BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Thuyết Bốn Ðế
Giáo sư Minh Chi
-[06]- IV. ÐẠO ÐẾ Ðạo đế là chơn lý về con đường đạo dẫn tới Niết Bàn, dập tắt mọi khổ đau, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, giác ngộ và giải thoát tối hậu. Sách Phật nói 37 phương pháp, cấu thành con đưòng đạo này, gọi là 37 đạo phẩm, cũng gọi là 37 phần Bồ đề (Bồ đề phần). Cụ thể là Bốn niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám con đường đạo (Bát chánh đạo). Nay sơ lược giải thích như sau: 1. Bốn Niệm xứ: Cũng gọi là bốn niệm trú, tức là mục chánh niệm trong Bát chánh đạo, Bốn niệm xứ là bốn đối tượng của tư duy và quan sát không bao giờ quên. Ðó là thân (kaya), thọ (vedana), tâm (citta), và pháp (dhamma). Luôn luôn nhớ thân, cảm thọ, tâm và các pháp đều là vô thường, khổ và vô ngã. Nếu phân biệt thì quan sát thân là không trong sạch, mọi cảm thọ là khổ, tâm là vô thường, và mọi pháp là vô ngã, không thực thể. Theo kinh tạng nguyên thủy, thì bốn niệm xứ là con đường độc nhứt (ekayana magga), đưa người tu hành đến sự giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. 2. Bốn chánh cần: Trong Bát chánh đạo, gọi là Chánh tin tấn (sách Hán còn gọi là Tứ chánh đạo, tứ chánh thắng, tứ ý đoạn). Gồm có bốn mục là:
Thiện ở đây là mọi cái gì lợi cho lý tưởng tu đạo, và ác là mọi cái gì trở ngại cho lý tưởng tu đạo. Cho nên, theo quan niệm đạo Phật mà nói nỗ lực làm ác, chính là lười biếng chứ không phải là tinh tấn siêng năng. 3. Bốn thần túc: Sách Hán cũng gọi là tứ như ý túc, là bốn điều như ý được đầy đủ. Ý tứ là muốn có phép thần thông đầy đủ, thì học tập bốn phương pháp này, tức là:
4. Năm Căn: Tức là Tín, lòng tin. Cần là tinh tấn, Niệm là nghĩ nhớ điều phải (chơn lý), như lý vô thường, vô ngã... Ðịnh và Tuệ. Gọi năm mục này là năm căn tức là năm cái gốc để cho người tu tiến tới mạnh mẽ trên con đường đạo. Trong năm cái gốc này thì tín (S. Saddha; P. Sraddha) đứng hàng đầu, vì lòng tin chân chánh và chân thành là động lực của mọi nỗ lực tu đạo và hướng thiện tránh ác. Nên phân biệt năm căn tín ... với năm căn mắt, tai,.. (năm căn này thường gọi là năm căn năng). 5. Năm Lực: Năm căn nói treân, khi dược phát huy thì biến thành năm sức mạnh, tức năm lực. 6. Bảy giác chi: Thất giác chi, sách Hán cũng dịch là Thất Bồ Ðề phần, bảy phần Bồ đề, hay Thất giác phần, tức là bảy chi phần của giác ngộ.
Trên đây là bảy hạng mục tu hành, có liên hệ đến thiền dịnh. Trong kinh tạng Nguyên thủy, sau khi thực hành phép anapanasati (niệm hơi thở ra vào) để thành tựu sự thống nhứt nội tâm, hành giả tu sang phép bốn niệm xứ, và bảy giác chi mà được giác ngộ, giải thoát. Như vậy, có thể thấy bảy giác chi là những mục tu hành cao cấp trên con đường tu đạo. 7. Bát chánh đạo: Bát chánh dạo tức là tám con đường đạo hay là con đường đạo tám nhánh.
