| 
         -[03]- 
        
        Phụ lục của phần B: 
        
        B.1 Kinh hạt muối: 
        
        Phật nói: 
        – Ví như này, hỡi các 
        Tỳ Kheo có người bỏ một nhúm muối vào một chén nước 
        nhỏ, này các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào, nước 
        trong chén nhỏ có vì nhúm muối nhỏ này mà trở thành mặn 
        và không uống được hay không? 
        – Thưa có vậy, Bạch 
        Thế Tôn! 
        – Vì cớ sao? 
        – Bạch Thế Tôn, vì 
        nước trong chén quá ít, nhúm muối làm cho nó trở thành 
        mặn, không uống được. 
        – Này các Tỳ Kheo, ví 
        như có một người bỏ một nhúm muối như vậy vào sông 
        Hằng, hỡi các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào? Nước sông 
        Hằng có vì nhúm muối đó mà trở thành không uống đuợc 
        hay không? 
        – Thưa không, Bạch 
        Thế Tôn. 
        – Vì cớ sao? 
        – Bạch Thế Tôn vì lượng 
        nước sông Hằng lớn, cho nên không bị mặn và vẫn có 
        thể uống được. 
        Cũng vậy, này các Tỳ 
        Kheo! Ở đây có người làm việc ác nhỏ mọn, khiến người 
        ấy chịu khổ não. Lại này nữa các Tỳ Kheo, có người cũng 
        làm một việc nhỏ như vậy, nhưng ngay trong đời sống 
        hiện tại, cũng đền bù hết rồi, ngay một ít quả báo 
        nhỏ cũng không còn lại ở đời sau, hà huống là quả báo 
        lớn... 
        Như vậy, này các Tỳ 
        Kheo! Có người không tu tập thân, không giữ giới luật, không 
        tu tập tâm, không tu tập huệ, ít thiện, ít đức, hằng ngày 
        sống khổ, người như thế, dù phạm một tội ác nhỏ cũng 
        làm nó khổ sở vô cùng. 
        Như vậy, này các Tỳ 
        Kheo! Lại như có người có tu tập thân, giữ gìn giới 
        luật, có tu tập tâm, tu tập tuệ, làm nhiều điều thiện, 
        sinh hoạt thoải mái, người ấy dù có phạm một tội ác 
        nhỏ, thì ngay trong cuộc sống hiện tại, cũng đủ đền bù 
        hết, dù một quả báo nhỏ cũng không phải chịu trong đời 
        sống sau, huống hồ là quả báo lớn. 
        Này các Tỳ Kheo! Ví như 
        có người vì bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 
        100 đồng tiền mà phải vào tù. Lại có một người cũng 
        bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, hay 100 đồng 
        tiền nhưng không phải vào tù. 
        Này các Tỳ Kheo! Bị 
        phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà 
        phải vào tù là ai đó? 
        Này các Tỳ Kheo! Người 
        nào bần cùng, người đó không đủ sống, cho nên chỉ vì 
        bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng 
        tiền mà phải vào tù. 
        Này các Tỳ Kheo! Bị 
        phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà 
        không phải vào tù, là ai vậy? Này các Tỳ Kheo! Người giàu 
        có, tiền của dư dật, thì dù bị phạt nửa đồng tiền, 
        một đồng đến 100 đồng tiền (anh ta nộp phạt dễ dàng), 
        cũng không phải vào tù. 
        Như vậy, này các Tỳ 
        Kheo, có một người phạm một chút ác nhỏ mà khỗ não. 
        Lại nữa, này các Tỳ Kheo, có một người cũng phạm một 
        chút ác nhỏ như vậy, nhưng trong cuộc sống hiện tại cũng 
        đủ đền bù rồi, không còn chịu quả báo ở đời sau, dù 
        là nhỏ, chứ đừng nói gì một quả báo lớn. 
        
