukkhannyrodhagàminì patipadà 
          ariyasaccam bhàvetabbam. 
          Diệu Ðế là đạo đế nghĩa là sự hành theo đạo 
          cho đến diệt tận phiền não và Khổ, hành giả nên hành 
          theo. 
         
        Có nhiều người hỏi tôi (soạn 
        giả): Thời kỳ này còn có đạo quả chăng? Có người đắc 
        đạo quả và Niết Bàn không? 
        Ðáp: Phật dạy phương pháp hành 
        để đắc Niết Bàn là Bát Chánh Ðạo. Nếu Bát Chánh Ðạo 
        còn thì đạo quả còn. Còn người hành đúng theo Bát Chánh 
        Ðạo là còn có người đắc được đạo quả và Niết Bàn. 
        Nếu người ai ai muốn giải thoát đến Niết Bàn thì cứ hành 
        đúng theo Bát Chánh Ðạo. Vì đó là con đường đi ngay đúng 
        vào Niết Bàn. 
        Sở dĩ mà thời pháp đầu tiên 
        thuyết tại vườn Lộc Giả được tên là Chuyển Pháp Luân 
        có ý nghĩa xoay bánh xe Pháp. Ý nói thời pháp ấy dạy 3 luân 
        và 12 thể của Tứ Diệu Ðế. Khi người nhận định thấy 
        rõ 3 luân và 12 thể rõ rệt thì người ấy là người 
        giải thoát luân hồi. 
        Ba luân và 12 thể ấy là gì? 
        Như quí vị đã biết Tứ Diệu 
        Ðế là 4 điều: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Hành giả phải 
        hiểu rõ mỗi đế có 3 điều gọi là 3 luân nhân cho 4 đế 
        ra làm 12 thể. 
        Câu 
        chót của bài kinh Chuyển Pháp Luân đức Thế Tôn dạy: Khi 
        mà Ngài chưa tìm thấy rõ 3 luân và 12 thể trong Tứ Diệu 
        Ðế là chưa đắc quả vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. 
        Sau khi Ngài đắc được 3 luân 12 thể nên Ngài mới đắc 
        được quả cao thượng ấy. 
        Ba luân ấy là: 
        
          - Tuệ thấy rõ Khổ. 
          - Tuệ suy nghĩ thấy và hiểu rõ Khổ 
          - Tuệ thấy và biết rõ là hoàn toàn giải thoát khỏi 
          Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, đều có 3 luân như thế nên gọi 
          là 12 thể. 
         
        Sau khi thuyết dứt thời Pháp đức 
        Thế Tôn biết rằng: Trong 5 vị có một vị già nhất đắc 
        Tu Đà Huờn quả. Nên Ngài mới dạy rằng: Annasi vata 
        bhokondanno nghĩa là Kondanna (Kiều Trần Như) đã thấy rõ 
        Thánh Pháp rồi. Vì vậy từ ấy Ngài Kiều Trần Như có tên 
        là A Nhã Kiều Trần Như. 
        Xin nói thêm về Attha (ý nghĩa) 
        của Tứ Ðế. Khổ đế có 4 Attha (ý nghĩa): 
        
          Pìlanatto: Có nghĩa làm 
          hại 
          Sankhàtatto: Có nghĩa là họp các nguyên nhân 
          Santàpatto: Có nghĩa là làm cho nóng nảy 
          Viparinàmatto: Có nghĩa là thay đổi. 
         
        
        Tập đế có 4 Attha (ý nghĩa): 
        
         
        Ayuhanattho: Có nghĩa là làm 
        cho Khổ phát sanh 
        Nidànattho: Có nghĩa là nhân làm cho Khổ sanh 
        Sanyogattho: Có nghĩa là hội họp tất cả điều Khổ 
        Palipolattho: Có nghĩa là làm cho bận lòng vì Khổ. 
        
        
        Diệt đế có 4 Attha (ý nghĩa): 
        
         
        Nissaranattho: Có nghĩa là đem 
        mình ra khỏi luân hồi. 
        Appaliboddhattho: Có nghĩa là không còn bận rộn vì 
        khổ. 
        Alankalattho: Có nghĩa là nguyên nhân cấu tạo không 
        thể hội họp lại không thể cấu tạo được. 
        Amattho: Có nghĩa là bất tử. 
        
