-[03]-
Phụ lục của phần B:
B.1 Kinh hạt muối:
Phật nói:
– Ví như này, hỡi các
Tỳ Kheo có người bỏ một nhúm muối vào một chén nước
nhỏ, này các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào, nước
trong chén nhỏ có vì nhúm muối nhỏ này mà trở thành mặn
và không uống được hay không?
– Thưa có vậy, Bạch
Thế Tôn!
– Vì cớ sao?
– Bạch Thế Tôn, vì
nước trong chén quá ít, nhúm muối làm cho nó trở thành
mặn, không uống được.
– Này các Tỳ Kheo, ví
như có một người bỏ một nhúm muối như vậy vào sông
Hằng, hỡi các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào? Nước sông
Hằng có vì nhúm muối đó mà trở thành không uống đuợc
hay không?
– Thưa không, Bạch
Thế Tôn.
– Vì cớ sao?
– Bạch Thế Tôn vì lượng
nước sông Hằng lớn, cho nên không bị mặn và vẫn có
thể uống được.
Cũng vậy, này các Tỳ
Kheo! Ở đây có người làm việc ác nhỏ mọn, khiến người
ấy chịu khổ não. Lại này nữa các Tỳ Kheo, có người cũng
làm một việc nhỏ như vậy, nhưng ngay trong đời sống
hiện tại, cũng đền bù hết rồi, ngay một ít quả báo
nhỏ cũng không còn lại ở đời sau, hà huống là quả báo
lớn...
Như vậy, này các Tỳ
Kheo! Có người không tu tập thân, không giữ giới luật, không
tu tập tâm, không tu tập huệ, ít thiện, ít đức, hằng ngày
sống khổ, người như thế, dù phạm một tội ác nhỏ cũng
làm nó khổ sở vô cùng.
Như vậy, này các Tỳ
Kheo! Lại như có người có tu tập thân, giữ gìn giới
luật, có tu tập tâm, tu tập tuệ, làm nhiều điều thiện,
sinh hoạt thoải mái, người ấy dù có phạm một tội ác
nhỏ, thì ngay trong cuộc sống hiện tại, cũng đủ đền bù
hết, dù một quả báo nhỏ cũng không phải chịu trong đời
sống sau, huống hồ là quả báo lớn.
Này các Tỳ Kheo! Ví như
có người vì bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền,
100 đồng tiền mà phải vào tù. Lại có một người cũng
bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, hay 100 đồng
tiền nhưng không phải vào tù.
Này các Tỳ Kheo! Bị
phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà
phải vào tù là ai đó?
Này các Tỳ Kheo! Người
nào bần cùng, người đó không đủ sống, cho nên chỉ vì
bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng
tiền mà phải vào tù.
Này các Tỳ Kheo! Bị
phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà
không phải vào tù, là ai vậy? Này các Tỳ Kheo! Người giàu
có, tiền của dư dật, thì dù bị phạt nửa đồng tiền,
một đồng đến 100 đồng tiền (anh ta nộp phạt dễ dàng),
cũng không phải vào tù.
Như vậy, này các Tỳ
Kheo, có một người phạm một chút ác nhỏ mà khỗ não.
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, có một người cũng phạm một
chút ác nhỏ như vậy, nhưng trong cuộc sống hiện tại cũng
đủ đền bù rồi, không còn chịu quả báo ở đời sau, dù
là nhỏ, chứ đừng nói gì một quả báo lớn.
(Tăng Nhứt A Hàm -
bản Hán)
(Tham khảo thêm bản dịch từ Pàli trong Tăng Chi I, Kinh Pàli,
trang 284-290)
B.2 Hoặc duyên với
nghiệp mà tạo ra sanh tử, sầu, bi khổ não
DUYÊN KHỞI
Từ Pàli là
Pratiya-samutpada, từ Sanskrit là Paticca-samuppada. Nghĩa là y duyên
mà sanh khởi lên. Duyeân là nhân duyên, cũng như hiện nay nói
điều kiện. Theo đạo Phật, tất cả mọi hiện tượng,
sự vật ở thế gian này sở dĩ tồn tại như vậy diễn
biến như vậy là do có những điều kiện nhứt định.