        (Tăng Nhứt A Hàm - 
        bản Hán) 
        (Tham khảo thêm bản dịch từ Pàli trong Tăng Chi I, Kinh Pàli, 
        trang 284-290)  
        
        B.2 Hoặc duyên với 
        nghiệp mà tạo ra sanh tử, sầu, bi khổ não 
        
        DUYÊN KHỞI 
        
        Từ Pàli là 
        Pratiya-samutpada, từ Sanskrit là Paticca-samuppada. Nghĩa là y duyên 
        mà sanh khởi lên. Duyeân là nhân duyên, cũng như hiện nay nói 
        điều kiện. Theo đạo Phật, tất cả mọi hiện tượng, 
        sự vật ở thế gian này sở dĩ tồn tại như vậy diễn 
        biến như vậy là do có những điều kiện nhứt định. 
        Trong sách Phật, thường 
        có những câu hay đoạn câu: mọi pháp đều nhơn duyên sanh, 
        đều có tính duyên khởi, đều là y tha khởi; ý nói, mọi 
        pháp (tức mọi sự vật, mọi hiện tượng và quá trình) 
        trong thế gian này không thể tự mình tồn tại được mà 
        dựa vào nhiều nhơn, nhiều duyên để tồn tại. Từ y tha 
        nghĩa là dựa vào y vào nhân duyên. 
        Mọi sự vật ở thế 
        gian này đều biến động vô thường, nhưng sự biến động 
        vô thường ấy không phải là tự nhiên, hay ngẫu nhiên mà 
        theo quy luật, tức là quy luật nhơn duyên sinh. Ðó là một 
        sự biến động có điều kiện (nhơn duyên). 
        Bậc Thánh giác ngộ là 
        giác ngộ về những điều kiện diễn biến của sự vật, 
        hiện tượng và quá trình trên thế gian này. Bậc Thánh 
        chỉ bày cho chúng ta thấy rõ những điều kiện ấy, để 
        chúng ta có thể chủ động đối với chúng, chi phối chúng, 
        thay vì để chúng chi phối ta, sai sử chúng ta. 
        
        Ý nghĩa cơ bản của 
        duyên khởi: 
        
        Ý nghĩa cơ bản của 
        duyên khởi ở trong câu: 
        
          "Cái này có cho nên 
          cái kia có, 
          Cái nàysinh, cho nên cái kia sinh, 
          Cái này không có cho nên cái kia không có, 
          Cái này diệt cho nên cái kia diệt". 
         
        Hay là trong câu: 
        
          "Các pháp do nhơn 
          duyên sinh mà sinh, cũng do nhơn duyên diệt mà diệt". 
         
        Thuyết duyên khởi có 
        tầm quan trọng hàng đầu đối với Phật Pháp cho nên có 
        đoạn kinh đồng nhứt thuyết duyên khởi với Phật Pháp: 
        "Thấy Phật Pháp tức là thấy duyên khởi, thấy duyên 
        khởi tức là thấy Phật Pháp". 
        Thuyết duyên khởi dù 
        là Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo Ðại thừa, Phật 
        giáo Ấn Ðộ hay Phật Giáo Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, 
        được xem như tư tưởng cơ bản của Phật giáo, là chủ 
        thuyết khu biệt Phật giáo với các tín ngưỡng khác, hệ tư 
        tưởng khác. 
        
        Thuyết duyên khởi nói 
        chung và thuyết duyên khởi giá trị: 
        
        Quan hệ duyên khởi là 
        quan hệ thời gian, không gian và quan hệ logic của mọi 
        hiện tượng, sự vật trong thế giới, vũ trụ. Phật giáo, 
        khi khảo sát những mối quan hệ đó, không ở ngoài mục đích 
        tìm hiểu ý nghĩa cứu kính của nhơn sinh, nhằm trả lời câu 
        hỏi: "Vì sao con người lại tồn tại trên thế gian này, 
        vì sao con người phải già, bịnh và chết, chịu nhiều đau 
        khổ? Khi nói thuyết duyên khởi giá trị là nói thuyết Duyên 
        khởi nhằm tìm hiểu giá trị của nhân sanh, cũng gọi là 
        thuyết Nội duyên khởi. 
        Còn thuyết Duyên khởi 
        nói chung có tính chất bao trùm hơn, phổ quát hơn. Nó không 
        những áp dụngcho vấn đề nhân sinh, mà cả cho toàn bộ 
        hiện tượng, sự vật và quá trình xảy ra trên thế gian và 
        trong vũ trụ này. Ðịnh đề cơ bản của nó, như đã nói 
        trên là: 
        
          Cái này có thì cái 
          kia có, 
          Cái này sinh thì cái kia sinh, 
          Cái này không có thì cái kia không có, 
          Cái này diệt thì cái kia diệt... 
         