        Ðạo đế có 4 Attha (ý nghĩa): 
        
          Niyyànattho: Có nghĩa là đi 
          ra khỏi vùng luân hồi. 
          Hetavattho: Có nghĩa là nhân diệt khổ 
          Dassanattho: Có nghĩa là thấy rõ Niết Bàn 
          Adhipayattho: Có nghĩa là chủ nhân (ý nói không còn dưới 
          quyền của phiền não) 
         
        Sau khi đắc được Tu Đà Huờn 
        quả, Kiều Trần Như không còn hoài nghi Phật bảo và Pháp 
        bảo nên bạch với Phật rằng: Bạch hoá đức Thế Tôn, đệ 
        tử xin xuất gia với đức Đại giác. 
        Ðức Thế Tôn dạy: Ehi bhikkhu, 
        thầy hãy trở nên vị Tỳ Khưu hành theo thánh đạo và 
        phạm hạnh đúng theo luật của Như Lai đã dạy hầu diệt 
        tận phiền não. 
        Khi dạy dứt lời thì râu tóc 
        của vị Kiều Trần Như đều rụng, trên mình có đắp bộ 
        y cà sa vàng. Sau ấy 4 vị kia mới xin xuất gia. 
        Ngày 16 âm lịch Ngài thuyết pháp 
        độ vị thứ nhì đắc Tu Ðà Hườn quả vị ấy là Ðại 
        đức Vappa. Còn 4 vị kia đi khất thực. 
        Ngày 17 âm lịch Ðức Phật 
        thuyết pháp độ Ðại đức Bhaddiya đắc Tu Ðà Hườn 
        quả. 
        Ngày 19 âm lịch đức Thế Tôn 
        thuyết pháp độ Ðại đức Assaji Tu Ðà Hườn quả. 
        Ðến ngày 30 âm lịch Ðức Phật 
        hội 5 vị lại và thuyết bài Anattalakkhana-sutta (Vô ngã 
        tướng kinh) (quý vị muốn xem nguyên văn xin xem quyển kinh 
        tụng của Ðại đức Hộ Tông đã xuất bản). Nơi đây tôi 
        xin lược thuật dễ hiểu thôi. 
        * * * 
        Ðức Thế Tôn dạy: 
        Rupam bhikkhave anattà, Này các 
        thầy Tỳ Khưu! Thân này không phải của ta, vì vậy hằng 
        bị các bịnh hoạn. Không thể ngăn cản rằng: Thân ta nên 
        trẻ đẹp và trang điểm rất đẹp ví như cây cột bằng vàng 
        chạm trỗ rất tinh vi, trông coi rất đẹp mắt. Mặc dầu 
        lo trang điểm cho đẹp như thế, nhưng nó vẫn thay đổi vì 
        bịnh hoạn tàn phá, không thể tồn tại như lời ta bảo. 
        Ngoài ra Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng chẳng phải của 
        ta.Những pháp ấy cũng không chịu dưới quyền sai bảo và 
        cấm đoán của ta. 
        Rồi Ngài vấn chư Tăng rằng: Này 
        các thầy Tỳ Khưu! Các thầy nghĩ sao? 
        Chư tăng đáp: Bạch Ngài thân 
        sắc này vô thường. 
        - Nếu thân sắc này vô thường 
        thì khổ hay vui? 
        - Bạch Ngài, là khổ. 
        - Nếu sắc thân này khổ, vậy các 
        thầy suy tưởng thấy có phải cần ta hay không? 
        - Bạch Ngài, sắc thân này không 
        phải ta, mà cũng không phải là của ta. 
        Rồi đức Thế Tôn hỏi Thọ, Tưởng, 
        Hành, Thức như trên, và Chư tăng cũng trả lời như trên. 
        Đức 
        Thế Tôn mới dạy Ngũ Uẩn ở quá khứ cũng như hiện tại 
        và vị lai mặc dầu là của ta hay của người, đẹp hay 
        xấu, thô hay vi tế, nếu nó là Ngũ Uẩn hay có sắc thì 
        hằng ở dưới 3 tướng là vô thường, Khổ não, Vô ngã. Các 
        thầy nên lấy đó mà quán tưởng cho thấy rõ rệt là vô 
        thường, khổ não và vô ngã. Do nhờ sự quán tưởng như 
        thế nên chư Thinh Văn đệ tử Phật chán nản với Ngũ 
        Uẩn. Không ưa mến Ngũ Uẩn nên được giải thoát là đắc 
        được A La Hán quả tuệ, thì tức nhiên tự mình thấy 
        rằng: Ta đã diệt trừ tận phiền não, phạm hạnh của 
        Phật giáo đã hành xong. 
        Sau khi thuyết bài Vô ngã tướng 
        kinh, cả 5 vị đều giải thoát nghĩa là đắc được quả 
        A La Hán. 
        Trong ngày ấy, 30 tháng 6 âm 
        lịch, trong Tam Giới có 6 vị Thánh Nhơn: Một đức Chánh Ðẳng 
        Chánh Giác và 5 vị A La Hán. 
        