Trong sách Phật, thường
có những câu hay đoạn câu: mọi pháp đều nhơn duyên sanh,
đều có tính duyên khởi, đều là y tha khởi; ý nói, mọi
pháp (tức mọi sự vật, mọi hiện tượng và quá trình)
trong thế gian này không thể tự mình tồn tại được mà
dựa vào nhiều nhơn, nhiều duyên để tồn tại. Từ y tha
nghĩa là dựa vào y vào nhân duyên.
Mọi sự vật ở thế
gian này đều biến động vô thường, nhưng sự biến động
vô thường ấy không phải là tự nhiên, hay ngẫu nhiên mà
theo quy luật, tức là quy luật nhơn duyên sinh. Ðó là một
sự biến động có điều kiện (nhơn duyên).
Bậc Thánh giác ngộ là
giác ngộ về những điều kiện diễn biến của sự vật,
hiện tượng và quá trình trên thế gian này. Bậc Thánh
chỉ bày cho chúng ta thấy rõ những điều kiện ấy, để
chúng ta có thể chủ động đối với chúng, chi phối chúng,
thay vì để chúng chi phối ta, sai sử chúng ta.
Ý nghĩa cơ bản của
duyên khởi:
Ý nghĩa cơ bản của
duyên khởi ở trong câu:
"Cái này có cho nên
cái kia có,
Cái nàysinh, cho nên cái kia sinh,
Cái này không có cho nên cái kia không có,
Cái này diệt cho nên cái kia diệt".
Hay là trong câu:
"Các pháp do nhơn
duyên sinh mà sinh, cũng do nhơn duyên diệt mà diệt".
Thuyết duyên khởi có
tầm quan trọng hàng đầu đối với Phật Pháp cho nên có
đoạn kinh đồng nhứt thuyết duyên khởi với Phật Pháp:
"Thấy Phật Pháp tức là thấy duyên khởi, thấy duyên
khởi tức là thấy Phật Pháp".
Thuyết duyên khởi dù
là Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo Ðại thừa, Phật
giáo Ấn Ðộ hay Phật Giáo Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam,
được xem như tư tưởng cơ bản của Phật giáo, là chủ
thuyết khu biệt Phật giáo với các tín ngưỡng khác, hệ tư
tưởng khác.
Thuyết duyên khởi nói
chung và thuyết duyên khởi giá trị:
Quan hệ duyên khởi là
quan hệ thời gian, không gian và quan hệ logic của mọi
hiện tượng, sự vật trong thế giới, vũ trụ. Phật giáo,
khi khảo sát những mối quan hệ đó, không ở ngoài mục đích
tìm hiểu ý nghĩa cứu kính của nhơn sinh, nhằm trả lời câu
hỏi: "Vì sao con người lại tồn tại trên thế gian này,
vì sao con người phải già, bịnh và chết, chịu nhiều đau
khổ? Khi nói thuyết duyên khởi giá trị là nói thuyết Duyên
khởi nhằm tìm hiểu giá trị của nhân sanh, cũng gọi là
thuyết Nội duyên khởi.
Còn thuyết Duyên khởi
nói chung có tính chất bao trùm hơn, phổ quát hơn. Nó không
những áp dụngcho vấn đề nhân sinh, mà cả cho toàn bộ
hiện tượng, sự vật và quá trình xảy ra trên thế gian và
trong vũ trụ này. Ðịnh đề cơ bản của nó, như đã nói
trên là:
Cái này có thì cái
kia có,
Cái này sinh thì cái kia sinh,
Cái này không có thì cái kia không có,
Cái này diệt thì cái kia diệt...
Tính phức tạp của
thuyết duyên khởi (giá trị)
Quan hệ duyên khởi vô
cùng phức tạp. Theo quan điểm Phật giáo, mỗi con người,
ngay sau khi lọt lòng mẹ, đã là một tổng hòa của toàn
bộ kinh nghiệm quá khứ mà con người đã trải qua trong
nhiều cuộc sống trước. Những kinh nghiệm đó không có
mất đi với thời gian, mà lưu lại dấu vết trong thức A
lại gia của con người đó, từ đời này sang đời khác.
Rồi sau khi lọt lòng mẹ, con người chịu sự tác động
của gia đình, trường học, xã hội... Tất cả những kinh
nghiệm tiếp xúc đó cũng không mất đi, mà vẫn tích lủy
tiếp tục trong thức A lại gia của con người đó, tạo ra
cái gọi là nhân cách của con người đó.