        
        Tính phức tạp của 
        thuyết duyên khởi (giá trị) 
        
        Quan hệ duyên khởi vô 
        cùng phức tạp. Theo quan điểm Phật giáo, mỗi con người, 
        ngay sau khi lọt lòng mẹ, đã là một tổng hòa của toàn 
        bộ kinh nghiệm quá khứ mà con người đã trải qua trong 
        nhiều cuộc sống trước. Những kinh nghiệm đó không có 
        mất đi với thời gian, mà lưu lại dấu vết trong thức A 
        lại gia của con người đó, từ đời này sang đời khác. 
        Rồi sau khi lọt lòng mẹ, con người chịu sự tác động 
        của gia đình, trường học, xã hội... Tất cả những kinh 
        nghiệm tiếp xúc đó cũng không mất đi, mà vẫn tích lủy 
        tiếp tục trong thức A lại gia của con người đó, tạo ra 
        cái gọi là nhân cách của con người đó. 
        Con người sống trong 
        một hoàn cảnh, một môi trường nhứt định, con người 
        chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, đồng thời cũng ảnh hưởng 
        trở lại hoàn cảnh. Ðiều này đúng không những đối 
        với mặt đạo đức, mà cả về các mặt như thức ăn, đồ 
        uống, đồ mặc, nơi ở... Qua phân tích kinh tế, chúng ta 
        thấy rất rõ, cuộc sống dù là rất bình thường của 
        một cá nhân chỉ có thể tồn tại và tiếp tục, với sự 
        hỗ trợ của biết bao điều kiện, nào nguyên liệu, nhiên 
        liệu, công lao động, vận tải, không những trong nước mà 
        cả ngoài nước nữa. Ðể có một gói mì ăn liền, phải có 
        nguyên liệu bột mì nhập, có cả một nhà máy kéo mì 
        sợi, bột gia vị, giấy bao bì, phương tiện vận tải để 
        chuyển những gói mì thành phẩm đến người tiêu thụ, thông 
        qua một mạng lưới cửa hàng bán buôn, bán lẻ rải rác 
        khắp cả nước, không kể chi phí quaûng cáo và một loạt 
        các chi phí khác có liên quan. Ðó là nói chuyện một gói mì 
        ăn buổi sáng, giá bán không tới một nghìn. Cuộc sống hàng 
        ngày của chúng ta còn cần bao nhiêu thứ khác còn phức 
        tạp hơn. 
        Trong lãnh vực văn hóa 
        giáo dục, các mối quan hệ chằng chịt, đan chen lại càng 
        phức tạp hơn: quan hệ truyền thống văn hóa quá khứ ở 
        trong nước và quốc tế, quan hệ với các ngành giáo dục, 
        in ấn, tuyên truyền, xuất bản... 
        Có thể nói sự tồn 
        tại và phát triển của bản thân chúng ta có liên quan mật 
        thiết và phức tạp với quá khứ , với xã hội và thế 
        giới. Ðó chính là chủ thuyết pháp giới trùng trùng duyên 
        khởi của Tôn Hoa Nghiêm nổi tiếng. Nó cụ thể hóa quan điểm 
        Phật giáo: "Một là tất cả, tất cả là một" 
        (nhứt túc nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt). 
        
        Biểu minh học thuyết 
        duyên khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị 
        * Thuyết duyên khởi nói 
        chung: 
        
        
        Cái này sinh thì cái 
        kia sinh: quan hệ thời gian 
        Cái này diệt thì cái kia diệt (các hạnh vô thường) 
        Cái này có thì cái kia có: quan hệ không gian logic 
        Cái này không có thì cái kia không có 
         
        
        * Thuyết duyên khởi giá 
        trị: Cũng gọi là nội 
        duyên khởi (12 nhơn duyên và bốn đế) 
        