        MAHA THONGKHAM MEDHIVONGS 
        
        -ooOoo- 
        
        I-8 
        
        DỊCH 
        NGHĨA KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN 
        (DHAMMACAKKAPPAVATTANA-SUTTA)
        
        (trích trong bộ luật 
        MAHÀVAGGA phần PATHAMADESANÀ, 
        và cũng trong bộ SAMYUTTA NIKÀYA) 
        
        BỐ CÁO 
        
        Kính bạch chư hiền giả: 
        Phạm Thiên SAHAMPATI thỉnh cầu đức 
        Thế Tôn thuyết pháp độ sanh, đức Thế Tôn nhận lời, Ngài 
        đã ngự đến khu rừng nơi vườn Lộc Giả (ISIPATANA), nơi 
        trước kia chư Phật Ðộc Giác thường ngụ xuống, gần thành 
        BÀRÀNASÌ. Bấy giờ tại nơi đây có nhóm 5 Tỳ Khưu: Ngài 
        KONDANNA, Ngài VAPPA, Ngài BHADIYA, Ngài MAHÀNÀMA và Ngài ASSAJI, 
        đức Thế Tôn thuyết bài kinh đầu tiên gọi là 
        DHAMMACAKKAPPAVATTANASUTTA kinh Chuyển Pháp Luân, giảng giải 
        về Pháp Tứ Thánh Ðế để tế độ nhóm 5 Tỳ Khưu. Nhóm 
        5 Tỳ Khưu cùng tất cả chư thiên, Phạm Thiên vô cùng hoan 
        hỷ. 
        Nghe xong, Ngài KONDANNA là bậc 
        thinh văn đại để tử đầu tiên chứng ngộ Tứ Thánh Ðế, 
        chứng đắc thánh đạo, thánh quả nhập lưu, đồng thời có 
        180 triệu chư thiên, Phạm Thiên cùng chứng ngộ Tứ Thánh 
        Ðế, chứng đắc thánh đạo, thánh quả nhập luu. Bài kinh 
        này đem lại sự lợi ích cho thế gian và siêu thế giới. 
        Kính bạch chư hiền giả, vì mong 
        sự lợi ích, sự tấn hoá, sự an vui lâu dài cho tất cả 
        chúng sanh, nay chúng tôi sẽ tụng bài kinh Chuyển Pháp Luân 
        ấy. 
        * * * 
        
        MỞ ÐẦU: 
        
        Kính bạch Ngài Ðại đức Trưởng 
        lão MÀHAKASSAPA khả kính, con là ANANDA được nghe bài kinh 
        Chuyển Pháp Luân từ đức Thế Tôn như vầy: 
        Một thưở nọ. đức Thế Tôn 
        ngự tại khu rừng, nơi vườn Lộc Giả ISIPATANA, trước kia 
        chư Phật độc giác thường ngự xuống. Tại đây, đức 
        Thế Tôn gọi nhóm 5 Tỳ Khưu: Ngài KONDANNA, Ngài VAPPA, Ngài 
        BHADIYA, Ngài MAHÀNÀMA và Ngài ASSAJI mà dạy rằng: 
        
        HAI PHÁP THẤP HÈN 
        (DVE ANTÀ) 
        
        Này chư Tỳ Khưu, có 2 pháp cực 
        đoan thuộc về 2 biên kiến người xuất gia không nên hành 
        theo. Hai pháp ấy như thế nào? 
        
          Một là việc thường thụ hưởng 
          lạc thú trong ngũ dục hợp với tâm tham ái và thường 
          kiến ; thấp hèn của hạng tục gia phàm phu không phải 
          của bậc Thánh Nhơn, không đem lại lợi ích an vui nào. 
          Hai là việc thường tự ép xác 
          hành khổ mình, hợp với tam sân hận và có đoạn kiến, 
          thuộc pháp hành khổ hạnh của ngoại đạo, không thuộc 
          bậc Thánh Nhơn, không đem lại sự lợi ích an vui nào. 
         
        
        PHÁP HÀNH TRUNG ÐẠO 
        (MAJJHIMA PATIPADA): 
        
        Này chư Tỳ Khưu, không thiên về 
        2 biên kiến ấy, Như Lai đã hành theo pháp hành Trung đạo, 
        nên đã chánh giác Tứ Thánh Ðế bằng trí tuệ siêu thế, 
        làm chho tuệ nhãn phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ phát sanh, 
        để làm vắng lặng hẳn mọi phiền não, trí tuệ siêu 
        việt thông suốt chân lý Tứ Thánh Ðế, giác ngộ thánh đạo, 
        thánh quả, chứng đắc Niết Bàn. 
        Này chư Tỳ Khưu, thế nào gọi là 
        pháp hành Trung đạo mà Như Lai đã chánh giác Tứ Thánh Ðế 
        (bằng trí tuệ siêu thế), làm cho tuệ nhãn phát sanh, làm 
        cho vắng lặng hẳn mọi phiền não, cho trí tuệ siêu việt 
        thông suốt chân lý Tứ Thánh Ðế, Giác Ngộ thánh đạo, thánh 
        quả chứng đắc Niết Bàn? 
        Này chư Tỳ Khưu, pháp hành Trung 
        đạo đó chính là thánh đạo hợp đủ tám chi cao thượng 
        là: 
        1) Chánh kiến: Trí tuệ chơn chánh 
        chứng ngộ Tứ Thánh Ðế 
        2) Chánh tư duy: Tư duy chơn chánh, 
        có 3 điều: Tư duy ra khỏi cảnh ngũ dục, tư duy không thù 
        hận và tư duy không làm khổ mình, khổ người. 
        3) Chánh ngữ: Lời nói chơn chánh 
        có 4: Tránh xa sự nói dối, sự nói lời đâm thọc chia 
        rẽ, sự nóilời thô tục chửi rủa, mắng nhiếc và sự nói 
        lời phù phiếm vô ích. 
        4) Chánh nghiệp: hành nghiệp chơn 
        chánh có 3 là: Tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà 
        dâm. 
        5) Chánh mạng: Nuôi mạng chơn chánh 
        là xa cách sống tà mạng do 3 lại thân hành ác và 4 loại 
        khẩu nói ác. 
        6) Chánh tinh tấn: Tinh tấn chơn 
        chánh có 4 điều là: 
        