Con người sống trong
một hoàn cảnh, một môi trường nhứt định, con người
chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, đồng thời cũng ảnh hưởng
trở lại hoàn cảnh. Ðiều này đúng không những đối
với mặt đạo đức, mà cả về các mặt như thức ăn, đồ
uống, đồ mặc, nơi ở... Qua phân tích kinh tế, chúng ta
thấy rất rõ, cuộc sống dù là rất bình thường của
một cá nhân chỉ có thể tồn tại và tiếp tục, với sự
hỗ trợ của biết bao điều kiện, nào nguyên liệu, nhiên
liệu, công lao động, vận tải, không những trong nước mà
cả ngoài nước nữa. Ðể có một gói mì ăn liền, phải có
nguyên liệu bột mì nhập, có cả một nhà máy kéo mì
sợi, bột gia vị, giấy bao bì, phương tiện vận tải để
chuyển những gói mì thành phẩm đến người tiêu thụ, thông
qua một mạng lưới cửa hàng bán buôn, bán lẻ rải rác
khắp cả nước, không kể chi phí quaûng cáo và một loạt
các chi phí khác có liên quan. Ðó là nói chuyện một gói mì
ăn buổi sáng, giá bán không tới một nghìn. Cuộc sống hàng
ngày của chúng ta còn cần bao nhiêu thứ khác còn phức
tạp hơn.
Trong lãnh vực văn hóa
giáo dục, các mối quan hệ chằng chịt, đan chen lại càng
phức tạp hơn: quan hệ truyền thống văn hóa quá khứ ở
trong nước và quốc tế, quan hệ với các ngành giáo dục,
in ấn, tuyên truyền, xuất bản...
Có thể nói sự tồn
tại và phát triển của bản thân chúng ta có liên quan mật
thiết và phức tạp với quá khứ , với xã hội và thế
giới. Ðó chính là chủ thuyết pháp giới trùng trùng duyên
khởi của Tôn Hoa Nghiêm nổi tiếng. Nó cụ thể hóa quan điểm
Phật giáo: "Một là tất cả, tất cả là một"
(nhứt túc nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt).
Biểu minh học thuyết
duyên khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị
* Thuyết duyên khởi nói
chung:
Cái này sinh thì cái
kia sinh: quan hệ thời gian
Cái này diệt thì cái kia diệt (các hạnh vô thường)
Cái này có thì cái kia có: quan hệ không gian logic
Cái này không có thì cái kia không có
* Thuyết duyên khởi giá
trị: Cũng gọi là nội
duyên khởi (12 nhơn duyên và bốn đế)
Duyên vô minh, có hành
(khổ quả)
Duyên hành có thức lưu chuyển (tất cả các hành là khổ
[nhân] tập)
Duyên sanh có già chết... với tất cả mọi khổ não kèm
theo.
Vô minh diệt cho nên hành diệt
Hành diệt nên thức diệt (Diệt [quả] Niết bàn vắng
lặng)
Sanh bị diệt cho nên già chết cũng diệt: (Ðạo [nhân])
Qua biểu trên, thấy:
Vế "cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái
kia diệt"... nói lên quan hệ thời gian trước sau. Còn,
vế: "cái này có thì cái kia có, cái này khỏng có thì
cái kia không có", nói lên quan hệ không gian và quan hệ
logic.
"Các hành đều là
khổ" nói lên mặt trái của giá trị, mặt mê vọng luân
hồi. "Niết bàn vắng lặng", nói lên mặt phải,
mặt chính diện của giá trị, mặt giác ngộ và an lạc.
Các câu "duyên vô
minh có hành, duyên hành có thức... duyên sanh, có già
chết..." đó là chuỗi duyên khởi của mê vọng luân
hồi.
Các câu "vô minh
diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức
diệt..." là chuỗi duyên khởi của giác ngộ và giải
thoát.
Trong bốn đế thì hai
đế khổ và tập là quan hệ nhơn quả dẫn tới lưu
chuyển trong vòng mê vọng luân hồi. Hai đế diệt và đạo
là quan hệ nhơn quả dẫn tới giác ngộ và giải thoát. Do
dó, bốn đế eũng thuộc phạm vi thuyết duyên khởi: lưu
chuyển duyên khởi và giải thoát duyên khởi.