          Duyên vô minh, có hành 
          (khổ quả) 
          Duyên hành có thức lưu chuyển (tất cả các hành là khổ 
          [nhân] tập) 
          Duyên sanh có già chết... với tất cả mọi khổ não kèm 
          theo. 
          Vô minh diệt cho nên hành diệt 
          Hành diệt nên thức diệt (Diệt [quả] Niết bàn vắng 
          lặng) 
          Sanh bị diệt cho nên già chết cũng diệt: (Ðạo [nhân]) 
         
        Qua biểu trên, thấy: 
        Vế "cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái 
        kia diệt"... nói lên quan hệ thời gian trước sau. Còn, 
        vế: "cái này có thì cái kia có, cái này khỏng có thì 
        cái kia không có", nói lên quan hệ không gian và quan hệ 
        logic. 
        "Các hành đều là 
        khổ" nói lên mặt trái của giá trị, mặt mê vọng luân 
        hồi. "Niết bàn vắng lặng", nói lên mặt phải, 
        mặt chính diện của giá trị, mặt giác ngộ và an lạc. 
        Các câu "duyên vô 
        minh có hành, duyên hành có thức... duyên sanh, có già 
        chết..." đó là chuỗi duyên khởi của mê vọng luân 
        hồi. 
        Các câu "vô minh 
        diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức 
        diệt..." là chuỗi duyên khởi của giác ngộ và giải 
        thoát. 
        Trong bốn đế thì hai 
        đế khổ và tập là quan hệ nhơn quả dẫn tới lưu 
        chuyển trong vòng mê vọng luân hồi. Hai đế diệt và đạo 
        là quan hệ nhơn quả dẫn tới giác ngộ và giải thoát. Do 
        dó, bốn đế eũng thuộc phạm vi thuyết duyên khởi: lưu 
        chuyển duyên khởi và giải thoát duyên khởi.  
        
        Thuyết 12 nhơn duyên: 
        
        Trong kinh Nguyên thủy 
        thuộc văn hệ Pàli, có đoạn văn giới thiệu 12 nhơn duyên 
        như sau: 
        
          "Này các tỷ 
          kheo! Thế nào là duyên khởi? Này các tỷ kheo! Duyên vô 
          minh mà có hành, duyên hành mà có thức, duyên thức mà có 
          danh sắc, duyên danh sảc mà có sáu xứ, duyên sáu xứ mà 
          có xác, duyên xúc mà có thọ, duyên thọ mà có ai, duyên 
          ái mà có thủ, duyên thủ mà có hữu, duyên hữu mà có 
          sinh, duyên sinh mà có già chết, sầu bi khổ não sinh ra. Như 
          vậy, là duyên khởi của tất cả mọi đau khổ. 
          Ngược lại, vô minh 
          diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt, 
          thức diệt cho nên danh sắc diệt... sáu xứ... xác... 
          thọ.. ái... thủ... hữu... Hữu diệt nên sinh diệt sinh 
          diệt nên già chết, và mọi sầu bi khổ não đều diệt. 
          Như vậy, tất cả mọi đau khổ đều diệt." 
         
        Trong 12 chi nhơn duyên, 
        hai chi đầu vô minh và hành thuộc về nhân của thời quá 
        khứ, năm chi thức danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, là năm 
        quả thuộc thời hiện đại. Ðó là lớp nhơn quả quá 
        khứ và hiện tại (hai nhơn quả quá khứ và năm quả hiện 
        tại). 
        Ái, thủ, hữu là ba nhân 
        thuộc thời hiện tại. Sinh và già chết là hai quả thuộc 
        thời vị lai. Ðó là một lớp nhân quả nữa: ba nhân hiện 
        tai và hai quả vị lai. Ðó là lớp nhân quả thứ hai hiện 
        tại và vị lai. 
        Biểu sau đây minh họa 
        hai lớp nhân quả quá khứ hiện tại và hiện tại vị lai 
        như sau: 
        
        Mười hai duyên khởi 
        
        Vô minh tức là hoặc 
        hai nhân thời quá khứ 
        Hành tức là nghiệp 
        Thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ.... năm quả thời hiện 
        tại. 
        Trên đây là lớp nhân quả quá khứ hiện tại. 
        Ái thủ, hữu... Ba nhân thời hiện tại. 
        Sinh, già, chết... hai quả thời vị lai. 
        Là lớp nhân quả thứ hai: nhơn hiện tại quả vị lai. 
        Cho nên gọi thuyết 12 
        nhơn duyên gồm hai lớp nhơn quả, thuộc ba đời. Trong 
        biểu, 
        