          - Tinh tấn không để cho ác Pháp 
          phát sanh. 
          - Tinh tấn điệt ác Pháp đã phát sanh. 
          - Tinh tấn để cho thiện pháp phát sanh. 
          - Tinh tấn để cho thiện pháp phát sanh càng thêm, phát 
          triển. 
         
        7) Chánh niệm: Niệm chơn chánh có 
        4 là: 
        
          - Niệm thân: dùng thân làm đối 
          tượng cho chánh niệm và tỉnh giác. 
          - Niệm thọ: dùng thọ làm đối tượng cho chánh niệm và 
          tỉnh giác. 
          - Niệm tâm: dùng tâm làm đối tượng cho chánh niệm và 
          tỉnh giác. 
          - Niệm pháp: dùng pháp làm đối tượng cho chánh niệm và 
          tỉnh giác. 
          (chỉ có Tứ niệm xứ này mới 
          gọi là Chánh niệm). 
         
        8) Chánh định: Tâm định chơn chánh 
        có 5 là: 
        
          - Tâm Ðịnh đệ nhất thiền 
          - Tâm Ðịnh đệ nhị thiền 
          - Tâm Ðịnh đệ tam thiền 
          - Tâm Ðịnh đệ tứ thiền 
          - Tâm Ðịnh đệ ngũ thiền 
          (nhưng tâm định này chỉ khi đồng 
          sanh với thánh đạo tâm và thánh quả tâm mới gọi là Chánh 
          Ðịnh) 
         
        Này các thầy Tỳ Khưu! Nhờ pháp 
        hành Trung đạo là thánh đạo hợp đủ tám chánh cao thượng 
        này mà Như Lai đã chánh giác Tứ Thánh Ðế (bằng trí tuệ 
        siêu thế) làm cho tuệ nhân phát sanh, để làm cho vắng 
        lặng mọi phiền não, để trí tuệ thông suốt chân lý Tứ 
        Thánh Ðế, để giác ngộ thánh Đạo thánh Quả, chứng đắc 
        Niết Bàn. 
        
        TỨ THÁNH ÐẾ 
        
        KHỔ THÁNH ÐẾ (DUKKHA ARIYASACCA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu, Khổ Thánh Ðế 
        là. 
        
          - Tái sanh là Khổ, già là Khổ, 
          bịnh là Khổ và chết là Khổ, trái nghịch ý lòng cũng là 
          Khổ. 
          - Phải xa lìa người thường yêu hay mất cảnh vừa lòng 
          cũng là Khổ. 
         
        Câu rằng: "Vui biết chừng nào! 
        mong cho ta đừng có sanh, đừng có già, đừng có bịnh, đừng 
        có chết..." Như vậy, câu mà không thể được như ý cũng 
        là khổ. Tóm lại Ngũ Uẩn là đối tượng của chấp thủ 
        do tâm tham ái và tà kiến là khổ. Thực tánh những sự 
        khổ nói trên ấy là sự thật là bậc thánh nhân đã 
        chứng ngộ gọi là Khổ Thánh Ðế. 
        
        TẬP THÁNH ÐẾ (DUKKHASAMUDAYA 
        ARIYACCA): 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Nhân sanh Khổ 
        Thánh Ðế này chính là tâm tham ái, là nhân dẫn dắt tái 
        sanh, hợp với tham muốn thoả thích, có trạng thái thường 
        say đắm hoan lạc trong kiếp sống hay các đối tượng. Nhân 
        sanh Khổ Thánh Ðế ấy là: 
        
          - DỤC ÁI (KÀMATANHÀ): Tham đắm 
          trong 6 cảnh trần: sắc, thanh, huơng, vị, xúc, pháp. 
          - HỮU ÁI (BHAVATANHÀ): Tham đắm trong 6 cảnh trần hợp 
          với thường kiến, hay tham ái trong thiền hữu sắc, 
          thiền vô sắc, hoặc cõi trời hữu sắc, cõi trời vô 
          sắc. 
          - PHI HỮU ÁI (VIBHAVATANHA): Tham đắm trong 6 cảnh trần 
          hợp với đoạn kiến, hay tham ái trong thiền vô sắc, 
          hoặc cõi trời vô sắc. 
         