Thuyết 12 nhơn duyên:
Trong kinh Nguyên thủy
thuộc văn hệ Pàli, có đoạn văn giới thiệu 12 nhơn duyên
như sau:
"Này các tỷ
kheo! Thế nào là duyên khởi? Này các tỷ kheo! Duyên vô
minh mà có hành, duyên hành mà có thức, duyên thức mà có
danh sắc, duyên danh sảc mà có sáu xứ, duyên sáu xứ mà
có xác, duyên xúc mà có thọ, duyên thọ mà có ai, duyên
ái mà có thủ, duyên thủ mà có hữu, duyên hữu mà có
sinh, duyên sinh mà có già chết, sầu bi khổ não sinh ra. Như
vậy, là duyên khởi của tất cả mọi đau khổ.
Ngược lại, vô minh
diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt,
thức diệt cho nên danh sắc diệt... sáu xứ... xác...
thọ.. ái... thủ... hữu... Hữu diệt nên sinh diệt sinh
diệt nên già chết, và mọi sầu bi khổ não đều diệt.
Như vậy, tất cả mọi đau khổ đều diệt."
Trong 12 chi nhơn duyên,
hai chi đầu vô minh và hành thuộc về nhân của thời quá
khứ, năm chi thức danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, là năm
quả thuộc thời hiện đại. Ðó là lớp nhơn quả quá
khứ và hiện tại (hai nhơn quả quá khứ và năm quả hiện
tại).
Ái, thủ, hữu là ba nhân
thuộc thời hiện tại. Sinh và già chết là hai quả thuộc
thời vị lai. Ðó là một lớp nhân quả nữa: ba nhân hiện
tai và hai quả vị lai. Ðó là lớp nhân quả thứ hai hiện
tại và vị lai.
Biểu sau đây minh họa
hai lớp nhân quả quá khứ hiện tại và hiện tại vị lai
như sau:
Mười hai duyên khởi
Vô minh tức là hoặc
hai nhân thời quá khứ
Hành tức là nghiệp
Thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ.... năm quả thời hiện
tại.
Trên đây là lớp nhân quả quá khứ hiện tại.
Ái thủ, hữu... Ba nhân thời hiện tại.
Sinh, già, chết... hai quả thời vị lai.
Là lớp nhân quả thứ hai: nhơn hiện tại quả vị lai.
Cho nên gọi thuyết 12
nhơn duyên gồm hai lớp nhơn quả, thuộc ba đời. Trong
biểu,
1) Vô minh tức là
phiền não thuộc đời trước;
2) Hành là các nghiệp thiện ác tạo ra trong thời quá
khứ.
3) Thức: Là dạng đầu tiên nhứt (sát na dầu tiên) của
thân năm uẩn trong thai mẹ.
4) Danh sắc: là tổ hợp thân tâm bắt đầu hình thành
trong thai mẹ, trong bốn tuần dầu tiên.
5) Sáu xứ (cũng gọi là lục nhập) là sáu căn năng. Ðến
tuần thứ năm thì bào thai đã có sáu căn đầy đủ.
6) Xúc: thai nhi lọt lòng mẹ, bắt đầu tiếp xúc với
ngoại cảnh.
7) Thọ: là cảm xúc, vui, không vui...
8) Ái: thích thú đồ vật hoặc người thuộc giới tính
khác.
9) Thủ: là vơ lấy nắm lấy làm của mình.
10) Hữu: cũng gỉống nghĩa chữ Hành, tức là tạo ra các
nghiệp thiện hay ác, dẫn tới quả vị lai.
11) và 12) Sinh và Già chết: do tạo nghiệp ở đời trước
mà sinh ra ở đời này, với cái thân sẽ già, bịnh,
chết với mọi khổ não kèm theo.
Quan niệm của phái Du
Già tức học phái Duy Thức:
Phái Du Già xem 10 chi
từ vô minh cho đến hữu là thuộc đời hiện tại. Hai chi
sau, sinh và già chết là thuộc đời vị lai. Ðó là thuyết
một lớp nhân quả trải qua hai đời.
Quan niệm của Hữu
bộ:
Phái Hữu bộ
(Sarvastivada) quan sát lý 12 nhơn duyên theo 4 loại duyên
khởi:
1/ Sát na duyên
khởi: tức trong một sát na (đơn vị thời gian
ngắn nhứt có thể tưởng tượng được) cả 12 chi nhơn
duyên cùng tồn tạỉ một cách logic.
2/ Liên phược
duyên khởi: khi quan sát 12 nhơn duyên được thể
hiện cụ thể trong thân tâm con người, hàng giờ phút
biến đổi, và cả hoạt động bình thường của con người
hằng ngày cũng dựa vào 12 nhơn duyên đó.