          1) Vô minh tức là 
          phiền não thuộc đời trước; 
          2) Hành là các nghiệp thiện ác tạo ra trong thời quá 
          khứ. 
          3) Thức: Là dạng đầu tiên nhứt (sát na dầu tiên) của 
          thân năm uẩn trong thai mẹ. 
          4) Danh sắc: là tổ hợp thân tâm bắt đầu hình thành 
          trong thai mẹ, trong bốn tuần dầu tiên. 
          5) Sáu xứ (cũng gọi là lục nhập) là sáu căn năng. Ðến 
          tuần thứ năm thì bào thai đã có sáu căn đầy đủ. 
          6) Xúc: thai nhi lọt lòng mẹ, bắt đầu tiếp xúc với 
          ngoại cảnh. 
          7) Thọ: là cảm xúc, vui, không vui... 
          8) Ái: thích thú đồ vật hoặc người thuộc giới tính 
          khác. 
          9) Thủ: là vơ lấy nắm lấy làm của mình. 
          10) Hữu: cũng gỉống nghĩa chữ Hành, tức là tạo ra các 
          nghiệp thiện hay ác, dẫn tới quả vị lai. 
          11) và 12) Sinh và Già chết: do tạo nghiệp ở đời trước 
          mà sinh ra ở đời này, với cái thân sẽ già, bịnh, 
          chết với mọi khổ não kèm theo.  
         
        
        Quan niệm của phái Du 
        Già tức học phái Duy Thức: 
        
        Phái Du Già xem 10 chi 
        từ vô minh cho đến hữu là thuộc đời hiện tại. Hai chi 
        sau, sinh và già chết là thuộc đời vị lai. Ðó là thuyết 
        một lớp nhân quả trải qua hai đời. 
        
        Quan niệm của Hữu 
        bộ: 
        
        Phái Hữu bộ 
        (Sarvastivada) quan sát lý 12 nhơn duyên theo 4 loại duyên 
        khởi: 
        
          1/ Sát na duyên 
          khởi: tức trong một sát na (đơn vị thời gian 
          ngắn nhứt có thể tưởng tượng được) cả 12 chi nhơn 
          duyên cùng tồn tạỉ một cách logic. 
          2/ Liên phược 
          duyên khởi: khi quan sát 12 nhơn duyên được thể 
          hiện cụ thể trong thân tâm con người, hàng giờ phút 
          biến đổi, và cả hoạt động bình thường của con người 
          hằng ngày cũng dựa vào 12 nhơn duyên đó. 
          3/ Phân vị duyên 
          khởi: tức là 12 nhơn duyên chia thành hai lớp nhơn 
          quả trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. 
          4/ Viên tục duyên 
          khởi: viễn tức là tiếp tục mãi, cho tới khi con 
          người chứng được Niết bàn. Chuỗi 12 nhơn duyên này 
          nối tiếp mãi không ngừng đời này sang đời khác cho 
          tới khi đương sự chứng Niết bàn, không còn luân hồi 
          sanh tử nữa. 
         
        
        Giải thích các chi 
        trong 12 nhơn duyên, theo kinh Nikàya Pàli và A Hàm: 
        