        Thực tánh 3 loại tham ái ấy là 
        nhân sanh Khổ Thánh Ðế mà bậc thánh nhân đã chứng ngộ, 
        còn gọi là Tập Thánh Ðế. 
        
        DIỆT THÁNH ÐẾ (DKKHANIRODHA 
        ARIYASACCA): 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Diệt Khổ Thánh 
        Ðế này chính là Niết Bàn, là nơi diệt tận nhân sanh 
        khổ, diệt tận khổ, là nơi diệt tận tâm tham ái không còn 
        dư xót bằng thánh đạo, nơi xả ly Ngũ Uẩn, nơi từ bỏ 
        Ngũ Uẩn, nơi giải thoát khổ, nơi không còn có gì để 
        luyến ái, dính mắc nữa. 
        Niết Bàn Diệt Khổ Thánh Ðế 
        ấy là sự thật mà bậc thánh nhân đã chứng ngộ còn 
        gọi là Diệt Thánh Ðế. 
        
        ÐẠO THÁNH ÐẾ 
        (DUKKANIRODHAGAMINIPATIPADA ARIYASACCA): 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Pháp hành dẫn 
        đến sự chứng ngộ Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế này, 
        chính là thánh đạo hợp đủ tám chánh: Chánh kiến, Chánh 
        tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh 
        tấn, Chánh niệm, Chánh định. 
        Bát Chánh Ðạo, pháp hành dẫn đến 
        sự chứng ngộ Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế ấy, là 
        sự thật mà bậc thánh nhân đã chứng ngộ, gọi là Ðạo 
        Thánh Ðế. 
        -ooOoo- 
        
        I-9 
        
        BA BẬC 
        TRÍ TUỆ TRONG TỨ THÁNH ÐẾ
        
        1- BA BẬC TRÍ TUỆ 
        TRONG KHỔ THÁNH ÐẾ 
        
        a) TRÍ TUỆ HỌC BIẾT TRONG KHỔ 
        THÁNH ÐẾ (SACCANÀNA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn 
        (Cakkhu) thấy rõ Khổ Thánh Ðế đã phát sanh: Trí tuệ 
        Thiền tuệ (nàna) thấy rõ được tánh Khổ Thánh Ðế đã 
        phát sanh, trí tuệ sáng suốt (Pannà) thấy rõ khổ sanh, 
        Tuệ Minh (Vijjà) thấy rõ thấu suốt hoàn toàn Khổ Thánh Ðế 
        đã phát sanh, ánh trí tuệ (Àloka) diệt màn Vô Minh che ám 
        Khổ Thánh Ðế đã phát sanh đến Như Lai trong mọi pháp 
        Khổ Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai 
        chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực hành tất cả các pháp 
          (danh pháp, sắc pháp) sanh trong Tam Giới ngoại trừ tâm 
          tham ái ra gọi là Khổ Thánh Ðế " 
         
        
        b) TRÍ TUỆ HÀNH BIẾT TRONG KHỔ 
        THÁNH ÐẾ (KICCANÀNA): 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã 
        phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, trí tuệ sáng 
        suốt ... đã phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng 
        trí tuệ ... đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi mọi 
        pháp Khổ Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như 
        Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực hành tất cả các pháp 
          (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh Ðế ấy là pháp phải 
          biết rõ bằng thánh Đạo tuệ" 
         
        
        c) TRÍ TUỆ THÀNH BIẾT TRONG KHỔ 
        THÁNH ÐẾ (KATANÀNA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã 
        phát sanh; trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh; tuệ sáng 
        suốt ... đã phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng 
        trí tuệ ... đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi mọi 
        pháp Khổ Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như 
        Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực hành tất cả các pháp 
          (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh Ðế ấy là pháp phải 
          biết rõ bằng thánh Đạo tuệ rồi ". 
         
        
        2- BA BẬC TRÍ TUỆ 
        TRONG TẬP THÁNH ÐẾ 
        
        a) TRÍ TUỆ HỌC BIẾT TRONG TẬP 
        THÁNH ÐẾ (SACCANÀNA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn thấy 
        rõ tham ái là nhân sanh Khổ Thánh Ðế đã phát sanh, trí 
        tuệ Thiền tuệ thây rõ thực tánh ba loại tham ái là nhân 
        sanh Khổ Thánh Ðế đã phát sanh: Trí tuệ sáng suốt thấy 
        rõ 108 loại tham ái là nhân sanh Khổ Thánh Ðế đã phát 
        sanh, Tuệ Minh thấy rõ thấu suốt mọi nhân sanh Khổ Thánh 
        Ðế đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ diệt màn Vô Minh che ám 
        nhân sanh Khổ Thánh Ðế đã phát sanh đến với Như Lai 
        trong mọi Tập Pháp Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành 
        Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được 
        biết rằng: 
        