BÁT CHÁNH ÐẠO VÀ BA MÔN HỌC GIỚI, ÐỊNH, TUỆ Bát chánh đạo thực ra là một thể thống nhứt, sở dĩ chia ra tám hạng mục là để cho tiện thuyết minh, giảng giải mà thôi. Phật giáo Nam phương thuyết minh mọi quan hệ giữa Bát chánh đạo và ba môn học như sau:
Về chánh tinh tấn, có sách quy về định học, có sách quy vào tuệ học- Thứ tự tu học các hạng mục trong Bát chánh đạo như thế nào? Theo logic, thì phải là thứ tự giới, định, tuệ. Thế nhưng trong bát chánh đạo, lại sắp xếp: tuệ - giới - định, vì sao? Thực ra sau tám mục còn có hai hạng mục nữa là Chánh trí và Chánh giải thoát, tổng hợp lại thành 10 pháp vô lậu học. Chánh trí và Chánh giải thoát thuộc về tuệ học. Như vậy, thứ tự logic của 10 pháp vô lậu học là tuệ - giới - định - tuệ. Hai mục chánh tri kiến và chánh tư duy thực ra là chánh tín đối với những người mới nhập môn. Do đó, toàn bộ thứ tự sẽ là: Tín - Giới - Ðịnh - Tuệ. QUAN HỆ GIỮA 37 PHẨM BỒ ÐỀ VÀ BA MÔN HỌC Tín căn và tín lực không cho cả ba môn giới, định, tuệ. Vì tất cả mọi pháp tu hành đều xuất phát từ niềm tin (tín) dựa vào chánh tri kiến và chánh tư duy. Niệm căn, niệm lực, niệm giác chi đều thông cả định học và tuệ học. Giới: Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Ðịnh: Bốn như ý túc, định căn, định lực, định giác chi, xả giác chi, chánh định. Tuệ: Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, tinh tấn cán, tuệ căn, tinh tấn lực, tuệ lực, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn. -ooOoo- V. BA MÔN HỌC (Tam học) V.1. GIỚI HỌC :Giới học tức là môn học đạo đức Phật giáo, hay là luân lý Phật giáo. Nghĩa từ Giới: Giới, chữ Sanskrit là Sila. Giới là các khuôn mẫu ứng xử, phòng sai, tránh ác của đạo Phật. Các loại giới: giới ngăn điều ác gọi là Chỉ ác giới. Chỉ có nghĩa là ngăn chặn. Cũng gọi là luật nghi Samvara. Có hai loại giới: Giới hữu lậu thế gian và giới vô lậu xuất thế. Bộ phận hữu lậu giới gọi là Biệt giải thoát luật nghi, giúp cho người tu hành hướng thiện, tránh ác ở cõi Dục giới, đồng thời cũng hướng tới giải thoát. Bộ phận hữu lậu giới, gọi là Tĩnh lự luật nghi, giúp cho hành giả mau chứng các cấp thiền thuộc sắc giới. Giới xuất thế gọi là luật nghi vô lậu. Biệt giải thoát luật nghi lại chia thành giới tại gia và giới xuất gia. Giới tại gia gồm có 5 giới ưu bà tắc và ưu bà đi, hằng ngày cần giữ gìn không phạm, và tám giới cần giữ, trong các ngày gọi là Bát trai. Giới xuất gia gồm có 250 giới của Tỳ Kheo, 348 giới của Tỳ Kheo ni, 10 giới của Sadi, 6 giới của Chánh học nữ. Ưu bà tắc là chữ Phạn Upasaka. Hán dịch nghĩa là cận sự nam.
Thế nhưng, tác dụng của giới cũng không phải chỉ là tránh ác, mà còn là hành thiện nữa. Giới làm điều thiện còn goïi là tác trì giới, hay tác thiện giới. Giới và Luật: Giới tương đương với đạo đức. Luật tương đương với pháp luật. Giới có ý nghĩa rộng hơn, so với luật Giới là những điều mình giữ cho bản thân mình, nó thuộc về tinh thần, về nội tâm. Còn luật là điều mình giữ vì người khác, vì xã hội. Tuy nhiên trong sách thưòng dùng hai từ này đi kèm với nhau, như trong hợp từ quen thuộc Giới Luật, vì không có ranh giới phân biệt rõ ràng giữa hai từ. Về sự thành lập Luật tạng: Luật tạng được kết tập ở cuộc đại hội kết tập lần thứ nhứt, ở thành Vương Xá, vài tháng sau khi Phật Niết Bàn. Người kết tập luật tạng là tôn giả Upali, trong thời Phật còn sống vốn đươïc ca ngợi là "Giới luật đệ nhứt". Luật tạng, sau khi kết tập, dần dần được hoàn chỉnh và được định hình trong các bộ luật của các bộ phái. Như đã nói trên, luật tạng bao gồm hai nhóm giới luật chính là chỉ trì giới (tránh điều ác) và tác trì giới (làm điều thiện), ứng với hai câu kệ nổi tiếng của Chư Phật.