3/ Phân vị duyên
khởi: tức là 12 nhơn duyên chia thành hai lớp nhơn
quả trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
4/ Viên tục duyên
khởi: viễn tức là tiếp tục mãi, cho tới khi con
người chứng được Niết bàn. Chuỗi 12 nhơn duyên này
nối tiếp mãi không ngừng đời này sang đời khác cho
tới khi đương sự chứng Niết bàn, không còn luân hồi
sanh tử nữa.
Giải thích các chi
trong 12 nhơn duyên, theo kinh Nikàya Pàli và A Hàm:
1/ Vô minh: S. Avidya; P.
Avijja, tức là không biết, không hiểu đối với nhân sinh
quan và thế giới quan đúng đắn, đối với thuyết boán đế.
Trái với vô minh là mục chánh kiến trong Bát chánh đạo.
2/ Hành: S. Samskara; P.
Pankhara, tức ba hành nghiệp ý, lời nói, thân. Do vô minh mà
có hành động tạo nghiệp thiện, ác nơi ý nghĩ, lời nói
và thân. Những nghieäp thiện ác này đều lưu lại dấu
vết trong con người dưới dạng hạt giống, hình thành nhân
cách, tập quán của con người đó.
3/ Thức: S. Vijinana, P.
Vinnana, thức là tâm thức phân biệt. Kinh A Hàm khi nói về
"duyên thức mà coù danh sắc", phân biệt có: 1.
Thức nhập thai; 2. Thức trong bào thai; 3. Thức sau khi lọt
thai. Thức nhập thai kinh Pàli gọi là: Kiết sanh thứe.
4/ Danh sắc: S. và P.
Namarupa, danh là các hành tướng của tâm như thọ, tưỏng,
hành... sắc chỉ sắc thân. Cũng có sách giải thích sắc là
năm ngoại trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nhưng có thể
giải thích sắc là sắc thân thì đúng lý hơn.
5/ Sáu xứ: S.
Sad-ayatana; P. Salayatana, cũng gọi theo chữ Hán là luïc nhập
hay lục nhập xứ: Tức là sáu căn năng, qua đó, thân tâm
tiếp xúc với ngoại cảnh.
6/ Xúc: S. Aparsa; P.
Phassa, tức là sự tiếp xúc của ba yếu tố căn, cảnh, và
thức.
7/ Thọ: S. và P. Vedana,
tức là cảm thọ vui, buồn hay không vui, không buồn.
8/ Ái: S. Trsna, P. Tanha,
tức là sự thèm khát, cũng như khát thèm nước vậy. Như
thấy cảnh vui, thì thèm muốn, gặp cảnh nghịch thì xa tránh.
9/ Thủ: S. và P.
Upadana, sau khi trong tâm khởi lên lòng thèm khát, thì ở nơi
ý, lời nói và thân, cũng khởi lên hành vi cụ thể bám
lấy, vơ lấy, và đó chính là tạo nghiệp.
Có thể phân biệt có:
- Dục thủ: là thèm
muốn, bám vào năm đối tượng của dục vọng như sắc
đẹp, của cải, danh vọng, ăn, ngủ.
- Kiến thủ: tức là bám lấy kiến giải mà mình vốn thích
thú, dù là kiến giải sai.
- Giới cấm thủ: Tức là bám vào những giới diều vô lý,
sai trái, như một số ngoại đạo cho rằng tắm nước sông
Hằng thì được xóa sạch mọi tội lỗi, sống ép xác
khổ hạnh cũng xóa bỏ được mọi tội lỗi quá khứ.
10/ Hữu: S. và P. Bhava,
tức là sự tồn tại. Vì tạo nghiệp trong quá khứ cho nên
con người mới tồn tại, mới có thân năm uẩn, trong các cõi
sống khác nhau. Nếu ở cõi Dục giới thì gọi là Dục
hữu. Nếu là ở cõi Sắc giới thì gọi là Sắc Hữu, và
nếu ở cõi Vô sắc thì gọi là Vô Sắc hữu.
11/ Sinh: S. và P. Jati,
tức là loài hữu tình, do nghiệp tạo ra trong quá khứ mà
sanh trong các cõi sống khác nhau, thành các loại chúng sinh
khác nhau.
12/ Già chết: S. và P.