          "Thực tánh ba loại tham ái 
          ấy gọi là nhân sanh Khổ Thánh Ðế, còn gọi là Tập Thánh 
          Đế" 
         
        
        b) TRÍ TUỆ HÀNH BIẾT TRONG TẬP 
        THÁNH ÐẾ (KICCANÀNA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn... đã 
        phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, Trí tuệ sáng 
        suốt, đã phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí 
        tuệ ... đã phát sanh đến với Như Lai chưa từng được 
        nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực tánh ba loại tham ái 
          là nhân sanh Khổ Thánh Ðế ấy, là pháp cần phải diệt 
          tận bằng thánh Đạo tuệ" 
         
        
        c) TRÍ TUỆ THÀNH BIẾT TRONG TẬP 
        THÁNH ÐẾ (KATANÀNA): 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã 
        phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, Trí tuệ sáng 
        suốt, đã phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí 
        tuệ ... đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp tập 
        đế mà trước đây khi chưa thành Phật Như Lai chưa từng 
        được nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực tánh ba loại tham ái 
          là nhân sanh Khổ Thánh Ðế ấy, là pháp cần phải diệt 
          tận bằng thánh đạo tuệ rồi". 
         
        
        3- BA BẬC TRÍ TUỆ 
        TRONG DIỆT THÁNH ÐẾ: 
        
        a) TRÍ TUỆ HỌC BIẾT TRONG DIỆT 
        THÁNH ÐẾ (SACCANÀNA): 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn thấy 
        rõ Niết Bàn là Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh, trí 
        tuệ Thiền tuệ thây rõ trạng thái Niết Bàn là nơi an vui 
        tuyệt đối đã phát sanh: Trí tuệ sáng suốt thấy rõ 2 
        loại Niết Bàn, 3 loại Niết Bàn đã phát sanh, Tuệ Minh 
        thấy rõ thấu suốt mọi Niết Bàn là nợi Diệt Khổ Thánh 
        Ðế đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ diệt màn Vô Minh che ám 
        Niết Bàn là nơi Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh đến 
        với Như Lai trong mọi pháp Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa 
        thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được 
        biết rằng: 
        
          "Thực tánh Niết Bàn ấy 
          gọi là Diệt Khổ Thánh Ðế, còn gọi là diệt Thánh Ðế 
          " 
         
        
        b) TRÍ TUỆ HÀNH BIẾT TRONG DIỆT 
        THÁNH ÐẾ (KICCANÀMA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã 
        phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, trí tuệ sáng 
        suốt ... đã phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng 
        trí tuệ ... đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp 
        diệt Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như 
        Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực tánh Niết Bàn là 
          Diệt Khổ Thánh Ðế ấy là Pháp phải chứng ngộ bằng 
          thánh đạo tuệ" 
         
        
        c) TRÍ TUỆ THÀNH TRONG DIỆT THÁNH 
        ÐẾ (KATANÀNA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã 
        phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, trí tuệ sáng 
        suốt ... đã phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng 
        trí tuệ ... đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp 
        diệt Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như 
        Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực tánh Niết Bàn là 
          Diệt Khổ Thánh Ðế ấy, là pháp phải chứng ngộ thì đã 
          được chứng ngộ bằng thánh đạo tuệ rồi". 
         
        
        4- BA BẬC TRÍ TUỆ 
        TRONG ÐẠO THÁNH ÐẾ 
        
        a) TRÍ TUỆ HỌC BIẾT TRONG ÐẠO 
        THÁNH ÐẾ (SACCANÀNA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn thấy 
        rõ Bát Chánh Ðạo là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ 
        Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh; trí tuệ 
        Thiền tuệ thấy rõ thực tánh thánh đạo hợp đủ tám chánh 
        là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ là Niết Bàn nơi 
        Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh: Trí tuệ sáng suốt 
        thấy rõ mỗi chi trong Bát Chánh Ðạo là pháp hành dẫn đền 
        sự chứng ngộ Niết Bàn nơi Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát 
        sanh, Tuệ Minh thấy rõ thấu suốt tất cả mọi chi trong Bát 
        Chánh Ðạo là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn 
        là nơi Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh, ánh sáng trí 
        tuệ diệt màn Vô Minh che ám Bát Chánh Ðạo là pháp hành 
        dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn nơi Diệt Khổ Thánh Ðế 
        đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp Ðạo Thánh Ðế 
        mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được 
        nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực tánh thánh đạo hợp 
          đủ tám chánh là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ 
          Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế, còn gọi là Ðạo Thánh 
          Ðế " 
         
        
        b) TRÍ TUỆ HÀNH BIẾT TRONG ÐẠO 
        THÁNH ÐẾ (KICCANÀNA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã 
        phát sanh; trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, Trí tuệ sáng 
        suốt ... đã phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng 
        trí tuệ ... đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp 
        Ðạo Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như 
        Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực tánh thánh đạo hợp 
          đủ tám chánh là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ 
          Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế, còn gọi là Ðạo Thánh 
          Ðế ấy, là pháp cần phải tiến hành, là pháp cần được 
          tiến hành". 
         