Dịch:
Chỉ trì giới: gồm 250 giới cho Tỳ Kheo và 348 giới cho Tỳ Kheo ni. Tùy theo các bộ phái mà con số giới luật có xê xích khác nhau, nhưng mức độ xê xích không lớn. Trong luật tạng, có phần phân biệt chú giải các giới điều, gọi chung là kinh Phân biệt, P. Sutta vibhanga. Tác trì giới: gồm các quy định sinh hoạt của tăng đoàn, như quy định về cách thức thọ giới của người xuất gia, về tổ chức tụng giới (Bồ tát) tổ chức an cư kiết hạ, ngày tự tứ, một số quy định về ăn, mặc, ở của tu sĩ, kèm theo phần chú thích những quy định này. Cả phần này gọi là kiền độ (khandhaka). Ngoài hai phần trên, trong luật tạng còn có một phần phụ lục, gọi là phụ tùy (parivara). Như vậy luật tạng Pali (Thượng tọa bộ) cũng như luật tạng các bộ phái khác bao gồm 3 bộ phận:
Nói chung, luật tạng (bất cứ thuộc bộ phái nào) đều do ba bộ phận trên tạo thành. Hiện nay, còn giữ lại được 5 bộ luật tạng:
(Hóa địa bộ, Pháp tạng bộ, Ðại chúng bộ, Nhất thiết hữu bộ, là tên của một số bộ phái quan trọng, xuất hiện trong thời kỳ Phật giáo bộ phái, khoảng 200 năm sau khi Phật Niết Bàn. Vì từ bộ phái Nhất thiết hữu bộ tách ra một số bộ phái khác, cho nên bộ phái gốc sau này được gọi là căn bản nhất thiết hữu bộ). Trong 7 bộ luật được lưu lại hiện nay, và có ghi tên trên đây thì hai bộ thứ sáu và thứ bảy giống nhau, chỉ có khác là bộ luật thứ 6 (thập tụng luật) là một bộ luật không hoàn chỉnh của Hữu bộ. Còn bộ thứ bảy, dịch ra chữ Tây Tạng là một bộ luật hoàn chỉnh và đầy đủ của Hữu bộ. Luật tạng là văn bản cơ sở để quy định sinh hoạt của tăng đoàn. Hiện nay, sinh hoạt của tăng đoàn Phật giáo Nam Phương hoàn toàn dựa vào bộ luật tạng của Thượng tọa bộ. Ở Trung Quốc vào đời Ðưòng, tăng sĩ Ðạo Tuyên ở Nam Sơn, lập ra luật tạng, là dựa vào bộ luật Tứ phần của Pháp Tặng bộ. Vì vậy tông phái của ông cũng có tên gọi "Tứ phần luật Tông". Các giới điều của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni được xếp làm 8 loại như sau: (1) Ba la di: S. Parajaka là giới điều quan trọng nhứt của Tỳ Kheo, người phạm lỗi Ba la di lập tức mất tư cách tăng sĩ vì vậy mà Trung Quốc dịch nghĩa là đoạn đầu, nghĩa là chém đầu. Cũng như ở ngoài đời, nếu phạm tội cực nặng thì bị chém đầu Ðó là các tội: dâm dục, trộm cắp, giết người, đại vọng ngữ (chưa chứng quả Thánh mà dám tuyên bố đă chứng). (2) Tăng tàn: S. Sanghavasera P. Sanghade sera. Tội tăng tàn, có mức độ nghiêm trọng, chỉ kém tội Ba la di một bậc. Nếu phạm thì sẽ phải sống biệt trú, và mất quyền lợi tăng sĩ trong một thời gian. Tổng cộng có 13 tội: sờ mó thân phụ nữ, làm môi giới hôn nhân, nói vu và phỉ báng người, làm tăng chúng mất đoàn kết.... Có sách giải thích tăng tàn là người phạm tội sám hối và cầu xin tăng chúng thương xót, cho duy trì mạng sống tăng sĩ tàn tạ của mình. (3) Bất định: S. Aniyata, đây là tội chưa rõ, tuy tăng sĩ có phạm, cho nên gọi là bất định. Gồm có hai loại tội: vi phạm bí mật hay công khai. (4) Xã đọa: Naiksirajika-payattika. P. pissaggiya pacittika. Tội có lấy