Jara-marana. Trong kinh nguyên thủy, sau già, chết còn thêm
Sầu P. soka, Bi P. parideva, Khổ P. dukkha, Não P. upayasa, Ưu P.
domanassa.
B.3 CÁC ÐOẠN TRÍCH
DẪN KINH ÐIỂN VỀ BỐN ÐẾ (liên
hệ tới chân lý về sự khổ)
Khi Phật sắp nhập
Niết bàn, Phật đã nhắc lại thuyết bốn đế:
"Này các Tỷ
Kheo, đối với thuyết bốn đế, có điều gì nghi hoặc
thì mau mau hỏi đi, đừng để còn nghi hoặc mà không
gạn hỏi... Lúc bấy giờ Thế Tôn hỏi lại ba lần mà không
ai nói cả. Vì sao như vậy? Là vì trong Tăng chúng không còn
ai nghi hoặc về thuyết bốn đề nữa. Khi ấy, Tôn giả A
nâu Lâu Ðà (Anurrudha), quan sát tâm tư trong chúng, thấy như
vậy bèn bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, mặt trăng có
thể nóng lên, mặt trời có thể lạnh đi, còn Thế Tôn
giảng bốn Chân lý thì không bao giờ đổi khaùc được,
Thế Tôn nói chơn lý về sự khổ thì thực là khổ, khổ
không thể biến thành vui được. Tập đế là nhân của
khổ, không thể có nhân khác. Nếu khổ diệt tức là nhân
diệt. Nhân diệt cho nên quả diệt. Ðạo diệt khổ là đạo
chân chính. Không còn có đạo khác. Bạch Thế Tôn, trong Tăng
chúng, tâm tư đối với bốn đế đã quyết định, không
còn nghi hoặc điều gì nữa." (Kinh Di giáo bản
dịch của Cưu Ma La Thập)
Trích kinh Hỏa Dụ: (Phật
nói mọi sự vật trong thế gian đều như bốc lửa).
"Thời bấy giờ,
đức Thế Tôn sau khi ở lại Uruvela một thời gian đủ
thỏa thích bèn lên dường đi Gaya (Già da). Ði theo Phật,
có một nghìn Tỷ Kheo, trước đây vốn là du sĩ ngoại đạo
bện tóc, theo Kỳ Na giáo. Sau khi đến Tinh Xá Tượng Ðầu
(Gaya head), Phật nói với đại chúng Tỷ Kheo rằng: Này các
Tỷ Kheo! Tất cả trong thế gian đều đang bốc cháy! Này
các Tỷ Kheo, con mắt đang bốc cháy, nhãn thức đang bốc
cháy, sắc cảnh mà nhãn thức nắm bắt đang bốc cháy,
tất cả mọi cảm thọ do thấy sắc khởi lên, dù vui hay
buồn, hay không vui không buồn, đều đang bốc cháy. Chúng
bốc cháy như thế nào? Chúng bốc cháy do lửa tham, lửa sân,
lưûa si và cùng với sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ,
não, đồng thời bốc cháy...
(Ðối với tai, mũi,
lưỡi, thân, Phật cũng phân tích như vậy và Phật tiếp
lời)...
Và vị đệ tử có
chánh kiến như vậy, bèn sanh tâm nhàm chán đối với
mắt, sắc pháp, nhãn thức, mọi cảm thọ sanh ra từ nhãn
thức, sanh tâm nhàm chán đối với tai, âm thanh, nhĩ
thức, với mũi, mùi vị, tị thức... nhờ nhàm chán mà
vị đệ tử đoạn trừ được tham dục, đạt được
tự do và giải thoát..."
Trích kinh Lăng Nghiêm: Một
đoạn trong kinh Lăng Nghiêm, dẫn lời của vua Ba Tư Nặc
(Pasenadi):
"Bạch Thế Tôn,
con xưa còn nhỏ, da dẻ mượt mà, lúc lớn lên huyết khí
sung mãn, mà nay đã già trở thành suy yếu, thân hình khô
héo tiều tụy, tinh thần u ám, tóc bạc da nhãn, chắc là...
không còn thọ được bao lâu nữa. Làm sao có thể so sánh
dược với thời trai tráng? Sự thay đổi là dần dần,
thực ra con không thể nào cảm giác được, mùa qua tháng
lại, dẫn tới tình trạng ngày nay. Cớ vì sao? Năm con hai
mươi tuổi, tuy gọi là còn nhỏ, nhưng dung nhan đã có già
đi so với hồi 10 tuổi, đến năm 30 tuổi lại già đi so
với tuổi 20. Năm nay, con sáu mươi tuổi, nếu ngó lại cách
đây 10 năm thì lúc đó con còn cường tráng. Bạch Thế Tôn,
con thấy sự thay đổi không chỉ hạn chế trong 10 năm.