        
        c) TRÍ TUỆ THÀNH BIẾT TRONG ÐẠO 
        THÁNH ÐẾ (KATANÀNA) 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã 
        phát sanh; trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, Trí tuệ sáng 
        suốt ... đã phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng 
        trí tuệ ... đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp 
        Ðạo Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như 
        Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: 
        
          "Thực tánh thánh đạo hợp 
          đủ tám chánh là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ 
          Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế, còn gọi là Ðạo Thánh 
          Ðế ấy, là pháp cần phải tiến hành, thì đã được 
          tiến hành rồi". 
         
        
        CHƯA CHỨNG NGỘ TỨ THÁNH ÐẾ THÌ 
        CHƯA ÐỦ TUYÊN BỐ THÀNH BẬC CHÁNH ÐẲNG CHÁNH GIÁC: 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Khi nào trí 
        tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp một cách 
        hoàn toàn trong sáng thanh tịnh theo ba bậc tuệ luân (trí 
        tuệ học,trí tuệ hành, trí tuệ thành) trong Tứ Thánh Ðế 
        thành mười hai thể loại trí tuệ chưa phát sanh đến với 
        Như Lai. Này chư Tỳ Khưu! Khi ấy Như Lai chưa tuyên bố 
        rằng: "Như Lai đã chứng đắc vô thượng Chánh Ðẳng 
        Chánh Giác" Trong hàng Sa Môn, Bà La Môn, nhân loại, chư 
        thiên, Ma Vương và Phạm Thiên cả thảy. 
        
        ÐÃ CHỨNG NGỘ TỨ THÁNH ÐẾ 
        MỚI TUYÊN BỐ THÀNH BẬC CHÁNH ÐẲNG CHÁNH GIÁC: 
        
        Này chư Tỳ Khưu! Khi nào trí 
        tuệ Thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của các pháp 
        một cách hoàn toàn trong sáng thanh tịnh theo ba bậc tuệ luân 
        trong Tứ Thánh Ðế thành mười hai thể loại trí tuệ đã 
        phát sanh đến với Như Lai. Này chư Tỳ Khưu! Khi ấy Như 
        Lai mới mạnh dạn tuyên bố rằng: "Như Lai đã chứng 
        đắc vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác trong hàng Sa Môn, Bà 
        La Môn, nhân loại, chư thiên, Ma Vương và Phạm Thiên cả 
        thảy". 
        
        NHÓM NĂM TỲ KHƯU HOAN HỶ, NGÀI 
        ÐẠI ÐỨC KODANNA CHỨNG ÐẮC THÁNH ÐẠO QUẢ NHẬP LƯU ÐẦU 
        TIÊN TRONG GIÁO PHÁP CỦA ÐỨC PHẬT. 
        
        Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài 
        kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5 Tỳ Khưu vô cùng hoan 
        hỷ với lời giáo huấn của Ngài. Trong khi bài Pháp thoại 
        được tuyên giảng thì Pháp nhãn (chứng ngộ Thánh Ðế ), 
        chừng đắc nhập lưu thánh đạo tuệ,tâm không còn bụi nhơ 
        bởi phiền não thường kiến, không còn ô niễm bởi đoạn 
        kiến, hoài nghi đã phát sanh đến Ngài Ðại đức Kodanna. 
        Ngài biết rõ ràng chắc rằng: "Trạng thái các pháp phát 
        sanh trong Tam Giới, thì tất cả Pháp ấy có sự diệt là thường" 
        
        TOÀN THỂ CHƯ THIÊN, PHẠM THIÊN TÁN 
        DƯƠNG CA TỤNG: 
        
        Khi đức Thế Tôn thuyết giảng 
        kinh Chuyển Pháp Luân vừa xong, chư thiên trên địa cầu đồng 
        thanh tán dương ca tụng rằng: 
        
          "Ðức Thế Tôn thuyết 
          Chuyển Pháp Luân vô thượng tại vườn Lộc Giả Isapatana 
          gần thành Bàrànasì, chưa từng có Sa Môn, Bà La Môn, hay 
          chư thiên, Ma Vương, Phạm Thiên hay bất cứ một ai trong 
          đời này có thể thuyết Chuyển Pháp Luân như vậy được" 
         