của phi pháp, nhưng sau biết đem nộp lại cho tăng đoàn và xin sám hối. Tổng cộng có 30 tội, gọi là 30 pháp xã đọa. Ðó là các tội có liên quan đến y phục và dụng cụ của tăng sĩ. (5) Ðơn đọa: S. Payattika, P. Pacittika. Một loại tội nhẹ, chỉ cần sám hối là miễn tội. Tổng cộng có 90 tội đơn đọa, cũng gọi là đơn đề. Thí dụ: làm hư hỏng cỏ cây là một tội đơn đọa, ăn quá ngọ (đối với Tăng sĩ Nam Tông) cũng là một tội đơn đọa,v.v... (6) Hối quá: S. pratidesamya P. patidesanya. Các lỗi nhỏ liên quan tới ăn uống, chỉ cần sám hối là đủ. Có sách dịch âm là Ðề xá ni (S. desana). Có tất cả 4 tội. Thí dụ: nhận thức ăn tín thí quá mức cần thiết... (7) Chúng học: S. saíksa P. sekhiya. Các lỗi nhỏ trong sinh hoạt hằng ngày, chỉ cần tự mình phản tĩnh là được. Tổng cộng có 100 lỗi, sách Hán gọi là bách chúng học pháp. Thí dụ: mặc áo không chỉnh tề, cười lộ cả hai hàm răng, nhảy qua lạch nước... (8) Diệt tránh: S. adhikarma - samatha. P. adhikarana-samatha Thực sự đây không phải là tội mà là những phương thức giải quyết các vụ tranh cãi trong tăng đoàn. Có 7 điều, sách Hán gọi là thất diệt tránh pháp. Tỳ Kheo ni thọ một số giới nhiều hơn Tỳ Kheo, tức 341 giới so sánh như sau:
Có bộ phái đưa số giới của Tỳ Kheo ni lên 348. Hai mươi kiền độ của tác trì môn: Kiền độ là dịch âm từ chữ Phạn Khanda, dịch nghĩa là phần hay chương. Hai mươi Kiền dộ là 20 chương, nói về các quy tắc sinh hoạt của tăng già như:
Giới thể, giới tướng và giới hạnh
Tông Chân Ngôn (Mật giáo) ở Nhật riêng lập ra hệ thống giới gọi là "Tam muội gia", lấy ba loại bồ đề tâm làm giới. Nhưng đó chỉ là sự khác biệt về danh từ mà thôi. Còn về nội dung thì cũng không khác gì mười giới thiện (thập thiện giới). Chân Tông ở Nhật Bản (một nhánh của Tông tịnh dộ) thì không có bàn gì tới giới luật cả. Tín và giới: Vào thời đại Kamakura (Kiếm Thuơng) ở Nhật, các tông như Nhật Liên Tông, Chân Tông, Thiền Tông đều không chú trọng nhiều tới giới luật. Nhưng theo sự nhận định của nhà Phật học nổi tiếng Nhật Bản là Thủy Giả (xem cuốn Phật giáo yếu ngữ đích cơ sở tri thức tr 233) Phật giáo Nhật Bản thời đại Kiếm Thương rất coi trọng đức tin, và cho rằng đức tin triệt để, bao hàm đầy đủ giới luật rồi. Thí dụ, chuyên tâm niệm Phật, chuyên tâm ngồi thíền, thì ngay từ ở trong ý nghĩ và lời nói, mọi nghiệp đều đã được thanh tịnh rồi. Ðây là do giới và tín vốn có quan hệ rất mật thiết. Tăng sĩ trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, có câu: "Nếu có đức tin triệt để, thì tự nhiên có được giới". (tín nhược triệt để, tự khả hoạch đắc giới). Trong kinh Phật nguyên thủy, có khái niệm "Tứ bất hoại tính" tức là bốn niềm tin trong sạch, không mất tức là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin ở Giới luật. Trong kinh Phật nguyên thủy, có bài kệ nổi tiếng là:
Nghĩa là:
Bài kệ này được gọi là bài kệ của bảy vị Phật (gồm cả Phật Thích Ca), cho nên cũng gọi là thất Phật thống giới kệ (bài kệ răn dạy chung của bảy vị Phật). Tinh thần của giới luật là tránh mọi điều ác, làm mọi điều thiện. Làm được như vậy là giới. Tâm ý trong sạch là định và tuệ. Bởi vì tâm có lặng (định) mới sáng (tuệ). Giới đại thừa: Ðặc điểm của giới đại thừa là cường điệu tính lợi tha. Ðại thừa có khái niệm ba nhóm giới trong sạch:
Vì cả ba nhóm giới này, cả đại và tiểu thừa đều tôn trọng cho nên gọi là thông giới. Nhiếp luật nghi giới: S samvarsa-sila. Gọi tắt là luật nghi giới tương đương với các giới tại gia, xuất gia của Phật giáo Nguyên thủy, nhưng theo Ðại Thừa giáo thì là Thập thiện giới, hay là thập trọng cấm giới và 48 khinh giới. Nội dung của Nhiếp luật nghi giới, chủ yếu là ngăn chặn mọi điều ác. Nhiếp thiện pháp giới: S. kusala-oharma-samgraha-sila. Chỉ riêng cho 10 giới thiện. Nhiếp chúng sanh giới: S. sattrarthakriya-sila. Chỉ mọi việc làm, có ý nghĩa từ bi và lợi lạc đối với chúng sanh. Ba nhóm giới này được các kinh như "Anh lạc bổn nghiệp kinh",... nói tới, và thường được gọi là ba nhóm giới thanh tịnh (tam tụ tịnh giới). Thập thiện (10 thiện) và ba nhóm giới: Các kinh Bát Nhã (kể cả Ðại phẩm và tiểu phẩm) đều lấy 10 thiện làm giới đại thừa, kinh Hoa Nghiêm cũng theo thuyết này. Trong kinh Bát Nhã, giới Ba La Mật tức là Bồ tát tự mình làm 10 thiện, và khuyến khích người khác cũng làm 10 thiện thực hành đầy đủ cả hai mặt nhiếp luật nghi giới và nhiếp thiện pháp giới. Kinh Hoa Nghiêm thì thêm Nhiếp chúng sanh giới thành có ba nhóm giới đầy đủ. Bộ luận Du Già sư địa nói cả ba nhóm giới Nhiếp luận nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới, đầy đủ như kinh Hoa Nghiêm. Ba nhóm giới này cũng gọi là Du Già giới. Mười thiện giới:
Mười cấm giới nặng (trọng giới) Bồ tát nếu phạm mười giới nặng này, vi phạm tội nặng gọi là Ba La di. Ðiều này được ghi trong kinh Phạm Võng, cho nên cũng gọi là Phạm Võng giới. Mười cấm giới nặng là:
Giới Ðại thừa của Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Nhật Bản: Người Trung Quốc kết hợp Du già giới (tức ba nhóm giới), Phạm Võng giới (10 giới nặng và 48 giới nhẹ) thành ra Ðại thừa giới, cũng gọi là Bồ tát giới, Phật tính giới, Kim cang bảo giới. Phật giáo Trung Quốc kết hợp dùng luật Tứ Phần (Thường gọi là luật Tiểu thừa), với luật Ðại thừa (Kinh Phạm Võng). Nói chung, từ đời Tùy Ðường về sau, đều kết hợp sử dụng như vậy. Ở Nhật Bản, vào đời Nại Lương (Nara) có sư Giám Châu truyền kinh nghiệm kết hợp dùng giới Ðại thừa và Tiểu thừa (của Trung Quốc) vào Nhật Bản. Nhưng đến thời Ðại sư Tối Trừng, thì Ngài bỏ giới Tiểu thừa, chỉ dùng giới Ðại Thừa mà thôi gọi là viên đốn giới (hay Viên giới). Tông Thiên Thai (tendai) và các lưu phái khác ở Nhật, đều theo lập trường đó của Ngài Tối Trừng. Tông Tào Ðộng của sư Ðạo Nguyên lập ra 16 giới gọi là Bồ tát giới, gồm Tam quy giới, Tam tụ tịnh giới và thập trọng cấm giới. Cái khác của Ðạo Nguyên là xem thọ Tam quy là giới. Còn Tam tụ tịnh giới (ba nhóm giới thanh tịnh) và thập trọng cấm giới thì giống như trên. Tông Lâm Tế ở Nhật cũng theo lập trường này của Tào Ðộng.