Nếu suy nghĩ kỹ, thì sự thay đổi không phải hạn chế
trong một kỷ hay hai kỷ, mà sự thay đổi đó diễn ra hàng
năm, mà không phải từng năm mà từng tháng đã có thay đổi.
Mà không phải từng tháng có thay đổi, mà là từng ngày.
Thậm chí nếu xét kỹ, thì sự thay đổi đó chưa từng
nghỉ dừng, dù là trong từng sát na, trong tưøng niệm. Vì
vậy con biết thân của con, cuối cùng sẽ phải biến
diệt!..."
Trích Kinh Niết Bàn: Kinh
Niết Bàn có đoạn nói lên đặc điểm của nhân sanh, vui và
buồn, lạc và khổ đi kèm với nhau như bóng với hình:
"Có hai chị em,
người chị cực kỳ xinh đẹp, dễ thương, đi dến đâu
cũng đem lại sự phát đạt, phồn vinh giàu có, và được
mọi người hoan nghinh, tiếp đón, giữ lại không cho đi nơi
khác. Nhưng người em, thì trái lại cực kỳ xấu xí, đi
đến đaâu cũng gieo rắc tai họa, sự phá sản và tử
vong, cho nên mọi người đều ghét bỏ, cự tuyệt không
cho đến. Nhưng người chị nói: "Tôi và em tôi, đi đâu
cùng đi với nhau, không bao giờ rời xa nhau".....
Ở đâu tôi cũng làm
điều lành, em tôi thì làm điều ác, tôi đem lại niềm
vui, em tôi thì gây đau khổ. Mọi người nếu yêu tôi, thì
cũng phải đừng ghét em tôi....
Nhân sinh là như
vậy. Có vui có buồn, có sướng có khổ, có vinh có
nhục. Cho nên, Phật dạy rằng, trong thế gian này, con người
không thể hưởng được niềm vui thường tại, không
thể có tự ngã biệt lập không thể có dung sắc đẹp mãi
mãi không bị tàn phai. Vì chúng sinh si mê cho nên lấy
buồn làm vui, lấy caùi vô ngã làm ngã, lấy vô thường làm
thường, lấy cái không thanh tịnh làm thanh tịnh, Phật
gọi đó là thấy điên đảo."
Có lần, Phật dạy các đệ tử:
"Này các Tỷ
Kheo! Các người hãy nghĩ xem, nước trong bốn biển là
nhiều, hay là từ vô thỉ đến nay, lăn lộn mãi trong vòng
sanh tử, nước mắt của các người đổ xuống trong ngày
tháng đêm dài là nhiều? Này các Tỷ Kheo! Các người
trong một thời gian dài, đã biết bao lần, các người
chịu đựng nỗi thống khổ mất cha, mất mẹ, đã bao
lần các người chịu nỗi thống khổ mất con, mất anh
em, mất chị em. Ðã biết bao lần, chịu nỗi thống khổ
mất tài sản, nỗi thống khổ bịnh tật triền miên.
Biết bao lần, các người phải chịu noãi thống khổ xa
người mình yêu, gần người mình ghét. Ðúng như vậy
một điểm cũng không sai, đã bao nhiêu lần, các người
đã chịu những nổi thống khổ như vậy mà phải khóc và
chảy nước mắt. Lượng nước mắt đổ ra thực là nhieàu
hơn nước của bốn biển cộng lại. Này các Tỷ Kheo
trong một thời gian dài, các người đã chịu đựng
những nỗi thống khổ, sầu bi, khổ não, như vậy, chịu
đựng bao nhiêu bất hạnh, bao nhiêu đã kích, bao nhiêu dày
vò... thây xác, xương cốt các người lấp đầy mồ mả.
Các người chịu khổ như vậy đã đủ lắm rồi. Ðã đến
lúc, các người nhàm chán thế gian này, đã đến lúc các
người phải nổ lực thoát khỏi nỗi khổ của sanh
tử....
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02 |
03 | 04 | 05 | 06 |