        
        1/ Vô minh: S. Avidya; P. 
        Avijja, tức là không biết, không hiểu đối với nhân sinh 
        quan và thế giới quan đúng đắn, đối với thuyết boán đế. 
        Trái với vô minh là mục chánh kiến trong Bát chánh đạo. 
        2/ Hành: S. Samskara; P. 
        Pankhara, tức ba hành nghiệp ý, lời nói, thân. Do vô minh mà 
        có hành động tạo nghiệp thiện, ác nơi ý nghĩ, lời nói 
        và thân. Những nghieäp thiện ác này đều lưu lại dấu 
        vết trong con người dưới dạng hạt giống, hình thành nhân 
        cách, tập quán của con người đó. 
        3/ Thức: S. Vijinana, P. 
        Vinnana, thức là tâm thức phân biệt. Kinh A Hàm khi nói về 
        "duyên thức mà coù danh sắc", phân biệt có: 1. 
        Thức nhập thai; 2. Thức trong bào thai; 3. Thức sau khi lọt 
        thai. Thức nhập thai kinh Pàli gọi là: Kiết sanh thứe. 
        4/ Danh sắc: S. và P. 
        Namarupa, danh là các hành tướng của tâm như thọ, tưỏng, 
        hành... sắc chỉ sắc thân. Cũng có sách giải thích sắc là 
        năm ngoại trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nhưng có thể 
        giải thích sắc là sắc thân thì đúng lý hơn. 
        5/ Sáu xứ: S. 
        Sad-ayatana; P. Salayatana, cũng gọi theo chữ Hán là luïc nhập 
        hay lục nhập xứ: Tức là sáu căn năng, qua đó, thân tâm 
        tiếp xúc với ngoại cảnh. 
        6/ Xúc: S. Aparsa; P. 
        Phassa, tức là sự tiếp xúc của ba yếu tố căn, cảnh, và 
        thức. 
        7/ Thọ: S. và P. Vedana, 
        tức là cảm thọ vui, buồn hay không vui, không buồn. 
        8/ Ái: S. Trsna, P. Tanha, 
        tức là sự thèm khát, cũng như khát thèm nước vậy. Như 
        thấy cảnh vui, thì thèm muốn, gặp cảnh nghịch thì xa tránh. 
        9/ Thủ: S. và P. 
        Upadana, sau khi trong tâm khởi lên lòng thèm khát, thì ở nơi 
        ý, lời nói và thân, cũng khởi lên hành vi cụ thể bám 
        lấy, vơ lấy, và đó chính là tạo nghiệp. 
        Có thể phân biệt có: 
        
          - Dục thủ: là thèm 
          muốn, bám vào năm đối tượng của dục vọng như sắc 
          đẹp, của cải, danh vọng, ăn, ngủ. 
          - Kiến thủ: tức là bám lấy kiến giải mà mình vốn thích 
          thú, dù là kiến giải sai. 
          - Giới cấm thủ: Tức là bám vào những giới diều vô lý, 
          sai trái, như một số ngoại đạo cho rằng tắm nước sông 
          Hằng thì được xóa sạch mọi tội lỗi, sống ép xác 
          khổ hạnh cũng xóa bỏ được mọi tội lỗi quá khứ. 
         
        10/ Hữu: S. và P. Bhava, 
        tức là sự tồn tại. Vì tạo nghiệp trong quá khứ cho nên 
        con người mới tồn tại, mới có thân năm uẩn, trong các cõi 
        sống khác nhau. Nếu ở cõi Dục giới thì gọi là Dục 
        hữu. Nếu là ở cõi Sắc giới thì gọi là Sắc Hữu, và 
        nếu ở cõi Vô sắc thì gọi là Vô Sắc hữu. 
        11/ Sinh: S. và P. Jati, 
        tức là loài hữu tình, do nghiệp tạo ra trong quá khứ mà 
        sanh trong các cõi sống khác nhau, thành các loại chúng sinh 
        khác nhau. 
        12/ Già chết: S. và P. 
        Jara-marana. Trong kinh nguyên thủy, sau già, chết còn thêm 
        Sầu P. soka, Bi P. parideva, Khổ P. dukkha, Não P. upayasa, Ưu P. 
        domanassa. 
         
        
        B.3 CÁC ÐOẠN TRÍCH 
        DẪN KINH ÐIỂN VỀ BỐN ÐẾ (liên 
        hệ tới chân lý về sự khổ) 
        Khi Phật sắp nhập 
        Niết bàn, Phật đã nhắc lại thuyết bốn đế: 
        