V.2. ÐỊNH HỌC Nghĩa của từ Ðịnh: Ðịnh nghĩa là tâm không tán loạn, là nhất tâm. Bốn cảnh giới định của Phật giáo Nguyên thủy: Phật giáo Nguyên thủy nói về 4 cảnh giới định (gọi là bốn cấp thiền) như sau:
Các loại định: định là tâm an tịnh, thống nhất. Người còn ở Dục giới, thành tựu được tâm định tạm thời gọi là Dục giới định. Các cảnh giới định ở sắc giới và Vô sắc giới mới gọi là Căn bổn định. Cần nhắc lại ở đây các khái niệm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Dục giới: (S. Kama dhatu) là cõi sống trong đó cảm quan có nhiều dục vọng, hướng tới sắc, thinh, hương, vị, xúc pháp, tức sáu ngoại trần. Sắc giới (S. Rupa dhatu): là cõi sống mà dục vọng của cảm quan không còn nữa, nhưng thân vật chất vẫn còn. Chúng sanh ở đây, luôn ở trong trạng thái thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền. Vô sắc giới (S. Arupa dhatu): là cõi sống ở đây chúng sanh không còn có thân vật chất nữa mà chỉ sống cuộc sống thuần túy tinh thần mà thôi. Cũng như Sắc giới, Vô sắc giới có 4 cấp thiền, gọi theo thứ tự từ thấp đến cao:
Các thuật ngữ liên quan tới Ðịnh học: Samadhi dịch là Ðịnh: định ý; tam muội; tam ma địa; đẳng trì; chánh thọ Dhyana, jhana: Hán dịch là Thiền: thiền na; tĩnh lự; Tư duy tu Samapati: Hán dịch là Ðịnh, tam ma bát đề, đẳng chí Samatha: Hán dịch là chỉ, xamatha. S. Cittankragrata, P. Cittegaggata: Hán dịch là tâm chuyên một cảnh. Yoga: Hán dịch âm Du già. Samadhi: là danh từ chung nhứt, bao gồm các loại định thế gian hữn lậu, cũng như xuất thế vô lậu hữu tâm dịnh, vô tâm định, toàn là các định trong ba giới. Dhyana: chỉ loại định của sắc giới mà thôi, không có định của Dục giới, và của Vô sắc giới. Samapatti: là loại định của riêng Sắc giới, và Vô sắc giới không bao hàm định Dục giới. Như vậy, nó bao gồm 9 cấp định từ Sơ thiền sắc giới cho tới Tứ thiền Vô sắc giới, kể cả diệt thọ tưởng định. Gọi chung tất cả là Cửu thứ đệ định (chín cấp định xếp theo thứ tự từ thấp tới cao). Samatha: hay dùng đồng thời với Vipasvana, vipassana (quán Tỳ bát xá na). Samatha là chỉ, Samatha vipassana là chỉ quán. Chỉ là nội tâm vắng lặng, Quán là quan sát. Dùng hai từ chỉ quán là muốn nói hai môn định học và tuệ học cần phát triển cân bằng. Yoga: là từ ngưõ có trước Phật giáo, cũng chỉ cảnh giới nội tâm thống nhứt. Phật giáo cũng dùng từ Yoga (Du già) trong các khái niệm như Du già hạnh, Du già sư, bộ phái Du già (yogacara) cũng gọi bộ phái Duy Thức. Samahita: Hán dịch âm Tam ma sất da, Hán dịch nghĩa Ðẳng dẫn, nhập định. Samapanna: Hán dịch âm Tam ma bác ra, dịch nghĩa căn bổn định. Hiện pháp lạc trú: S. drstadhanoma-suk-havihara; P. dittha-dhamma-sukhavihara. Năm loại thiền: Ðời nhà Ðường ở Trung Quốc, các thiền sư Khuê Phong, Tôn Mật, phân biệt có năm loại thiền là:
Và kết luận là Như Lai thiền và Tổ Sư thiền đều bao hàm có yếu tố giác ngộ tối cao.