        Đồng 
        thời chư thiên trong cõi Tứ Ðại Thiên Vương được nghe 
        lời tán dương ca tụng của chư thiên ở địa cầu cũng đồng 
        thanh tán dương ca tụng như trên. 
        Đồng 
        thời chư thiên trong cõi tam thập tam thiên được nghe lời 
        tán dương ca tụng của chư thiên ở cõi Tứ Ðại Thiên Vương 
        cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên. 
        Cũng như vậy, chư thiên ở cõi 
        Dạ Ma Thiên, Hoá Lạc Thiên, Tha Hoá Tự Tại Thiên cũng đồng 
        thanh tán dương ca tụng như trên. 
        Phạm Thiên cõi trời Sắc giới, 
        được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên ở Tha Hoá 
        Tự Tại Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: 
        
          "Ðức Thế Tôn thuyết 
          Chuyển Pháp Luân vô thượng tại vườn Lộc Giả Isipatana 
          gần thành Bàranasì chưa từng có Sa Môn, hay Bà La Môn, hay 
          chư thiên, Ma Vương, Phạm Thiên hay bất cứ một ai trong 
          đời này có thể thuyết Chuyển Pháp Luân như vậy được". 
         
        Ngay khi ấy, ngay lúc ấy, ngay 
        tức khắc lời tán dương ca tụng thấu lên đến cõi trời 
        Sắc giới Phạm Thiên cao nhất là "Sắc Cứu Cánh Thiên" 
        (Akanitthà). Muời ngàn thế giới này đều rung chuyển, rúng 
        động, rung rinh cả ánh sáng hào quang của đức Chánh Ðẳng 
        Chánh Giác toả rộng vô biên cùng khắp thế giới hơn hẳn 
        tất cả oai lực chư thiên, Phạm Thiên cả thảy. 
        
        NGÀI ÐẠI ÐỨC KODANNA CÓ TÊN LÀ 
        ANNASIKONDANNA: 
        
        Khi Ngài Ðại đức Kodanna chứng 
        đắc thánh đạo, thánh quả nhập lưu, đức Thế Tôn cảm 
        hứng tự thốt lên cho toàn thế giới biết rằng: 
        "Này chư vị, quả thật 
        Kondanna đã chứng ngộ Tứ Thánh Ðế rồi! Này chư vị, 
        quả thật Kondanna đã chứng ngộ Tứ Thánh Ðế rồi!" 
        Do vậy Ngài Ðại đức Kondanna 
        được gọi là Annasikondanna (A-nhã Kiều-Trần-Như, ngài Ðại 
        đức Kondanna đã chứng ngộ). 
        
        NGÀI ÐẠI ÐỨC ANNASIKODANNA XIN 
        THỌ GIỚI TỲ KHƯU VỚI ÐỨC PHẬT: 
        
        Khi ấy Ngài Ðại đức 
        Annasikondanna đã phát sanh trí tuệ chứng ngộ Tứ Thánh Ðế 
        n, đã biết rõ một cách chắc chắn đúng theo Tứ Thánh Ðế, 
        đã thấu rõ thông suốt Tứ Thánh Ðế, nên đã tận diệt 
        hoàn toàn mọi điều hoài nghi nơi đức Phật, đức Pháp, 
        v.v... do trí tuệ sắc bén chứng đạt chân lý Tứ Thánh Ðế 
        cao thượng trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn một cách 
        vững chắc, ngoài Ðức Phật ra không còn tin tưởng nơi người 
        nào khác nữa (vì chính mình đã tự chứng ngộ Tứ Thánh 
        Ðế rồi). 
        Ngài Ðại đức Annasikondanna thành 
        kính đảnh lễ đức Thế Tôn rồi bạch rằng: 
        "Kính bạch đức Thế Tôn cao 
        thượng, con thành kính xin Ngài từ bi cho con thọ giới Tỳ 
        Khưu nương nhờ nơi Ngài". 
        Đức 
        Thế Tôn từ bi đưa ngón tay chỏ chỉ và truyền rằng: 
        
        "Ehi bhikkhu! Svàkkhàto dhammo 
        cara bramacariyam sammà dukkhassa antakiriyàya" 
        (này con, hãy đến với Như Lai, con sẽ trở thành Tỳ Khưu 
        như con cầu xin. Giáo Pháp cao thượng giải thoát khổ luân 
        hồi mà Như Lai đã thuyết giảng, hoàn thiện ở phần đầu, 
        hoàn thiện ở phần giữa, hoàn thiện ở phần cuối, con hãy 
        nên cố gắng thực hành phạm hạnh cao thượng để chứng 
        đắc thánh đạo thánh qủa Araham, chấm dứt sự khổ sanh 
        tử luân hồi). 
        Chỉ với lời truyền dạy ấy 
        của đức Thế Tôn, Ngài Ðại đức Annasikondanna đã trở 
        thành Tỳ Khưu theo cách Ehi bhikkhu pasampadà. 
        
        Tỳ kheo DHAMMARAKKHITA 
        soạn dịch 
        
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | Mục 
        lục | 1.1 | 1.2 | 2.1 
        | 2.2 | 2.3 | 2.4  |