          "Này các Tỷ 
          Kheo, đối với thuyết bốn đế, có điều gì nghi hoặc 
          thì mau mau hỏi đi, đừng để còn nghi hoặc mà không 
          gạn hỏi... Lúc bấy giờ Thế Tôn hỏi lại ba lần mà không 
          ai nói cả. Vì sao như vậy? Là vì trong Tăng chúng không còn 
          ai nghi hoặc về thuyết bốn đề nữa. Khi ấy, Tôn giả A 
          nâu Lâu Ðà (Anurrudha), quan sát tâm tư trong chúng, thấy như 
          vậy bèn bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, mặt trăng có 
          thể nóng lên, mặt trời có thể lạnh đi, còn Thế Tôn 
          giảng bốn Chân lý thì không bao giờ đổi khaùc được, 
          Thế Tôn nói chơn lý về sự khổ thì thực là khổ, khổ 
          không thể biến thành vui được. Tập đế là nhân của 
          khổ, không thể có nhân khác. Nếu khổ diệt tức là nhân 
          diệt. Nhân diệt cho nên quả diệt. Ðạo diệt khổ là đạo 
          chân chính. Không còn có đạo khác. Bạch Thế Tôn, trong Tăng 
          chúng, tâm tư đối với bốn đế đã quyết định, không 
          còn nghi hoặc điều gì nữa." (Kinh Di giáo bản 
          dịch của Cưu Ma La Thập) 
         
        
        Trích kinh Hỏa Dụ: (Phật 
        nói mọi sự vật trong thế gian đều như bốc lửa). 
        
        
          "Thời bấy giờ, 
          đức Thế Tôn sau khi ở lại Uruvela một thời gian đủ 
          thỏa thích bèn lên dường đi Gaya (Già da). Ði theo Phật, 
          có một nghìn Tỷ Kheo, trước đây vốn là du sĩ ngoại đạo 
          bện tóc, theo Kỳ Na giáo. Sau khi đến Tinh Xá Tượng Ðầu 
          (Gaya head), Phật nói với đại chúng Tỷ Kheo rằng: Này các 
          Tỷ Kheo! Tất cả trong thế gian đều đang bốc cháy! Này 
          các Tỷ Kheo, con mắt đang bốc cháy, nhãn thức đang bốc 
          cháy, sắc cảnh mà nhãn thức nắm bắt đang bốc cháy, 
          tất cả mọi cảm thọ do thấy sắc khởi lên, dù vui hay 
          buồn, hay không vui không buồn, đều đang bốc cháy. Chúng 
          bốc cháy như thế nào? Chúng bốc cháy do lửa tham, lửa sân, 
          lưûa si và cùng với sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ, 
          não, đồng thời bốc cháy... 
          (Ðối với tai, mũi, 
          lưỡi, thân, Phật cũng phân tích như vậy và Phật tiếp 
          lời)... 
          Và vị đệ tử có 
          chánh kiến như vậy, bèn sanh tâm nhàm chán đối với 
          mắt, sắc pháp, nhãn thức, mọi cảm thọ sanh ra từ nhãn 
          thức, sanh tâm nhàm chán đối với tai, âm thanh, nhĩ 
          thức, với mũi, mùi vị, tị thức... nhờ nhàm chán mà 
          vị đệ tử đoạn trừ được tham dục, đạt được 
          tự do và giải thoát..." 
         
        
        Trích kinh Lăng Nghiêm: Một 
        đoạn trong kinh Lăng Nghiêm, dẫn lời của vua Ba Tư Nặc 
        (Pasenadi): 
        
          "Bạch Thế Tôn, 
          con xưa còn nhỏ, da dẻ mượt mà, lúc lớn lên huyết khí 
          sung mãn, mà nay đã già trở thành suy yếu, thân hình khô 
          héo tiều tụy, tinh thần u ám, tóc bạc da nhãn, chắc là... 
          không còn thọ được bao lâu nữa. Làm sao có thể so sánh 
          dược với thời trai tráng? Sự thay đổi là dần dần, 
          thực ra con không thể nào cảm giác được, mùa qua tháng 
          lại, dẫn tới tình trạng ngày nay. Cớ vì sao? Năm con hai 
          mươi tuổi, tuy gọi là còn nhỏ, nhưng dung nhan đã có già 
          đi so với hồi 10 tuổi, đến năm 30 tuổi lại già đi so 
          với tuổi 20. Năm nay, con sáu mươi tuổi, nếu ngó lại cách 
          đây 10 năm thì lúc đó con còn cường tráng. Bạch Thế Tôn, 
          con thấy sự thay đổi không chỉ hạn chế trong 10 năm. 
          Nếu suy nghĩ kỹ, thì sự thay đổi không phải hạn chế 
          trong một kỷ hay hai kỷ, mà sự thay đổi đó diễn ra hàng 
          năm, mà không phải từng năm mà từng tháng đã có thay đổi. 
          Mà không phải từng tháng có thay đổi, mà là từng ngày. 
          Thậm chí nếu xét kỹ, thì sự thay đổi đó chưa từng 
          nghỉ dừng, dù là trong từng sát na, trong tưøng niệm. Vì 
          vậy con biết thân của con, cuối cùng sẽ phải biến 
          diệt!..." 
         