Các phương pháp tu tập thiền định: Về phương pháp tu tập thiền định, kinh sách Phật giáo Nguyên thủy, cũng như các sách luận của Phật giáo bộ phái đều có ghi chép khá cụ thể. Bốn mươi nghiệp xứ: Kinh sách Pali nói tới 40 tối tượng quán, có tác dụng dẫn tới định tâm, gọi là 40 nghiệp xứ (kammatthana), chia làm:
Quan hệ giữa tính cách con người và các đối tượng quán nghiệp xứ: Tính cách người gồm có:
Người bản tính tham nên chọn các pháp quán 10 tướng bất tịnh, quán thân bất tịnh. Người bản tính sân, chọn phép quán bốn vô lượng tâm, bốn sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Người bản tính si và tán loạn, chọn các phép quán theo dõi hơi thở vào ra, (sổ tức quán). Người bản tính giàu đức tin, chọn phép quán niệm Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, cõi Trời. Người bản tính thiên lý trí, chọn các phép quán niệm chết, niệm chán thức ăn, niệm giới sai biệt. Ngoài ra, còn có các phép quán, thích hợp với mọi tính cách, như quán về bốn cấp thiền Vô sắc, quán các biến xứ địa, thủy, hỏa phong. Năm phép quán định tâm và ngũ môn thiền: Phép quán Ngũ đình taâm, là phép quán của Hữu bộ được chỉnh lý từ các phép quán đã được nói trong kinh sách Nguyên thủy.
Hai mươi lăm phuơng tiện: (chuẩn bị cho tu thiền định) Tông Thiên Thai cho rằng, để chuẩn bị cho việc tu thiền có kết quả, cần có đầy đủ: 1/ Năm duyên:
2/ Bỏ năm dục (vọng) - Sắc 3/ Bỏ năm triền cái (tức năm cái ngăn che vưóng mắc)
4/ Ðiều hòa năm sự:
5/ Thực hành năm pháp
Mục đích tu tập thiền định: Phật giáo Nguyên thủy nói tới năm công đức của việc tu tập thiền định:
Kinh A Hàm có nói tới 10 công đức của người tu tập phép quán Tứ vô lượng tâm: (tức là bốn tâm vô lượng từ bi hỉ xả)
Các phép tu từ định vào tuệ: Các kinh A Hàm nói đến các phép tu:
V.3. TUỆ HỌC 1. Các loại Trí tuệ - các từ ngưõ: Mục đích cuối cùng của Phật Pháp là có được sự giác ngộ bằng trí tuệ. Vì vậy, nên dù là Tam học (ba môn học), hay thập vô học pháp (10 pháp dẫn tới quả vô học) tức quả A la Hán, sáu pháp Ba la Mật, đều xem trí tuệ là thành quả cuối cùng. Nhưng có nhiều loại trí tuệ. Có trí tuệ hữu lậu, và trí tuệ ở Dục giới, có trí tuệ sơ bộ chứng ngộ, có trí tuệ của A la Hán, có trí tuệ của Bích Chi Phật, có trí tuệ của Bồ tát và cuối cùng là trí tuệ tối cao của Phật. Cổ ngữ Sanskrit, Pàli và dịch ngữ chữ Hán có nhiều từ ngữ tương đương với trí tuệ: (xếp theo thứ tự sanskrit, Pàli, Hán)
Ngoài ra, còn có những từ ví dụ để nói trí tuệ:
Với sự thể nghiệm cụ thể của trí tuệ, chúng ta có các từ ngữ
2. Tuệ và trí: Các từ được dùng nhiều nhất là prajna, panna mà Hán dịch đều là trí tuệ. Nhưng Huyền Trang dịch Prajna (panna) là tuệ và dịch Jnana (nyana) là trí. Tuệ: ý nghĩa của tuệ rất rộng. Theo văn chương A Tỳ Ðàm thì tuệ có các nghĩa từ thấp đến cao như biết thế nào là thiện là ác; tuệ hữu lậu của phàm phu (gọi là liệt tuệ) và tuệ siêu việt vô lậu của hàng Thánh... và trí tuệ Ba la Mật được hiểu như là trí tuệ toàn thiện, đầy đủ của các Ðức Phật. Trí: jnana, nyana, được dùng để chỉ trí tuệ đã khai ngộ, do đó mà có các khái niện tận trí (trí tuệ cùng cực, rốt ráo). Vô sinh trí, (trí tuệ chứng được lyù vô sinh) chánh trí. Trí ba la mật là trí tuệ tối cao của Bồ tát thập địa, tức là Bồ tát sắp thành Phật. Sách Duy thức nói tới 5 trí của vị Bồ tát đã chứng ngộ:
Có sách Phật phân biệt ba trí là:
Tuy nhiên, cũng có sách dùng từ trí không khác gì từ tuệ nghĩa là gồm cả hữu lậu và vô lậu. Như Luận Câu Xá nói về mười trí:
Trong 10 trí nói trên, trừ thế tục trí ra, còn tất cả đều là vô lậu trí. Nếu thêm vào Như thực trí, thì chúng ta có 11 trí của pháp tướng tông Duy thức. Trong số này "như thật trí" là trí tuệ hữu lậu cao nhứt của hàng phàm phu. Có sách phân biệt bốn tuệ là:
Giải thích các từ đồng nghĩa với tuệ: 1. Minh vidya, Giác Budhi, Tuệ medha, Quang Bhùri, Nhãn (con mắt) quang minh, (từ minh dùng trong thành ngữ minh hạnh tức là bậc Thánh có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh, tức Phật). 2. Kiến: Darsana, tri kiến, chánh tri kiến, (trong Bát chánh đạo). 3. Quán: Vipasjana. Dùng trong hợp từ chỉ quán. Tùy quán anupasyana (tức là trí tuệ quán sát trong bốn niệm xứ), biến tri, pari-jna, và chứng trí abhijna tức phép thần thông. 4. Liễu tri: ajna, là trí tuệ dựa vào pháp nhãn mà sơ bộ chứng ngộ.
5. Quán: mimamsa, có nghĩa "tuệ giải" trong bốn thần túc và trong phép quán nhơn duyên. Ý tứ không khác gì lắm với quán Vipasyana. 6. Trạch pháp: Dhamma-vicaya, là một giác chi trong bảy giác chi, tức là trí tuệ khéo chọn lựa, nhận biết đúng sai, phải trái. 7. Vô ngại giải: cũng gọi là Vô ngại trí, vô ngại biện, tức là trí tuệ thấy hết, biết hết của Phật, không có gì có thể gây trở ngại được Ðức Phật có trí tuệ vô ngại đối với Pháp (hết thảy mọi pháp), từ (mọi từ ngữ), nghĩa (mọi ý nghĩa), biện (có khả năng biện thuyết về mọi vấn đề với mọi người), đó là bốn biện giải voâ ngại của Phật. 8. Bồ đề: S. Bodhi (giác, đạo) hay tam Bồ đề (sambodhi) Hán dịch nghĩa chánh giác, là sự thể hội trực tiếp đối với chân lý. Tác dụng của trí tuệ: Sách Phật phân biệt có hai loại trí tuệ: "Phân biệt trí và Vô phân biệt trí":
Với trí tuệ Vô phân biệt, bậc Thánh thấy "sắc tức là không" (sắc tức thị không) thấy các pháp là vô ngã, bậc Thánh chứng ngộ đạo lý sâu sắc, vi diệu đó, cho nên đạt tới trình độ tự tại vô ngại đối với mọi pháp. Nhưng bậc Thánh không dừng ở đấy. Ðể cứu vớt chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, các Ngài mở lòng đại bi để cứu độ chúng sanh. Các Ngài dùng trí tuệ tối cao để phân biệt căn cơ hoàn cảnh của mỗi chúng sinh. Trí tuệ này lại là trí tuệ (có) phân biệt (phân biệt trí), nhưng là một phân biệt trí thành tựu được trên cơ sở vô phân biệt trí, vì vậy mà gọi là phân biệt hậu đắc trí. -ooOoo- |
Chân thành cám ơn anh Hồ Trung Mỹ đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 02-2002)
[Trở
về trang Thư Mục]
updated: 25-02-2002