        
        Trích Kinh Niết Bàn: Kinh 
        Niết Bàn có đoạn nói lên đặc điểm của nhân sanh, vui và 
        buồn, lạc và khổ đi kèm với nhau như bóng với hình: 
        
          "Có hai chị em, 
          người chị cực kỳ xinh đẹp, dễ thương, đi dến đâu 
          cũng đem lại sự phát đạt, phồn vinh giàu có, và được 
          mọi người hoan nghinh, tiếp đón, giữ lại không cho đi nơi 
          khác. Nhưng người em, thì trái lại cực kỳ xấu xí, đi 
          đến đaâu cũng gieo rắc tai họa, sự phá sản và tử 
          vong, cho nên mọi người đều ghét bỏ, cự tuyệt không 
          cho đến. Nhưng người chị nói: "Tôi và em tôi, đi đâu 
          cùng đi với nhau, không bao giờ rời xa nhau"..... 
          Ở đâu tôi cũng làm 
          điều lành, em tôi thì làm điều ác, tôi đem lại niềm 
          vui, em tôi thì gây đau khổ. Mọi người nếu yêu tôi, thì 
          cũng phải đừng ghét em tôi.... 
          Nhân sinh là như 
          vậy. Có vui có buồn, có sướng có khổ, có vinh có 
          nhục. Cho nên, Phật dạy rằng, trong thế gian này, con người 
          không thể hưởng được niềm vui thường tại, không 
          thể có tự ngã biệt lập không thể có dung sắc đẹp mãi 
          mãi không bị tàn phai. Vì chúng sinh si mê cho nên lấy 
          buồn làm vui, lấy caùi vô ngã làm ngã, lấy vô thường làm 
          thường, lấy cái không thanh tịnh làm thanh tịnh, Phật 
          gọi đó là thấy điên đảo." 
         
        
        Có lần, Phật dạy các đệ tử: 
        
        
          "Này các Tỷ 
          Kheo! Các người hãy nghĩ xem, nước trong bốn biển là 
          nhiều, hay là từ vô thỉ đến nay, lăn lộn mãi trong vòng 
          sanh tử, nước mắt của các người đổ xuống trong ngày 
          tháng đêm dài là nhiều? Này các Tỷ Kheo! Các người 
          trong một thời gian dài, đã biết bao lần, các người 
          chịu đựng nỗi thống khổ mất cha, mất mẹ, đã bao 
          lần các người chịu nỗi thống khổ mất con, mất anh 
          em, mất chị em. Ðã biết bao lần, chịu nỗi thống khổ 
          mất tài sản, nỗi thống khổ bịnh tật triền miên. 
          Biết bao lần, các người phải chịu noãi thống khổ xa 
          người mình yêu, gần người mình ghét. Ðúng như vậy 
          một điểm cũng không sai, đã bao nhiêu lần, các người 
          đã chịu những nổi thống khổ như vậy mà phải khóc và 
          chảy nước mắt. Lượng nước mắt đổ ra thực là nhieàu 
          hơn nước của bốn biển cộng lại. Này các Tỷ Kheo 
          trong một thời gian dài, các người đã chịu đựng 
          những nỗi thống khổ, sầu bi, khổ não, như vậy, chịu 
          đựng bao nhiêu bất hạnh, bao nhiêu đã kích, bao nhiêu dày 
          vò... thây xác, xương cốt các người lấp đầy mồ mả. 
          Các người chịu khổ như vậy đã đủ lắm rồi. Ðã đến 
          lúc, các người nhàm chán thế gian này, đã đến lúc các 
          người phải nổ lực thoát khỏi nỗi khổ của sanh 
          tử.... 
         
        
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | Mục 
        lục | 01 | 02 | 
        03 | 04 | 05 | 06  |